Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện

Lời nói đầu. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước để các doanh nghiệp tự khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường, cũng như đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp đó thì điều đầu tiên phải chú ý tới vai trò tích cực của người lao động trong sản xuất kinh doanh, phảI biết tạo ra động cơ thúc đẩy người lao động nổ lực làm việc, trong đó chính lợi ích của họ đã làm động lực trực tiếp kích thích họ làm việc với hiệu quả cao. Để kích thích người lao động c

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ũng như đáp ứng nhu cầu của họ, các doanh nghiệp phải có mức tiền lương và thưởng hợp lý. Tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo ra, nó được sử dụng là đòn bẩy kinh tế, nhằm khuyến khích người lao động hăng hái sản xuất kinh doanh, tăng thêm sự quan tâm đến thành quả lao động của mình, để tạo ra nhiều sản phẩm cho doanh nghiệp và cho xã hội. Hơn nữa, tiền lương chính là phần trả cho sự lao động trực tiếp, là sự phân phối của cải chính do người lao động tạo ra. Do đó tiền lương là một trong những thước đo đánh giá sự công bằng trong xã hội. Tuy nhiên việc trả lương cho cán bộ công nhân viên ở nhiều doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề nan giải phức tạp, khiến hạn chế tác dụng và hiệu quả mong muốn. Vấn đề này đang được Công ty lắp máy và Thí nghiệm cơ điện hết sức quan tâm. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề tiền lương trong doanh nghiệp, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, em đã chọn đề tài “ Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện “ làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm 3 phần: Phần I : Các vấn đề chung về tiền lương và các khoản trích theo lương. Phần II : Thực tế công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện. Phần III : Nhận xét và kiến nghị. Phần I : các vấn đề chung về tiền lương và các khoản trích theo lương. Những vấn đề chung về kế toán lao động và tiền lương: Khái niệm và bản chất kinh tế lương: Khái niệm : Tiền lương là khoản tiền mà doanh nghiệp thanh toán cho công nhân viên căn cứ vào số lượng, chất lượng lao động của từng người đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bản chất kinh tế lương : Dưới mọi hình thức kinh tế xã hội, tiền lương luôn được coi là một bộ phận quan trọng của giá trị hàng hoá, nó chịu tác động của nhiều yếu tố như : kinh tế, chính trị, lịch sử…Ngược lại, tiền lương cũng tác động tới phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống và ổn định chế độ chính trị, xã hội. Chính vì thế không chỉ ở tầm vĩ mô là Nhà nước mà ngay cả người chủ sản xuất, người lao động đều quan tâm đến chính sách tiền lương, bởi vậy chính sách tiền lương phải thường xuyên được đổi mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của từng nước trong từng thời kỳ. ở Việt Nam, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương được thể hiện một cách thống nhất như sau : - Tiền lương dưới Chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc dân, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên chức cho phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến. Tiền lương phản ánh việc trả lương cho công nhân viên chức dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái sản xuất sức lao động. Với quan điểm này ta thấy rằng: - Tiền lương không phải là giá cả sức lao động, vì dưới Chủ nghĩa xã hội sức lao động không phải là hàng hoá, cả trong khu vực sản xuất kinh doanh cũng như khu vực quản lý Nhà nước Xã họi chủ nghĩa. - Tiền lương là một phạm trù thuộc lĩnh vực phân phối, do vậy nó tuân thủ quy luật phân phối dưới Chủ nghĩa xã hội. - Tiền lương được phân phối công bằng theo số lượng và chất lượng lao động của công nhân viên chức đã hao phí từ cấp trung ương đến cấp cơ sở, được Nhà nước thống nhất quản lý. Chế độ tiền lương cũ, từng tồn tại trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mang nặng tính bao cấp và bình quân nên nó không khuyến khích, nâng cao trình độ chuyên môn và tính chủ động của người lao động. Bởi vậy, chế độ tiền lương đã không gắn được lợi ích với thành quả mà người lao động sáng tạo ra trong quá trình lao động của mình. Sở dĩ có điều này là vì : - Sức lao động không được coi là hàng hoá, nên tiền lương không dược trả theo đúng giá trị sức lao động, không phải là ngang giá với sức lao động theo quan hệ cung cầu. - Biên chế lao động ngày càng lớn, ngân sách thâm hụt nặng nề do phải bao cấp tiền lương, trong khi tiền lương lại không đủ để tái sản xuất sức lao động, sản xuất kinh doanh, mất động lực nên hiệu quả sút kém. - Tiền lương không còn là mối quan tâm của cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp Nhà nước. Những tiêu cực ngày một gia tăng, người lao động không thiết tha với công việc chính. Tình trạng “chân trong chân ngoài” khá phổ biến. Ngày nay trong cơ chế thị trường quan niệm cũ về tiền lương không còn phù hợp với điều kiện của nền sản xuất hàng hoá. Đòi hỏi phải nhận thức lại đúng đắn hơn nữa bản chất của tiền lương theo quan điểm đổi mới của Nhà nước ta. “ Tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân, là giá trị mới sáng tạo ra mà người sử dụng lao động trả cho người lao động phù hợp với giá trị sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất”. Để xác định tiền lương hợp lý cần tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động. Đó là giá trị của các yếu tố đảm bảo cho quá trình tái sản xuất sức lao động, đảm bảo cho người lao động hoà nhập với thị trường và xã hội, thống nhất với giá cả các hàng hoá khác hình thành trong từng vùng. Điều đó có ý nghĩa là: - Sức lao động cần được coi là một loại hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất. Tính chất hàng hoá của sức lao động không chỉ bao gồm lực lượng lao động làm trong khu vực kinh tế tư nhân, lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuộc sỡ hữu Nhà nước mà còn cả công nhân viên chức trong lĩnh vực xã hội. - Tiền lương pahỉ là tiền trả cho sức lao động, tức là giá cả của hàng hoá sức lao động mà nười sử dụng và người cung ứng thỉa thuận với nhau theo luật cung cầu giá cả trên thị trường. - Tiền lương là bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao động, đồng thời là một trong các yếu tố chi phí đầu vào sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Với ý nghĩ đó, tiền lương được định nghĩa như sau: “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá cả sức lao động, là gía của yếu tố sức lao động mà người sử dụng (Nhà nước, chủ doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế…) phải trả cho người cung ứng sức lao động tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước.” Nguyên tắc kế toán lao động và tiền lương : Nguyên tắc 1: Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau. Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau xuất phát từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Nguyên tắc này dùng thước đo lao động để đánh giá, so sánh và thực hiện trả lương. Những người lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ…nhưng có mức hao phí lao động (đóng góp sức lao động) như nhau thì được trả lương như nhau. Đây là nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo được sự cân bằng, đmả bảo được sự bình đẳng khi trả lương. Thực hiện nguyên tắc này có tác dụng kích thích người lao động hăng hái tham gia sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc 2: Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân. Tiền lương làm cho trình độ tổ chức và quản lý lao dộng ngày càng hiệu quả hơn. Năng suất lao động tăng, ngoài nâng cao kỹ năng làm việc và trình độ tổ chức quản lý thì còn do nguyên nhân khác tạo ra như : đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật trong lao động, khai thác và sử dụng có hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên…Điều này cho thấy rằng năng suất lao động có khả năng khách quan tăng nhanh hơn tiền lương bình quân. Trong từng doanh nghiệp ta thấy rằng, tăng tiền lương dẫn đến tăng chi tiêu sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động lại làm giảm chi phí cho từng đơn vị sản phẩm. Một doanh nghiệp chỉ thực sự kinh doanh có hiệu quả khi chi phí chung cũng như chi phí cho một đơn vị sản phẩm giảm đI, tức là mức giảm chi phí do tăng năng suất lao động phải lớn hơn mức tăng chi phí do tăng tiền lương bình quân. Nguyên tắc này là cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng và hạ giá thành sản phẩm. Nguyên tắc 3: Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những lao động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong trả lương cho người lao động. Mỗi một nền kinh tế quốc dân đều có điều kiện sản xuất khác nhau, phân phối lao động khác nhau. Do vậy, nó ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ cống hiến và sử dụng hao phí sức lao động của từng người. Bởi vậy cần phải xây dựng các chế độ tiền lương hợp lý giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nó tạo điều kiện thu hút và điều phối lao động vào những ngành kinh tế có vị trí trọng yếu và những vùng có tiềm năng sản xuất lớn. Nguyên tắc này dựa trên cơ sở sau : Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành. Điều kiện lao động. ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Sự phân bổ lao động theo khu vực sản xuất. Từ 3 nguyên tắc này của tổ chức tiền lương đã nêu ở trên ta thấy rằng chúng không tồn tại một cách độc lập mà là có mối quan hệ rằng buộc bổ sung lẫn nhau tạo nên sự công bằng trong trả lương và sự đảm bảo trong sản xuất kinh doanh. Bởi vậy, tổ chức tiền lương phải quán triệt 3 nguyên tắc này và phải xem đó là cơ sở của hệ thống tiền lương. Các chế độ tiền lương của Nhà nước qui định : Chế độ tiền lương Nhà nước qui định : Các chế độ về khung lương (mức lương, hệ số lương) áp dụng trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu Nhà nước : Bảng 1: Bảng lương viên chức chuyên môn, nghiệp vụ, thừa hành phục vụ ở các doanh nghiệp. ĐVT : 1000 đồng. Chức danh Hệ số, mức lương. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1. Chuyên viên cao cấp, kinh tế viên cao cấp, kỹ sư cao cấp. - Hệ số. - Mức lương thực hiện từ ngày 1/1/2001. 2. Chuyên viên chính, kinh tế viên chính, kỹ sư chính. - Hệ số - Mức lương thực hiện từ ngày 1/1/2001. 3. Chuyên viên, kinh tế, kỹ sư. - Hệ số. - Mức lương thực hiện từ ngày 1/1/2001. 4. Cán sự, kỹ thuật viên. - Hệ số. - Mức lương thực hiện từ ngày 1/1/2001. 5. Nhân viên văn thư. - Hệ số - Mức lương thực hiện từ ngày 1/1/2001. 6. Nhân viên phục vụ. - Hệ số - Mức lương thực hiện từ ngày 1/1/2001. 4,57 959,7 3,26 684,6 1,78 373,8 1,46 306,6 1,22 256,2 1,00 210,0 4,86 1020,6 3,54 743,4 2,02 424,2 1,58 331,8 1,31 275,1 1,09 228,9 5,15 1081,5 3,82 802,2 2,26 474,6 1,70 357,0 1,40 294,0 1,18 247,8 5,44 1142,2 4,10 861,0 2,50 525,0 1,82 382,2 1,49 313,9 1,27 266,7 4,38 919,8 2,74 575,4 1,94 407,4 1,58 331,8 1,36 285,6 4,66 987,6 2,98 625,8 2,06 432,6 1,67 350,7 1,45 304,5 3,23 678,3 2,18 457,8 1,76 369,6 1,54 323,4 3,48 730,8 2,30 483,0 1,85 388,5 1,63 342,3 2,42 508,2 1,94 407,4 1,72 361,2 2,55 535,5 2,03 426,3 1,81 380,1 2,68 562,8 2,12 445,2 1,90 399,0 2,81 590,1 2,21 464,1 1,99 417,9 Đối tượng áp dụng: - Chuyên viên cao cấp, kinh tế viên cao cấp, kỹ sư cao cấp chỉ sử dụng ở doanh nghiệp hạng đặc biệt và được sự thoả thuận của Bộ lao động – Thương binh xã hội. - Chuyên viên chính, kinh tế viên chính, kỹ sư chính chỉ sử dụng ở doanh nghiệp từ hạng đặc biệt đến hạng II. - Các chức danh còn lại sử dụng ở tất cả các doanh nghiệp. Chế độ qui định về mức lương tối thiểu : Theo Nghị định số 03/2003/NĐ - CP , từ ngày 1/1/2003 điều chỉnh mức lương tối thiểu đối với các đối tượng hưởng lương như sau : - Nâng mức lương tối thiểu từ 210.000 đồng/tháng theo qui định tại Nghị định số 77/2000/NĐ - CP ngày 15/12/2000 của chính phủ lên 290.000 đồng/tháng áp dụng đối với các đối tượng hưởng lương và phụ cấp từ nguồn kinh phí thuộc Ngân sách Nhà nước và người lao động trong các doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). - Tăng thêm mức sinh hoạt phí hàng tháng đối với cán bộ xã, phường, thị trấn đang công tác và đã nghỉu hưu tại Nghị định số 77/2000/NĐ - CP ngày 15/12/2000 của chính phủ tương ứng với mức tăng lương tối thiểu từ 210.000 đồng/tháng lêm 290.000 đồng/tháng. Chế độ qui định về tiền lương làm thêm giờ, làm đêm, làm thêm ca, làm thêm trong các ngày nghỉ theo chế độ qui định : Thi hành Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của chính phủ qui định tạm thời chế độ tiền lương mới đối với công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trangvà Nghị định 26/CP ngày 23/5/1993 của chính phủ qui định tạm thời chế độ tiền lương mới trong các doanh nghiệp ; sau khi có sự thoả thuận của Bộ Tài chính tại công văn số 973 TC/CĐTC ngày 27/5/1993 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương làm thêm giờ và phụ cập làm đêm như sau : Chế độ trả lương làm thêm giờ : * Đối tượng áp dụng : + Công nhân viên chức trong các doanh nghiệp. + Công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp ; Cán bộ công nhân viên làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể nếu thật sự cần thiết phải làm thêm giờ thì sẽ được bố trí nghỉ bù, nếu không thể giải quyết nghỉ bù được thì mới trả lương làm thêm giờ. * Đối tượng không áp dụng : + Đối với công nhân viên chức trong các doanh nghiệp, bao gồm : Những người làm việc trên các phương tiện vận tải: đường bộ (kể cả lái xe con), đường sắt, đường sông, đường biển và đường hàng không. Những người làm việc trên các tàu thuyền đánh cá, thu mua hải sản. Những người giữ chức vụ lãnh đạo. Công nhân viên chức làm công việc trả theo đơn giá tiền lương. + Đối với công nhân viên chức hành chính sự nghiệp, bao gồm : Những người làm việc chưa đủ giờ tiêu chuẩn qui định hoặc chưa thể qui định được giờ tiêu chuẩn. Lái xe cơ quan. Sĩ quan và những người hưởng lương trong lực lượng vũ trang. * Cách tính trả lương làm thêm giờ : Tiền lương phụ cấp hoặc chức vụ tháng (kể cả các khoản phụ cấp Tiền lương lương nếu có). 150% Số giờ làm = x hoặc x làm thêm giờ. Số giờ tiêu chuẩn qui định 200% thêm. trong tháng. + Trong đó : Làm thêm giờ vào ngày thường được trả bằng 150% tiền lương của giờ làm việc trong tiêu chuẩn. Làm thêm giờ vào ngày nghỉ hàng tuần, ngày lễ, ngày tết được trả bằng 200% tiền lương của giờ làm việc trong tiêu chuẩn. Trường hợp làm thêm giờ vào ngày lễ không trùng với ngày nghỉ hàng tuần thì ngoài số tiền trả cho những giờ làm thêm còn hưởng lương của ngày nghỉ lễ theo qui định chung. Trường hợp làm thêm giờ vào ban đêm (từ 22 giờ đến 6 giờ sáng) thì ngoài số tiền trả cho những giờ làm thêm còn hưởng phụ cấp làm đêm theo qui định. Phụ cấp làm đêm : * Đối tượng áp dụng : - Công nhân viên chức trong các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp trong lực lượng vũ trang (trừ sĩ quan và quân dân chuyên nghiệp). - Công chức, viên chức hành chính sự nghiệp (kể cả lao động hợp đồng). - Cán bộ công nhân viên trong các cơ quan Đảng, đoàn thể. * Cách tính phụ cấp làm đêm : Các đối tượng qui định trên làm đêm từ 22 giờ đến 6 giờ sáng, phụ cấp làm đêm được tính như sau : Tiền lương phụ cấp hoặc chức vụ tháng (kể cả phụ cấp chức vụ). 30% Số giờ Phụ cấp = x hoặc x làm làm đêm . Số giờ tiêu chuẩn qui định 40% đêm. trong tháng. + Trong đó : Mức 30% áp dụng đối với những công việc không thường xuyên làm về ban đêm. Mức 40% áp dụng đối với những công việc thường xuyên làm việc theo ca (chế độ làm 3 ca) hoặc chuyên làm việc về ban đêm. Hiện nay ở nước ta tiền lương cơ bản đang được áp dụng rộng rãi theo 2 hình thức : Trả lương theo sản phẩm. Trả lương theo thời gian Mỗi hình thức trả lương đều có ưu nhược điểm của nó, vì vậy có rất nhiều doanh nghiệp đã kết hợp 2 hình thức trả lương cho cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất. Hình thức trả lương theo thời gian : Theo hình thức này tiền lương trả cho người lao động tính theo thời gian làm việc, cấp bậc hoặc theo chức danh và thang lương theo tiêu chuẩn của Nhà nước qui định Tiền lương = thời gian làm việc x đơn giá tiền lương. Do tính chất làm việc khác nhau mà mỗi ngành nghề cụ thể có một bảng lương riêng, mỗi bảng lương được chia thành nhiều bậc lương theo trình độ quản lý thời gian lao động của doanh nghiệp, người ta trả lương theo thời gian bằng 2 cách : * Trả lương theo thời gian giản đơn: Tiền lương mỗi người lao động được nhận chỉ căn cứ vào bậc lương và thời gian lao động thực tế mà không xét đến thái độ và kết quả lao động. Chế độ này chỉ áp dụng cho những nơi khó khăn cho công tác định mức lao động chưa có đơn giá, lương sản phẩm (công việc hành chính, tạp vụ). Hình thức này có ưu điểm dễ tính, dễ trả lương cho người lao động. Nhưng cách tính như vậy lại mang tính bình quân cao, chưa gắn liền tiền lương với kết quả và chất lượng lao động, không kích thích được người lao động. * Trả lương theo thời gian có thưởng: Hình thức trả lương theo thời gian kết hợp với chế độ tiền lương trong sản xuất. Hình thức này có tác dụng đẩy công nhân viên tăng năng suất lao động, tiết kiệm nhiên liệu, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Với việc tính trả lương thep thời gian chưa đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc phân phối theo lao động vì chưa tính đến một cách đầy đủ chức năng đòn bẩy kinh tế của tiền lương trong việc kích thích phát triển sản xuất, chưa phát huy hết khả năng có sẵn của người lao động để tạo được nhiều của cải cho xã hội. à Vậy khi áp dụng hình thức trả lương theo thời gian cần thiết phải áp dụng một số biện pháp phối hợp như : khuyến khích vật chất, kiểm tra chấp hành kỷ luật lao động nhằm tạo cho người lao độngý thức thực sự tự giác làm việc, làm việc có kỷ luật, có trách nhiệm, phát huy sáng kiến trong sản xuất. Hình thức trả lương theo sản phẩm : Tiền lương trả cho người lao động được tính theo số lượng và chất lượng sản phẩm hoàn thành nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng với chất lượng lao động, động viên khuyến khích người lao động hăng say lao động sáng tạo, tạo ra nhiều sản phẩm cho xẫ hội. Hình thức trả lương này có ưu điểm hơn hẳn so với hình thức trả lương theo thời gian. Vì thế một trong những phương hướng cơ bản của công tác tổ chức tiền lương ở nước ta là không ngừng mở rộng diện trả lương theo sản phẩm trong các xí nghiệp công nông nghiệp nhất la ftheo sản phẩm cuối cùng trong hệ thống kích thích sản xuất. Căn cứ vào đơn giá sản phẩm và đối tượng trả lương, hình thức trả lương theo sản phẩm có nhiều chế độ khác nhau áp dụng cho từng đối tượng trả lương trong từng trường hợp cụ thể. Hiện nay nước ta có 6 chế độ trả lương theo sản phẩm : * Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân : Hình thức trả lương này được áp dụng rộng rãi đối với những công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân trong quá trình lao động mang tính tương đối độc lập, riêng biệt, có thể định mức kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm kết quả công tác một cách cụ thể. Thực chất của việc chi trả này dựa trên đơn giá tiền lương đã được qui định, sản phẩm làm ra càng nhiều thì trả lương càng cao và ngược lại. Đơn giá tiền lương đã được xác định và cách tính lương dựa vao công thức Lcb Đg = hoặc Đg = Lcb x T. Q - Trong đó : Đg : đơn giá tiền lương. Lcb : lương cơ bản. Q : mức sản lượng. T : mức thời gian. - Ưu điểm nổi bật của cách trả lương này là có mối quan hệ giữa tiền lương của người công nhân và kết quả lao động của họ thể hiện rõ ràng. Do đó kích thích người lao động cố gắng nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao năng suất lao động nhằm tăng thu nhập. Cách tính lương này đơn giản, dễ hiểu, người lao động có thể tính toán được số tiền lương của mình sau khi hoàn thành nhiệm vụ. - Tuy nhiên, nó vẫn hạn chế bởi công nhân ít quan tâm đến máy móc, chỉ chạy theo số lượng, không chú ý đến chất lượng, tiết kiệm nguyên vật liệu và công việc của tập thể. * Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể : Cách trả lương này được áp dụng đối với những công việc cần một tập thể công nhân cùng thực hiện, công việc của tập thể công nhân gắn liền với nhau đến mức khó xác định kết quả lao động của từng cá nhân. Sau khi xác định tiền lương cho cả tập thể, các doanh nghiệp tiến hành trả lương cho từng người. L Đg = hoặc Đg = L x T. Q - Trong đó : Đg : đơn giá tiền lương. L : tổng số tiền lương của tập thể. Q : mức sản lượng. T : mức thời gian. - Ưu điểm : Cách trả lương này khuyến khích công nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của tập thể. - Nhược điểm : Sản lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ, do đó ít nâng cao năng suất lao động cá nhân. * Hình thức trả lương theo sản phẩm gián tiếp : Cách trả lương này được áp dụng cho những công nhân, nhân viên phụ mà kết quả của họ ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm. Hình thức tiền lương này khuyến khích công nhân, nhân viên phụ nâng cao chất lượng làm việc, phục vụ để tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao động, công tác của công nhân chính. Những phụ thuộc kết quả lao động của công nhân chính do đó việc trả lương chưa thật chính xác, chưa thật đảm bảo đúng hao phí lao động mà công nhân phụ bỏ ra. * Hình thức trả lương khoán : Chế độ trả lương khoán áp dụng cho những công việc nếu giao chi tiết bộ phận sẽ không có lợi bằng giao toàn bộ khối lượng cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định. Chế độ trả lương này sẽ áp dụng trong xây dựng cơ bản và một số công việc trong nông nghiệp, áp dụng cho những công nhân khi làm việc đột xuất như sữa chữa tháo lắp nhanh một số chi tiết để nhanh chóng đưa vào sản xuất, áp dụng cho cá nhân và tập thể. Ưu điểm : Theo chế độ tiền lương này, người công nhân biết trước được khối lượng tiền lương mà họ sẽ nhận sau khi hoàn thành công việc và thời gian được giao. Do đó họ chủ động trong công việc, sắp xếp tiến hành công việc của mình, tranh thủ thời gian để hoàn thành công việc được giao. Còn đối với người giao khoán thì yên tâm về khối lượng công việc hoàn thành. Nhược điểm : Để đảm bảo thời gian hoàn thành dễ gây ra hiện tượng làm bừa, làm ăn không đảm bảo chất lượng. Do vậy, công tác nghiệm thu phải được tiến hành một cách chặt chẽ. * Hình thức trả lương theo sản phẩm luỹ tiến : Cách trả lương này ngoài tiền lương tính theo sản phẩm trực tiếp còn lại căn cứ vào mức độ vượt mức lao động để tính lương theo tỷ lệ luỹ tiến. Số sản phẩm vượt mức càng nhiều thì số tiền lương tính thêm càng cao. Tiền lương trả theo sản phẩm luỹ tiến được tính theo công thức : Lt = (Qđm - Đbq) + (Qvm - Đlt). - Trong đó : Lt : số tiền lương tính trong tháng. Qđm: số sản lượng hoàn thành trong phạm vi định mức. Đbq: đơn giá tiền lương bình quân. Q vm: số lượng sản phẩm vượt mức. Đlt: đơn giá tiền lương luỹ tiến qui định. Tiền lương trả theo cách này có tác dụng kích thích mạnh mẽ việc tăng năng suất lao động, do đó, được áp dụng ở những khâu quan trọng, cần thiết để đẩy mạnh tốc độ sản xuất để đảm bảo thời gian hoặc sản xuất để cân đối từng bộ phận hoặc động viên công nhân phát huy hết khả năng để phá vỡ định mức kế hoạch cũ. Tuy nhiên, để trả lương theo sản phẩm luỹ tiến công ty phải có định mức lao động đầy đủ, phải kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm chặt chẽ và trả lương kịp thời.. * Hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng: Chế độ trả lương này là hình thức trả lương theo sản phẩm kết hợp với các hình thức tiền thưởng trong sản xuất. Khi áp dụng chế độ tiền lương này toàn bộ sản phẩm được áp dụng theo đơn giá cố định, còn tiền thưởng sẽ căn cứ việc hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu số lượng và chất lượng của chế độ tiền thưởng qui định. Ưu điểm : Hình thức tiền lương này khuyến khích công nhân tăng năng suất lao động, phấn đấu vượt kế hoạch được giao. Nhược điểm : Công nhân ít quan tâm đến máy móc, đến sự quá tải của nó và không chú ý tới tiết kiệm vật tư, nguyên liệu. * Bên cạnh các hình thức trả lương, thưởng người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc BHXH, BHYT trong các trường hợp ốm đau, thai sản…Các quỹ này được hình thành một phần do người lao động đóng góp, phần còn lại tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Chế độ về các khoản trích theo lương : Thu nhập của người lao động ngoài tiền lương lao động còn được hưởng một số các khoản khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các khoản phúc lợi khác. Bảo hiểm xã hội (BHXH) : Quỹ BHXH được hình thành do việc trích lập và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo qui định của Nhà nước. Theo qui định hiện hành, hàng tháng đơin vị tính trích lập quỹ BHXH theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương phải trả cho công nhân viên trong tháng và phân bổ cho các đối tượng liên quan đến việc sử dụng lao động. Người sử dụng lao động phải trích một tỷ lệ nhất định trên tổng số quỹ lương và tính vào phần chi phí kinh doanh, còn một tỷ lệ do người lao động trực tiếp đóng góp và được khấu trừ vào thu nhập trực tiếp của họ. Hàng tháng doanh nghiệp đóng góp vào quỹ BHXH 20% tổng quỹ lương, trong đó 15% tính vào chi phí và 5% tính vào lương cán bộ công nhân viên. Sau khi nộp được cơ quan bảo hiểm ứng là 3% nhờ đơn vị trả hộ khi công nhân viên đau ốm, tai nạn lao động, thai sản. Quỹ BHXH được thiết lập nhằm tạo ra nguồn tài trợ cho công nhân viên trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nghỉ hưu theo cơ chế hiện hành nguồn quỹ BHXH do cơ quan chuyên trách cấp trên quản lý và chi trả các trường hợp nghỉ hưu, mất sức, tai nạn, tử tuất. ở tại doanh nghiệp được phân bổ trực tiếp chi trả các trường hợp như ốm đau, thai sản và tổng hợp chi tiêu để quyết toán với cơ quan chuyên trách. Việc hình thành nên quỹ BHXH còn do một số nguồn khác như các doanh nghiệp làm ăn phát đạt ủng hộ theo các chương trình xã hội, thành lập quỹ đền ơn đáp nghĩa. Việc trích lập quỹ BHXH là một việc làm cần thiết và nhân đạo, đây là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội mà Nhà nước đảm bảo trước pháp luật cho mọi người dân nói chung và cho mỗi người lao động nói riêng. Bảo hiểm y tế (BHYT) : BHYT theo qui định của chế độ tài chính hiện hành gồm 2 nguồn : Một phần do doanh nghiệp gánh chịu được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương thực tế phải trả cho công nhân viên trong kỳ; Một phần do người lao động gánh chịu được trừ vào lương của công nhân viên. BHYT được nộp lên cơ quan chuyên môn, chuyên trách (hình thức mua BHYT) để bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho công nhân viên. BHYT thực chất là sự trợ cấp về y tế cho người lao động tham gia BHYT nhằm giúp họ phần nào tiền khám chữa bệnh, tiền viện phí, thuốc thang. Mục đích của BHYT là lập mạng lưới bảo vệ sức khoẻ cho toàn cộng đồng không kể địa vị xã hội, thu nhập cao hay thấp. Để thực hiện chế độ BHYT hàng tháng doanh nghiệp tiến hành 3% trên tổng số tiền lương của công nhân viên chức thực tế phát sinh trong tháng, trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và 1% trừ vào thu nhập của người lao động. Kinh phí công đoàn (KPCĐ) : Công đoàn là một tổ chức đoàn thể đại diện cho người lao động nói lên tiếng nói chung cho người lao động đứng ra bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời công đoàn cũng là người trục tiếp hướng dẫn, điều khiển thái độ người lao động đối với công việc, với người sủ dụng lao động. KPCĐ đựơc hình thành từ việc trích lập và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng của đơn vị theo tỷ lệ nhất định tính trên tổng số tiền lương thực tế phải trả cho công nhân viên trong kỳ. Số KPCĐ được phân cấp quản lý, được chi tiêu theo chế độ, một phần nộp lên cơ quan công đoàn cấp trên và một phần để lại doanh nghiệp chi tiêu cho hoạt động công đoàn tại đơn vị. Theo thông tư liên tịch số 76/1999/TTLT/TC – TLĐ ngày 16/6/1999 hướng dẫn trích nộp KPCĐ. Đối với công nhân viên hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước thì không phải trực tiếp thu KPCĐ mà do công đoàn các cấp trên thu qua cơ quan cơ sở bình quân bằng 50% số kinh phí đã thu qua cơ quan tài chính. Đối với công nhân viên không hưởng lương Ngân sách thì công đoàn cơ sở trực tiếp thu KPCĐ bằng 2% quỹ tiền lương đó, đơn vị giữ lại 1% để chi tiêu và nộp lên công đoàn cấp trên 1%. Cùng với tiền lương và các khoản trích theo lương hợp thành khoản chi phí về lao động sống trong tổng số chi phí của doanh nghiệp. Việc xác định chi phí về lao động sống phải dựa trên cơ sở quản lývà sử dụng lao động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính đúng thù lao lao động, thanh toán kịp thời tiền lương và các khoản liên quan. Một mặt kích thích người lao động quan tâm đến thời gian, kết quả chất lượng của lao động; mặt khác góp phần tính đúng, tính đủ chi phí giá thành sản phẩm hay chi phí của doanh nghiệp. Các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu: Để hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương doanh nghiệp sử dụng các chứng từ sau: Bảng thanh toán tiền lương: Là chứng từ làm căn cứ để thanh toán tiền lương, phụ cấp cho công nhân viên đồng thời để kiểm tra việc thanh toán tiền lương cho công nhân viên trong đơn vị. Bảng thanh toán lương được lập hàng tháng, tương ứng với bảng chấm công, phiếu nghỉ hưởng bảo hiểm xã hội…Cơ sở để lập bảng thanh toán tiền lương là các chứng từ liên quan như: bảng chấm công, bảng tính phụ cấp, trợ cấp, phiếu nghỉ hưởng chế độ xã hội. Cuối tháng, căn cứ vào các chứng từ liên quan, kế toán tiền lương lập bảng thanh toán tiền lương chuyển cho Kế toán trưởng hay phụ trách kế toán và Giám đốc đơn vị duyệt. Trên cơ sở đó lập phiếu chi và phát lương cho công nhân viên. Bảng thanh toán lương được lưu lại ở phòng kế toán của đơn vị. Bảng thanh toán BHXH: Là chứng từ làm căn cứ tổng hợp và thanh toán trợ cấp BHXH trả thay lương cho người lao động, lập báo cáo quyết toán BHXH với cơ quan quản lý BHXH. Tuỳ thuộc vào số người phải thanh toán trợ cấp BHXH trả thay lương trong tháng của đơn vị, kế toán có thể lập bảng này cho từng phòng ban, bộ phận hay cho toàn đơn vị. Cơ sỏ lập bảng này là phiếu nghỉ hưởng BHXH, khi lập phải ghi chi tiết từng trường hợp nghỉ và trong mỗi trường hợp phải phân ra số ngày, số tiền trợ cấp BHXH trả thay lương. Cuối tháng, kế toán tính tổng số ngày nghỉ và số tiền được trợ cấp trong tháng và luỹ kế từ đầu năm đến tháng báo cáo cho từng người và toàn đơn vị. Bảng này được chuyển cho trưởng ban BHXH xác nhận và chuyển cho Kế toán trưởng duyệt chi. Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác với các đơn vị hành chính sự nghiệp được trang trải các chi phí hoật động để thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao bằng nguồn kinh phí từ Ngân sách hoặc từ công quỹ the._.o nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp, cho nên tài khoản sử dụng và phương pháp hạch toán cũng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh: Để hạch toán kế toán sử dụng các tài khoản (TK) sau: + TK 334 “ Phải trả công nhân viên”: dùng để theo dõi các khoản phải trả công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương, phụ cấp, BHXH, tiền thưởng và các khoản phải trả khác về thu nhập của người lao động. Kết cấu: Bên nợ: Các khoản đã trả công nhân viên. Các khoản khấu trừ vào lương. Các khoản ứng trước. Kết chuyển lương chưa lĩnh. Bên có: Tất cả các khoản phải trả công nhân viên. Dư có: Các khoản khác còn phải trả công nhân viên. Dư nợ: Số trả thừa cho công nhân viên. Trong hệ thống tài khoản không có tài khoản cấp 2 nhưng chế độ kế toán thường mở 2 tài khoản cấp 2: TK 3341: Chuyên theo dõi tiền lương. TK 3342: Theo dõi các khoản khác ngoài lương. + TK 338 “Phải trả và phải nộp khác”: phản ánh các khoản phải trả, phải nộpcho cơ quan pháp luật, cho các đoàn thể tổ chức xã hội, cho cấp trên về BHXH, BHYT, KPCĐ. Kết cấu: Bên nợ: Các khoản phải nộp cho cơ quan quản lý các quỹ. Các khoản đã chi về KPCĐ tại đơn vị. Xử lý giá trị tài sản thừa. Bên có: Các khoản phải trả, phải thu hồi, phải nộp. Trích các khoản theo lương và chi phí hàng kỳ. Dư nợ: Số chi vượt được cấp bù. Dư có: Số chi không hết phải nộp tiếp. TK 338 có 5 tài khoản cấp 2, trong đó có 3 tài khoản liên quan trực tiếp đến công nhân viên . TK 3382 “Kinh phí công đoàn”. TK 3383 “ Bảo hiểm xã hội”. TK 3384 “ Bảo hiểm y tế”. * Phương pháp hạch toán: - Trích trước tiền lương nghỉ phép cho công nhân sản xuất: Nợ TK 622 Có TK 335. - Hàng tháng trên cơ sở tính toán tiền lương, tiền công phải trả công nhân viên, kế toán ghi sổ: Nợ TK 622,627,641,642, 241 Nợ TK 335: tiền lương của CNV nghỉ phép thực tế phát sinh nếu doanh nghiệp đã trích vào chi phí. Có TK 334. - Hàng tháng trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính vào chi phí, kế toán ghi: Nợ TK 622,627,641,642, 241 Có TK 338 (3382, 3383, 3384). Phản ánh các khoản BHXH phải trực tiến trả cho công nhân viên như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động… Nợ TK 338 (3383) Có TK 334. Cuối kỳ tính trả số tiền thưởng phải trả công nhân viên từ quỹ khen thưởng: Nếu các khoản tiền thưởng là thường xuyên: Nợ TK 622, 627, 641, 642 Có TK 334. Nếu tiền thưởng không thường xuyên: Nợ TK 431 (4311) Có TK 334. Tính BHXH, BHYT trừ vào lương của người lao động: Nợ TK 334 Có TK 338 (3383, 3384). Các khoản khấu trừ vào thu nhập của công nhân viên: Nợ TK 334 Có TK 338 (3388), 141, 138 (1388). - Thanh toán lương và các khoản phải trích theo lương cho công nhân viên: Nợ TK 334 Có TK 111, 112. Nếu thanh toán bằng vật tư, hàng hoá: Nợ TK 334 Có TK 152, 153, 154, 155. Nợ TK 334 Có TK 333 (33311). Nộp BHXH, BHYT, KPCĐ cho cơ quan quản lý quỹ: Nợ TK 338 (3382, 3383, 3384) Có TK 111, 112. Chi tiêu KPCĐ, BHXH tại doanh nghiệp: Nợ TK 338 (3382, 3383) Có TK 111, 112. Phản ánh BHXH, KPCĐ chi vượt được cấp bù: Nợ TK 111, 112 Có TK 338 (3382, 3383) - Số chi không hết phải nộp cho cơ quan quản lý quỹ: Nợ TK 334 Có TK 338 (3388). * Trình tự hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở các doanh nghiệp sản xuất được thể hiện qua sơ đồ: Sơ đồ 1: Hạch toán chi phí nhân công. TK 334 TK 622, 6231, 6271 TK 154 Tiền lương, phụ cấp Kết chuyển phải trả cho CNV (cuối quý) TK 338 TK 6271 BHXH, BHYT, KPCĐ Kết chuyển tính vào chi phí (19%) (cuối quý) Sơ đồ 2: Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương. TK 111 TK 334 Thanh toán lương và TK 335 các khoản khác TK 333 Thuế thu nhập Tính lương TK 622 phải nộp phải trả cho (nếu có) TK 336 CNV Khấu trừ các khoản TK 627, 641,642 phải trả nội bộ TK 138 Trích BHXH, BHYT TK 431 trên tiền lương CNV Tính thưởng cho CNV TK 338 TK 138 BHXH phải trả cho CNV Chênh lệch số đã trả và khấu trừ lớn hơn số phải trả Sơ đồ 3: Hạch toán tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất : TK 3341 TK 335 TK 622, 6231 TK 154 Tiền lương phép Trích trước tiền lương thực tế phải trả nghỉ phép Kết chuyển Số chênh lệch giữa tiền (cuối quý) lương nghỉ phép thực tế phải trả lớn hơn số trích trước. Số chênh lệch giữa tiền lương nghỉ phép thực tế phải trả nhỏ hơn số trích trước. Đối với các doanh nghiệp hành chính sự nghiệp: Tài khoản sử dụng để hạch toán + TK 334 “Phải trả viên chức”: Dùng để phản ánh tình hình thanh toán với công chức, viên chức trong đơn vị hành chính sự nghiệp và tiền lương, phụ cấp và các khoản phải trả theo chế độ Nhà nước qui định. Kết cấu: Bên nợ: Các khoản phải trả cho công chức, viên chức và các đối tượng khác. Các khoản đã khấu trừ vào lương. Bên có: Tiền lương và các khoản phải trả cho công chức, viên chức và các đối tượng khác trong đơn vị. Dư có: Các khoản công phải trả cho công chức, viên chức, cán bộ hợp đồng và các đối tượng khác trong đơn vị. TK 334 có 2 tài khoản cấp 2: TK 3341 “Phải trả viên chức Nhà nước”. TK 3348 “Phải trả các đối tượng khác”. + TK 332 “Các khoản phải nộp theo lương”: phản ánh tình hình trích nộp và thanh toán BHXH, BHYT của đơn vị. Kết cấu: Bên nợ: Số BHXH, BHYT sẽ nộp cơ quan quản lý. Số BHXH đã thanh toán cho người được hưởng. Bên có: Trích BHXH, BHYT tính vào chi phí của đơn vị. Số BHXH được cấp để chi trả cho công nhân viên. Số BHXH, BHYT mà công chức, viên chức phải nộp được trừ vào lương. Số tiền phạt do nộp chậm BHXH. Dư có: BHXH, BHYT còn phải nộp cho cơ quan quản lý. Số BHXH được cấp nhưng chưa hết. Dư nợ: Phản ánh số BHXH đã chi chưa được cơ quan BHXH cấp bù. TK 332 có 2 tài khoản cấp 2: TK 3321 “BHXH”. TK 3322 “BHYT”. * Phương pháp hạch toán: - Hàng tháng tính tiền lương, phụ cấp, sinh hoạt phí, học bổng phải trả chi viên chức và các đối tượng khác: Nợ TK 661, 662, 631 Có TK 334 (3341,3348). Trích BHXH, BHYT theo qui định: Nợ TK 661, 662, 631 Có TK 332 (3321, 3322). Tính ra số BHXH phải trả trực tiếp cho người được hưởng: Nợ TK 332 (3321) Có TK 334. Trích quỹ cơ quan để thưởng cho công chức, viên chức: Nợ TK 431 (4311) Có TK 334. Thanh toán tiền lương, thưởng, phụ cấp, BHXH và các khoản khác: Nợ TK 334 Có TK 111, 112. Nộp BHXH, mua thẻ BHYT: Nợ TK 332 (3321, 3322) Có TK 111, 112, 461. Các khoản tạm ứng, bồi thường được bù trừ vào lương: Nợ TK 334 Có TK 311, 312. Số BHXH được cấp để chi trả cho các đối tượng được hưởng: Nợ TK 111, 112 Có TK 332 (3321). Nhận được giấy phạt do nộp chậm BHXH: Nợ TK 661, 311 Có TK 332 (3321). * ý nghĩa của hạch toán tiền lương: Tiền lương là yếu tố cơ bản để quyết định thu nhập tăng hay giảm của người lao động. Quyết định mức sống vật chất của người lao động làm công ăn lương trong doanh nghiệp. Vì vậy để trả lương một cách công bằng, chính xác, đảm bảo quyền lợi cho người lao động thì mới tạo ra sự kích thích, sự quan tâm đúng đắn của người lao động đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp. Có thể nói hạch toán chính xác, đúng đắn tiền lương là đòn bẩy kinh tế quan trọng để kích thích các nhân tố tích cực trong mỗi con người, phát huy tài năng, sáng kiến, tinh thần chịu trách nhiệm và nhiệt tình của người lao động tạo thành động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế. Mặt khác, tiền lương là một trong những chi phí của doanh nghiệp, hơn nữa lại là chi phí chiếm tỷ lệ đáng kể. Mục tiêu của doanh nghiệp là tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận, nhưng bên cạnh đó, phải chú ý đến quyền lợi của người lao động. Do đó làm sao và làm cách nào để vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động lại vừa đảm bảo lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương không những phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người lao động, mà còn có ý nghĩa giúp các nhà quản lý sử dụng quỹ tiền lương có hiệu quả nhất tức là hợp lý hoá chi phí giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi. Cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về tiền lương của doanh nghiệp, để từ đó doanh nghiệp có những điều chỉnh kịp thời, hợp lý cho những kỳ kinh doanh tiếp theo. Phần II : Thực tế công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện. Đặc điểm chung của doanh nghiệp: Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp: Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là một doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc Tổng công ty Lắp máy Việt Nam. Công ty là một đơn vị có tư cách pháp nhân, hoạt động theo phương thức hạch toán độc lập, trụ sở Công ty đặt tại 124 Minh Khai – Hà Nội. Nghành chủ quan là Bộ xây dựng. Công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp theo giấy phép hành nghề kinh doanh xây dựng số 16 BXD/CSXD do Bộ xây dựng cấp ngày 6/5/1993 và giấy phép đăng ký kinh doanh số 109584 do cơ quan đăng ký kinh doanh cấp ngày 16/3/1996. Nghề kinh doanh của Công ty là lắp máy điện nước gia công kết cấu, kiểm tra thí nghiệm điện, lắp đặt và sửa chữa hệ thống cơ điện lạnh, hệ thống thông gió điều hoà… Công ty thuộc loại doanh nghiệp quy mô vừa với số vốn kinh doanh theo giấy phép đăng ký kinh doanh là 1.057.000.000 đồng và số lao động từ 250 – 300 người. Trong đó lao động không xác định thời hạn là 136 người và lao động hợp được thuê với số lượng tuỳ từng thời kỳ và yêu cầu công việc. Công ty mở tài khoản tiền gửi ngân hàng bằng tiền Việt Nam tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam ( chi nhánh Hà Nội ) và tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tiền thân của Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là “Trung tâm nghiên cứu kinh tế kỹ thuật lắp máy”. Được thành lập theo quyết định số 133 – BXD/TCLD của Bộ trưởng Bộ xây dựng ngày 19/11/1980. Trung tâm có nhiệm vụ lập và tổ chức thực hiện kế hoạch nghiên cứu của kinh tế kỹ thuật, nghiên cứu xây dựng bổ sung hệ thống các tiêu chuẩn định mức, quy trình quy phạm kỹ thuật về công tác lắp máy. Tổ chức chỉ đạo và kết hợp chặt chẽ đồng bộ giữa kinh tế với kỹ thuật với tổ chức quản lý, giữa thực tế sản xuất với kỹ thuật, đảm bảo tính thực tiễn và hiệu quả. Được ký kết các hợp đồng kinh tế về nghiên cứu kinh tế và kỹ thuậ, về công tác thí nghiệm hiệu chỉnh các thiết bị lắp đặt cho các công trình công nghiệp và dân dụng với các đơn vị sản xuất kinh doanh và tổ chức kinh tế khác. Thời kỳ đầu của Công ty lực lượng lao động mới chỉ có hơn 40 người với cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo, máy móc thiết bị còn thiếu, vốn được giao nhỏ nên giá trị sản lượng hàng năm còn rất thấp, trung bình khoảng 500 – 600 triệu đồng. Đến năm 1992, theo xu hướng đổi mới nền kinh tế của đất nước, Trung tâm nghiên cứu kinh tế kỹ thuật lắp máy được đổi tên thành Xí nghiệp Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện theo quyết định số 189 ngày 30/4/1992. Các chức năng và nhiệm vụ thời kỳ này của Xí nghiệp được bổ sung mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh vào hoạt động nhận thầu thi công lắp đặt các công trình công nghiệp và dân dụng. Xí nghiệp được lắp đặt thiết bị công nghệ, hệ thống điện nước, hệ thống trạm và đường dây cao thế, lắp đặt và sửa chữa hệ thống cơ điện lạnh, hệ thống thông gió điều hoà. Đến năm 1993, Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện chính thức được thành lập theo quy định số 338/HĐBT nay là chính phủ về việc tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu quản lý mới. Công ty được thành lập theo quyết định số 014 ABXD/KLĐ của Bộ trưởng Bộ xây dựng ngày 27/3/1993. Nhiệm vụ cơ bản của Công ty không thay đổi nhưng quy mô đươc mở rộng. Với chức năng, nhiệm vụ như trên, mục tiêu của Công ty đặt ra là không ngừng nâng cao chất lượng công trình, khẳng định uy tín của Công ty trên thi trường, mở rộng sản xuất kinh doanh để chiếm lĩnh thị trường, tăng hiệu quả hoạt động. Thực tế trong hơn 7 năm hoạt động trên cương vị mới với quy mô lớn hơn, Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện thực sự là một doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Giá trị tổng sản lượng trung bình đạt từ 10 – 12 tỷ đồng, có năm đạt tới 13 – 14 tỷ đồng, doanh thu đạt khoảng 8 – 10 tỷ đồng, lãi trước thuế khoảng trên 500 triệu đồng mỗi năm. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp không ngừng tăng lên, đến năm 2001 đã đạt 2.703 triệu đồng, trong đó vốn do Ngân sách Nhà nước cấp là 670 triệu đồng, vốn tự bổ sung là 2.033 triệu đồng. Vốn cố định là 8.486 triệu đồng, vốn lưu động là 2.407 triệu đồng. Tổng giá trị tài sản của Công ty đến thời điểm cuối năm 2001 đạt gần 11 tỷ đồng. Những con số trên có thể chưa thật sự lớn, song nó đã khẳng định sự trưởng thành của Công ty qua khó khăn trong điều kiện mới. Từ một doanh nghiệp quy mô nhỏ phát triển lên quy mô vừa là một hành trình không dễ dàng. Để có được kết quả này, Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện đã phải trải qua 3 giai đoạn phát triển chuyển mình theo sự đổi mới của đất nước. Trong nền kinh tế thị trường, không thể dựa vào sự bao cấp của Nhà nước mà muốn tồn tại phải đi lên bằng chính sức của mình. Đó là điều mà Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện luôn tâm niệm và phấn đấu thực hiện. Bảng 2 : Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đơn vị : triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 KH TH % KH TH % KH TH % Giá trị SL 8000 7750 97 8500 10850 127 9000 9100 101 Doanh thu 7295 7620 104 8000 10600 133 8500 8360 98 Tổng số nộp NS 639 620 676 Lãi 471 592 356 Tỷ suất LN/DT (%) 6% 5,5% 4,2% Tỷ suất LN/vốn (%) 12% 11% 6,9% Năng suất lao động (triệu đồng/người) 65,68 79,78 66,91 Khả năng thanh toán hiện hành 1,35 1,32 1,36 Thu nhập BQ/ người (triệu đồng/người) 1,232 1,232 1,251 ( Nguồn : Báo cáo tài chính Công ty năm 1999, 2000, 2001 ). Đối với Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện, do hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thí nghiệm cơ điện nên giá trị sản lượng chủ yếu là giá trị nhân công. (Trong khi đó, trong dự toán của các công trình xây dựng, sản lượng chủ yếu là vật tư (cáp điện, các đường ống, sắt thép, cát, xi măng…), thường chiếm 65% - 70% giá trị dự toán). Vì thế, so với nhiều doanh nghiệp cùng ngành, giá trị sản lượng cũng như doanh thu của Công ty ở mức thấp hơn. Song hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty không thua kém các đơn vị trong ngành. Bảng trên cho ta thấy những nỗ lực của Công ty vượt qua những khó khăn về vốn, cơ sở vật chất để đi lên. Nhìn chung Công ty đã hoàn thành kế hoạch về giá trị sản lượng và doanh thu ở mức cao. Riêng năm 2000 cả hai chỉ tiêu trên đều hoàn thành vượt mức kế hoạch 27% và 33% làm lợi nhuận tăng. Thu nhập bình quân đầu ngườicủa cán bộ công nhân viên tăng lên, đời sống được cải thiện. Khả năng thanh toán được đảm bảo, mức đống góp cho Ngân sách tăng lên. Tuy nhiên hạn chế của Công ty cũng được phản ánh rõ nét ở việc tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đều giảm. Nguyên nhân đều do công việc ít, doanh thu thấp, giá cả bị cạnh tranh cao độ, nhiều chi phí phát sinh, lãi vay ngân hàng lớn. Mặt khác đó cũng là kết quả khó tránh khỏi do những khó khăn đã nêu ở trên làm gia tăng chi phí sử dụng vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Năm 2001 mặc dù giá trị sản lượng tăng so với kế hoạch song doanh thu không đạt cũng vì khó khăn trên. Đánh giá một cách khách quan, mặc dù còn nhiều khó khăn song Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện vẫn đang là một doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Xét về vị thế thì vị thế của Công ty còn yếu, khả năng cạnh tranh là có nhưng chưa cao do quy mô nhỏ, vốn kinh doanh thiếu nhiều. Vì thế xu hướng phát triển của Công ty phải hướng vào việc tăng cường quy mô và hiệu quả hoạt dộng bằng những biện pháp cải tổ tối ưu, trong đó trọng tâm là hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động. Trong quá trình đó, việc xây dựng một cơ cấu tổ chức hợp lý, hiệu quả có vai trò vô cùng quan trọng vì nó có ảnh hưởng lớn đến hướng phát triển và sự thành công hay thất bại của cả một doanh nghiệp. Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế của cả nước, hoạt động kinh doanh của Công ty đã đi vào ổn định, phát triển, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra và kinh doanh có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, đời sống cán bộ công nhân viên trong Công ty ngày càng được cải thiện nâng cao. Những danh hiệu thi đua mà tập thể cán bộ công nhân viên của Công ty đã đạt được trong những năm vừa qua: Tập thể công đoàn Công ty được cấp bằng khen công nhận: Đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua lao động giỏi và xây dựng tổ chức năm 1997, 1998, 1999. Đơn vị Đảng bộ trong sạch vững mạnh năm 1996, 1997, 1998. Nhiều cá nhân được tặng bằng khen, giấy khen của Bộ, của Tổng công ty cũng như của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội về những thành tích xuất sắc, thực hành tiết kiệm, thực thi chính sách và sáng tạo trong lao động. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện: Đặc điểm tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất của doanh nghiệp: Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản với chức năng xây lắp và thí nghiệm cơ điện. Trong đó chủ yếu là thí nghiệm cơ điện như kiểm tra mối hàn bằng phương pháp không phá huỷ ( sử dụng sóng siêu âm, chụp X- quang …) và thí nghiệm hiệu chỉnh tất cả các thiệt bị điện, thiết bị tự động,… được lắp đặt trong các công trình công nghiệp và dân dụng nhằm đảm bảo các thông số kỹ thuật cho qua trình sử dụng, sản xuất, vận hành. Do đó, sản phẩm của Công ty bao gồm sản phẩm của hoạt động xây lắp và của hoạt động thí nghiệm cơ điện. - Đối với hoạt động xây lắp : Đó là những công trình xây dựng, lắp đặt thiệt bị cho các công trình công nghiệp và dân dụng, mang tính đơn chiếc, thực hiện theo các đơn đặt hàng qua đấu thầu hoặc do Tổng công ty phân xuống ( nếu được giao thi công ), hoặc giá trị công việc hoàn thành ( nếu tham gia thi công ). Sản phẩm được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thoả thuận với chủ đầu tư, hoặc giá quy định của Tổng công ty và nằm rải rác ở các vùng miền khác nhau trong cả nước. Thời gian thi công kéo dài, các điều kiện sản xuất cần thiết được xuất từ kho Công ty đến và tập trung tại công trường hoặc tận dụng từ nguồn lực sẵn có của địa phương ( nhân lực, một số vật liệu phụ…). - Đối với hoạt động thí nghiệm cơ điện : Đó là các dịch vụ kiểm định chất lượng kỹ thuật, kiểm tra mối hàn, kiểm tra hiệu chỉnh và thí nghiệm thiết bị … gắn liền với các công trình xây dựng. Đây là hoạt động cung cấp dịch vụ, giá thành dịch vụ được hạch toán riêng và không tính vào giá quyết toán công trình xây lắp, trừ trường hợp Công ty nhận thầu thi công công trình bao gồm cả kiểm tra thí nghiệm cơ điện. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản là thị trường trảI rộng khắp cả nước, quy mô thị trường lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào số lượng và giá trị cũng như mức độ trải rộng về mặt địa lý của các công trình. Thị trường liên tục được hình thành theo mỗi hợp đồng nhận thầu được ký kết và tồn tại trong suốt thời gian thi công công trình hoặc lâu hơn. Hiện nay, các công trình do Công ty đảm nhận thi công hình thành từ hai nguồn : do Tổng công ty giao theo phân cấp công việc ( chủ yếu ) và tự tìm kiếm ( bao gồm tham gia đấu thầu và do công nhân viên đưa về ). Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là một doanh nghiệp loại vừa nhưng phạm vi hoạt động trải rộng trên khắp mọi miền đất nước từ Lào Cai đến Kiên Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Trị, Nghệ An… Với một thị trường rộng lớn như vậy, việc sử dụng và phân bổ hợp lý các nguồn lực hiên có để đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh vốn dĩ còn nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Quy trình công nghệ sản xuất của Công ty như sau: Sơ đồ 4: Qui trình công nghệ sản xuất. Đội thi công Kho công ty Xuất vật tư, Chủ đầu tư máy móc thiết bị. Sản phẩm xây lắp Nhà cung cấp Tư liệu sản xuất Tự cung cấp . Hoàn Lao động trong biên chế Điều chuyển. thành Dịch vụ thí Thị trường lao động Thuê ngắn hạn. nghiệm cơ điện Đặc điểm hoạt động thí nghiệm cơ điện: dịch vụ là nhân công chủ yếu. Đối với hoạt động kiểm tra mối hàn, có qui trình công nghệ riêng theo tiêu chuẩn công nghệ quốc tế. Sản phẩm hoàn thành là sản phẩm xấy lắp hoặc dịch vụ thí nghiệm cơ điện đã thực hiện, do đội thi công thực hiện với: Vật tư, thiết bị: những vật liệu chính, máy móc thiết bị thi ccông chủ yếu do Công ty xuất kho chuyển tới tận chân các công trình hoặc điều chuyển giữa các công trình; vật liệu phụ các đội có thể tự mua. Trong trường hợp Công ty chưa thể đáp ứng, các đội thi công có thể sử dụng phương án mua, thuê ngoài được duyệt. Lao động: bao ggồm lao động trong biên chế và lao động thuê ngoài ngắn hạn (1 – 3 thánh hoặc 6 tháng). Các đội thi công tuỳ theo yêu cầu công việc có thể thuê lao động tại địa phương hoặc phòng Tổ chức Công ty sẽ thục hiện khâu tuyển dụng và điều tới công trình sau khi được phê duyệt của Giám đốc Công ty. Lao động được thuê đều là lao động có trình độ kỹ thuật khá cao và phải qua sự kiểm tra trình độ của các chuyên gia tại các công trình mới được vào làm để đảm bảo thi công đạt tiến độ và chất lượng công trình. Công tác tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất: Để luôn thích ứng với cơ chế thị trường và để thực hiện tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, Công ty đã thực hiện mô hình tổ chức trực tuyến chức năng để phù hợp với điều kiện thực tế của Công ty. Trong cơ cấu này các chức năng được chuyên môn hoá hình thành nên các phòng ban. Các phòng ban chỉ tồn tại với tư cách là một bộ phận tham mưu giúp việc cho Giám đốc trong phạm vi chức năng của mình. Những quyết định của bộ phận chỉ có ý nghĩa với bộ phận của mình khi đã thông qua Giám đốc hoặc được Giám đốc uỷ quyền. Với mô hình này Công ty phát huy được năng lực của trưởng các phòng ban, bộ phận tạo điều kiện cho họ thực hiện chức năng chuyên sâu của mình, gánh vác phần trách nhiệm quản lý của Giám đốc. Tuy vậy, cơ cấu này vẫn đảm bảo tính thống nhất trong quản lý, đảm bảo chế độ một thủ trưởng và chế độ trách nhiệm trong quản lý. Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là một doanh nghiệp Nhà nước đồng thời là một thành viên trực thuộc Tổng công ty Lắp máy Việt Nam nên cơ cấu tổ chức của Công ty phải được sự phê duyệt của Bộ chủ quan ( Bộ xây dựng ) và đơn vị quản lý cấp trên ( Tổng công ty ). Sơ đồ 5: Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện. Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Kế toán trưởng Trưởng phòng kế toán tài chính. Xưởng thực nghiệm Ban kỹ thuật chuyên ngành và quản lý các dự án thí nghiệm điện và công nghệ đo lường tự động hoá Phòng kinh tế kỹ thuật Phòng tổ chức hành chính Phòng thiết bị vật tư Phòng kế toán tài chính Ban kỹ thuật chuyên ngành và quản lý các dự án NDT Các đội thi công lắp đặt điện chuyên ngành Các đội thi côngNDT Các đội thi công lắp đặt cơ điện lạnh, cấp nước, thông gió, PCCC… Các đội thi công thí nghiệm điện đo lường tự động hoá Giám đốc Công ty: là đại diện pháp nhân của Công ty và là người chịu trách nhiệm chung trước Tổng công ty, Hội đồng Quản trị và pháp luật trong mọi hoạt động của Công ty. Giám đốc là người có thẩm quyền cao nhất trong Công ty, phụ trách Công tác đầu tư, quản lý cán bộ và tài chính kế toán. Phó giám đốc Công ty: là người giúp Giám đốc Công ty điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Công ty theo sự phân công hoặc uỷ quyền của Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Giám đốc, trước pháp luật về nhiệm vụ được Giám đốc Công ty phân hoặc uỷ quyền. Có hai Phó giám đốc : Phó giám đốc thi công và Phó giám đốc kinh tế kỹ thuật. + Phó giám đốc thi công : là người được uỷ quyền và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về các lĩnh vực : Nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch nhằm hoàn thành công trình được giao. Chịu trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn công nhân, điều động máy móc thiết bị thi công cho các công trình. Giám sát mọi hoạt động xảy ra trên công trình đang thực hiện. Chỉ đạo các phòng ban có liên quan cung cấp vật tư, trang thiết bị kỹ thuật cho công trình. + Phó giám đốc kinh tế kỹ thuật : là người được uỷ quyền và chịu trách nhiệm trước giám đốc về mặt kỹ thuật, mỹ thuật, chất lượng, tiến độ thi công và mức độ an toàn của từng công trình; phụ trách lĩnh vực hoạt động tài chính của Công ty, theo dõi quan hệ thanh toán với chủ đầu tư. Kế toán trưởng : là người chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty và Nhà nước về việc chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác tài chính, kế toán, thống kê của Công ty. Kế toán trưởng thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật. - Đề xuất, tổ chức bộ máy kế toán, thống kê của Công ty sao cho phù hợp với đặc điểm, mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty. - Tổ chức, hướng dẫn thực hiện những quy định mới về công tác tài chính, kế toán thống kê của Nhà nước cho các đơn vị trực thuộc ( tổ, đội ). Tổ chức ghi chép hạch toán, phản ánh đầy đủ tình hình hoạt động kinh tế tài chính của Công ty, phục vụ công tác quản lý điền hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Giám đốc Công ty. - Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra công tác ghi chép, thiết lập các chứng từ ban đầu cũng như việc thanh toán, quyết toán giữa các Công ty trực thuộc trong Công ty. - Nghiên cứu tham mưu cho Giám đốc, hoạch định chiến lược kinh doanh, dự báo thông tin kinh tế xã hội nhằm định hướng và điều chỉnh hoạt động kinh doanh theo mục tiêu đã định. Nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất, bảo toàn và phát triển vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Từng bước đưa việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tiến bộ công nghệ thông tin vào công tác thống kê, kế toán của Công ty. Thực hiện hoạt động kinh tế nhằm đề xuất các phương pháp quản lý tài chính và chính sách thưởng phạt để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Các phòng ban nghiệp vụ do trưởng phòng phụ trách, chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc về việc thực thi các chức năng, nhiệm vụ được giao. + Phòng tổ chức hành chính: có chức năng nhiệm vụ quản lý về mặt nhân sự của toàn Công ty theo sự chỉ đạo từ Ban Giám đốc, bao gồm việc tổ chức tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, điều, điều chỉnh nhân sự phù hợp với tính chất, yêu cầu công việc và khả năng của mỗi người. Quản lý theo dõi số lượng lao động, ngày công lao động và việc quản lý sử dụng tiền lương trong Công ty, tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng bậc công nhân và theo dõi nâng bậc lương hàng năm, đóng bảo hiểm cho cán bộ công nhân viên ( BHXH, BHYT ). Bên cạnh đó phòng tổ chức hành chính còn có nhiệm vụ về công tác quản trị tài chính của toàn Công ty. + Phòng thiết bị vật tư : Bộ phận này do Phó giám đốc thi công trực tiếp chỉ đạo, nhiệm vụ chức năng chủ yếu của phòng là lập kế hoạch và thực hiện cung ứng vật tư, mua sắm, sửa chữa thiết bị phục vụ công tác thi công quản lý tình hình sử dụng máy móc thiết bị kịp thời, điều động thiết bị thi công cho các công trình sản xuất theo sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Giám đốc. + Phòng kinh tế kỹ thuật : Bộ phận này do Phó giám đốc kinh tế kỹ thuật chỉ đạo. Phòng có chức năng nhiệm vụ độc lập và chỉ đạo kế hoạch sản xuất, xây dựng, định mức kinh tế kỹ thuật, lập dự toán các công trình tham gia đấu thầu và ký kết hợp đồng kinh tế sản xuất. Có nhiệm vụ theo dõi tình hình chất lượng các công trình, kỹ thuật công nghệ thi công của toàn Công ty. Nghiên cứu cải tiến máy móc thiết bị, lập các biện pháp thi công sản xuất, thẩm định và tính toán để phân chia cấp bậc công việc làm căn cứ giao khoán nội bộ để tính trả lương cho công nhân trực tiếp sản xuất. Tổng quát chức năng của phòng kinh tế kỹ thuật là tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh đảm bảo toàn bộ khâu đầu ra trong hoật động kinh doanh của Công ty. + Phòng kế toán tài chính : Bộ phận này do Kế toán trưởng trực tiếp chỉ đạo theo sự phân cấp nhiệm vụ và quyền hạn, với chức năng là công cụ quan trọng trong điều hành và quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phòng kế toán tài chính có nhiệm vụ sau : - Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp một cách chính xác, đầy đủ mọi hao phí về vật tư, tiền vốn, nhân công sử dụng máy và các chi phí khác trong quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty. - Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu chi tài chính, kỹ luật thu nộp thanh toán và kiểm tra việc sử dụng các loại vật tư, tài sản, tiền vốn. Phát hiện và ngăn ngừa những hành động tham ô, lãng phí vi phạm chính sách chế độ kỹ luật kinh tế tài chính của Nhà nước. - Tổng quát chức năng nhiệm vụ của phòng kế toán tài chính là đảm bảo nhận toàn bộ hạch toán khâu đầu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. - Giữa phòng kế toán tài chính và các phòng khác luôn có sự trao đổi thông tin mang tính hai chiều nhằm phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng phòng và phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp. + Các đội thi công: là các đơn vị trực thuộc chịu trách nhiệm thi công các công trình, đảm bảo hoàn thành và bàn giao đúng thời hạn. Mỗi đội do một Đội trưởng phụ trách, được nhận và đấu thầu nội bộ (thành viên nào tự tòm được việc thì ưu tiên), được chủ động trình phương án Công ty duyệt, có thể thuê ngoài nhân lực, phương tiện nếu Công ty chưa đáp ứng được yêu cầu (khi được sự cho phép của Giám đốc) và quản lý nhân sự thuộc phạm vi đơn vị mình quản lý. Các đội thi công được thành lập theo các công trình trên cơ sở sự điều động nhân sự do phòng Tổ chức thực hiện theo sự chỉ đạo của Giám đốc. Như vậy, cơ cấu tổ chức và chính sách quản lý như trên vừa đảm bảo sự quản lý tập trung của cấp trên theo chế độ một thủ trưởng vừa phát huy được tính năng động sáng tạo của cấp dưới và đảm bảo sự phân cấp phân quyền trong quản lý. Căn cứ vào đặc điẻm thực tế qui mô sản xuất của doanh nghiệp, Công ty tổ chức sản xuất theo các đội chuyên ngành nghề. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo quyết định thành lập. Cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty trong 3 năm gần đây và hiện nay được tổ chức nhiều đội thi công như sau: Đội lắp điện nước _ Điều hoà khách sạn Horison Hà Nội. Đội lắp điện nước _ Điều hoà công trình 30 Nguyễn Du. Đội lắp điện nước _ Công trình Logitem Hà Nội. Đội thí nghiệm điện nhà máy xi măng Anh Sơn. Đội thí nghiệm điện nhà máy xi măng Cao Bằng. Đội thi công công trình khách sạn Kim Liên (Nhà nồi hơi + Nhà điều._.g sổ sách kế toán như thế nào cho hợp lý để phục vụ cho công tác hạch toán đồng thời tạo điều kiện cho các thao tác nghiệp vụ kế toán được thực hiện dễ dàng và đáp ứng yêu cấu quản lý. Để nâng cao ăng suất lao động, kích thích người lao động, Công ty còn đề ra phương hướng nhằm tăng lợi nhuận, tăng tiền lương cho công nhân. + Hoàn thiện các hình thức phân phối tiền lương, tiền thưởng và các khoản trích theo lương: Cải thiện các hình thức phân phối tiền lương là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác tiền lương của Công ty. Tiền lương là một đòn bẩy kích thích người lao động hăng say làm việc, không ngừng rèn luyện để nâng cao trình độ tay nghề, phấn đấu tăng năng suất lao động. Phát triển tăng doanh thu và lợi nhuận, tăng thu nhập, cải thiện đời sống CBCNV nâng lên mức cao hơn. Đồng thời phát triển tăng mức nộp ngân sách Nhà nước. Đưa ra các hình thức trả lương hợp lý với các đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Các hình thức trả lương phải phù hợp với số lượng, chất lượng lao động, gắn chặt tiền lương với kết quả lao động. Sử dụng có hiệu quả đòn bẩy tiền lương, phân phối hợp lý quỹ tiền lương đảm bảo kích thích sản xuất kinh doanh, thực hiện phân phối lương công khai, công bằng và dân chủ. Tiền thưởng với các cá nhân, tập thể cũng sẽ rất khác nhau, nếu cá nhân và tập thể nào đóng góp cho Công ty, làm lợi cho sự gia tăng tổng sản lượng, các chế dộ tiết kiệm, phát huy sáng kiến cải tiến hợp lý hoá phục vụ công tác sản xuất đều phải được xét thưởng thích đáng. + Thực hiện phân công lao động hợp lý: Đảm bảo sự phù hợp giữa nội dung và hình thức của phân công lao động và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu cụ thể của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đảm bảo sự phù hợp giữa khả năng và phẩm chất của người lao động với những yêu cầu của công việc, phải lấy yêu cầu của công việc làm tiêu chuẩn để lựa chọn con người làm phương hướng bồi dưỡng, đào tạo hoặc thải hồi lao động. Phân công lao động phải tạo ra được cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn hoàn toàn phù hợp với yêu cầu sản xuất, phải đạt được sự phù hợp giữa số lượng và chất lượng trong hệ thống lao động. Trong những năm qua Công ty đã có những quan tâm nhất định đến việc hoàn thiện việc tổ chức lao động. Tuy vậy, việc phân công đến từng bộ phận lao động và với từng cá nhân người lao động trong Công ty chưa thật hoàn toàn hợp lý và khoa học dẫn đến tình trạng hợp tác lao động chưa chặt chẽ, việc thực hiện công tác chưa được đồng bộ thống nhất làm ảnh hưởng tới hiệu quả công việc. + Hoàn thiện khâu tổ chức phục vụ nơI làm việc: Tổ chức nơi làm việc tốt là một trong những biện pháp quan trọng nhằm khuyến khích lòng nhiệt tình, phát huy tính sáng tạo của người lao động, góp phần làm tăng năng suất của người lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Công ty tiếp tục đầu tư máy móc, thiết bị để phát triển và mở rộng công tác kiểm tra các mối hàn, kết cấu kim loại bằng phương pháp chụp X-quang, gama, siêu âm. Mở rộng quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để phát triển mạnh mẽ công tác lắp đặt điện, nước, lắp đặt và gia công chế tạo nhằm nâng cao giá trị sản lượng hàng năm. Đảm bảo thoả mãn đồng bộ các yêu cầu về sinh lý, vệ sinh lao động, an toán lao động. + Nâng cao trình độ đội ngũ CBCNV : Để nâng cao trình độ chuyên môn cho các CBCNV, Công ty áp dụng hình thứuc đào tạo bồi dưỡng cho phù hợp với từng bộ phận, từng ngành nghề theo yêu cầu của công việc. Đặc biệt của cán bộ về lao động và tiền lương. Từng bước đưa khoa học vào công tác quản lý kinh tế, kỹ thuật tại Công ty. Mục tiêu phấn đấu của Công ty: Trong khoảng thời gian cho phép, những hợp đồng kinh doanh đã ký kết sẽ được bàn giao đúng thời hạn và có chất lượng đảm bảo. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của người lao động. Thay thế được số trang thiết bị lạc hậu hiện nay bằng những trang thiết bị hiện đại. Khai thác, tìm kiếm và thu hút được nhiều hợp đồng kinh tế có giá trị, tăng doanh thu và lợi nhuận cho đơn vị, tăng dần mức thu nhập cho người lao động. Nộp đầy đủ ngân sách cho Nhà nước theo qui định hiện hành. Đồng thời với những mục tiêu phấn đấu trên của Công ty, mục tiêu của công tác kế toán đặt ra là hiện đại hoá công tác kế toán bằng hệ thống máy vi tính để đưa ra những thông tin kinh tế nhanh chóng và chính xác nhằm mục đích kiểm soát hoạt động kinh doanh, đề ra mục tiêu hoạt động sao cho có hiệu quả nhất. Trong đó, kế toán tiền lương đưa dần phần mềm lương vào sử dụng để giảm bớt được số lượng công việc tính toán. Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiền lương: Như chúng ta đã biết, bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường đều ý thức được tầm quan trọng của lao động và nguyên tắc đảm bảo công bằng trong việc trả lương. Đó không chủ là nguyên tắc mà còn là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trả lương không tương xứng với sức lao động mà người lao động bỏ ra làm cho họ nản chí, không tích cực làm việc, thâm chí sẽ chuyển sang đơn vị kinh tế trả lương cao hơn, phản ánh đúng kết quả lao động mà họ bỏ ra. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ thu hút được những lao động tài năng, giàu kinh nghiệm đồng thời khơi dậy khả năng tiềm ẩn của người lao động, kích thích họ làm việc tốt, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí lao động. Để công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương thực sự phát huy vai trò là một công cụ hữu hiệu của quản lý thì vấn đề đặt ra cho những cán bộ làm công tác kế toán trong doanh nghiệp là không ngừng nghiên cứu để hoàn thiện hơn nữa công tác này, đi đôi với việc phải luôn luôn cải tiến để nâng cao công tác tiền lương, BHXH, phải thường xuyên kiểm tra xem xét…rút ra những hình thức và phương pháp trả lương khoa học. Với mong muốn công tác hạch toán tiền lương. BHXH ở Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện sớm khắc phục được những hạn chế và củng cố hoàn thiện hơn nữa công tác này góp phần tăng cường tốt công tác quản trị công ty, em xin trình bày một số ý kiến như sau: ứng dụng tin học vào công tác kế toán: Công tác kế toán nói chung là phải ghi chép nhiều, lặp lại nhiều, hình thức kế toán nào cũng có nhược điểm. Việc sử dụng máy vi tính sẽ khắc phục được những nhược điểm trong công tác kế toán, sẽ giải phóng được sức lao động và có thông tin kịp thời chính xác, nhanh chóng. Tại Công ty hiện nay mới chỉ có một máy làm công tác kế toán mang tính chất đơn lẻ, do vậy trong điều kiện Công ty áp dụng 2 hình thứuc trả lương: lương thời gian và lương khoán thì xin đề nghị Công ty sư dụng máy vi tính một cách đồng bộ và nối mạng các máy với nhau khi nghiệp vụ phát sinh ở nghiệp vụ nào thì kế toán của phần hành đó ghi vào nhật ký chung của máy vi tính mình. Tại một thời điểm muốn xem sổ thì bất kỳ máy vi tính nào của kế toán Công ty đều có đầy đủ các thông tin thuộc phần hành khác xảy ra trước thời điểm đó. Đặc biệt Công ty sử dụng máy vi tính làm công việc tính lương cho CBCNV như có thể dung bảng tính excel tên CBCNV, lương cấp bậc, hình thức trả mà người hoặc nhóm CBCNV đã được cài đặt sẵn. Việc trả lương theo hình thức lương khoán thì cài đặt sẵn mức khoán của từng công trình, hàng tháng các đội trưởng công trình sẽ báo khối lượng thực hiện công việc và số ngày công thực hiện của từng công nhân trong đội và cả đội bằng bảng chấm công. Kế toán lương trên cơ sở đó tính lương cùng với số ngày nghỉ ốm, nghỉ phép và các khoản khấu trừ. Máy vi tính sẽ tự thực hiện tính toán lương, sẽ cho biết tổng lương được lĩnh của mỗi CBCNV. Như vậy khối lượng công việc kế toán sẽ thực sự giảm. Đưa máy vi tính vào công tác kế toán sẽ có một công cụ tính toán hữu hiệu có thể sử dụng thay cho phương pháp kế toán thông thường. Với các tính năng ưu việt như: độ nhanh, kết quả chính xác cao, khối lượng tính toán lớn. Bộ nhớ phong phú sẽ trao đổi với ngoại vi (kết quả qua màn hình, in ra giấy, lưu trữ trên đĩa từ…) máy vi tính cho phép lưu trữ, đồng thời cho phép nối mạng để trở thành hệ thống trao đổi và xử lý thông tin. ứng dụng tin học vào công tác kế toán vẫn đảm bảo phân công lao động bộ mày kế toán. Kế toán phần hành nào làm phần hành đó không gây lãng phí lao động do công việc không chồng chéo, không phải chờ đợi do đó tiết kiệm chi phí lao động. Đồng thời cung cấp thông tin kịp thời chính xác, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý doanh nghiệp. Thường xuyên nên có các cuộc họp trao đổi giữa các bộ phận: Tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện do đặc điểm sản xuất là nhận các hợp đồng đơn chiếc, mà mỗi đơn vị ký hợp đồng lại có những công việc hết sức khác nhau, không công trình nào có đặc điểm giống nhau hoàn toàn như cả về số lượng cũng như chất lượng, hơn nữa quy trình công nghệ phức tạp. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho bộ phận kỹ thuật của Công ty là phải tìm hiểu các công trình ký kết hợp đồng. Kết hợp với các bộ phận khác nhau tiến hành phân tích, đánh giá xác địng đúng mức khoán nhất là vấn đề kỹ thuật, cấp bậc và tay nghề của công nhân. Cùng với phòng tiền lương xấy dựng những cơ chế khoán sát với công việc ở từng công trình. Nếu không làm tốt điều này dễ gây ra sự bất đồng trong công nhân chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của đòn bẩy kinh tế tiền lương. Để khắc phục được hiện tượng trên Công ty nên tổ chức các kỳ họp thường xuyên hơn để qua đó trao đổi kinh nghiệm giữa các bộ phận kỹ thuật, lao động tiền lương với bộ phận sản xuất ở từng công trình, như có sai sót trong việc khoán gọn các công việc ở từng đội công trình làm cho công nhân làm việc nhiều nhưng lại kém về chất lượng, lâu về tiến độ. Vậy cần phải kết hợp các bộ phận của Công ty để bám sát tình hình thực tế kịp thời nhận được những thông tin cần thiết để có biện pháp thích đáng đối với người lao động, cần thiết có thể tăng thêm mức lương hoặc các khoản phụ cấp cho những công việc gặp khó khăn ở từng đội công trình nhằm phát huy tốt nôI dung đòn bẩy kinh tế tiền lương. Trích tiền lương nghỉ phép theo kế hoạch: Công ty tính tiền lương khoán theo sản phẩm trong đó bao gồm cả khoán tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất. Điều đó đảm bảo công bằng cho những người lao động được nghỉ phép và không được nghỉ phép, song để đảm bảo nhu cầu cuộc sống tối thiểu khi công nhân có việc phải nghỉ phép thì không ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm khi công việc trực tiếp sản xuất. Hàng năm Công ty lên dự kiến tổng lương nghỉ của công nhân sản xuất trong năm là cơ sở để tính trích trước tiền lương nghỉ phép. Tiền lương nghỉ phép trích trước hàng tháng vào giá thành bằng tiền lương thực chi của tháng đã tính cho từng công trình nhân với tỷ lệ trích trước tiền lương nghỉ phép. Tỷ lệ trích trước tiền lương nghỉ phép bằng tổng lương nghỉ phép của công nhân sản xuất trong năm kế hoạch chia cho tổng lương phải trả cho công nhân sản xuất trong năm kế hoạch. Hạch toán như sau: Trích tiền lương nghỉ phép của CNSX ghi: Nợ TK 622: chi phí nhân công trực tiếp. Có TK 335: chi phí phải trả. Số tiền lương nghỉ phép thực tế phải trả CNV ghi: Nợ TK 335: chi phí phải trả. Nợ TK 627, 642: tiền lương nghỉ phép của nhân viên và quản lý doanh nghiệp. Có TK 334: phải trả CNV. Thành lập quỹ thất nghiệp: Việc lập và sử dụng quỹ thất nghiệp là một việc hoàn toàn đúng và cần được phát huy. Như ta thấy, quỹ này thực chất mang tính dự phòng cho những trường hợp sau: Trợ cấp cho những người lao động có thời gian làm việc tại Công ty đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chỉ đạo lại chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hoặc chuyển sang làm công việc mới. Trợ cấp cho người lao động mất việc do lao động dôi ra vì thay đổi công nghệ hoặc do liên doanh. Đay là một quỹ thực sự cần được lập và sử dụng. Theo chế độ kế toán hiện hành, các doanh nghiệp được trích lập quỹ dự phòng mất việc làm, nguồn hình thành này là từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (phần lợi nhuận để lại của doanh nghiệp). Vì vậy, Công ty xem xét việc tích lập quỹ từ đóng góp của người lao động. Từ đó giảm một khoản khấu trừ vào lương CBCNV đồng thời tăng khoản thực lĩnh cho người lao động. Hạch toán quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, Công ty nên theo dõi riêng trên một tài khoản. Kế toán sử dụng TK 416: Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm. Kết cấu, nội dung phản ánh của tài khoản. - Bên nợ: Phản ánh tình hình chi tiêu sử dụng quỹ. Trợ cấp tiền cho người lao động bị mất việc làm. Chỉ, đào tạo lại cho người lao động. Trích lập để hình thành quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm của Tổng công ty. - Bên có: Phản ánh tình hình trích lập quỹ. Trích từ phần lợi nhuận để lại (5%). Do cấp dưới nộp lên. - Số dư bên có: Số quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm hiện có. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu sau: Khi trích lập quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm từ lợi nhuận để lại: Nợ TK 421: lợi nhuận chưa phân phối. Có TK 416: quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm. Số thu của cấp dưới để trích lập quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: Nợ TK 111, 112, 136, 138 Có TK 416 Chi trợ cấp cho người lao động bị mất việc làm hay chỉ đào tạo lại chuyên môn kỹ thuật cho người lao động: Nợ TK 416 Có TK 111 Trích lập quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm cho cấp trên: Nợ TK 416 Có TK 111, 112 Phân bổ tiền lương, BHXH: Đối với bộ phận trực tiếp sản xuất, tiền lương được trả theo hình thức khoán cho từng công trình. Trong bảng phân bổ số 1 của Công ty phản ánh đủ số tiền lương thực tế tính vào giá thành xong chưa rõ ràng, rạch ròi từng khoản chi phí nhân công trực tiếp và chi phí quản lý chung cho từng công trình. Trên bảng phân bổ số 1: Tiền lương tính vào giá thành của công trình vận hành máy phát dự phòng Hải Phòng. Kế toán ghi: Nợ TK 622 87.725.000 Có TK 334 87.725.000 Với số liệu của bảng phân bổ số 1, khi tính giá thành của từng công trình, hạng mục công trình, các khoản chi phí chưa phản ánh chính xác làm cho việc đánh giá từng khoản mục chi phí không đầy đủ, ảnh hưởng đến quyết định của Công ty trong kế hoạch giá thành. Vì vậy, Công ty nên tách riêng tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất và tiền lương quản lý chung từng công trình, hạng mục công trình. Công ty cần qui định rõ ràng tiền lương quản lý chung ở đội công trình tính bằngkhoảng 12% tổng số tiền lương khoán được duyệt lương công nhân trực tiếp sản xuất của các đội. Đây sẽ là cơ sở tách riêng tiền lương hai bộ phận này trong tổng chi phí tiền lương của từng công trình. Cụ thể: Với công trình vận hành máy phát. Chi phí nhân công trực tiếp của công trình 87.725.000 x 88% = 77.198.000 (đồng). Chi phí quản lý chung của công trình 87.725.000 x 12% = 10.527.000(đồng). Ghi trên bảng phân bổ: Nợ TK 627 10.527.000 Có TK 334 10.527.000 Nợ TK 622 77.198.000 Có TK 334 77.198.000 Một số ý kiến khác: Công ty sử dụng mẫu sổ nhật ký chung. Chứng từ Diễn giải PS nợ PS có Ngày, tháng Số Cộng Khi sử dụng mẫu sổ nhật ký chung như trên thì việc xem tài khoản đối ứng với nghiệp vụ phát sinh rất khó nhìn vì nó nằm với dòng diễn giải. Để khắc phục điều này, Công ty nên sử dụng mẫu biểu sau (do Bộ Tài chính ban hành) Nhật ký chung. Tháng…năm… Ngày ghi sổ Chứng từ Diễn giải Đã ghi sổ Cái Số hiệu tài khoản Số phát sinh Ngày Số Nợ Có Số trang trước chuyển sang. Cộng chuyển sang trang sau. Bên cạnh đó Công ty cần phải xem xét cân nhắc các hình thức trả lương, phân phối quỹ lương… + Tiền lương đối với cán bộ quản lý: Đây là bộ phận được áp dụng hình thức trả lương theo thời gian. Tiền lương theo thời gian chỉ thực hiện đúng chức năng của nó và quán triệt theo nguyên tắc phân phối theo lao động khi việc phân công lao động và đánh giá khối lượng chất lượng mà người lao động hoàn thành. Việc trả lương này dựa theo cấp bậc của từng người và ngày công thực tế trong tháng của người đó. Chính điều đó xuất hiện tình trạng người lao động không làm hết thời gian của mình, còn nhiều thời gian không làm việc, do việc sắp xếp bố trí nhiều người cùng làm một công việc lớn so với nhu cầu. Điều này được thể hiện thông qua việc khảo sát thời gian làm việc của một số phòng ban, em nhận thấy người lao động sử dụng quỹ thời gian làm việc chưa cao, tỷ lệ thời gian làm việc trung bình chỉ 70%. Trong khi việc trả lương lại chưa gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh ở Công ty, chưa gắn với số lượng và chất lượng của công việc. Bởi vậy để khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả làm việc và tăng thu nhập cho người lao động, Công ty nên thực hiện một số biện pháp sau: Sắp xếp lại bộ máy quản lý sao cho gọn nhẹ, để tăng thời gian làm việc trong ngày, phải xem xét tính chất công việc, thời gian làm việc cho từng người (tức là áp dụng phương pháp định mức lao động theo kinh nghiệm). Trưởng phòng giao phó nhiệm vụ và đánh giá khối lượng công việc mà họ hoàn thành, theo dõi nhắc nhở mọi người nghiêm túc làm việc, hạn chế thời gian lãng phí do không làm việc. Trưởng phòng có thể sắp xếp bố trí lao động theo luân phiên công việc để giúp đỡ nhau. Mặt khác trong quá trình công tác, người lao động cấn phải được nâng cao trình độ chuyên môn, do đó Công ty nên có chính sách đưa đi đào tạo các lớp ngắn hạn và dài hạn để nâng cao trình độ chuyên môn của lao động quản lý. Hoàn thiện hình thức trả lương theo sản phẩm khoán: * Hoàn thiện hệ thống định mức: Hoàn thiện định mức lao động tiên tiến và thực hiện trong sản xuất kinh doanh là một trong những biện pháp quản lý kinh tế khoa học, đảm bảo hiệu quả cho quá trình sản xuất, đồng thời nó cũng là biện pháp quản lý lao động khoa học, đảm bảo tính chặt chẽ, thể hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng góp của người lao động đối với xã hội. Nhưng việc xây dựng định mức ở Công ty vẫn chưa đả bảo tính tiên tiến, hiện thực, chưa chính xác, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, trong khi hệ thống định mức của Nhà nước vẫn chưa gắn với điều kiện cụ thể môi trường làm việc. Để khắc phục tình trạng đó, Công ty cần nhận thức rõ sự cần thiết phải xem xét lại ưu, nhược của định mức cũ làm ảnh hưởng đến công tác trả lương của Công ty, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty cần xem xét tổ chức hợp lý hợp đồng định mức, do đồng chí Phó giám đốc kỹ thuật phụ trách kết hợp với cán bộ các phòng ban khác để làm việc bảo đảm tính chính xác, kết hợp với điều kiện thực tế để xây dựng định mức, thể hiện tính tiên tiến, hiện thực của nó. Mặt khác, Công ty phải nhận thức được đây là một việc làm thường xuyên sau một thời gian nhất định phải xem xét lại khi có những thay đổi trong công việc thực hiện sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua do việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trong Công ty có nhiều sự thay đổi, nhưng lãnh đạo Công ty cũng thấy được sự cần thiết phải xem xét lại định mức lao động, do đó đã thực hiện việc hướng dẫn áp dụng định mức mới do Công ty qui định căn cứ vào định mức của Nhà nước và thực tế trên thị trường. Trên cơ sở những tài liệu đã có Công ty cần phải kết hợp các phương pháp xây dựng định mức như: Phương pháp thống kê kinh nghiệm; phương pháp phân tích bằng các hình thức bấm giờ, chụp ảnh…Căn cứ vào điều kiện sản xuất thực tế hàng năm Công ty tổ chức thi tay nghề kiểm tra bậc thợ công nhân. Đây là những căn cứ khá chính xác, đầy đủ cho việc xem xét lại những định mức trước đó của Công ty. Định mức lao động hợp lý nhằm đảm bảo số lượng lao động theo kế hoạch sản xuất, tiết kiệm được sức lao động, đảm bảo quỹ tiền lương cho lao động, phù hợp với yêu cầu phát triển sản xuất, tạo điều kiện hạ thấp giá thành sản phẩm. Cũng qua hệ thống định mức chúng ta xây dựng được kế hoạch về số lượng có cơ sở khoa học, chính xác, đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất và đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh xây dựng các định mức phù hợp tình hình sản xuất kinh doanh, Công ty cần phải hoàn thiện đơn giá sản phẩm, đối với sản phẩm khoán tiêu thụ phải xác định đơn giá thường xuyên cho phù hợp với thị trường, tình hình kinh tế xã hội, sản xuất kinh doanh ở Công ty, đảm bảo sự phù hợp giữa lương sản phẩm tiêu thụ và lương sản phẩm sản xuất. Đồng thời Công ty phải tổ chức sản xuất để đảm bảo được liên tục, nhịp nhàng, tận dụng tối đa công suất thiết bị máy móc. * Hoàn thiện công tác thống kê kiểm tra nghiệm thu sản phẩm: Thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm là khâu quan trọng phản ánh kết quả lao động của người công nhân về mặt chất lượng và số lượng sản phẩm. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì chất lượng ccong trình là yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Để trả lương đúng sát với việc làm và hiệu quả kinh tế của người lao động thì công tác thống kế ghi chép ban đầu về các số liệu có vị trí rất quan trọng, có ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ, chính xác thưòi gian lao động chất lượng từng công việc, từng giai đoạn thì mới tiến hành trả lương theo chế độ khoán chính xác và công bằng. Phương pháp để nâng cao hiệu quả công tác này là: Mỗi cán bộ phụ trách công tác này phải chịu trách nhiệm ghi chép thống kê đầy đủ để ra các bảng biểu cho phù hợp với đặc thù từng công việc, từng giai đoạn để tiện cho việc ghi chép thống kê. Cán bộ phụ trách công tác kiểm tra nghiệm thu (phòng kỹ thuật…) phải thường xuyên tiến hành theo dõi, kiểm tra chất lượng từng công trình, khả năng tiết kiệm nguyên vật liệu của từng bước, từng công đoạn sản xuất. Từ đó có những sữa chữa kịp thời những thiếu sót về kỹ thuật cũng như việc sử dụng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị. Có sự thưởng, phạt thích đáng đối với những cá nhân, tổ, đội có sáng kiến công việc và đối với những cá nhân tập thể không đạt yêu cầu về chất lượng công việc. Đồng thời phải bố trí sử dụng những cán bộ, công nhân có kinh nghiệm chuyên môn, tay nghề cao, có trách nhiệm và công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu. Tiến hành trang bị những máy móc, thiết bị, dụng cụ hiện đại cho các công tác nghiệm thu công trình. * Tổ chức phục vụ nơi làm việc: Như chúng ta đã biết, tổ chức và phục vụ nơi làm việc tốt sẽ góp phần làm cho năng suất lao động của công nhân tăng lên. Nếu tổ chức và phục vụ nơi làm việc không tốt sẽ dẫn đến tình trạng xuất hiện thời gian lãng phí không sản xuất, làm giảm năng suất lao động, do vậy ảnh hưởng đến tiền lương của cả tập thể và của mỗi cá nhân. Do làm việc theo một hệ thông dây chuyền công nghệ nên việc tổ chức và phục vụ nơi làm việc của Công ty phải chặt chẽ và khoa học, mang tính chính xác. Bởi vậy làm tốt công việc này cần phải: - Xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng tính chất, mức độ và sự đòi hỏi của từng công đoạn trong mỗi dây chuyền công nghệ, từ đó tổ chức và phục vụ nơi làm việc cho hợp lý. * Tổ chức chỉ đạo sản xuất: Tổ chức chỉ đạo sản xuất là nội dung quan trọng đối với hoạt động sản xuất của Công ty. Trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi lãnh đạo Công ty phảI tìm ra được lối đi đứng đắn, cải tiến, bổ sung để thích ứng với những biến động của thị trường. Sau khi có kế hoạch sản xuất cụ thể, Công ty cần tổ chức các yếu tố đầu vào cho thích hợp. Công ty cần có biện pháp quản lý, giám sát thời gian lao động của từng bộ phận công nhân, có các biện pháp thưởng phạt để khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động và tiết kiệm nguyên liệu. Dựa vào kế hoạch và nhu cầu từng thời điểm mà cân đối số lượng công nhân giữa các bộ phận sản xuất sao cho đảm bảo sản xuất và tiết kiệm lao động. * Kỷ luật lao động: Việc áp dụng chế độ trả lương khoán sản phẩm đòi hỏi kỷ luật lao động phải được thực hiện nghiêm chỉnh đối với từng công nhân trong các tổ, đội. Do vậy, phải tăng cường hơn kỷ luật lao động, biến nó thành sự tự giác chấp hành của người lao động. Trong quá trình lao động sản xuất cần xem xét đánh giá lại ý thức trách nhiệm, thái độ làm việc của từng công nhân, cần tiến hành thưởng phạt bằng kinh tế những công nhân không chấp hành tốt kỷ luật lao động, để công tác trả lương thể hiện đầy đủ hơn nguyên tác phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường: Trong kinh doanh muốn có được chiến lược cạnh tranh hợp lý thì đòi hỏi phải nghiên cứu nhu cầu thị trường, điều đó có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định đúng đắn phương pháp phát triển kinh doanh, mở rộng thị trường, đa dạng hoá sản phẩm…thông qua việc nghiên cứu thị trường, Công ty có thể nâng cao khả năng thích ứng với thị trường và tìm được bạn hàng mới. Ngoài duy trì củng cố mối quan hệ tốt với bạn hàng quen thuộc của mình, Công ty cần phải thiết lập mối quan hệ mới qua việc giới thiệu năng lực uy tín của Công ty. Để mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, Công ty cần đầu tư hơn nữa, cải tiến dây chuyền công nghệ, máy móc hiện đại, tạo ra những sản phẩm công nghệ cao để mở rộng uy tín của Công ty, từ đó phát triển sản xuất kinh doanh. Để tiết kiệm tối đa chi phí nguyên vật liệu, Công ty cần nghiên cứu xem xét đến giá cả để mua nguyên liệu với giá rẻ hơn là điều kiện quan trọng góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. Chính vì vậy, việc khai thác các nguồn vật tư mới góp phần đảm bảo kịp thời tiến độ sản xuất và tăng lợi nhuận của Công ty là một việc làm thiết thực mà Công ty cần phải thực hiện. Bên cạnh các biện pháp kích thích về vật chất thông qua tiền lương, tiêng thưởng…Công ty còn tổ chức cho CBCNV đi tham quan, nghỉ mát hàng năm. Mặt khác, Công ty nên tổ chức các cuộc thi thể thao toàn Công ty và tổ chức các đội thể thao của mình tham gia các giải do Tổng công ty tổ chức, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho CBCNV toàn Công ty. Một số kiến nghị với Nhà nước: Việc qui định mức lương tại các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay vừa mang tính chất thị trường vừa mang tính chất kiểm soát hành chính. Chính sách quản chế ngân sách cứng áp dụng đối với nhiều doanh nghiệp Nhà nước, do kết quả của việc xoá bỏ bao cấp đã buộc nhiều doanh nghiệp phải giảm biên chế và ngừng tăng lương. Việc mỗi doanh nghiệp có định mức lương riêng cần nhận thấy rằng giữa mức lương và khả năng thu lợi nhuận có mối liên hệ với nhau. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường được bảo hộ đã thu được nhiều lợi nhuận hơn. Vì vậy đã sử dụng nguồn lợi nhuận đó để trả công cho lao động với mức cao hơn so với hiệu quả có được. Đúng là sự phân phối lợi nhuận dưới hình thức này sẽ có lợi cho người lao động, nhưng đứng về mặt xã hội để xét thì các nguồn vốn này có thể tăng được nếu được sử dụng để đầu tư và tăng cường các cơ hội lao động. Giải pháp tốt nhất nhằm cải cách tiền lương ở các doanh nghiệp Nhà nước là tự do hoá thị trường sản phẩm của doanh nghiệp đó. Do áp lực cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp sẽ phải cố gắng sử dụng đầu vào một cách hữu hiệu, họ sẽ phải tính toán để sử dụng lao động sao cho vừa đủ và trả lương theo mức thị trường qui định. Cần đổi mới và hoàn thiện chế độ hưu trí hiện nay, cụ thể là cần thiết phải ban hành chính sách BHXH thực hiện theo loại hình tự nguyện tuổi già để làm tiền đề cho việc mở rộng đối tượng và hình thức tham gia, đáp ứng tối đa nhu cầu bảo hiểm cho mọi lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Để tránh trường hợp như hiện nay đối tượng lao động ở nông thôn khi về già hết tuổi lao động thì không có nguồn thu nhập khác. Bên cạnh đó, việc xác định mức đóng BHXH thích hợp là vấn đề mấu chốt liên quan đến hạch toán chi phí kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp. Trong thời gian tới cần tăng dần mức BHXH để nâng cao mức cải thiện về thu nhập cho những người nghỉ hưu và an toàn hơn về mặt xã hội. Việc xác định tuổi nghỉ hưu ảnh hưởng lớn đến việc chi trả của quỹ BHXH, phải xét đến cung cầu lao động từng ngành để áp dụng tuổi đời nghỉ hưu chứ không nên áp dụng thống nhất chung một độ tuổi. Kết luận. Chuyển sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh, đầu những năm 90 nhiều DNNN do không tự mình vươn lên được trong cơ chế mới đã phải giải thể. Nhưng bằng sự đoàn kết, nhất trí cùng với sự nỗ lực của toàn thể ban lãnh đạo và CBCNV toàn Công ty, Công ty Lắp máy và Thí nghiêmh cơ điện đã hoàn thành tốt chức năng sản xuất kinh doanh của mình. Đặc biệt, Công ty đã áp dụng được những hình thức trả lương cho CBCNV hợp lý. Kết quả là không những tồn tại mà còn đứng vững trong cơ chế mới, luôn tạo được việc làm cho người lao động. Đưa doanh thu hàng năm của Công ty ngày càng lên cao, nộp ngân sách Nhà nước năm sao cao hơn năm trước, cũng như tiền lương của CBCNV ngày càng được nâng lên, đời sống của CBCNV ngày càng được cải thiện theo chiều hướng đi lên. Phân tích công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty, ta thấy được một số ưu điểm như: doanh thu hàng năm của Công ty không ngừng tăng lên, đi đôi với nó là thu nhập bình quân của CBCNV cũng được nâng lên so với trước và so với nhiều Công ty khác, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, Công ty cũng cần có những biện pháp để khắc phục và bổ sung một số nhược điểm còn tồn tại để hoàn thiện hơn nữa công tác trả lương cũng như công tác quản lý tiền lương ở Công ty. Với sự cố gắng học hỏi, nghiên cứu và cụ thể hoá các kiến thức đã được học ở nhà trường, nhằm góp phần vào việc hoàn thiện công tác tiền lương của Công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến để giải quyết phần nào những lĩnh vực mà Công ty còn thiếu sót. Các giải pháp này mới là những suy nghĩ bước đầu cần phải được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn. Sau một thời gian thức tập tại Công ty, em đã tiếp thu được nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu và đã cố gắng đưa những hiểu biết thực tiễn đó vào nội dung bài viết. Em xin chân thành cám ơn các cô, chú trong Công ty, đặc biệt là Phòng Kế toán Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện và cô giáo Nguyễn Mai Lan đã hướng dẫn em hoàn thành bài viết này. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện. Nguyễn văn Công_Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính_NXB Tài chính 2000. Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý lao động tiền lương trong nền KTTT_NXB Chính trị quốc gia_1997. Nghị định 28/CP – 28/3/1998. Tài liệu tập huấn BLĐTBXH thang 4/2000. Tạp chí lao động và xã hội số 2,6,9/97; 6,8/92; 2,11/99. Tạp chí kinh tế phát triển. Phạm Đức Thành_Giáo trình quản trị nhân lực_NXB Thống kê - Hà Nội năm 1998. Tạp chí Thị trường lao động số 6/99; 5/200. Tìm hiểu chế độ lương mới_NXB Chính trị quốc gia_1997. Thông tư 13/LĐTBXH. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28177.doc
Tài liệu liên quan