Hiện trạng ô nhiễm nước & Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội (Dự án cải tạo Sông Tô Lịch)

Đặt vấn đề Môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường nói riêng hiện đang là vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Việc khắc phục suy thoái môi trường, cải tạo môi trường đang ô nhiễm thường đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thường được đầu tư bởi Ngân sách Nhà nước hoặc nguồn vốn vay nước ngoài. Việc cải thiện môi trường một khu vực ô nhiễm được xem xét theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, những chủ thể gây ô nhiễm khu vực phải có trách nhiệm chi phí cho thiệt hại môi trườn

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng ô nhiễm nước & Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội (Dự án cải tạo Sông Tô Lịch), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g do họ gây ra. Hiện nay đã có rất nhiều các nhà máy thường xuyên phải đóng phí về nước thải, rác thải... Tuy nhiên người ta thường không xét tới khía cạnh khi khu vực ô nhiễm được cải tạo sẽ có khá nhiều người được hưởng lợi và họ sẵn sàng trả một khoản tiền nhất định để đóng góp cho việc cải tạo. Vì vậy việc tính tới thu mức phí đóng góp cải thiện môi trường của những người được hưởng lợi trực tiếp từ việc cải thiện môi trường là cần thiết, giúp giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước. Trường hợp đề tài nghiên cứu tập trung vào việc cải thiện môi trường sông Tô Lịch (nằm trong Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội). Sông Tô Lịch ô nhiễm chủ yếu do 3 nguồn: nước thải sinh hoạt của dân cư, nước thải bệnh viện và nước thải của các nhà máy. Như vậy, theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, dân cư, nhà máy và bệnh viện là ba chủ thể có trách nhiệm phải chi phí cho thiệt hại môi trường do họ gây ra. Nhưng nếu nhìn công việc cải tạo sông Tô Lịch theo nguyên tắc “người được hưởng lợi phải trả tiền”, thì việc chỉ thu qua phí nước thải là chưa đầy đủ. Khi sông được cải tạo, thành phố Hà Nội sẽ thoát khỏi tình trạng ngập úng hàng năm đặc biệt những người được hưởng lợi trực tiếp nhiều nhất là bộ phận dân cư sống hai bên bờ sông Tô Lịch bởi cải tạo sông cũng có nghĩa là môi trường sống của họ được cải thiện. Nếu Nhà nước cải thiện môi trường sông Tô Lịch chỉ bằng nguồn vốn cải tạo đầu tư từ chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả trong quá trình quản lí và sử dụng do sự xuất hiện của một số “người ăn theo”, chủ yếu là bộ phận dân cư ở hai bên sông. Vì vậy, sự kết hợp giữa vốn của Nhà nước, nguồn thu từ phí nước thải cùng với nguồn vốn huy động từ dân cư hai bên sông để cải tạo sông Tô Lịch là phương án có tính khả thi và bền vững. Chính từ những lý do trên đã thôi thúc chúng em thực hiện đề tài: “Xây dựng mô hình xác định mức phí đóng góp của cộng đồng dân cư trực tiếp hưởng lợi từ việc cải thiệnmôi trường sông Tô Lịch giúp giảm bớt gánh nặng chi tiêu Ngân sách Nhà (Trường hợp nghiên cứu mẫu: Dự án cải tạo sông Tô Lịch). Mục tiêu nghiên cứu Phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên CVM là phương pháp sử dụng đường cầu để đo lường phúc lợi xã hội. Mục tiêu chính của đề tài là muốn vận dụng những lý thuyết đã được học vào thực tế nhằm tăng khả năng nắm bắt một phương pháp hiệu quả, đưa ra một mô hình tính phúc lợi xã hội dựa vào Mức giá sẵn lòng trả (WTP) của người dân. Từ mô hình này xác định được mức phí huy động trong bộ phận dân cư hai bên sông Tô Lịch theo phương thức thu từng hộ gia đình trong từng quý (3 tháng). Phạm vi nghiên cứu Phạm vi sử dụng phương pháp: Sử dụng phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên để xác định mức phí từ dân theo nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”. Địa bàn nghiên cứu: Sự ô nhiễm của sông Tô Lịch có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sản xuất của toàn thành phố Hà Nội, đặc biệt là các khu dân cư sống sát hai bên bờ sông. Đề tài nghiên cứu chỉ đề cập đến việc thu phí của những khu dân cư này để cải tạo môi trường sông Tô Lịch mang lại lợi ích thiết thực cho họ bởi những hộ gia đình sống sát hai bên sông là những người chịu tác động trực tiếp của ô nhiễm môi trường đồng thời họ cũng là những người đầu tiên được hưởng lợi khi môi trường hai bên bờ sông được cải tạo. Địa bàn nghiên cứu trên 3 phường: phường Yên Hoà, phường Thượng Đình và phường Hạ Đình. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM): phương pháp này sử dụng cách phỏng vấn và phát phiếu điều tra các gia đình tại địa điểm môi trường cần nghiên cứu nhằm tìm ra Mức giá sẵn lòng trả (WTP) của người dân cho công việc cải tạo môi trường sông Tô Lịch. Kết hợp sử dụng phương pháp CVM với các lý thuyết kinh tế môi trường khác để tìm ra phương pháp phù hợp cho việc đánh giá lợi ích của người dân khi được hưởng hàng hoá, dịch vụ công cộng. Kết cấu đề tài: Đề tài có kết cấu gồm 3 chương Chương I: Cơ sở lý luận xác định phí bảo vệ môi trường. Chương II: Hiện trạng ô nhiễm nước và Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội. Chương III: xác định mức phí từ dân cho việc cải tạo sông Tô Lịch Chương I Cơ sở lý luận xác định phí bảo vệ môi trường 1.1. Khái niệm và các nguyên tắc trong xác định mức phí bảo vệ môi trường 1.1.1.Khái niệm Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội khoá 10 qui định: “Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí”. Danh mục phí thuộc lĩnh vực môi trường được qui định tại Mục A, Khoản 10 pháp lệnh gồm 11 khoản trong đó có các loại phí liên quan tới môi trường đặc biệt là phí bảo vệ môi trường. Phí bảo vệ môi trường được Nghị định số 57/2002/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí qui định thành 6 loại như sau: - Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. - Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các loại nhiên liệu đốt khác. - Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. - Phí bảo vệ môi trường về tiếng ồn. - Phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ môi trường đối với khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoáng sản khác. Như vậy phí nói chung, phí bảo vệ môi trường nói riêng được hiểu là một khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi được hưởng một dịch vụ nào đó (chẳng hạn dịch vụ về môi trường). Để đảm bảo chất lượng môi trường sống cho các đối tượng xã hội, Nhà nước phải đầu tư một khoản tài chính lớn cho công tác bảo vệ môi trường. Do vậy, trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân là phải trả một phần chi phí nêu trên cho Nhà nước. Hiện nay, ở Việt Nam đang thực hiện các loại phí như: phí vệ sinh thành phố, phí về cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu trên đồng ruộng và đặc biệt đã có qui định cụ thể về mức và phương thức đóng góp Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Đây hầu hết là các loại phí dựa trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, ở Việt Nam hiện nay còn chưa quan tâm tới việc thiết lập các loại phí dựa trên cơ sở nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”. 1.1.2. Các nguyên tắc trong xác định mức phí bảo vệ môi trường. a. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP) Nguyên tắc này bắt nguồn từ các sáng kiến do tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974 . PPP “Tiêu chuẩn” năm 1972 có quan điểm những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP “Mở rộng” năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thì ngoài việc tuân theo các chỉ tiêu đối với viềc gây ô nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô mhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho môi trường ở trong trạng thái chấp nhận được. b. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền (BPP) Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra một khoản thu cho Nhà nước, mức phí tính theo đầu người càng cao và càng nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được theo nguyên tắc BPP có thể do các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những cá nhân không phải trả cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải thiện họ là những người được hưởng lợi cần phải đóng góp. Tuy nhiên, số tiền này không trực tiếp do người hưởng lợi tự giác trả mà phải có một chính sách do Nhà nước ban hành qua thuế hoặc phí buộc những người hưởng lợi phải đóng góp nên nguyên tắc BPP chỉ tạo ra sự khuyến khích đối với việc bảo vệ môi trường một cách gián tiếp. c. Nguyên tắc "Đôi bên cùng có lợi" Đối với các dự án đầu tư cho bảo vệ môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao và có tính bền vững thì vận dụng nguyên tắc này là thích hợp. Ví dụ như huy động vốn đầu tư cho dự án bảo vệ rừng ngập mặn, không chỉ quốc gia duy trì vốn rừng bảo vệ bờ biển, đa dạng sinh học, góp phần cải thiện khí hậu toàn cầu nóng lên, mà cộng đồng dân cư địa phương cũng được hưởng lợi nguồn hải sản có tính bền vững và những sinh khối khác có từ hệ sinh thái rừng ngập mặn. Như vậy nếu có sự kết hợp nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, vốn từ ngân sách của chính phủ và vốn của cộng đồng dân cư địa phương thì hiệu quả mà dự án mang lại sẽ rất lớn. Đây chính là thể hiện một nguyên lý thường được áp dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường là nguyên lý cả hai cùng thắng ("Win - Win Principle"). 1.2. Lý luận chung về hàng hoá công cộng 1.2.1. Hàng hoá công cộng Hàng hóa công cộng có hai loại: hàng hóa công cộng thuần tuý và hàng hoá công cộng không thuần tuý. Hàng hóa công cộng thuần tuý có hai đặc tính quan trọng. Hàng hoá công cộng mang tính không loại trừ và có chi phí sản xuất cận biên bằng không. Hàng hoà có đầy đủ hai đặc tính này được gọi là hàng hoá công cộng. Tính không loại trừ của hàng hoá công cộng Tính không loại trừ được thể hiện khi có một loại hàng hóa dịch vụ mà tất cả mọi người có nhu cầu tiêu dùng đều được hưởng loại hàng hoá, dịch vụ đó và khó có thể loại trừ họ ra khỏi việc hưởng lợi ích của dịch vụ đó. Ví dụ đối với chương trình sức khoẻ quốc gia (tiêm chủng chống bại liệt, uốn ván...), không thể loại trừ bất kể ai không được hưởng lợi ích từ chương trình này. Giả định rằng mọi người đều thấy sức khoẻ có giá trị nhưng Chính phủ lại không cung cấp thì liệu tư nhân có cung cấp được không? Để làm việc này thì tư nhân sẽ thực hiện thu tiền cung cấp dịch vụ nhưng vì mỗi người đều cho rằng mình sẽ được hưởng dịch vụ bất cứ có đóng góp gì hay không nên mọi người sẽ không tự nguyện trả tiền cho dịch vụ đó. Chính vì thế, mọi người cần hỗ trợ hàng hoá này thông qua nộp thuế, tuy nhiên hàng hoá công cộng mang tính không thể loại trừ bởi nếu một người không dóng thuế hoặc phí thì anh ta vẫn được hưởng lợi ích từ hàng hoá, dịch vụ công cộng đó. Trong thực tế cũng có một số hàng hoá có thể loại trừ được ai đó nhưng cũng rất tốn kém hoặc khó thực hiện. Ví dụ ở Việt Nam chương trình truyền hình quốc gia hiện nay là hàng hoá công cộng không mang tính loại trừ. Nếu như dịch vụ này mang tính loại trừ có thể như thu tiền cho mỗi kênh truyền hình thì cần thiết phải lắp đặt hệ thống mã hoá các kênh đòi hỏi rất nhiều kinh phí. Đồng thời điều này cũng có nghĩa là sẽ loại trừ những người nghèo, những người không có đủ tiền xem nhiều kênh hoặc một kênh bất kỳ. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới chính trị, các mục tiêu xã hội khác của Việt Nam. Đặc tính chi phí sản xuất cận biên bằng không của hàng hoá công cộng. Đặc điểm thứ hai của hàng hoá công cộng là không muốn loại trừ một ai: tiêu dùng của một cá nhân không làm giảm lượng tiêu dùng của một người khác, chi phí cận biên của việc cung cấp hàng hoá cho thêm một người là bằng không. Với chương trình truyền hình quốc gia của Việt Nam việc có thêm một ti vi bắt sóng cơ bản không làm thay đổi chi phí truyền hình. Điều này hoàn toàn khác với hàng hoá tư nhân. Khi ai đó đang sử dụng một hàng hoá tư nhân hay một dịch vụ do tư nhân cung cấp thì điều đó có nghĩa là người đó đã loại trừ người khác sử dụng dịch vụ hay hàng hoá đó. c. Hàng hoá công cộng không thuần tuý. Nhiều hàng hoá chỉ có một trong hai đặc điểm trên ở những mức độ khác nhau, có thể loại trừ nhưng không muốn loại trừ, hoặc có thể loại trừ nhưng rất tốn kém. d. Vấn đề “người ăn theo” trong hàng hoá công cộng “Người ăn theo” là người tìm cách hưởng thụ lợi ích của một hàng hoá công cộng mà không đóng góp chi phí để trang trải số hàng hoá đuợc cung cấp. Vấn đề “người ăn theo” xuất phát từ những người được khuyến khích phải hưởng thụ những lợi ích do người khác trả tiền còn bản thân họ không trả tiền. “Ăn theo” có thể là một chiến lược của bất kỳ cá nhân nào suy nghĩ rằng không có sự trừng phạt cho việc đó và chỉ có một số ít cá nhân lựa chọn chiến lược này như họ. Nếu mọi cá nhân trong cộng đồng đều lựa chọn chiến lược này thì sẽ không có sự sản xuất hàng hoá công cộng. 1.2.2. Đường cầu về hàng hoá công cộng. Trong thực tế các cá nhân không mua các hàng hoá công cộng, tuy nhiên chúng ta có thể hỏi xem họ có thể cần bao nhiêu nếu như họ phải trả thêm tiền bao nhiêu đó cho mỗi đơn vị hàng hoá công cộng mà họ có thể dùng thêm. Đây không phải là một câu hỏi hoàn toàn mang tính giả định vì khi chi tiêu vào hàng hoá công cộng tăng lên thì thuế cá nhân cũng tăng lên. Chúng ta gọi khoản trả thêm này của cá nhân cho mỗi đơn vị hàng hoá công cộng thêm là giá thuế của anh ta. Bằng cách tăng hoặc giảm giá thuế chúng ta có thể vẽ được đường cầu hàng hoá công cộng. Chúng ta sử dụng cách này để vẽ các đường cầu tư nhân của hàng hoá công cộng. Cộng các đường cầu này theo chiều dọc để có được đường cầu xã hội (đường cầu thị trường). Cộng theo chiều dọc là hợp lý bởi vì hàng hoá công cộng thuần tuý cần cung cấp cho các cá nhân với cùng một lượng như nhau. Chia theo khẩu phần là không thể thực hiện được và cũng là không mong muốn, bởi vì sử dụng hàng hoá công cộng của một cá nhân không làm giảm sự hưởng thụ của bất cứ người nào. Đường cầu có thể coi như “đường sẵn sàng chi trả tiền cận biên” Tức là, tại mỗi mức sản lượng hàng hoá công cộng, đường đó đều cho biết cá nhân sẽ sẵn sàng trả bao nhiêu để có thêm một đơn vị hàng hoá công cộng. Do đó, tổng số theo chiều dọc của các đường cầu là đúng bằng tổng của sự sẵn sàng trả tiền cận biên của cá nhân, tức là tổng lượng mà tất cả các cá nhân sẵn sàng trả để có thêm một đơn vị hàng hoá công cộng. Trong nền kinh tế, chúng ta thường sử dụng chủ yếu hệ thống thuế, phí và hệ thống phúc lợi để phân phối lại các nguồn lực. Phân phối các nguồn lực thông qua các hệ thống thuế và phúc lợi là tốn kém, có nghĩa rằng Chính phủ có thể có những cách thức khác để đạt mục tiêu phân phối lại của mình. Hệ thống thuế, phí có những tác động khuyến khích quan trọng thay đổi cơ cấu chi phí mà Chính phủ phải chi cho hàng hoá công cộng hàng năm. Việc thực hiện thu thuế, phí sẽ giảm bớt gánh nặng chi tiêu Ngân sách Nhà nước khi cung cấp các dịch vụ công cộng xã hội. 1.3. Phương pháp xác định mức phí bảo vệ môi trường 1.3.1. Cơ sở đánh giá chi phí- lợi ích môi trường Trong thực tiễn khi chúng ta đánh giá một hàng hoá môi trường như một khu rừng miền núi, rừng ngập mặn, hồ nước, bãi biển, loài thực vật nào đó có ý nghĩa trước mắt và lâu dài mà việc lượng hoá đầy đủ những giá trị đó là rất khó thậm chí không lượng hoá được, do đó các nhà kinh tế học môi trường phải nhìn nhận đánh giá tài nguyên đó trên góc độ giá trị kinh tế. Tổng giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên bao gồm giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng theo công thức: TEV = UV + NUV Trong đó TEV: tổng giá trị kinh tế UV: giá trị sử dụng NUV: giá trị không sử dụng Giá trị sử dụng (UV) được phân thành giá trị sử dụng trực tiếp (DUV)và giá trị sử dụng gián tiếp (IUV): UV = DUV + IUV Giá trị không sử dụng (NUV) bao gồm giá trị lựa chọn (OV), giá trị để lại (BV) và giá trị tồn tại (EV): NUV = OV + BV + EV Giá trị sử dụng trực tiếp: thực chất liên quan đến giá trị đầu ra của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ môi trường, cụ thể đó là những nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị trên thị trường. Đối với một khu rừng, giá trị sử dụng trực tiếp là gỗ và động vật trong rừng. Giá trị sử dụng gián tiếp: thông thường liên quan đến những chức năng của môi trường trong việc hậu thuẫn các hoạt động kinh tế xã hội và tạo ra ngăn chặn những thiệt hại môi trường, ví dụ như rừng có khả năng chống xói mòn, kiểm soát lũ lụt. Giá trị không sử dụng: chủ yếu bao gồm những giá trị tồn tại và những giá trị tuỳ thuộc. Giá trị không sử dụng rất phức tạp cả về tính toán và nhận thức, nó thể hiện giá trị phi phương tiện nằm trong bản chất của sinh vật nhưng không liên quan đến việc sử dụng thực tế, thậm chí không liên quan đến việc lựa chọn sinh vật này. Thay vào đó, giá trị này được coi như những yếu tố phản ánh sự lựa chọn của con người, nghĩa là những giá trị này nằm trong nhận thức của con người nhiều hơn. Giá trị tồn tại của một khu rừng có thể là tính đa dạng sing học của rừng. Ví dụ như một loài cây ở hiện tại chưa có giá trị nhưng trong tương lai khi khoa học phát triển thì loài cây đó nếu được phát hiện như một loại thuốc hoặc có giá trị khác, đó chính là một giá trị tồn tại của khu rừng. Trong lý thuyết kinh tế môi trường có 2 loại phương pháp chính để đánh giá những giá trị kinh tế của một loại hàng hoá và lượng hoá giá trị đó thành tiền. Đó là phương pháp sử dụng đường cầu và phương pháp không sử dụng đường cầu. Trong đó phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên là phương pháp có sử dụng đường cầu. 1.3.2. Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) là phương pháp đánh giá trị kinh tế của một tài sản môi trường thông qua việc điều tra, phỏng vấn ngẫu nhiên các đối tượng liên quan môi trường đó. Phương pháp CVM bỏ qua nhu cầu tham khảo giá trị thị trường của sản phẩm môi trường. Mặc dù có rất nhiều biến tố của kỹ thuật này, phương cách thường được áp dụng nhất là phỏng vấn các gia đình hoặc tại nhà họ và hỏi cái giá sẵn lòng trả (WTP) của họ cho việc bảo vệ môi trường. Sau đó các nhà phân tích có thể tính toán giá trị WTP trung bình của những người trả lời phỏng vấn. Tổng giá trị của tài sản môi trường ước tính bằng cách nhân giá trị WTP trung bình của những người trả lời phỏng vấn với tổng số người thụ hưởng địa điểm hay tài sản môi trường đang xem xét. Một ưu điểm của phương pháp CVM là trên lý thuyết nó được sử dụng để đánh giá các nguồn tài nguyên mà sự tồn tại tiếp tục của nó được người đánh giá cao, nhưng bản thân họ không bao giờ sử dụng đến nguồn tài nguyên đó cả. Phương pháp CVM có một số nhược điểm tiềm ẩn sau: * Nói ít đi WTP Giả thiết chủ yếu của kỹ thuật CVM là tổng số WTP được những người trả lời phát biểu phải tương ứng với sự đánh giá của họ về tài sản đang xem xét. Các nhà phê bình nghi ngờ tính hiệu lực của một giả thiết như vậy, cho rằng bản chất giả thiết của phương án CVM làm cho câu trả lời của các cá nhân không đúng với giá trị thực. Trong một loạt thí nghiệm, người ta thấy rằng số tiền người dân nói là họ sẵn lòng trả chỉ khoảng 70% – 90% số tiền mà cuối cùng họ thực sự đã trả. Tuy nhiên, do phần nói bớt di nầy tương đối nhỏ nên đây có thể không phải là vấn đề quá nghiêm trọng. * Có sự chênh lệch khá lớn giữa giá trị WTP và WTA Trên lý thuyết câu hỏi về việc trả tiền có thể được đặt ra như thường lệ “Bạn sẵn lòng trả bao nhiêu (WTP) để có được tài sản môi trường tốt hơn” hoặc dưới dạng ít gặp hơn “Bạn sẵn lòng nhận bao nhiêu (WTA) để bồi thường cho việc tài sản môi trường này?”. Khi đem so sánh hai câu hỏi trên, các nhà phân tích để ý rằng WTA cao hơn WTP rất nhiều, một kết quả mà các nhà phê bình cho là mất hiệu quả của phương pháp CVM và cho thấy rằng khi trả lời các câu hỏi như thế các cá nhân muốn nói lên điều mà họ muốn nó xảy ra hơn là những đánh giá. * Thiên lệch một phần-toàn phần Các nhà phê bình phương pháp CVM đã lưu ý rằng nếu người ta lần đầu tiên được hỏi WTP của họ cho một phần tài sản môi trường (như một con sông trong hệ thống các con sông) và sau đó được hỏi đánh giá cho toàn bộ tài sản (nghĩa là toàn bộ hệ thống các con sông) thì số tiền được phát biểu là như nhau vì trong cách phân bố thông thường việc chi tiêu của họ: đầu tiên chia thu nhập khả dụng của họ thành nhiều khoản ngân sách (nhà ở, thực phẩm, xe hơi, giải trí) sau đó chia tiếp vào các khoản mục thực sự phải mua. Vì thế, đối với giải trí bước đầu xác định tổng ngân sách mà mỗi cá nhân dành cho giải trí và sau đó chia tiếp thành số tiền họ sẵn lòng chi tiêu cho mỗi nơi họ muốn viếng thăm. Một phương pháp giải quyết vấn đề này là lần đầu tiên hỏi họ để biết tổng ngân sách dành cho giải trí và kế đó là WTP của họ đối với tài sản môi trường đang xem xét, nhắc nhở họ về ngân sách giải trí có hạn của họ và cho rằng số tiền mà họ dành cho tài sản này không thể chi tiêu cho việc khác. Một phương pháp thứ hai là giới hạn việc sử dụng CVM trong việc đánh giá một nhóm lớn của hàng hoá môi trường, việc giới hạn này nếu cần, sẽ làm hạn chế đáng kể việc áp dụng CVM ở quy mô rộng lớn và chính nó có thể tạo ra những trở ngại nhiều hơn đối với khă năng của người trả lời để hiểu nhóm lớn hàng hoá như vậy * Thiên lệch theo phương tiện Khi hỏi một câu về WTP các nhà phân tích phải xác định việc đóng góp theo con đường nào (phương tiện đóng góp thông qua hình thức bắt buộc như thuế, phí hay hình thức tự nguyện qua các hoạt động từ thiện…). Những người được hỏi có thể thay đổi WTP của họ tuỳ theo phương tiện đóng góp họ chọn. Mặc dù người dân thường không thích đóng thuế, nhưng họ lại cảm thấy rằng cách này đảm bảo hơn cho việc bảo vệ môi trường so với khả năng sử dụng các quỹ từ thiện. * Thiên lệch điểm khởi đầu Nếu nghiên cứu ban đầu đã thử gợi ý cho những người trả lời bằng cách đề nghị một số tiền khởi đầu sau đó tăng lên hay giảm đi số tiền này dựa theo người trả lời đồng ý hay từ chối số tiền đó. Tuy nhiên, người ta thấy rằng sự lựa chọn mức tiền ban đầu ảnh hưởng đến số tiền WTP sau cùng của người trả lời. b. Cơ sở xác định mức phí theo Tổng lợi ích tính từ WTP. Cơ sở xác định mức phí hàng năm để cải thiện chất lượng nước sông là Mức giá sẵn lòng trả (WTP) các hộ dân có liên quan. Mục đích xác định tổng lợi ích tính từ WTP là lợi ích của xã hội được hưởng khi cải thiện môi trường. Tổng lợi ích người tiêu thụ có được là WTP gộp bao gồm phần thật sự chi trả và phần thặng dư của người tiêu thụ. P B A C 0 D Q Hình 1: Đường cầu của một sản phẩm (một mặt hàng thị trường hoặc phi thị trường). Trong đó P: giá sản phẩm, Q: lượng cầu Giả sử giá đang ở mức OA, lượng cầu sẽ là OD. Chúng ta có thể coi đường cầu là “đường mức sẵn lòng trả”: nó cho thấy mức sẵn lòng trả cho một sản phẩm thêm vào và đó là đường mức sẵn lòng trả biên. Số tiền mà các cá nhân chi trả thật sự ở ngoài thị trường( hoặc số tiền mà họ sẽ trả nếu có thị trường ) cho bởi tổng chi OACD. Nhưng có WTP giá cao hơn cho các đơn vị đầu tiên, như WTP là OB cho đơn vị đầu tiên, và giảm xuống DC ứng với đơn vị cuối cùng. Do đó WTP cao hơn phần chi trả thật sự. Nếu chúng ta cộng dôi ra của WTP ở phia trên OA ( giá thực sự trả ) của mỗi đơn vị sản phẩm chúng ta sẽ có hình tam giác ABC. Phần này được gọi là phần thặng dư của người tiêu thụ: đó là lợi ích họ có được trên số tiền mà họ thực sự trả. WTP gộp là OACD + ABC = OBCD và phần này và phần này được tạo nên bởi phần thật sự chi trả và phần thặng dư của người tiêu thụ. Nói cách khác, chúng ta gọi OBCD là WTP gộp và ABC là WTP ròng. Như vậy dựa trên WTP của các hộ gia đình sẽ xây dựng được đường cầu và từ đó tính được tổng lợi ích của các hộ gia đình có liên quan, từ đó có thể đưa ra mức phí cần thiết. WTP là 1 số liệu quan trọng khi sử dụng phương pháp CVM để đành giá hàng hoá môi trường và được thu thập qua quá trình phỏng vấn phát phiếu điều tra. 1.3.3. Kinh nghiệm áp dụng phương pháp CVM a.Nội dung Sông Monongahela là con sông chính chảy qua Pennyslvania, Hoa Kỳ. Các nhà phân tích đã hỏi một số hộ tiêu biểu ở khu vực này là họ sẵn sàng trả thêm bao nhiêu thuế để duy trì hoặc nâng cao chất lượng nước sông. Các nhà phân tích đã thực hiện nhiều biến thể cho khảo sát CVM. Trong một biến thể các hộ được đưa ba tình huống chất lượng nước sông và được hỏi đơn giản là họ sẵn lòng trả bao nhiêu cho mỗi trường hợp. * Tình huống 1: Giữ nguyên chất lượng nước sông (đủ thích hợp cho việc bơi thuyền hơn là để cho nó giảm tới mức không thích hợp cho bơi thuyền) * Tình huống 2: Nâng cao chất lượng nước sông từ mức có thể bơi thuyền đến mức có thể câu cá được. * Tình huống 3: Nâng cao chất lượng nước sông hơn nữa từ mức có thể bơi thuyền đến mức có thể tắm được. Trong số những hộ được khảo sát vài hộ đã sử dụng con sông để giải trí trong khi những hộ khác thì không. Vì thế các nhà phân tích xét xem người sử dụng sẵn sàng trả bao nhiêu so với người không sử dụng. Kết quả cho toàn bộ số hộ được phỏng vấn cũng được tính toán. Bảng trên trình bày số tiền sẵn lòng trả của người sử dụng, người không sử dụng, và toàn bộ mẫu cho mỗi tình huống thay đổi chất lượng nước sông. Bảng 1: Giá sẵn lòng trả (WTP) cho các tình huống chất lượng nước sông Chất lượng nước WTP trung bình toàn thể mẫu WTP trung bình của nhóm sử dụng WTP trung bình của nhóm không sử dụng Giữ nguyên chất lượng có thể bơi thuyền 24,5 45,3 14,2 Nâng chất lượng từ có thể bơi thuyền đến có thể câu cá 17,6 31,3 10,8 Nâng chất lượng từ câu cá đến bơi được 12,4 20,2 8,5 Nhiều kết luận thú vị rút được từ những kết quả này, xem xét các kết quả toàn mẫu, chúng ta có thể thấy rằng số tiền sẵn lòng trả đã vẽ một đường cầu thông thường cho chất lượng nước sông, nghĩa là người ta sẵn lòng trả số tiền tương đối cao cho mức chất lượng cơ bản ban đầu. Tuy nhiên, tiếp đến họ sẵn sàng trả thêm ít hơn cho các mức chất lượng cao hơn của nước sông. Hình 2 cho biết kết quả của khảo sát tổng thể, trung bình một hộ. Quay lại các kết quả với nhóm sử dụng và các nhóm không sử dụng, chúng ta có thể thấy rằng cả hai đều có dạng đường cầu cong xuống như thường lệ. Hơn nữa, ở mọi mức chất lượng thì WTP của nhóm sử dụng đều vượt hơn nhóm không sử dụng. Cuối cùng, chú ý rằng WTP của nhóm không sử dụng không bằng 0, điều này là do các hộ này dù không phải bản thân họ muốn tham quan giả trí ở con sông, họ cũng sẵn lòng trả giá cho nó tiếp tục tồn tại và thậm chí được nâng cấp để cho những người khác có thể hưởng lợi ích của nó. Giá trị “tồn tại” mà không sử dụng này xuất phát từ “ý thích công cộng mang tính vị tha”của con người, nó cho thấy rằng sự quan tâm tập trung đến “ý thích cá nhân” của con người, như đã được chứng minh bởi giá thị trường đối với các hàng hoá trên thị trường không phải luôn luôn thể hiện được hoàn toàn các giá trị mà người ta có đối với sự việc. Giá (WTP) 24.5 17.6 12.4 1 2 3 Chất lượng nước Hình 2: Đường cầu cho chất lượng nước b. Nhận xét Từ kinh nghiệm thực hiện tại Mỹ có thể rút ra một số nhận xét và cũng là bài học có thể áp dụng vào Việt Nam. Các nhà phân tích đã thực hiện phương pháp CVM thu được số liệu WTP sử dụng vào 2 mục đích. Các WTP được tính toán và phân chia thành 3 loại: WTP trung bình toàn thể mẫu, WTP trung bình của nhóm sử dụng và WTP trung bình của nhóm không sử dụng. Từ đó họ có thể phân tích được sở thích, nhu cầu sử dụng dòng sông theo các mục đích khác nhau của nhóm người có nghĩ tới việc sử dụng sông làm phương tiện giải trí. Đồng thời, phân tích được mức độ quan tâm tới dòng sông, quan tâm tới cải thiện môi trường sông của nhóm người không có nhu cầu sử dụng sông. Dựa vào WTP trung bình toàn thể mẫu, các nhà phân tích cho thấy mức độ quan tâm của người dân tới từng chất lượng nước sông thay đổi như thế nào và qua đó dựng được đường cầu chất lượng nước sông. Như vậy có thể sử dụng số liệu WTP theo nhiều mục đích tùy thuộc vào nhà phân tích, việc phân loại WTP cho thấy cần quan tâm tới nhiều yếu tố ảnh hưởng tới WTP (ví dụ như người dân có ý định sử dụng dòng sông vào mục đích giải trí hay không sẽ tác động tới mức WTP hộ trả lời). 1.4. Xử lý kỹ thuật cho tính toán. 1.4.1. Cơ sở toán học xây dựng mô hình xác định phí a. Mô hình đường cầu Mô hình đường cầu được xây dựng như sau: Pi = a + b Qi Trong đó Pi : số tiền mà hộ gia đình sẵn sàng chi trả cho từng tình huống tương ứng với mỗi giai đoạn cải tạo ( WTP ). Qi : số lượng đơn vị hàng hoá công cộng được tiêu thụ (số hộ sẵn sàng chi trả mức Pi tương ứng). a và b : các tham số cần xác định. Để thoả mãn hàm cầu cần giả định tương quan là tuyến tính và P >= 0; a > 0; b < 0. Các tham số xác định theo công thức: b. Phạm vi sai số cho phép eF = t x M M = Trong đó: s là phương sai của mẫu, t =1 với xác suất 0,6835 1.4.2. Giá trị tương lai (FV) của khoản tiền phát sinh đều đặn hàng năm * Hệ số chiết khấu của dự án: được sử dụng trong phân tích kinh tế của dự án. Hệ số chiết khấu càng lớn thì thời gian chiết khấu của dự án sẽ càng nhỏ bởi nó làm giảm giá trị hiện tại ròng của dự án. Chiết khấu là một cơ chế mà nhờ đó ta có thể so sánh chi phí và lợi ích ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian. Trong sử dụng chiết khấu cần đảm bảo hai điều kiện sau: Một số biến số đưa vào tính chiết khấu (chi phí lợi ích) phải được đưa về cùng một đơn vị giá trị. Giá trị một đơn vị chi phí hoặc lợi ích hiện tại lớn hơn một đơn vị lợi ích hoặc chi phí trong tương lai. * Giá trị tương lai (FV) của khoản tiền phát sinh đều đặn hàng năm Giả sử các khoản tiền phát sinh vào đầu n thời đoạn của thời kỳ phân tích là một số không đổi A thì tổng của chúng theo mặt bằng thời gian tương lai (cuối thời kỳ phân tích) theo công thức sau: FV = A1*(1+r)n + A2*(1+r)n-1 + … + An*(1+r)1 = A* (1+r)n – 1 r 1.4.3. Phần mềm xử lý số liệu Các tham số của phương trình đường cầu cũng như các phương trình hồi quy khác được thiết lập bằng việc sử dụng phần mềm SPSS. Phạm vi sai số cho phép được tính trên phần mềm excel. Chương II Hiện trạng ô nhiễm nước và Dự án cải tạo hệ thống thoát nước 2.1. Hiện trạng ô nhiễm nước ở hà nội 2.1.1.Tình trạng ô nhiễm môi trường nước Hà Nội Thành phố Hà Nội nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, cách biển Đông khoảng 100 km. Địa hình thành phố Hà Nội tương đối bằng phẳng, độ dốc tự nhiên nhỏ ( 0,003%) và dốc theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Khu vực phía Bắc và Tây Bắc có độ cao trên 7m. Khu vực trung tâm thành phố có độ cao trung bình từ 6m đến 7m, khu vực phía Nam thành phố là vùng trũng có độ cao từ 4,5m đến 5m và đây là khu vực thường xuyên xảy ra ngập úng khi có mưa lớn kéo dài, vùng cao nhất có cốt là +10m. Do địa hình tương đối bằng phẳng nên gây khó khăn cho việc thoát nước. Hà Nội có 4 sông thoát nước chính là : sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, sông Kim Ngưu với chiều dài là 38,9 km và các mương đất có tổng chiều dài là 38 km, 18 hồ với tổng diện tích là 660 ha, lớn nhất là Hồ Tây có diện tích là 516 ha. Hệ thống thoát nước Hà Nội là hệ thống cống chung với tổng chiều dài đường cống thoát nước là 170km trên tổng số 220 km đường và._. như vậy là có tới hơn 50 km đường không có hệ thống thoát nước. Sông Tô Lịch với chiều dài 14,4km, là 1 trong 4 con sông thoát nước chính ở Hà Nội , là sông chính tiếp nhận nước thải sinh hoạt, công nghiệp, bệnh viện trong địa bàn Thủ đô. Nhưng hiện nay con sông này đang bị ô nhiễm nặng. Sự quá tải rác thải là nguyên nhân chính gây ra ngăn cản dòng chảy, làm lòng sông bị thu hẹp đáng kể, sinh thái dưới nước nghèo đi, số lượng và chất lượng các loài thuỷ sinh vật giảm rõ rệt. Do đó, việc đánh giá thực trạng ô nhiễm sông Tô Lịch do các hoạt động công nghiệp, sinh hoạt gây ra đã trở thành vấn đề cấp bách, đặc biệt khi Hà Nội đang phát triển thành một thủ đô văn minh, hiện đạị. Nguồn nước sông Tô Lịch bị ô nhiễm trầm trọng dẫn đến tình trạng ảnh hưởng tới đời sống của dân cư hai bên bờ. Bảng 3 : Tình trạng ô nhiễm sông Tô Lịch năm 1999- 2000 TT Chỉ tiêu Đơn vị S. Tô Lịch (Cầu Mới) TCVN 5942-1995B 1999 2000 1 DO mg/l 1,78 0,4 >=2 2 BOD5 mg/l 18,5 27 < 25 3 COD mg/l 36,8 89 < 35 4 SS mg/l 47 36,8 80 5 NH4+ mg/l - 27 1 6 Coli-form PC/100ml - 49.105 10000 Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Hà Nội năm 2002-Sở Khoa học công nghệ môi trường Hà Nội Qua hai bảng số liệu về tình trạng ô nhiễm của 4 con sông Kim Ngưu, Tô Lịch, Sét, Lừ và 4 hồ Giảng Võ, Đống Đa, Thanh Nhàn 1, Thanh Nhàn 2 cho thấy mức độ ô nhiễm hệ thống thoát nước ở Hà Nội. Bảng 4: Hiện trạng ô nhiễm các hồ ở Hà Nội Các chỉ tiêu Hồ Giảng Võ Hồ Đống Đa Hồ Thanh Nhàn 1 Hồ Thanh Nhàn 2 Độ pH 7,4 7,9 86 8,3 Độ dẫn điện 432 470 412 456 DO (mg/l) 1,3 2,9 15,3 10,8 NH3-N (mg/l) 13,7 6,5 4,3 5,5 NO3-N (mg/l) 2,1 1,5 1,5 0,9 Độ đục 24 46 60 53 SS (mg/l) 16 38 49 52 Chưa lọc 320 288 Đã lọc 169 119 Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Hà Nội năm 2002-Sở Khoa học công nghệ môi trường Hà Nội Từ bảng 4 ta nhận thấy các hồ bị ô nhiễm từ nhẹ đến nặng do các loại nước thải sinh hoạt, nhà máy, bệnh viện... đổ vào. Tình trạng ô nhiễm của môi trường nước do một số nguyên nhân chính sau * Hệ thống thoát nước bị quá tải do mức độ tăng trưởng nhanh của đô thị, hơn nữa hệ thống này đã quá cũ mà không được cải tạo, bảo dưỡng thường xuyên do điều kiện kinh phí hạn hẹp. * Dòng chảy ở các sông, mương ở một vài nơi bị thu hẹp do sự lấn chiếm trái phép của dân cư xung quanh đó. * Các nguồn nước bị ô nhiễm nặng do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp, bệnh viện đổ trực tiếp vào mà chưa qua xử lý sơ bộ. * Ngoài ra ý thức của người dân chưa cao nên các sông, mương, hồ, ao bị dân sống quanh vùng đổ đầy rác và các loại phế thải. Do hệ thống thoát nước nhiều nơi đã cũ cho nên về mùa mưa các trận ngập lụt thường xuyên xảy ra, ngập lụt thường kèm theo những vấn đề nghiêm trọng không chỉ với tài sản của nhân dân mà còn ảnh hưởng tới sức khoẻ do trong khi ngập lụt có thể có dịch bệnh do nước thải gây nên. Nước mưa có thể mang hàm lượng cao các chất lơ lửng phốt pho, amoniac, cũng như sắt, oxit, các loại muối và các vi khuẩn ngấm vào các giếng và các đường ống bị rò rỉ làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. 2.1.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước sông Tô Lịch Sông Tô Lịch là con sông chính tiếp nhận nước thải của của thành phố Hà Nội, mật độ nước thải đổ ra sông là rất lớn, một số nguồn nước thải chính mà ta có thể thống kê được là: Bệnh viện Lao, Bệnh viên nhi Thụy Điển, Bệnh viện phụ sản, Bệnh viện Giao thông, Nhà máy giầy Thượng Đình, Nhà máy cao su Sao Vàng, Nhà máy Lever Haso, Nhà máy bóng đèn, Nhà máy bia Hà Nội, Nhà máy Trung Kinh, Nhà máy nhựa Đại Kim, Nhà máy Sơn tổng hợp. Ngoài những nhà máy bệnh viện đã thống kê được ở trên thì nguồn nước thải sinh hoạt của dân cư cùng với của những cơ sở sản xuất nhỏ cũng chiếm tỷ lệ rất cao và không kém phần độc hại. Để thấy rõ hơn tình trạng ô nhiễm chọn ra 4 điểm khống chế trên sông là : - Cống Bưởi (thượng lưu): là nơi thu nước của khu vực sân cư Thụy Khuê - Phan Đình Phùng và bên cạnh là Hồ Tây. - Cầu Mới (điểm giữa thượng lưu và hạ lưu): đoạn sông này là nơi thu nước của cửa xả Nghĩa Đô - Trung Kính - Cống Mọc. Do vậy dòng chảy ở đây chủ yếu là nước thải sinh hoạt của dân cư sống trên lưu vực. - Cầu Dậu: đây là hợp lưu của sông Lừ và sông Tô Lịch. Lưu vực sông Lừ là khu nội thành dân cư đông đúc, có nhiều nhà máy, bệnh viện. Cầu Bươu: phía hạ lưu đập Thanh Liệt. Đặc điểm khí hậu miền Bắc là nhiệt đới gió mùa, một năm chia thành hai mùa khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Vào mùa mưa, lượng mưa trung bình tương đối lớn, trong khi đó, mùa khô lượng mưa hạn chế hơn. Do đó, lưu lượng nước sông Tô Lịch cũng thay đổi khá rõ theo mùa. Mùa mưa do lưu lượng nước lớn nên nồng độ các chất ô nhiễm trong nước cũng nhỏ hơn so với mùa khô.Ta đánh giá chất lượng nước sông tại 4 điểm trên theo mùa khô và mùa mưa qua bảng tổng hợp sau : Bảng 5: Chất lượng nước sông Tô Lịch Các chỉ tiêu (mg/l) Cống Bưởi Cầu Mới Cầu Dậu Cầu Bươu Mùa mưa Mùa khô Mùa mưa Mùa khô Mùa mưa Mùa khô Mùa mưa Mùa khô Độ pH 8,5 8,8 7,8 8,1 7,7 8,09 8,14 8,6 BOD5 155 18,88 23,7 33,6 26,8 45,1 21 29,8 COD 31,2 34 44,7 57,6 57,9 87,3 41,5 51 DO 132 2,6 0,67 1,5 0,708 1,2 1,1 1,7 SS 28 37 29 35 38 39 26 66 Pb 0,15 0,15 0,125 0,15 0,22 0,29 0,155 0,21 CN- 0,25 0,27 0,275 0,34 0,3 0,31 0,245 025 Cr+3 0,0185 0,052 0,017 0,02 0,0225 0,023 0,0145 0,017 Cr+6 0,16 0,2 0,13 0,15 0,13 0,16 0,16 0,18 Zn 0,76 1,01 1,14 1,21 1,08 1,25 1,4 1,4 Mn 0,055 0,064 0,137 0,183 0,08 0,14 0,118 0,19 Fe 0,2 0,5 0,39 0,61 0,7 1,5 0,425 0,6 Sn 0,13 0,17 0,155 0,21 0,38 0,7 0,26 0,42 NH3-N 2,33 6,7 12,7 25,4 13,3 25,3 8,9 17,6 Cl- 32,52 66,49 32,87 78,69 30,78 65,88 29,3 63,5 NO3(N) 0,25 0,45 0,42 0,9 1,26 3,5 0,47 1,3 NO2(N) 0,075 0,1 0,08 0,15 0,4 0,4 0,185 0,35 Nguồn: Công ty tư vấn đầu tư xây dựng Hà Nội Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy : * Về mùa khô, nước sông bị ô nhiễm nặng - Hàm lượng BOD, COD trên toàn bộ sông đều vượt quá chỉ tiêu cho phép, BOD đo được khoảng 25 mg/l đến 30mg/l cá biệt có điểm cầu Bươu có lúc lên đến 45 mg/l, COD từ 30 đến 50 mg/l cá biệt có điểm lên tới 80 mg/l ở cầu Dậu. - Sông thường trong tình trạng yếm khí, lượng ô xy hoà tan trung bình trên toàn sông khoảng nhỏ hơn 1 mg/l. - Hàm lượng các chất hữu cơ NO3 đều vượt quá tiêu chuẩn, sông ở tình trạng phì dinh dưỡng. - Hàm lượng các kim loại nặng, độc hại lên rất cao Pb (0,12 – 0,15 mg/l) Cr6+ (0,1 – 0,15 mg/l) hợp chất có chứa Xianua (CN-) từ 0,2 – 0,25 mg/l cá biệt tại cầu Dậu là 0,3 mg//l. - Các kim loại khác như : Fe, Zn, Mn, Sn .đã xuất hiện trong nước sông. - Lượng dầu mỡ trong sông rất cao từ : 3,9 – 5,2 mg/l, tại cầu Dậu lên tới 5,7 mg/l, váng dầu có thể tìm thấy dọc sông. - Lượng Coliform Fe, Fs lên rất cao, tổng lượng Coliform từ 10.000 – 20.000 MPN/100 ml . - Nước sông có màu xanh đen, mùi hơi đặc biệtvào những ngày nắng nóng, rau bèo hai bên bờ sông ngăn cản dòng chảy. * Về mùa mưa nước sông chảy mạnh hơn, lưu tốc dòng chẩy tăng do ảnh hưởng của nước mưa đã pha loãng nước thải nên chất lượng nước sông Tô Lịch được cải thiện nhiều. Tuy nhiên kết quả phân tích cho thấy dù thậm chí đã được pha loãng hơn nhưng nước sông vẫn ở tình trạng xấp xỉ hoặc cao hơn chút ít so với tiêu chuẩn cho phép và một số chỉ tiêu vẫn cao hơn nhiều như : - Các chất dầu mỡ : 4,5 – 5 mg/l - Hàm lượng COD : 30 – 45 mg/l; hàm lượng BOD: 20 – 25 mg/l - Chất lơ lửng SS : 120 mg/l Để thấy rõ hơn ta đi vào xem xét đánh giá mức độ ô nhiễm cụ thể một nguồn thải và điển hình là khu công nghiệp Thượng Đình, khu này nằm xen kẽ trong khu dân cư đông đúc, khâu xử lý chất thải gần như không có.Căn cứ vào kết quả khảo sát đo lường chất lượng nước sông Tô Lịch khu vực này ta thấy rằng các chỉ tiêu lý, hoá sinh đã thay đổi đột ngột : - Ô xi hoà tan : tỷ lệ này giảm từ 3-5 mg/l ở nước sông trước khu công nghiệp xuống còn 1,5-3 mg/l ở nước sông sau khi xả nước thải công nghiệp. - pH : do tính ổn định và tính đậm đặc của nước sông nên pH môi trường nước sông sau các miệng xả nước thải của khu công nghiệp nằm trong khoảng 7,2 – 7,8. - Độ màu của nước sông : do các dòng xả nước thải nhất là sau miệng xả của nhà máy cao su xà phòng, trong sông hình thành dòng nước màu vàng nâu hoặc trắng đục (thường xảy ra vào lúc 9h đến 10h30 hàng ngày). - BOD5 của nước sông sau miệng xả tăng đột ngột từ 15-20 mg/l trước miệng xả đến 20-25 mg/l sau miệng xả. Trị số COD tương ứng từ 20-45mg/l cũng tăng tới 40-180 mg/l, thậm chí có lúc tăng tới 380 mg/l (tại Kim Giang). - NH3+ trong nước sông ở đoạn trước và sau khi xả nước thải cũng tương ứng ở mức 5-8 mg/l và 17-20 mg/l. - Hàm lượng H2S ở đoạn sông này cũng rất cao 3-15 mg/l. - Hàm lượng muối kim loại nặng ở đoạn sông này khá cao như: hàm lượng kim loại Cu là 0015-0,03 mg/l vượt quá lượng cho phép của nguồn nước mặt 0,005 mg/l, hàm lượng Cr6+ đạt tới 0,002-0,006 mg/l vượt xa mức tiêu chuẩn - Sinh thái dưới nước : do xả nước thải công nhiệp làm cho một số loài, một số cá thể, các thuỷ sinh vật đều nghèo đi - ở một mức độ nhất định khu công nghiệp Thượng Đình cũng góp phần làm ô nhiễm nguồn nước ngầm mạch nông và nguồn nước ngầm mạch sâu. Hai nguồn này là những nguồn nước chính của cư dân trong khu vực. Sự ô nhiễm nguồn nước ngầm ở đây ảnh hưởng tới nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân làm cho sức khoẻ của nhân dân bị đe dọa. Bảng 6: Thành phần tính chất nước thải ở cống xả của khu vực Thượng Đình chảy ra sông Tô Lịch TT Các chỉ tiêu Cao xà lá Đình Vòng Bóng đèn phích nước Nhà máy nước 1 Lưu lượng (m3/ngd) 9000 4700 500 7000 2 Nhiệt độ nước thải (0C) 22 - 27 22 - 26 25 - 30 22 - 27 3 Độ pH 7,4 – 7,6 7,4 – 7,8 6,8 – 7,2 7 – 7,8 4 Cặn lơ lửng (mg/l) 60 – 450 60 – 125 120 – 180 120 – 300 5 ôxy hoà tan (mg/l) 2,2 – 3,3 1,5 – 3,5 4 – 7,5 1,5 - 5 6 Độ ôxy hoá KmnO4 (mg/l) 65 – 750 8 – 1,5 7 – 12 7 COD (mg/l) 800 – 2080 80 – 290 150 – 180 175 – 290 8 BOD5 (mg/l) 30 – 155 15 – 60 50 – 100 15 – 72 9 NH4+ (mg/l) 2 – 6 0,2 3 – 5 0,5 – 5 10 PO43+ (mg/l) 1,7 – 8 0,7 – 10 0,1 – 0,3 0,4 – 0,9 11 NO3- (mg/l) 1 – 7 3,5 – 7,5 0 0,1 – 0,4 12 Cl - (mg/l) 70 – 1800 10 – 45 15 – 36 15 –35 13 Độ dẫn điện (ms/cm) 300 – 900 500 – 550 14 Cr6+ (mg/l) 0,01 0,01 – 0,06 15 Tổng lượng chất tan (mg/l) 200 – 2000 200 – 500 1250 810 16 SO42+ (mg/l) 20 – 200 3 – 9 Nguồn: Công ty tư vấn đầu tư xây dựng Hà Nội Sông bị ô nhiễm cùng với các trận ngập lụt thường kèm theo những vấn đề nghiêm trọng không chỉ với tài sản của nhân dân mà còn ảnh hưởng tới sức khoẻ do trong khi ngập lụt có thể có dịch bệnh do nước thải gây nên. Chỉ tính riêng trong trận lụt 14 ngày năm 1984 ước tính chung đã gây thiệt hại khoảng 81,5 triệu USD, trận lụt 7 ngày năm 1989 thiệt hại khoảng 45,2 triệu USD. Từ thực trạng ô nhiễm trên của sông Tô Lịch nói riêng và toàn thành phố Hà Nội nói chung thì việc triển khai một hệ thống xử lý ô nhiễm và khơi thông dòng chảy đồng bộ và triệt để là yêu cầu rất cấp bách. 2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội khu vực sông Tô Lịch Theo số liệu của Dự án điều tra và xây dựng phương án xử lý ô nhiễm môi trường hệ thống sông Tô Lịch, tình hình kinh tế xã hội khu vực ven sông Tô Lịch bao gồm một số đặc điểm: 2.2.1. Thu nhập của các gia đình còn ở mức thấp Số gia đình có thu nhập từ 1 triệu đồng trở lên đã tăng hơn. Trong tổng số các phiếu điều tra (700 phiếu) cho thấy: 45% số hộ có thu nhập < 300.000 đồng/tháng. 40% số hộ có thu nhập từ 300.000 đồng/tháng đến 700.000 đồng/tháng. 15% số hộ có thu nhập từ 1 triệu đến 3 triệu đồng/tháng. 2.2.2. Cấp thoát nước vệ sinh và môi trường Nguồn cấp nước trong khu vực nghiên cứu gồm các loại như nước cấp do Công ty Kinh doanh nước sạch Hà Nội cấp và nước giếng khoan. 70% số gia đình có máy nước riêng (do Công ty Kinh doanh nước sạch cung cấp). 5% dùng máy nước công cộng. 25% các gia đình dùng nước giếng khoan. Hệ thống vệ sinh của các gia đình hầu hết là hố xí tự hoại (hơn 80%), còn lại gồm 20% số hộ được phỏng vấn dùng xí công cộng hoặc xí hai ngăn, phần này chủ yếu thuộc các xã phía nam hoặc tây nam, các gia đình này dùng phân để phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thu gom rác: tại các nơi tập trung dân cư đông hoặc các nhà cao tầng, rác được tập trung vào các bể chứa sau đó công nhân viên chức của Công ty Môi trường đô thị lấy rác đi vào các buổi chiều. Một số dân cư sóng dọc hai bên bờ sông thường có thói quen vứt rác và các loại phế thải xuống lòng sông gây mất vệ sinh và ô nhiễm môi trường. Hệ thống thoát nước: tại khu vực nghiên cứu hệ thống thoát nước cũng bị ô nhiễm nặng do nước thải sinh hoạt và sản xuất gây ra. Hệ thống thoát nước gồm các cống kín và các ao hồ, kênh mương hở. Các bệnh truyền nhiễm: Việc sống không vệ sinh, vứt rác và các phế thải bừa bãi gây mất vệ sinh gây ra bệnh đường ruột, bệnh về mắt. Theo số liệu điều tra năm 1996, số người điều tra bị mắc bệnh đường ruột là 10%, số bệnh nhân bị đau mắt là 12% và các bệnh khác có liên quan đến môi trường 8%. Tất cả các hộ gia đình được phỏng vấn đều nhận thấy tầm quan trọng của việc cải tạo môi trường sông Tô Lịch. Lý do chính cần để cải thiện là: không bị ảnh hưởng mùi, sâu bọ, ruồi muỗi và có nguồn nước an toàn (do sợ ảnh hưởng của nước mặt ô nhiễm tới tầng nước ngầm). Khoảng 60% số hộ gia đình bị ảnh hưởng của việc ngập úng xảy ra hơn một lần trong một năm và có hơn 40% số hộ gia đình bị úng ngập hơn 5 lần trong một năm. 2.3. Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội Xuất phát từ thực trạng sông Tô Lịch và những ảnh hưởng của nó tới sản xuất, đời sống của dân cư và nhất là đời sống của dân cư hai bên bờ sông, yêu cầu đặt ra là phải có những giải pháp biểu hiện đề ra để khắc phục những ảnh hưởng này. Cải tạo sông Tô Lịch là giải pháp có tính khả thi có thể giải quyết những yêu cầu trên và là phương án cải tạo triệt để, tận gốc những vấn đề bức xúc nhất hiện nay về môi trường không những cho khu vực dân cư xung quanh hai bên bờ sông Tô Lịch mà còn cho cả toàn thành phố Hà Nội. Nhà nước đang thực hiện Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội bằng nguồn vốn vay ODA Nhật Bản. Theo dự kiến của chủ đầu tư là Uỷ Ban nhân dân thành phố Hà Nội, nguồn vốn để hoàn trả là hoàn toàn từ ngân sách Nhà nước bởi đây là loại công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật không có thu để tự trang trải. 2.2.1. Nội dung của phương án cải tạo a. Giai đoạn I: Cải tạo sông mương - Việc này bao gồm các phần việc : đào đắp bờ sông, nạo vét đáy sông tạo độ dốc thủy lực nhằm giải quyết tình trạng lắng đọng bùn ở đáy sông. - Kè bờ, làm đường hai bên bờ sông. Cải tạo xây dựng lại các cống, giải quyết tình trạng co thắt dòng chảy, nâng khả năng tiêu thoát của sông. b. Giai đoạn II: Xây dựng hệ thống xử lý nước thải : - Hệ thống xử lý tại chỗ : xử lý nước thải cho từng cụm nhà ở, nhà máy. - Hệ thống xử lý tập trung : Xử lý nước thải cho cả vùng. Chia khu vực nghiên cứu thành 7 vùng xử lý nước thải, vị trí cụ thể như sau Vùng 1 : Đặt tại Bưởi Vùng 2 : Đặt tại xã Trần Phú Vùng 3 : Đặt tại Láng Hạ Vùng 4 : Đặt tại sân bay Bạch Mai Vùng 5 : Đặt tại xã Trung Hoà Vùng 6 : Đặt tại xã Tân Triều Vùng 7 : Thuộc huyện Thanh Trì Chất lượng nước sau khi xử lý được đề xuất tuỳ thuộc vào mật độ dân số ở khu vực xử lý. * Khu vực có mật độ dân số thấp: Mật độ dân số < 50 người/ha, mức độ xử lý đề xuất là 75%. Chất lượng nước sau khi xử lý: 90 mg/l tính theo BOD với nước thải sinh hoạt, 50 mg/l tính theo BOD với nước thải công nghiệp. * Khu vực có mật độ dân số trung bình: Mật độ dân số từ 50 đến 100 người/ha, mức độ xử lý đề xuất là 80%. Chất lượng nước sau khi xử lý: 60 mg/l tính theo BOD với nước thải sinh hoạt, 50 mg/l tính theo BOD với nước thải công nghiệp. * Khu vực có mật độ dân số cao: Mật độ dân số trên 350 người/ ha, mức độ xử lý đề xuất là 85%. Chất lượng nước sau khi xử lý: 50 mg/l tính theo BOD với nước thải sinh hoạt, 50 mg/l tính theo BOD với nước thải công nghiệp. 2.2.2. Ưu nhược điểm của phương án cải tạo Phương án này tất nhiên là có rất nhiều điểm mạnh như giải quyết triệt để nguồn gây ô nhiễm, tạo nhiều lợi ích về mặt kinh tế và xã hội. Những nhược điểm của nó cũng không phải là không có, nhưng những lợi ích của nó mang lại thực sự rất lớn không chỉ về mặt môi trường mà còn cả về vấn đề quy hoạch đô thị, ổn định dân cư trong chiến lược mở rộng và phát triển thành phố Hà Nội. Nhược điểm lớn nhất hiện nay của phương án này là đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn, công nghệ hiện đại và giải pháp đưa ra là bước đầu sẽ vay vốn nước ngoài để thực hiện và sau đó là dựa vào phí thu được sẽ góp phần trả nợ . 2.2.3. Chi phí đầu tư a. Chi phí đầu tư cho giai đoạn I Chi phí đầu tư theo dự tính cho giai đoạn I của dự án này bao gồm 13 hạng mục công trình cơ bản, với tổng giá trị ước tính là 416.286.000 USD. Các hạng mục công trình trong giai đoạn I phục vụ cho mục đích chuẩn bị mặt bằng, cải tạo bước đầu mặt nước và chuẩn bị để thực hiện giai đoạn II. Đây là giai đoạn quan trọng, có thể kéo dài lâu do công tác giải phóng mặt bằng nhìn chung hiện nay của thành phố gặp rất nhiều khó khăn. Bảng 7: Tổng chi phí xử lý nước sông về mức tiêu chuẩn tương ứng với giai đoạn I của dự án Đơn vị tính: 1000USD STT Danh mục công trình Kinh phí 1 Công việc chuẩn bị mặt bằng 723 2 Công việc xây dựng chính 85.068 3 Cải tạo mương thoát nước 4.548 4 Cải tạo hồ 19.918 5 Cải tạo và xây dựng cống 10.032 6 Cung cấp thiết bị để nạo vét cống và mương thoát nước 9.650 7 Chi phí hành chính 3.401 8 Chi phí thu hồi dền bù đất 15.180 9 Chi phí dịch vụ kỹ thuật 15.388 10 Thuế nhập khẩu 3.979 11 Trượt giá 21.791 12 Dự phòng phí 26.289 Tổng cộng 216.268 b. Chi phí đầu tư cho giai đoạn II Chi phí đầu tư cho giai đoạn II của dự án ước tính vào khoảng 511.608.000 USD, bao gồm tổng chi phí của giai đoạn I và các chi phí để xây dựng các trạm xử lý nước. Bảng 8: Tổng chi phí xử lý nước sông về mức tiêu chuẩn tương ứng với giai đoạn II của dự án Đơn vị tính: 1000USD STT Hạng mục công trình Kinh phí 1 Tổng chi phí giai đoạn I 216.268 2 Chi phí 7 trạm xử lý nước thải 295.340 Tổng cộng 511.608 Như vậy sau khi xem xét thực trạng ô nhiễm sông Tô Lịch và Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội kết hợp với những cơ sở lý luận đã nghiên cứu giải pháp được đưa ra là bước đầu chúng ta sẽ vay vốn nước ngoài để thực hiện và sau đó là dựa vào phí thu được sẽ góp phần hỗ trợ trả nợ dần. Trong phạm vi đề tài chỉ tiến hành xác định mức phí cho những người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc cải thiện môi trường sông Tô Lịch. Chương III Xây dựng mô hình và áp dụng xác định mức phí huy động từ dân cho việc cải thiện môi trường sông Tô lịch 3.1. Phương thức tiến hành nghiên cứu thực Địa và thu thập thông tin Khu vực điều tra được tiến hành trên 3 phường có sông Tô Lịch chảy qua: phường Thượng Đình, Phường Hạ Đình và phường Yên Hoà. Trong quá trình phỏng vấn trực tiếp và phát phiếu điều tra thực tế 130 hộ tiêu biểu, trong đó thu được 127 phiếu hợp lệ. 3.1.1. Quá trình điều tra Quá trình điều tra được thực hiện theo các bước sau: * Xác định đối tượng điều tra Chia các hộ điều tra thành 3 lớp: - Lớp 1 là các hộ ở sát ven bên bờ sông( 59 hộ). - Lớp 2 là các hộ ở cách ven bờ sông 1 lớp nhà (38 hộ). - Lớp 3 là các hộ dân cách bờ sông nhiều hơn 2 lớp nhà (30 hộ). Mẫu điều tra được chia ra thành 3 lớp với mục đích đánh giá được mức độ ảnh hưởng của sự ô nhiễm tới nhiều đối tượng khác nhau nhằm tạo ra mẫu điều tra tổng quát và chính xác hơn. * Nội dung phỏng vấn và điều tra - Trình độ văn hóa của người điền phiếu: Trong thực tế giữa trình độ và mức sẵn lòng chi trả ( WTP) của người trả lời được điều tra có thể có mối liên quan nhất định, khi có sự khác nhau về trình độ văn hoá thì sự hiểu biết của họ về bảo vệ môi trường cũng khác nhau. Từ đây đánh giá của bản thân họ về mức sẵn lòng chi trả cho chất lượng nước sông cũng khác nhau, chính vì vậy thông qua số liệu thu được sẽ thiết lập nên mối quan hệ giữa trình độ văn hoá và WTP. - Mức chi tiêu của hộ gia đình: Câu hỏi mức chi tiêu về thực chất phản ánh mức sống của những người được điều tra, mức sống của họ sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến mức sẵn lòng chi trả, khi mức sống của họ có sự chênh lệch thì nhu cầu về chất lượng môi trường sống của họ cũng khác nhau. Có thể nói đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến khả năng chi trả của họ. - Mức giá sẵn lòng trả: mục đích của nội dung này nhằm tìm hiểu người dân sẵn sàng chi trả bao nhiêu tiền để cải tạo chất lượng nước sông lên 1 trong 3 mức sau: + Tình huống 1: Nâng cao chất lượng nước sông từ mức nước ô nhiễm hiện tại lên mức nước tương ứng với giai đoạn I của dự án. + Tình huống 2: Nâng cao chất lượng nước hơn nữa từ mức hiện tại lên mức nước tương ứng với giai đoạn II của dự án. + Tình huống 3: Nâng cao chất lượng nước hơn nữa từ mức hiện tại lên mức nước có thể giải trí như câu cá, bơi lội (tình huống giả định). Bảng 9. Số hộ sẵn sàng chi trả của 3 tình huống WTP (đ) Số hộ 1 Số hộ 2 Số hộ 3 0 22 12 13 1000 2 0 0 2000 4 5 0 3000 5 4 5 5000 15 11 8 7000 2 3 3 10000 18 18 17 14000 5 11 5 20000 11 6 10 30000 4 9 5 40000 0 6 6 50000 3 5 12 70000 0 0 3 100000 3 4 3 200000 3 3 2 350000 0 0 1 Tổng 97 97 97 3.1.2. Mối quan hệ giữa WTP với các tình huống Số liệu được tiến hành xử lý bằng phần mềm SPSS kết hợp với kiến thức kinh tế môi trường, thu được đường cầu của xã hội về Mức giá sẵn lòng trả để cải tạo môi trường sông Tô Lịch, từ đây tính được tổng lợi ích thu được từ người dân và đưa ra mức phí thường kỳ tạo thêm nguồn thu cho hoạt động cải tạo và bảo vệ môi trường. Phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên CVM, phương pháp này bỏ qua nhu cầu tham khảo giá thị trường bằng cách hỏi thẳng từng cá nhân một cách rõ ràng để đánh giá tài sản môi trường. Vì vậy trong thực tế chỉ tiến hành lập mẫu điều tra và phỏng vấn nhân dân sống sát hai bên bờ sông Tô Lịch, tuy nhiên do thời gian có hạn nên điều tra chọn mẫu tại 3 phường Thượng Đình, Hạ Đình, Yên Hòa với số hộ mẫu là 130 hộ trong đó có 127 phiếu hợp lệ. Bảng 10: Mức giá sẵn lòng trả trung bình mẫu. Tình huống 1 Tình huống 2 Tình huống 3 WTP trung bình mẫu(đồng) 18110 22024 32739 Tuy nhiên sau khi xử lý số liệu thu thập được kết quả cho thấy mức WTP do các hộ ở lớp 3 trên hầu hết bằng 0, cho nên khi tiến hành dựng đường cầu xã hội số liệu sử dụng chủ yếu là số liệu của lớp 1 và lớp 2. Vì vậy khi dựng đường cầu xã hội ở phần sau chỉ dựa trên đường cầu lớp 1 và lớp 2. 3.2. Mô hình xác định mức phí Kết hợp giữa phương pháp CVM, lý thuyết hàng hoá công cộng (có tính tới tác động của “người ăn theo” ) xây dựng mô hình xác định mức phí đối với hàng hoá môi trường theo nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”. Đường cầu thể hiện mối tương quan giữa mức giá và lượng cầu về chất lượng nước sông dựa trên 3 giả thiết: - Giả thiết 1: Mức giá P thể hiện Mức giá sẵn lòng chi trả WTP của người dân để có chất lượng nước sông tốt hơn (do việc thụ hưởng chất lượng nước sông không có giá trên thị trường). - Giả thiết 2: Mỗi hộ dân (có số thành viên khác nhau) đều thụ hưởng cùng một lượng chất lượng môi trường như nhau. - Giả thiết 3: Lượng cầu Q thể hiện số hộ dân sẵn lòng trả cho việc cải thiện từ mức ô nhiễm nước ban đầu lên từng mức chất lượng nước (do việc thụ hưởng chất lượng nước sông không quy đổi được thành đơn vị như những hàng hoá thông thường khác nên coi mỗi hộ dân thụ hưởng một lượng chất lượng nước sông như nhau. Vì vậy mỗi hộ dân đại diện cho một đơn vị cầu). Kết hợp giữa phương pháp CVM, lý thuyết hàng hoá công cộng (có tính tới tác động của “người ăn theo” trong mô hình đường cầu xã hội) mô hình xác định mức phí đối với hàng hoá môi trường theo nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền” được xác định như sau: Sử dụng phương pháp hồi qui tuyến tính, ta dựng được 2 hàm cầu. Trong đó: P là mức WTP mà người dân sẵn sàng trả khi môi trường mà họ quan tâm tới được cải thiện. Q là số lượng đơn vị hàng hoá công cộng (số hộ dân trả mức WTP tương ứng). Phương trình đường cầu của các hộ dân thuộc đặc trưng 1(ví dụ các hộ dân ở lớp nhà đầu tiên ven bờ sông, các hộ dân thuộc nhóm có chi tiêu thấp). D1: P1 = a1 - b1Q1 ( tổng số hộ điều tra thuộc đặc trưng 1 là q1) Phương trình đường cầu của các hộ dân thuộc đặc trưng 2 (ví dụ các hộ dân ở lớp nhà thứ hai ven bờ sông, các hộ dân thuộc nhóm có chi tiêu cao). D2: P2 = a2 – b2Q2 ( tổng số hộ điều tra thuộc đặc trưng 2 là q2). Từ 2 đường cầu: D1 và D2, với hàng hoá môi trường sử dụng phương pháp cộng dọc 2 đưòng cầu trên ta có đường cầu xã hội D P = P1+P2= (a1+ a2) - (b1 +b2) Q ( tổng số hộ điều tra là q) P (a1+ a2) a1 D D1 a2 D2 0 b1 b2 Q Hình 3: Đường cầu chất lượng môi trường (theo 1 mức đề ra) Hình 3 cho thấy đường cầu xã hội là một đường gãy khúc bao gồm một phần đường cầu cộng dọc D và một phần đường cầu của nhóm đặc trưng 2: D2. Phần diện tích nằm dưới đường cầu xã hội về mặt lý thuyết sẽ thể hiện phần tổng lợi ích của xã hội. Tuy nhiên trong kinh tế môi trường, việc sử dụng hàng hoá môi trường luôn xuất hiện những người ăn theo( vẫn sử dụng nhưng không chịu trả tiền ). Trong mô hình này có ít số hộ dân nhóm đặc trưng 1 có nhu cầu sử dụng so với số hộ dân nhóm đặc trưng 2 (b1 < b2) đồng thời mức WTP nhóm đặc trưng 1 cao hơn so với mức WTP nhóm đặc trưng 2. Như vậy yêu cầu chất lượng nhóm đặc trưng 1 cao hơn nhóm đặc trưng 2, họ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn để tiêu thụ cùng một chất lượng môi trường với nhóm đặc trưng 2. Nếu theo nhu cầu của nhóm đặc trưng 2 có nhiều hộ tiêu dùng hơn với mức WTP thấp hơn thì nhóm đặc trưng 1 cũng không chấp nhận trả thêm tiền cho số hộ này (các hộ nằm trong khoảng từ b1 đến b2 trên hình 3), khi đó những người ở nhóm đặc trưng 1 chính là “người ăn theo”. Vì vậy phần diện tích không gạch sọc chính là phần có người ăn theo, không chịu trả tiền. Khi tính phí vì xuất hiện những “người ăn theo” nên phần xã hội có thể thu được về là phần thể hiện lợi ích thực của xã hội. Như vậy phần lợi ích tối thiểu của xã hội là phần gạch sọc trên hình vẽ. Tổng lợi ích thực của xã hội khi cải tạo môi trường TBM Như vậy mức phí của mẫu điều tra được xác định bởi Trong đó : TBM : Tổng lợi ích mẫu F: mức phí trung bình của mẫu/tháng ( đơn vị đ ) q1: số hộ thuộc nhóm đặc trưng 1 trong mẫu điều tra q2: số hộ thuộc nhóm đặc trưng 2 trong mẫu điều tra N: Số hộ tổng thể Theo phương pháp thống kê suy rộng điều tra chọn mẫu ta xác định được mức phí của tổng thể theo trình tự sau : Trong đó : F là mức phí trung bình của tổng thể/tháng eF : phạm vi sai số cho phép eF = t x M FMIN Ê F Ê FMAX Như vậy ta có thể tìm được giá trị lợi ích gia tăng mà mỗi hộ trung bình nhận được khi môi trường được cải thiện chính là mức phí F. Tổng giá trị của việc cải thiện hiện nay được ước tính bằng cách nhân giá trị trung bình của mỗi hộ với số hộ tổng thể (N hộ) là TB (đơn vị đ). Trên thực tế mức WTP mà người dân đưa ra bao giờ cũng chỉ vào khoảng 70 - 90% số tiền mà cuối cùng họ thực sự trả. Như vậy mức phí thực tế sẽ nằm trong khoảng FMIN *100/90 Ê P Ê FMAX*100/70 Tổng lợi ích của dự án tối thiểu Nhà nước có thể thu được trong 1 tháng: TB MIN = PMIN x N 3.3. kết quả nghiên cứu thu được từ cuộc điều tra lần 1. Qua quá trình điều tra, kết quả thu được có thể phân loại thành 2 mức WTP của các hộ thuộc 2 lớp nhà dân. Từ đó có thể thực hiện được nhiều kết quả phân tích. 3.3.1. Xác định mức phí cho các tình huống Để tính được tổng giá trị lợi ích của việc cải thiện nước sông lên các mức tình huống 1,2 hoặc 3, đồng thời xác định được mức phí tương đối chính xác, nhất thiết phải xây dựng được đường cầu cho từng chất lượng nước. Đường cầu này thể hiện mối tương quan giữa WTP và số hộ dân sẵn lòng trả cho việc cải thiện từ mức ô nhiễm nước ban đầu lên mức 1, mức 2 hoặc mức 3. a. Đối với tình huống nâng chất lượng nước từ mức ô nhiễm hiện tại lên mức nước tương ứng với giai đoạn I Sử dụng phương pháp hồi qui tuyến tính qua số liệu điều tra, ta dựng được 2 hàm cầu. Trong đó: P là mức WTP mà người dân sẵn sàng trả khi môi trường mà họ quan tâm tới được cải thiện. Q là số hộ dân trả mức WTP tương ứng. Phương trình đường cầu của các hộ dân ở lớp nhà đầu tiên ven bờ sông(lớp 1) D11: P11 = 45489 - 2634Q11 ( tổng số hộ điều tra thuộc lớp 1 là 59 hộ ) Phương trình đường cầu của các hộ dân ở lớp nhà thứ hai ven bờ sông(lớp 2) D12: P12 = 8909 - 388Q12 ( tổng số hộ điều tra thuộc lớp 2 là 38 hộ). Từ 2 đường cầu ở 2 lớp nhà 1và 2: D11 và D12, với hàng hoá môi trường sử dụng phương pháp cộng dọc 2 đưòng cầu trên ta có đường cầu xã hội D1 D1: P1 = P11+P12= 54398 - 3022Q1 ( tổng số hộ điều tra là 97 hộ) P 54398 45489 D1 D11 8909 D12 0 17,26 22,96 Q Hình 4: Đường cầu chất lượng nước sông trong giai đoạn I Hình 4 cho thấy đường cầu xã hội là một đường gãy khúc bao gồm một phần đường cầu cộng dọc D1 và một phần đường cầu của lớp 2: D12. Trong mô hình này có ít số hộ dân ở lớp 1 có nhu cầu sử dụng so với số hộ lớp 2 (17,26 < 22,96) đồng thời mức WTP ở lớp 1 cao hơn so với mức WTP ở lớp 2. Như vậy yêu cầu chất lượng ở lớp 1 cao hơn lớp 2, họ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn để tiêu thụ cùng một chất lượng nước sông với lớp 2. Nếu theo nhu cầu của lớp 2 có nhiều hộ tiêu dùng hơn với mức WTP thấp hơn thì lớp 1 cũng không chấp nhận trả thêm tiền cho số hộ này (các hộ nằm trong khoảng từ 17,26 đến 22,96 trên hình 3), khi đó những người ở lớp 1 chính là “người ăn theo”. Vì vậy phần diện tích không gạch sọc chính là phần có người ăn theo. Khi tính phí vì xuất hiện những “người ăn theo” nên phần xã hội có thể thu được về là phần thể hiện lợi ích thực của xã hội. Như vậy phần lợi ích tối thiểu của xã hội ( của 97 hộ ) là phần gạch sọc trên hình vẽ. Tổng lợi ích thực của xã hội khi cải tạo nước sông lên mức 1 là TBM ( 1000đ ) Như vậy mức phí của mẫu điều tra được xác định bởi Trong đó : TBM : Tổng lợi ích mẫu F: mức phí trung bình của mẫu/tháng ( đơn vị đ )._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0010.doc
Tài liệu liên quan