Hoàn thiện các phương pháp thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân

lời mở đầu. Sau hơn 10 năm chuyển sang kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Chúng ta đã từng bước có được nền kinh tế mở, hợp tác đa phương và phát triển mạnh sản xuất trong nước. Mức sống của người dân không ngừng được nâng cao, tích luỹ trong xã hội ngày càng tăng và tăng trưởng kinh tế cao. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời theo sắc lệnh 15/SL do Hồ Chủ Tịch ký ngày 6/5/1951, và kiêm nhiệm cả chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Thương mại. Cho t

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện các phương pháp thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, ngày 26/3/1988, hệ thống NGTM Việt Nam mới chính thức được thành lập theo nghị định số 53/1988/NĐ-CP, và hình thành một hệ thống các Ngân hàng Thương mại hoạt động trên mọi lĩnh vực. Ngân hàng và các doanh nghiệp chính là hai nhân tố chủ chốt trong nền kinh tế đã đóng góp cho sự thành công đó. Doanh nghiệp với sự tài trợ của ngân hàng đã không ngừng mở rộng sản xuất, cung ứng khối lượng hàng hoá lớn cho thị trường trong nước cũng như quốc tế. Ngân hàng phục vụ doanh nghiệp phát triển cũng không ngừng lớn mạnh. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp phát triển cũng là lúc nhiều Ngân hàng mới ra đời, sự cạnh tranh ngày càng ngay gắt giữa các Ngân hàng nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống NHTM Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt. Hoạt động của các Ngân hàng Thương mại chỉ mang tính chất như một Ngân hàng cổ điển, nghĩa là chỉ dừng lại ở nghiệp vụ đi vay và cho vay là chủ yếu nên chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế thị trường linh hoạt và năng động. Thanh toán trong Ngân hàng là một lĩnh vực không thể thiếu trong sự phát triển lớn mạnh của Ngân hàng. Nó làm cho việc lưu thông tiền tệ được nhanh chóng, bắt kịp với xu thế hiện đại, đưa hệ thống Ngân hàng Thương Mại tiến kịp với các nước trong khu vực và rút ngắn khoảng cách với các Ngân hàng Thương mại trên thế giới. Do đó, việc hoàn thiện và phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng là hết sức cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, sau một quá trình nghiên cứu dài, kết hợp với chương trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, em đã đi đến lựa chọn đề tài “Hoàn thiện các phương pháp thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn này được viết với hy vọng sẽ đóng góp được những nghiên cứu, những ý kiến cá nhân vào công việc của ngành Ngân hàng nói chung và Chi nhánh NHCT Thanh Xuân nói riêng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Luận văn này gồm 3 chương : - Chương I : Lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. - Chương II : Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. - Chương III : Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Qua đây, em xin trân thành cám ơn Thầy giáo, GS - TS Lương Trọng Yêm, các anh, chị trong khoa Tài chính - Kế toán và ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ phòng Kế toán - Tài chính tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập và làm luận văn tốt nghiệp. Chương I Lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. I. Bản chất - Chức năng - Vai trò của Ngân hàng Thương mại . 1.Vài nét về Ngân hàng Thương Mại. Ngân hàng thương mại ra đời cùng với quá trình phát triển của kinh tế hàng hoá. Khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện ở các nước châu Âu thì cũng là lúc thương mại giữa các nước khá phát triển. Đối với bất kỳ quốc gia nào, thương mại quốc tế là một phần quan trọng không thể thiếu trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Trong những thế kỉ trước, vàng là phương tiện thanh toán quốc tế hữu hiệu nhất. Để hạn chế bất tiện do mang vàng qua các quốc gia, những thương gia nước ngoài sau khi thu được tiền đã tìm ra một giải pháp, đó là gửi tiền tại nhà thợ vàng. Những người thợ vàng thông minh nhận thấy mặc dù những người gửi vàng có thể rút vàng ra bất kỳ lúc nào nhưng trong két của họ vẫn luôn có một khoản tiền lớn. Từ đó họ nảy ra ý định cho vay và thu lãi một phần vàng đang được gửi. Hoạt động này mang lại lợi nhuận lớn nên họ đã khuyến khích gửi vàng vào ngân hàng bằng cách trả lãi cho số vàng huy động được. Như vậy, những người thợ vàng đã thực hiện hai nghiệp vụ cơ bản : nhận tiền gửi và cho vay.Đó chính là tiền thân của ngân hàng thương mại. Do đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế nên ngành ngân hàng dần dần trở thành một ngành kinh tế rất quan trọng. Nghiệp vụ của ngành ngân hàng ngày càng đa dạng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Luật các tổ chức tín dụng ở nước ta quy định: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.” Đối với bất kỳ quốc gia nào, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, ngành ngân hàng luôn là một ngành kinh tế quan trọng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế xét trên nhiều phương diện. Ngân hàng còn góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững. 2. Bản chất của Ngân hàng Thương Mại: Ngày nay, toàn bộ hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam đã được tổ chức lại. Từ hệ thống Ngân hàng một cấp Trở thành hệ thống Ngân hàng hai cấp: Cấp 1: Bao gồm Ngân hàng Nhà Nước TW và các chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước ở 61 tỉnh, thành phố. Cấp 2: Bao gồm hàng trăm Ngân hàng Thương Mại thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau: Quốc doanh cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, liên doanh với các Ngân hàng nước ngoài, các quỹ tín dụng Nhân dân v.v. với hàng ngàn cơ sở hoạt động ở các quận, huyện, thị trấn. Ngân hàng Thương Mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ - dịch vụ tài chính, tiền tệ. Các Ngân hàng là những trung gian tài chính đứng ra vay vốn của những người cho vay rồi dùng số vốn đó cho những người thiếu vốn vay lại, làm cho các nguồn vốn nhàn rỗi không sinh lợi của hàng triệu dân chúng được tập trung chuyển đến cho các doanh nghiệp lớn, nhỏ thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và sinh lời. 3. Chức năng của Ngân hàng Thương Mại. 3.1. Chức năng tạo tiền: Đây là chức năng căn bản, đặc trưng của Ngân hàng, được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của Ngân hàng thương mại trong mối quan hệ với khối lượng dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Thương mại, qua đó tạo ra một lượng vốn tín dụng cho nền kinh tế lớn hơn rất nhiều lần so với lượng vốn ký thác ban đầu ở Ngân hàng. 3.2. Chức năng trung gian tài chính: Thực chất, đó là chức năng tín dụng, "Vay để cho vay", trong đó Ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn nhàn rỗi và người đang cần vốn. Với sự chuyên môn hoá của mình, Ngân hàng giúp cho quá trình gặp nhau giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế. 3.3.Chức năng làm trung gian thanh toán: Ngân hàng Thương mại cung cấp cho khách hàng của mình nhiều phương tiện thanh toán trong và ngoài nước như: Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi, Séc, Ngân phiếu, ... nhờ đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, rút ngắn quá trình vận động T - H - T', thúc đẩy sản xuất phát triển, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. 3.4.Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác: Ngoài các chức năng chủ yếu nêu trên, Ngân hàng Thương mại còn tham gia vào nhiều dịch vụ khác như: dịch vụ tư vấn cho khách hàng, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ kinh doanh ngoại hối,... nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. II. Thanh toán không dùng tiền mặt và các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt. 1. Khái niệm thanh toán không dùng tiền mặt: Thanh toán không dùng tiền mặt (thanh toán chuyển khoản) là phương thức chi trả thực hiện bằng cách trích một số tiền từ tài khoản người chi chuyển sang tài khoản người được hưởng. Các tài khoản này đều được mở tại Ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng mở rộng là do sự phát triển chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ; tuy nhiên sự mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt liên quan đến qui luật tạo tiền, tăng bội số tín dụng của các Ngân hàng Thương mại cũng như thay đổi mối quan hệ giữa tiền mặt và tiền ghi sổ. 2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thanh toán không dùng tiền mặt chưa được phát triển do các quan hệ thanh toán chưa được mở rộng và việc quản lý chính sách tiền tệ còn yếu kém, lỏng lẻo, phần lớn các giao dịch thanh toán đều bằng tiền mặt, điều đó làm cho việc điều hoà lưu thông tiền tệ gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng lạm phát kéo dài, tiền tệ không ổn ddingh. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thời điểm này, Nhà nước tham gia vai trò điều tiết vĩ mô, điều đó giúp cho việc thanh toán không dùng tiền mặt đóng một vai trò không nhỏ đối với từng cá nhân, từng đơn vị kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế. Nó đáp ứng những yêu cầu của một nền kinh tế hiện đại. Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước về chính sách tiền tệ quốc gia, hạn chế lạm phát, tăng nhanh quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động. Vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể tách rời với các hoạt động kinh tế. Nó đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt được thể hiện ở một số mặt dưới đây: Góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội vì thanh toán là khâu kết thúc của một quá trình sản xuất. Tổ chức thanh toán được tiến hành trôi chảy giúp cho lưu thông hàng hoá thông suốt, đảm bảo yêu cầu về vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng tốc độ lưu chuyển vốn, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Góp phần làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông, giảm chi phí in ấn, bảo quản, chọn lọc, tăng sự an toàn và độ tin cậy cao. TTKDTM ra đời và phát triển trên cơ sở nền sản xuất hàng hoá. Song chính nó là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Có tác dụng mạnh mẽ đến việc quản lý vĩ mô của NHNN, kiểm soát được mức tạo tiền, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng, thanh toán của mình. Nhằn kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế. Là một công cụ cạnh tranh về mặt dịch vụ có hiệu quả nhằm thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Ngân hàng làm tốt công tác này sẽ tập trung được nguồn vốn lớn tạm thời nhàn rỗi từ bên ngoài xã hội tự động chảy vào Ngân hàng và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng. Tạo điều kiện cần thiết để thực hiện kiểm soát đồng tiền giữa các xí nghiệp, tổ chức kinh tế nhằm tăng cường chế độ hạch toán kinh tế. Khi số dư trên tài khoản khách hàng thay đổi, ngân hàng sẽ nắm bắt được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính trên cơ sở đó ra quyết định cho vay hay thực hiện nghiệp vụ tư vấn cho khách hàng có hiệu quả. 3. Nội dung các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. TTKDTM là một thể thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới và ngày càng được hoàn thiện. Theo quyết định số 22/QD-NH1 ngày 21/02/1994 của Thống đốc NHNN và Nghị định số 30/CP ngày 09/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế phát hành và sử dụng Séc; Thông tư số 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện qui chế phát hành và sử dụng Séc; Quyết định số 20/QĐNH1 ngày 16/01/1995; thì hiện nay, các đơn vị và cá nhân thanh toán qua ngân hàng áp dụng một số thể thức sau: 3.1. Thể thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – chuyển tiền. Uỷ nhiệm chi – chuyển tiền là một lệnh chi tiền được chủ tài khoản lập theo mẫu chủ ngân hàng ấn định, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản của mình để chi trả cho bên thụ hưởng. Uỷ nhiệm chi dùng để chi trả các khoản tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền trong cùng một hệ thống và khác hệ thống, cùng một địa phương hoặc khác địa phương. Ngân hàng có trách nhiệm xử lý, giải quyết uỷ nhiệm chi của khách hàng nộp ngay trong ngày làm việc ( Hoàn tất lệnh chi đó hoặc từ chối nếu tài khoản đó không đủ tiền hay lệnh chi đó không hợp lệ ). Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng khi nhận được chứng từ hợp lệ phải ghi "Có" ngay vào tài khoản và báo cáo cho khách hàng biết. Ngoài ra, Uỷ nhiệm chi còn để xin cấp Séc chuyển tiền cầm tay. Uỷ nhiệm chi là một hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện. Nó được áp dụng rộng rãi đối với các tổ chức kinh tế có quan hệ mua bán thường xuyên, tín nhiệm lẫn nhau hay thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ rủi ro vẫn cao vì nó chỉ đảm bảo quyền lợi cho người mua, không được qui định thời hạn hiệu lực thanh toán. Gây thiệt hại về vốn cho bên bán nếu bên mua chậm trả hay cố tình không thực hiện thanh toán. (Chú thích sơ đồ 1) 3.2. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu. Uỷ nhiệm thu là hình thức thanh toán mà người bán khi hoàn thành việc gửi hàng hoá, dịch vụ theo hợp đồng cho bên mua sẽ lập chứng chứng từ nhờ Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền hàng hoá, dịch vụ đã giao. Uỷ nhiệm thu được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ mang tính định kỳ như tiền điện, tiền điện thoại, tiền thuê nhà giữa người mua và người bán trên cơ sở hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng. Uỷ nhiệm thu được lập theo mẫu của NHNN, trong đó bên thụ hưởng phải ghi đầy đủ các yếu tố đầy đủ và ký tên, đóng dấu của đơn vị trên tất cả các liên uỷ nhiệm thu. Khi nhận được uỷ nhiệm thu trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng phục vụ bên trả tiền ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Nếu trên tài khoản của bên trả tiền không đủ tiền thanh toán sẽ bị phạt chậm trả. Mức phạt tuỳ theo qui định giữa bên mua và bên bán thoả thuận trong hợp đồng, thường áp dụng như sau: Số tiền phạt chậm trả = Số tiền ghi trên uỷ nhiệm thu x Số ngày chậm trả x tỷ lệ phạt. Tỷ lệ phạt = Lãi suất nợ quá hạn cao nhất tại ngân hàng. ( Chú thích sơ đồ 2 ) 3.3. Thanh toán bằng Thư tín dụng ( L/C ). Thư tín dụng là hình thức thanh tón được ngân hàng bên đơn vị mua cam kết trả tiền cho đơn vị bán khi đơn vị bán thực hiện theo đúng các điều kiện của thư tín dụng. Người mua muốn được ngân hàng mở thư tín dụng để đi mua hàng thì phải dùng tiền của mình hoặc đi vay ngân hàng lưu ký riêng để đảm bảo thanh toán cho thư tín dụng. áp dụng hình thức này, quyền lợi của bên bán sẽ được đảm bảo vì đòi hỏi bên mua phải chuẩn bị trước phương tiện thanh toán. Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng chỉ thanh toán cho người thụ hưởng khi họ xuất trình các hoá đơn, chứng từ giao hàng phù hợp với thư tín dụng đã mở trong thời hạn hiệu lực. Mọi tranh chấp về hàng hoá đã giao và tiền hàng đã trả đều do hai bên mua và bán tự giải quyết. Tiền gửi để mở thư tín dụng không được hưởng lãi và mỗi thư tín dụng chỉ dùng để trả cho một người bán. Thời hạn hiệu lực thanh toán của một thư tín dụng là ba tháng kể từ ngày ngân hàng bên mua nhận mở thư tín dụng. Hình thức này được sử dụng trong thanh toán quốc tế nơi mà người mua và người bán không quen biết nhau. Nó có đặc điểm an toàn và chính xác cao. ( Chú thích sơ đồ 3) 3.4. Ngân phiếu thanh toán. Ngân phiếu thanh toán là phương tiện thanh toán thay tiền mặt do NHNN độc quyền phát hành. Ngân phiếu thanh toán dùng để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ trả nợ, làm nghĩa vụ Ngân sách, nộp vào tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, gửi tiết kiệm. Ngân phiếu thanh toán có mệnh giá là 500.000 đồng; 1.000.000 đồng và 5.000.000 đồng, có thời hạn lưu hành, không ghi tên và được chuyển nhượng không phải qua một thủ tục nào. Phạm vi thanh toán rộng khắp cả nước. Đặc điểm của ngân phiếu thanh toán là mệnh giá cao, gọn nhẹ, thanh toán rất thuận tiện "gần như" thanh toán bằng tiền mặt nên hiện nay được hách hàng ưa chuộng sử dụng. Nghiệp vụ thu chi ngân phiếu thanh toán rất nhanh chóng, thuận tiện. Khi khách hàng không sử dụng ngân phiếu nữa hay ngân phiếu hết thời hạn lưu hành họ có thể nộp ngân phiếu vào ngân hàng để ghi "Có" vào tài khoản tiền gửi của mình, hoặc đổi lấy tiền mặt, hoặc đổi lấy ngân phiếu đang còn giá trị lưu hành. Vì ngân phiếu chỉ được lưu hành trong thời hạn qui định ghi trên tờ ngân phiếu. Ngân hàng cơ sở có trách nhiệm tiếp nhận ngân phiếu thanh toán hết thời hạn sử dụng và điều chuyển ngay về NHNN Trung ương. Nếu quá thời hạn thì người có ngân phiếu thanh toán phải chịu một tỷ lệ phạt theo qui định và được đổi lấy ngân phiếu thanh toán mới. Để ngân phiếu lưu thông rộng rãi cũng có thể dẫn đến lạm phát như tiền mặt. Vì sẽ hạn chế vai trò quản lý vĩ mô của NHNN. 3.5. Séc thanh toán. Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của ngân hàng, được giao trực tiếp cho người thụ hưởng sau khi đã nhận được hàng hoá và cung ứng dịch vụ để yêu cầu ngân hàng trích tài khoản của mình để trả cho người được hưởng có tên trên tờ Séc. Hiện nay, thanh toán bằng Séc để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc cá nhân yêu cầu chi trả khác. Như vậy, Séc là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt phổ biến và rộng rãi. Người ta coi Séc như là một phương tiện lưu thông thay thế cho khoản chi trả đó. Séc bao gồm các loại sau: 3.5.1. Séc chuyển khoản. Séc chuyển khoản là Séc thông thường được thiết lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của Ngân hàng và được Ngân hàng bán cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng mình và trên tài khoản có số dư ( có tiền ). Phạm vi áp dụng của Séc chuyển khoản là giữa các khách hàng có tài khoản tại cùng một Ngân hàng hay khác Ngân hàng với điều kiện các Ngân hàng đó có tham gia thanh toán bù trừ. Thời hạn hiệu lực của mỗi tờ Séc chuyển khoản là 10 ngày kể từ khi người mua phát hành đến ngày đơn vị bán nộp Séc vào Ngân hàng. Việc thanh toán bằng Séc chuyển khoản phải tuân theo nguyên tắc ghi Nợ trước và ghi Có sau. Các chứng từ kèm theo tờ Séc là bảng kê nộp Séc. Giá trị của tờ Séc chỉ có giá trị trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi của đơn vị phát hành Séc. Nếu phát hành quá số dư trên tài khoản tiền gửi sẽ bị xử lý như sau: Phạt phát hành quá số dư ( cho Ngân hàng ): Số tiền phạt =(Số tiền ghi trên tờ Séc – Số tiền trên tài khoản)x30% Phạt chậm trả ( trả cho người thụ hưởng Số tiền phạt = Số tiền trên tờ Séc x Số ngày chậm trả x Tỷ lệ phạt Tỷ lệ phạt = Lãi suất nợ quá hạnloại cho vay cao nhất taị Ngân hàng phục vụ người phát hành. Ngoài ra còn có thể bị đình chỉ hoặc thu hồi, cấm phát hành Séc vĩnh viễn nếu vi phạm nhiều lần. ( Chú thích sơ đồ 4 ). 3.5.2. Séc bảo chi. Séc bảo chi là tờ Séc thông thường được Ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích tiền từ tài khoản tiền gửi đưa vào một tài khoản riêng ( tài khoản đảm bảo thanh toán Séc bảo chi ). Ngân hàng sẽ làm thủ tục bảo chi và đánh dấu bảo chi lên tờ Séc trước khi giao tờ Séc cho khách hàng. Như vậy khả năng thanh toán tờ Séc bảo chi được bảo đảm, không xảy ra tình trạng phát hành quá số dư. Séc bảo chi thanh toán trong phạm vị các Ngân hàng cùng hệ thồng, khác hệ thống, nếu khác hệ thống thì phải tham gia thanh toán bù trừ. Đối tượng áp dụng: Thanh toán tiền hàng, dịch vụ do yêu cầu của đơn vị bán hoặc theo quyết định của Ngân hàng đối với chủ tài khoản vi phạm qui định phát hành Séc. Thời hạn thanh toán: 15 ngày kể từ ngày bảo chi tờ Séc. Nếu khách hàng mở tài khoản ở cùng một Ngân hàng hoặc khác Ngân hàng nhưng cùng một hệ thống thì Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng kiểm tra hợp lệ thì có quyền ghi Có ngay vào tài khoản người thụ hưởng. Trường hợp hai Ngân hàng khác hệ thoống thì không được phép ghi Có ngay mà phải giao nhận chứng từ tại phiên giao dịch bù trừ để thực hiện ghi Nợ trước, Có sau. Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán Séc bảo chi: ( Sơ đồ 5 ) 3.5.3. Séc chuyển tiền: Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền do người đại diện của đơn vị chuyển tiền trực tiếp chuyển tiền, để nhận trả tiền tại Ngân hàng trả, chuyển tiền khác địa phương. Tại Ngân hàng thanh toán có thể trả tiền bằng một trong bốn cách sau: thanh toán bằng chuyển khoản, cho lĩnh ngân phiéu, cấp Séc bảo chi, lĩnh tiền mặt. Khi có nhu cầu chuyển tiền bằng Séc chuyển tiêng, khách hàng lập ba liên uỷ nhiệm chi, ghi nội dung, mục đích, họ tên, chứng minh thư của người cầm Séc và mang đến Ngân hàng xin ký gửi khoản tiền trên tờ Séc vào tài khoản của mình ở Ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán của tờ Séc. Sau khi kiểm soát thấy đầy đủ các yếu tố, Ngân hàng sẽ cấp Séc chuyển tiền hình thức này chỉ thanh toán trong cùng hệ thống Ngân hàng. Nếu khác hệ thống thì phải làm thủ tục chuyển sang NHNN để phát hành Séc chuyển tiền. Thời hạn hiệu lực thanh toán của Séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ Séc 3.6. Thẻ thanh toán. Thẻ thanh toán là một sản phẩm của Ngân hàng thông qua thiết bị từ tính, Ngân hàng bán cho khách hàng sử dụng để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác hoặc rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý hay các quầy trả tiền động. Thẻ thanh toán bao gồm có thẻ từ và thẻ điện tử. Thẻ từ là thẻ dùng kỹ thuật bằng từ để ghi và đọc những thông số trên thẻ. Thẻ điện tử là loại thẻ gắn bộ nhớ vi điện tử trên thẻ, ghi và đọc thông tin qua bộ nhớ vi điện tử đó, ở Việt Nam thẻ phát hành trong nước có ba loại: Thẻ loại A: Người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào Ngân hàng ( Thẻ ghi Nợ ). Thẻ loại B: Người sử dụng thẻ phải lưu ký tiền vào Ngân hàng. Thẻ loại C: áp dụng cho khách hàng được Ngân hàng cho vay. ( thẻ tín dụng ). Đây là một dịch vụ hoàn toàn tự động dựa trên công nghệ kỹ thuật hiện đại. Do vốn đầu tư hạn chế nên chưa sử dụng rộng rãi. Trong tương lai thì thẻ thanh toán sẽ sẽ trở thành phương tiện thanh toán sử dụng phổ biến ở Việt Nam. Nhìn chung mức độ áp dụng hình thức này phụ thuộc vào các nhân tố sau: Tâm lý thích sử dụng tiền mặt. Kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán Ngân hàng. Trình độ phát triển của nền kinh tế. Chương II Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng công thương thanh Xuân. I. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân. 1. Vài nét về Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân. Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong những Ngân hàng lớn trong hệ thống Ngân hàng Thương Mại quốc doanh Việt Nam, được thành lập trên cơ sở đổi mới hệ thống Ngân hàng, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 53 ngày 26 tháng 3 năm 1988. Tháng 4 năm 1997, Ngân Hàng Công Thương Đống Đa quyết định nâng cấp phòng giao dịch Thượng Đình thành chi nhánh cấp 3. Ngày 20 tháng 02 năm 1999, chủ tịch hội đồng quản trị NHCT Việt Nam đã ra Quyết định số 13/QD-HĐQT/NHCT1 thành lập chi nhánh NHCT Thanh Xuân trực thuộc NHCT Việt Nam. Chi nhánh NHCT Thanh Xuân có trụ sở đặt tại số 275 đường Nguyễn Trãi – Quận Thanh Xuân – Hà Nội. Ra đời trong bối cảnh nhà nước ta đang gặp khó khăn về kinh tế, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực Đông Nam á, chi nhánh đã cùng với các chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Hà Nội cùng cạnh tranh tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các Ngân hàng vẫn diễn ra gay gắt và ngày càng sâu sắc không chỉ trên lĩnh vực truyền thông mà còn trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, kinh doanh đối ngoại... Dưới các hình thức: trang bị máy vi tính và nối mạng giao dịch với các doanh nghiệp lớn, đối với khách hàng xuất khẩu thì hạ lãi xuất cho vay, giảm phí thanh toán quốc tế, mua ngoại tệ kì hạn... ban lãnh đạo Ngân hàng Công thương Thanh Xuân đã tìm mọi biện pháp để tăng trưởng nguồn vốn cũng như mở rộng đầu tư. Nhằm hoàn thành xuất xắc nhiệm vụ cấp trên giao cho và đảm bảo vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên chức, xây dựng một nếp sống vui tươi lành mạnh. Chi nhánh NHCT Thanh Xuân cũng không ngừng mở rộng mạng lưới quỹ tiết kiệm. Đến cuối năm 2000, chi nhánh quản lý tám quỹ tiết kiệm trên địa bàn quận. Đến thời điểm này, chi nhánh đã mở rộng thêm được hai quỹ tiết kiệm 78 và 79. Góp phần mở rộng quy mô đang ngày càng phát triển của chi nhánh. 2. Công tác tổ chức tại chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Để đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh, chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã không ngừng hoàn thiện bộ máy, nâng cao nghiệp vụ, thực hiện tốt chính sách kinh doanh tiền tệ tín dụng và ổn định đời sống cán bộ công nhân viên. Ban đầu khi mới thành lập, chi nhánh chỉ có 53 cán bộ. Đến cuối năm 1999 nhân sự có 127 CBVC. Năm 2000 chi nhánh đã tuyển dụng theo chỉ tiêu của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam phân bổ, việc tổ chức tuyển dụng theo đúng qui chế tuyển dụng, đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 tổng số CBVC của chi nhánh là 141 người tăng 16 người. Năm 2000, Giám đốc đã bổ nhiệm một trưởng quỹ tiết kiệm và một phó trưởng quỹ tiết kiệm. Đến nay, phòng Tổ chức – Hành chính đã tham mưu cho lãnh đạo trong việc bổ nhiệm thêm một trưởng phòng, ba phó phòng, hai trưởng quỹ tiết kiệm, một phó trưởng quỹ tiết kiệm. Hoàn thành chương trình quản lý nhân sự trên máy vi tính, phối kết hợp với Phòng Kế toán tài chính thực hiện chế độ trả lương kinh doanh theo hệ số lương kinh doanh của NHCT Việt Nam. Thực hiện việc điều động CBVC, nâng bậc lương, chế độ BHXH, BHYT, quyền lợi, nghỉ chế độ, ốm đau theo nhà nước qui định. Tổ chức được lớp tập huấn nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại tại chi nhánh được 34 CB. Tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ án cán bộ các phòng ban, tổ chức các hội thi tay nghề kiểm ngân, tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh. Phục vụ tốt các hội nghị tại chi nhánh, hoàn thành việc sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ máy móc thiết bị, công tác văn thư bảo đảm bí mật, an toàn, kịp thời. Cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Chi nhánh NHCT Thanh Xuân có cơ cấu tổ chức như sau: Ban giám đốc bao gồm: Giám đốc và hai phó giám đốc. Bộ phận nghiệp vụ bao gồm : 9 phòng nghiệp vụ ( Phòng Tiền tệ - Kho quỹ, Phòng Quản lý tiền gửi dân cư, Phòng Kế toán – Tài chính, Phòng Hành chính quản trị, Phòng Tổ chức – Hành chính, Phòng Nguồn vốn, Phòng Kinh doanh, Phòng Kiểm Tra, Phòng Kinh doanh - Đối ngoại ). Hiện nay, chi nhánh áp dụng phương pháp điều hành kinh doanh theo cơ cấu : Trực tuyến – chức năng. Sơ đồ cơ cấu tổ chức như sau: Ban lãnh đạo chi nhánh gồm một Giám đốc và hai Phó giám đốc. Giám đốc chi nhánh có trách nhiệm tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Hai phó giám đốc là người trợ giúp giám đốc, có nhiệm vụ chỉ đạo các hoạt động kinh doanh. Chi nhánh NHCT Thanh Xuân gồm 9 phòng nghiệp vụ. Điều hành mỗi phòng nghiệp vụ là một trưởng phòng, mỗi phòng có các phó phòng giúp việc cho trưởng phòng. Có nhiệm vụ quản lý, tổ chức hoạt động kinh doanh theo sự chỉ đạo của Ban giám đốc. Nhìn vào sơ đồ tổ chức trên ta thấy: Giám đốc chỉ đạo trực tiếp hai phó giám đốc và phòng Kinh Doanh. Phòng Tiền Tệ – Kho Quỹ và phòng Quản Lý Tiền Gửi Dân Cư chịu sự chỉ đạo trực tiếp của một Phó giám đốc. Phó giám đốc còn lại chỉ đạo trực tiếp phòng Kế Toán – Tài Chính và phòng Hành Chính. Các phòng ban còn lại đều được sự chỉ đạo của ban lãng đạo chi nhánh. Nhiệm vụ các phòng ban như sau: Phòng Tiền tệ – Kho quỹ: Có nhiệm vụ thu – chi tiền mặt. Phòng đã chấp hành nghiêm túc thể lệ, qui trình và nguyên tác thu chi, quản lý kho quỹ đảm bảo tuyệt đối an toàn. Chi nhánh thường xuyên giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức " Cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư " cho cán bộ kho quỹ nên không để xảy ra trường hợp sai sót nào. Đặc biệt, cán bộ kho quỹ thường xuyên trả tiền thừa cho khách, tổng số tiền đã lên tới vài trăm triệu đồng. Phòng Quản lý tiền gửi dân cư: Có nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo hoạt động các quỹ tiết kiệm. Trong năm qua, phòng đã đưa ba quỹ tiết kiệm vào hoạt động, đưa việc giao dịch trên máy tính vào hoạt động ở các quỹ tiết kiệm. Góp phần làm tăng thêm nguồn vốn huy động. Phòng Kế toán – Tài chính: Có nhiệm vụ thanh toán, tư vấn cho khách hàng phương thức thanh toán phù hợp. Phối hợp với nghiệp vụ tín dụng thu nợ, thu lãi đúng thời hạn, thực hiện nghiêm túc qui chế bảo đảm thanh toán và dự trữ bắt buộc, tiết kiệm chi tiêu theo nội dung và kế hoạch được giao. Phòng Hành chính quản trị: Có nhiệm vụ tổ chức các hội nghị tại chi nhánh, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng của chi nhánh. Bố trí công tác bảo vệ và vệ sinh an toàn cho toàn thể cán bộ. Phòng Tổ chức – Hành chính: Có nhiệm vụ bố trí nguồn nhân sự, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về nhân lực cho các phòng ban. Tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ chi nhánh Phòng Nguồn vốn: Có nhiệm vụ huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế. Phòng Kinh Doanh: Đây là một phòng ban chủ chốt của chi nhánh, có nhiệm vụ thẩm định các dự án để cho vay, bảo lãnh ... đưa tổng dư nợ năm 2000 tăng 57 tỷ đồng tăng 115% so cùng kỳ năm trước. Phòng Kiểm tra: Có nhiệm vụ giám sát từ xa, phát hiện các sai sót trong hạch toán, kịp thời sửa chữa. Các hồ sơ tín dụng chưa hoàn thiện được yêu cầu bổ sung giảm thiểu rủi ro pháp lý. Phòng Kinh doanh đối ngoại: Có nhiệm vụ huy động và thanh toán quốc tế. Trong năm qua, chi nhánh đã mở thêm dịch vụ mới: Máy cà thẻ , Card, tại cơ sở doanh nghiệp góp phần tạo nguồn ngoại tệ tuy không lớn nhưng củng cố quan hệ và phát triển dịch vụ giữa Ngân hàng và khách hàng. Cũng trong năm qua, doanh số thanh toán hàng nhập khẩu tăng, số L/C phát hành qua chi nhánh tăng 176% so với năm 1999. II. Tình hình hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội trong nước và thế giới sáu tháng đầu năm 2001, chính phủ đặt ra nhiều vấn đề cần phải quan tâm, giải quyết. Tình hình kinh tế, tổng sản phẩm trong nước (GDP) sáu tháng đầu năm cao nhất so với tốc độ tăng cùng kỳ của ba năm về trước ( 7,3%), giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp tăng 13,9%, dịch vụ tăng 6,9%, kim ngạch xuất khẩu tăng 16,2%. Tuy nhiên, những yếu kém và khó khăn mới cũng bộc lộ, nổi lên là thị trường tiêu thụ, xuất khẩu nông sản và một số mặt hàng công nghiệp chế biến như cà phê, cao su ngày càng bị hạ giá trên thị trường thế giới. Còn về tình hình thế giới diễn biến ngày một phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố tác động không thuận lợi đến kinh tế nước ta.Sự suy giảm kinh tế thế giới, cùng với các biện pháp hạ lãi suất , giảm giá đồng tiền, tăng hàng rào bảo hộ áp dụng ở nhiều quốc gia, khiến cho thị trường tiêu thụ hàng hoá và thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta thêm khó khăn. Trong bối cảnh chunh, hoạt động của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân nói riêng và hệ thống NHCT Việt Nam nói chung trong sáu tháng đầu năm 2001 đã có nhiều chuyển biến, tăng trưởng tích cực, cụ thể như sau: 1. Tình hình huy động vốn. Tổng nguồn vốn huy động (Bao gồm cả VNĐ và ngoại tệ qui đổi VNĐ) đến 30/6/2001 đạt 537.659 triệu đồng, tăng 76,985 triệu đồng, tốc độ tăng 12,78% so với đầu năm, bằng 129,54% so cùng kỳ năm trước, đạt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0051.doc
Tài liệu liên quan