Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế: ... Ebook Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tại mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ, hệ thống thuế luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Thuế vừa là nguồn thu ngân sách, vừa là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các quốc gia luôn luôn hướng tới việc xây dựng một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ và luôn theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Trong nhiều năm qua, chính sách và cơ chế quản lý thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và mang lại những kết quả đáng khích lệ cả về yêu cầu thu ngân sách Nhà nước (NSNN) cũng như quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế đối ngoại; góp phần quan trọng làm ổn định tình hình kinh tế- xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới “ Thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế trong khu vực ASEAN nói riêng, đặc biệt là khi tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN- AFTA và tương lai là gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, chính sách thuế nhập khẩu ở nước ta đã bộc lộ nhiều tồn tại, gây thất thu lớn cho NSNN và hạn chế kết quả của tiến trình hội nhập. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ” trong bối cảnh hiện nay để nghiên cứu là việc làm cần thiết. Nội dung nghiên cứu của chuyên đề bao gồm 3 chương: Chương I: Thuế nhập khẩu với hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II: Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Chương III: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. CHƯƠNG I: THUẾ NHẬP KHẨU VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1.Tổng quan về thuế nhập khẩu. Bản chất của thuế nhập khẩu. a. Khái niệm. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là đòi hỏi cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu ( chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng, an ninh, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề phúc lợi công cộng.v.v...), Nhà nước sử dụng ba hình thức động viên là: quyên góp của dân, vay dân và dùng quyền lực bắt dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức quyên góp và vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định lâu dài, thường chỉ được sử dụng giới hạn trong những trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính Nhà nước. Hình thức này gọi là Thuế. Từ những nội dung trên, chúng ta có thể nêu một khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là khoản đóng góp bắt buộc do Nhà nước quy định đối với các tổ chức và các nhân trong xã hội nhằm sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội. Thuế nhập khẩu là một phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động nhập khẩu mà các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động nhập khẩu có nghĩa vụ phải đóng góp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật thuế nhập khẩu , nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cũng như các chính sách của Nhà nước. Nói cách khác, thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào lãnh thổ của quốc gia hoặc từ khu chế xuất xuất vào thị trường thuộc lãnh thổ của quốc gia đó. b. Bản chất. Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu, đánh vào hàng hóa nhập khẩu, làm tăng chi phí của việc đưa hàng hoá đến một quốc gia. Người tiêu dùng hàng hoá phải gánh chịu loại thuế này. Nghiên cứu bản chất của thuế nhập khẩu, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau: Thứ nhất, thuế nhập khẩu là phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động nhập khẩu. Thứ hai, việc xây dựng thuế suất thuế nhập khẩu phải đảm bảo giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Thứ ba, thuế suất thuế nhập khẩu được xây dựng ở mức thấp nhưng hợp lý. Thứ tư, chính sách thuế nhập khẩu của Nhà nước phải đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả. Những đặc điểm của thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu là một loại thuế nên cũng mang các đặc điểm của thuế nói chung: Thứ nhất, mang tính quyền lực Nhà nước. Đặc điểm này được thể chế hóa trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc của các tổ chức kinh tế và của mỗi công dân cho Nhà nước. Các tổ chức kinh tế và công dân thực hiện nghĩa vụ thuế theo các luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực tối cao ở quốc gia đó quy định phù hợp với các hoạt động và thu nhập của từng tổ chức kinh tế và công dân. Tổ chức và cá nhân nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình, tức là họ đã vi phạm pháp luật của quốc gia đó. Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính tự nguyện cho NSNN và thuế với các khoản vay mượn của Chính phủ. Thứ hai, thuế nhập khẩu là khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà nước và không mang tính hoàn trả trực tiếp. Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thuế thu được, Nhà nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho các nhu cầu của Nhà nước và của mọi cá nhân trong xã hội. Mọi các nhân, người có nộp thuế cho Nhà nước cũng như người không nộp thuế, người nộp nhiều cũng như người nộp ít đều bình đẳng trong việc nhận được các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước. Số tiền thuế mà các đối tượng phải nộp cho Nhà nước được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ. Đặc điểm này giúp phân biệt thuế với phí và lệ phí. Thứ ba, chứa đựng các yếu tố kinh tế - xã hội. Tuy thuế được coi là biện pháp tài chính mang tính chất bắt buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên nền tảng của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới. Nó thể hiện ý chí chủ quan của Nhà nước về việc muốn khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của bất cứ ngành nào hoặc lĩnh vực nào trong toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, thuế còn là công cụ để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn có các đặc điểm riêng của nó. Cụ thể là: Thứ nhất, thuế nhập khẩu chỉ đánh vào hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu. Thuế nhập khẩu chỉ đánh vào hàng hoá nhập khẩu ở khâu nhập khẩu và hàng hoá từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước, không thu vào hàng hoá sản xuất hoặc lưu thông khác ở trong nước ( khác với thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cũng là một loại thuế gián thu nhưng thu cả vào hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá sản xuất hoặc lưu thông trong nước ). Mọi hàng hoá được phép nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam, hàng hoá từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước đều là đối tượng chịu thuế nhập khẩu. Ngoài những đối tượng nêu trên, số còn lại sẽ không chịu sự tác động của loại thuế này. Thứ hai, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu. Thuế gián thu là loại thuế mà đối tượng nộp thuế có thể chuyển dịch số thuế mình đã nộp cho Nhà nước sang cho một đối tượng khác. Điều đó có nghĩa là người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu phải gánh chịu loại thuế này. Người nộp thuế nhập khẩu nếu không đồng thời là người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu thì không phải gánh chịu mà chỉ nộp thuế thay cho người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu đó. Các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu đã chuyển dịch số thuế phải nộp sang cho người tiêu dùng chịu. Nói cách khác, người nộp thuế và người chịu thuế không đồng thời là một. Người nộp thuế là người kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu, còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hoá đó. Nhà kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu đứng ra thu hộ thế cho Nhà nước và nộp hộ người tiêu dùng số thuế thu được vào NSNN. Thứ ba, là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh tế - xã hội bằng các mệnh lệnh hành chính. Thay vào đó, Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, tức là Nhà nước chỉ đưa ra các chuẩn mực mang tính định hướng lớn trên một diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động xã hội đi theo nhằm đật được các mục tiêu đề ra, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội được thực hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nhà nước sử dụng nhiều công cụ để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng… Trong đó, thuế được coi là một trong những công cụ sắc bén nhất. Bằng việc ban hành hệ thống Luật thuế, Nhà nước sẽ quy định việc đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thuế suất thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể thuộc lĩnh vực nhập khẩu nhằm thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế; thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, nhằm góp phần điều tiết vĩ mô. Thứ tư, thuế nhập khẩu chỉ do cơ quan Hải quan thu, cơ quan thuế các cấp không thu ( thuế GTGT, thuế TTĐB vừa do cơ quan hải quan thu vừa do cơ quan thuế thu; thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập các nhân, thuế môn bài… chỉ do cơ quan thuế các cấp thu ), nhằm gắn công tác quản lý thu thuế nhập khẩu với công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động nhập khẩu. Vai trò của thuế nhập khẩu. Thứ nhất, thuế nhập khẩu đóng vai trò là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Nhà nước ra đời, dựa vào quyền lực chính trị của mình, Nhà nước đã đặt ra các thứ thuế để bắt buộc các thành viên trong xã hội đóng góp một phần thu nhập của họ cho Nhà nước. Nhờ có khoản đóng góp đó, bộ máy Nhà nước mới tồn tại và hoạt động được. Lịch sử phát triển của ngành thuế qua các thời kỳ đã cho thấy: Tỷ trọng thu bằng thuế chiếm phần lớn trong tổng thu NSNN, tỷ trọng này thường chiếm tới trên 90% tổng số thu, trong đó, thuế nhập khẩu đóng vai trò là một nguồn thu quan trọng. Vai trò truyền thống của thuế quan là động viên một phần thu nhập cho NSNN từ hoạt động ngoại thương. Tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế đối ngoại và quan điểm sử dụng thuế quan của mỗi nước mà thuế quan có vai trò khác nhau trong việc tạo lập nguồn thu cho NSNN. Đối với các nước phát triển, số thu từ thuế nhập khẩu chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong tổng thu NSNN ( 1%-5% ). Còn ở các nước đang phát triển thì thuế nhập khẩu luôn đóng vai trò quan trọng trong việc đem lại nguồn thu cho NSNN. Đối với Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất, nhập khẩu chiếm khoảng 19%-20% tổng số thu về thuế và phí của Nhà nước; số thu này có xu hướng giảm dần do việc Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế kể từ năm 1999. Thứ hai, là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Để quản lý hoạt động ngoại thương, Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong đó có thuế nhập khẩu. Đây được coi là một trong những công cụ hữu hiệu nhất. Thông qua thuế nhập khẩu, Nhà nước có thể tác động một cách trực tiếp vào hoạt động nhập khẩu của quốc gia bằng cách thay đổi mức thuế suất đối với từng mặt hàng, từ đó có thể điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của mình trong từng giai đoạn phát triển. Nhà nước sử dụng thuế nhập khẩu để điều tiết hoạt động nhập khẩu, cân bằng cán cân thương mại quốc tế, tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước, thực hiện chiến lược phát triển kinh đối ngoại. Thứ ba, thuế nhập khẩu giữ vai trò bảo hộ sản xuất trong nước. Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội thế giới đã chứng minh rằng: cho đến nay, không một quốc gia nào là không sử dụng công cụ thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước, giữa các nước chỉ khác nhau về mức độ bảo hộ mà thôi. Ở các nước phát triển, người ta hạ thấp hoặc xoá bỏ hàng rào thuế nhập khẩu; còn ở các nước đang phát triển thì hoàn toàn ngượcc lại, thuế nhập khẩu lại được sử dụng như một hàng rào đắc lực nhất che chắn cho sản xuất trong nước phát triển, chống lại sự cạnh tranh và thâm nhập của hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài tràn vào. Thuế nhập khẩu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá nhập khẩu. Vì vậy, việc quy định thuế suất thuế nhập khẩu cao hay thấp có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Đồ thị dưới đây sẽ minh hoạ rõ hơn cho những tác động ấy: Giả sử một quốc gia A nào đó đứng trước một mức giá quốc tế Pw của sản phẩm X, theo đó quốc gia A có thể mua bao nhiêu sản phẩm X từ nước ngoài. Các đường D, S biểu thị mức cầu của người tiêu dùng quốc gia A về sản phẩm X và mức cung sản phẩm X của các nhà sản xuất ở quốc gia A. Ta giả thiết rằng, sản phẩm X nội địa và sản phẩm X nước ngoài hoàn toàn có thể thay thế cho nhau, người tiêu dùng chắc chắn sẽ mua loại nào có giá bán rẻ hơn. Tại mức giá Pw, người tiêu dùng quốc gia A sẽ mua Qd sản phẩm X ( họ muốn ở điểm G trên đường cầu D ), trong khi các doanh nghiệp nội địa chỉ sản xuất Qs sản phẩm X ( họ muốn tại điểm C trên đường cung S ). Do vậy, sẽ có sự chênh lệch giữa mức cung trong nước Qs và mức cầu trong nước Qd, mức chênh lệch này được bù đắp thông qua nhập khẩu hàng hoá. Bây giờ, chính phủ quốc gia A đánh thuế Nhập khẩu đối với sản phẩm X là t%. Sau khi có thuế, giá sản phẩm X sẽ là Pt : Pt = Pw ( 1+ t% ) cao hơn Pw. Như vậy, ảnh hưởng của thuế nhập khẩu là nâng giá hàng hoá nước ngoài nhập khẩu cao hơn mức giá quốc tế. Giá ( Px ) D S Pt E F Pw C G Qs Qs’ Qd’ Qd Sản lượng ( Qx ) Đồ thị 1 Bằng cách nâng giá nội địa, thuế nhập khẩu đã khuyến khích ngành sản xuất sản phẩm X trong nước. Các doanh nghiệp tăng mức sản xuất từ Qs lên Qs’. Thuế nhập khẩu đã bảo hộ cho người sản xuất nội địa bằng cách nâng giá nội địa lên mức mà tại đó hàng nhập khẩu trở nên kém cạnh tranh hơn. Khi chuyển dịch trên đường cung từ điểm C đến điểm E, những người sản xuất trong nước sẽ cảm thấy dễ thở hơn vì giá hàng nhập khẩu vào trong nước đã bị nâng lên do có thuế nhập khẩu. Về phía cầu, việc tăng giá cả làm người tiêu dùng chuyển tiêu dùng của họ trên đường cầu từ điểm G đến điểm F. Lượng cầu đối với sản phẩm X giảm từ Qd xuống Qd’. Người tiêu dùng phải trả nhiều tiền hơn để mua sản phẩm X. Đồ thị trên cho thấy ảnh hưởng kết hợp của việc tăng cường sản xuất nội địa, đó là giảm nhập khẩu. Việc nhập khẩu giảm vừa do sản xuất nội địa tăng, vừa do tiêu dùng nội địa giảm. Với bất kỳ mức thuế nhập khẩu cho trước, mức độ giảm nhập khẩu phụ thuộc vào hệ số góc của đường cung và đường cầu nội địa. Các đường này càng co giãn thì một mức tăng nhất định của giá nội địa đã có thuế nhập khẩu sẽ càng làm giảm mức nhập khẩu. Trái lại, khi cả 2 đường đều rất dốc thì mức tăng do thuế trong giá nội địa sẽ có ảnh hưởng nhỏ tới lượng cung và lượng cầu, do đó ảnh hưởng ít đến số lượng nhập khẩu. Bên cạnh việc sử dụng thuế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước, các nước còn sử dụng thuế nhập khẩu để khuyến khích xuất khẩu thông qua việc không thu thuế hoặc áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu; hạ thấp, không thu thuế, hoàn thuế thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu dùng để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, bằng việc thay đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu, Nhà nước cũng có thể áp đặt ý muốn chủ quan của mình về việc muốn khuyến khích phát triển ngành nào hoặc hạn chế sự phát triển của ngành nào thông qua việc giảm thuế suất hoặc tăng thuế suất đối với các ngành đó. Việc làm này đã gián tiếp góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự thâm nhập của hàng hoá quốc tế vào Việt Nam. Thứ tư, khẳng định chủ quyền quốc gia và chống phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. Hai đặc quyền cơ bản của việc thu thuế đối với mỗi quốc gia là : quyền đối với đối tượng cư trú và quyền đối với thu nhập phát sinh từ quốc gia đó. Một quốc gia có quyền đánh thuế vào hàng hoá được tiêu thụ ở chính quốc gia của mình, hay nói một cách khác là có quyền đánh thuế vào nguồn thu nhập phát sinh tại chính lãnh thổ mình quản lý; nếu từ bỏ quyền này cũng đồng nghĩa với việc tự mình đánh mất đi chủ quyền quốc gia. Mặt khác, trước xu thế toàn cầu hoá thì sự khác nhau về chính sách thuế giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển càng trở nên rõ rệt. Bởi vậy, thuế nhập khẩu sẽ là cầu nối quan trọng giúp cho các quốc gia đang phát triển chống lại sự phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. Thứ năm, thuế nhập khẩu là công cụ thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần giải quyết việc làm và thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia. Với quan điểm cho rằng thuế nhập khẩu là một công cụ thu hút đầu tư nước ngoài, một số nhà kinh tế học đã cho rằng : bằng cách đánh thuế nhập khẩu ở mức cao, nước đánh thuế đã gửi thông điệp kêu gọi các nhà sản xuất ở các quốc gia khác đến đầu tư sản xuất tại nước mình. Thay vì xuất khẩu hàng hoá, các nhà sản xuất có thể chuyển vốn, thiết bị, công nghệ tới nước đánh thuế nhập khẩu cao để sản xuất hàng hoá tại đó. Việc làm này đã làm tăng đầu tư nước ngoài vào quốc gia thực hiện việc đánh thuế. Cùng với việc thu hút đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho người lao động, người tiêu dùng của nước đánh thuế nhập khẩu còn được mua hàng có giá trị tương đương hàng nhập khẩu nhưng giá rẻ hơn hàng nhập khẩu cùng loại sản xuất ở chính quốc. 1.2. Nội dung của chính sách thuế nhập khẩu. Chính sách thuế nhập khẩu nói chung ở tất cả các quốc gia trên thế giới thường bao gồm các nội dung cơ bản sau: 1.2.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng. a. Đối tượng chịu thuế. Hàng hoá được phép nhập khẩu quy định tại Điều 1 Nghị định số 54/CP ngày 28/08/1993 của Chính phủ đều là đối tượng chịu thuế nhập khẩu; trừ những trường hợp sau: * Hàng quá cảnh và mượn đường qua lãnh thổ Việt Nam. * Hàng kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu. * Hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan; Hàng hoá từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hoá đưa từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan này sang khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan khác trong lãnh thổ Việt Nam; Hàng hoá nhập khẩu vào các khu vực được phép miễn thuế theo quy định của Chính phủ. * Hàng viện trợ nhân đạo. Trừ một số loại hàng hoá cấm nhập khẩu vào Việt Nam do ảnh hưởng tới an ninh trật tự và đời sống xã hội, số còn lại đều có thể nhập khẩu. b. Đối tượng nộp thuế. Mọi tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá hoặc nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu đều là đối tượng nộp thuế nhập khẩu. * Cá nhân là đối tượng nộp thuế nhập khẩu khi cá nhân, hộ kinh doanh cá thể trực tiếp đứng ra nhập khẩu hàng hoá hoặc nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá. * Tổ chức được coi là đối tượng nộp thuế nhập khẩu khi tổ chức, đơn vị đó có tư cách pháp nhân, trực tiếp đứng ra nhập khẩu và nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá hoặc được thuê làm dịch vụ kê khai, nộp thuế nhập khẩu. 1.2.2. Căn cứ tính thuế nhập khẩu. Căn cứ tính thuế nhập khẩu là số lượng hàng hoá, giá tính thuế và thuế suất của mặt hàng nhập khẩu. a. Số lượng hàng hoá nhập khẩu. Số lượng hàng hoá nhập khẩu làm căn cứ tính thuế là số lượng từng mặt hàng thực tế nhập khẩu. b. Giá tính thuế, tỷ giá tính thuế, đồng tiền nộp thuế. Có hai phương pháp xác định giá tính thuế đó là: Thứ nhất, phương pháp xác định giá tính thuế nhập khẩu bằng giá tối thiểu. Theo quy định hiện hành, hàng hoá nhập khẩu chịu thuế nhập khẩu tính trên giá tính thuế tối thiểu nếu giá của mặt hàng đó ghi trong hợp đồng thấp hơn giá tham chiếu trong bảng giá tính thuế tối thiểu. Tuy nhiên, hệ thống xác định trị giá tính thuế hiện hành còn mang nặng tính áp đặt chủ quan của các cơ quan quản lý chứ không phải là giá CIF do người nhập khẩu khai báo. Gi¸ tham kh¶o trªn thùc tÕ th­êng ®­îc biÕn thµnh c«ng cô b¶o hé. Trong nhiÒu tr­êng hîp râ rµng lµ gi¸ tham kh¶o cã cao h¬n ®¸ng kÓ so víi gi¸ hiÖn hµnh trªn thÞ tr­êng thÕ giíi. Bªn c¹nh ®ã, gi¸ tham kh¶o tÝnh b»ng ngo¹i tÖ (vÝ dô USD) kh«ng ph¶n ¸nh ®­îc ®Çy ®ñ nh÷ng dao ®éng trong c¸c ®iÒu kiÖn hiÖn hµnh cña thÞ tr­êng quèc tÕ vµ tû gi¸ hèi ®o¸i. Kh«ng nh÷ng thÕ, hÖ thèng x¸c ®Þnh trÞ gi¸ tÝnh thuÕ hiÖn hµnh ®­îc x©y dùng dùa trªn nh÷ng nÒn t¶ng ph¸p lý thiÕu tÝnh minh b¹ch, dÔ thay ®æi. ThÓ hiÖn lµ: mÆc dï ®­îc ¸p dông mét c¸ch c«ng khai, nh­ng b¶ng gi¸ tÝnh thuÕ tèi thiÓu th­êng ®­îc c¸c c¬ quan qu¶n lý gi÷ bÝ mËt trong qu¸ tr×nh so¹n th¶o, c¸c doanh nghiÖp kh«ng ®­îc tham gia vµo qu¸ tr×nh x©y dùng nh÷ng nguyªn t¾c x¸c ®Þnh trÞ gi¸ vµ b¶ng gi¸ tèi thiÓu. V× vËy, hÇu hÕt c¸c doanh nghiÖp ®Òu bÞ bÊt ngê trong qu¸ tr×nh "¸p gi¸" qua mçi lÇn söa ®æi, g©y bÊt lîi cho doanh nghiÖp trong viÖc ho¹ch ®Þnh kÕ ho¹ch kinh doanh. Râ rµng viÖc ¸p dông hÖ thèng gi¸ tÝnh thuÕ tuú tiÖn nh­ vËy lµ kh«ng t«n träng nç lùc ®µm ph¸n gi¸ cña ng­êi nhËp khÈu th«ng qua viÖc cµo b»ng vÒ thuÕ, ®ång thêi v« t×nh t¹o nªn m«i tr­êng c¹nh tranh kh«ng lµnh m¹nh gi÷a c¸c doanh nghiÖp, g©y hiÖn t­îng trèn thuÕ vµ thÊt thu cho ng©n s¸ch nhµ n­íc. Thứ hai, phương pháp xác định giá tính thuế nhập khẩu theo trị giá GATT. ( Hiệp định chung về thương mại và thuế quan ) Đối với hệ thống giá tính thuế tối thiểu cần phải được thay thế bằng một hệ thống xác định trị giá tính thuế hiện đại hơn, thông thoáng hơn, hoạt động theo những nguyên tắc công bằng, bình đẳng, thống nhất, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà nhập khẩu và lợi ích của Nhà nước, thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Việc xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO không những đáp ứng được yêu cầu này mà còn đảm bảo cho Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ của mình trong những cam kết quốc tế. Hệ thống xác định trị giá theo GATT/WTO: Trị giá Hải quan là trị giá giao dịch của hàng hoá đó- là giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hoá trong giao dịch bán hàng để xuất khẩu đến nước nhập khẩu, do người nhập khẩu - người mua trả trực tiếp hay gián tiếp cho người xuất khẩu - người bán; giá thực tế phải thanh toán của hàng hoá không chỉ gồm giá ghi trên hoá đơn mua bán hàng giữa người mua và người bán mà còn có cả những chi phí do người mua chịu. Các chi phí này được gọi là các khoản điều chỉnh, chia thành 2 nhóm chính: Các khoản điều chỉnh bắt buộc như hoa hồng, môi giới, chi phí thuê thùng đựng hàng, chi phí nguyên vật liệu và nhân công gói hàng.v.v, các khoản điều chỉnh không bắt buộc, như chi phí vận tải hàng hoá đến cảng nước nhập khẩu, chi phí bảo hiểm hàng hoá đến cảng nước nhập khẩu, chi phí liên quan đến việc xếp hàng lên tàu, dỡ hàng, chuyển hàng, sang mạn.v.v. áp dụng Hiệp định này sẽ đem lại cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu một số lợi ích: - Trị giá tính thuế được xác định theo trị giá giao dịch trong chừng mực lớn nhất có thể, hoặc được xác định theo một trị giá gần gũi nhất với giá thực tế mua bán của hàng hoá. Như vậy, doanh nghiệp chỉ phải nộp một khoản thuế đúng theo giá thực thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu chứ không phải trên cơ sở giá tính thuế áp đặt, tất cả các vướng mắc về trị giá giao dịch sẽ được kiểm tra lại và giải thích sau khi hàng hoá được giải phóng. - Nâng cao tính tích cực, chủ động trong doanh nghiệp do hệ thống các nguyên tắc xác định giá mới mang tính rõ ràng, ổn định và hoàn chỉnh nên các doanh nghiệp có thể xây dựng những kế hoạch kinh doanh lâu dài mà không sợ ảnh hưởng bởi những thay đổi về chính sách quản lý giá. - Với cơ chế xác định giá trị tính thuế ổn định, quy trình thủ tục xác định giá đơn giản, hàng hoá được giải phóng nhanh, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp bán hàng và thu hồi vốn. - Doanh nghiệp được quyền tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước những quy định về trị giá tính thuế của cơ quan Hải quan mà họ cho là không hợp lý. ª Giá tính thuế được tính bằng đồng Việt Nam và được thực hiện như sau: * Đối với hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá. - Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư số 118/2003/TT/BTC ngày 8/12/2003 của Bộ Tài chính, hướng dẫn Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá tính thuế đố với hàng nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7- Hiệp định chung về thuế quan và thương mại thì giá tính thuế được xác định theo hướng dẫn tại Thông tư số 118/2003/TT/BTC nêu trên. - Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá nhưng không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư số 118/2003/TT/BTC ngày 8/12/2003 của Bộ Tài chính thì giá tính thuế là giá thực tế phải thanh toán mà người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán về hàng hóa nhập khẩu. Tổng cục hải quan hướng dẫn cụ thể việc xác định giá tính thuế nêu tại điểm này. - Một số trường hợp đặc biệt được hướng dẫn thêm như sau: + Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải đi thuê thì giá tính thuế nhập khẩu là giá thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải thực phải trả theo hợp đồng đã ký với nước ngoài phù hợp với các chứng từ hợp pháp, hợp lệ có liên quan dến việc đi thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải. + Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải đưa ra nước ngoài để sửa chữa thì giá tính thuế khi nhập khẩu trở lại Việt Nam là chi phí sửa chữa thực phải trả theo hợp đồng đã ký với nước ngoài phù hợp với các chứng từ hợp pháp, hợp lệ có liên quan đến việc sữa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải. Giá thuê thực phải trả hoặc chi phí sửa chữa thực phải trả tại điểm nêu trên nếu chưa bao gồm chi phí vận tải ( F ) và phí bảo hiểm ( I ) thì phải cộng chi phí vận tải và phí bảo hiểm vào để xác định giá tính thuế nhập khẩu. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được các doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hoá thì giá tính thuế nhập khẩu không bao gồm khoản thuế giá tị gia tăng đối với phí bảo hiểm ( I ) và chi phí vận tải ( F ). + Hàng hóa nhập khẩu có bao gồm hàng hoá bảo hành theo hợp đồng mua bán hàng hoá ( kể cả hàng hoá gửi sau) nhưng giá ghi trên hợp đồng mua bán hàng hoá không tính thanh toán riêng đối với số hàng hoá bảo hành thì giá tính thuế là giá bao gồm cả trị giá hàng hoá bảo hành. + Hàng nhập khẩu thuộc đối tượng được miễn thuế, tạm miễn thuế, đã đưa vào sử dụng tại Việt Nam nhưng sau đó được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển nhượng hoặc thay đổi mục đích được miễn thuế, tạm miễn thuế trước đây phải nộp thuế thì giá tính thuế nhập khẩu được xác định dựa trên cơ sở giá trị còn lại của hàng hoá tính theo thời gian sử dụng và lưu lại tại Việt Nam ( tính từ thời điểm nhập khẩu đến thời điểm tính thuế ) và được xác định cụ thể như sau: Bảng 1: Giá tính thuế đối với hàng hoá mới ( chưa qua sử dụng ). Đơn vị tính: % Thời gian sử dụng và lưu lại tại Việt Nam Giá tính thuế nhập khẩu = ( % ) Giá hàng hoá mới tại thời điểm tính thuế Từ 6 tháng trở xuống (được tính tròn là 183 ngày) 90% Từ trên 6 tháng đến 1 năm (được tính tròn là 365 ngày) 80% Từ trên 1 năm đến 2 năm 70% Từ trên 2 năm đến 3 năm 60% Từ trên 3 năm đến 5 năm 50% Từ trên 5 năm 40% Nguồn: Thông tư số 87/2004/TT/BTC ngày 31/8/2004 của Bộ Tài chính Bảng 2: Giá tính thuế đối với loại hàng hoá đã qua sử dụng. Đơn vị tính: % Thời gian sử dụng và lưu lại tại Việt Nam Giá tính thuế nhập khẩu = ( % ) Giá hàng hoá mới tại thời điểm tính thuế Từ 6 tháng trở xuống (được tính tròn là 183 ngày) 60% Từ trên 6 tháng đến 1 năm (được tính tròn là 365 ngày) 50% Từ trên 1 năm đến 2 năm 40% Từ trên 2 năm đến 3 năm 35% Từ trên 3 năm đến 5 năm 30% Từ trên 5 năm 20% Nguồn: Thông tư số 87/2004/TT/BTC ngày 31/8/2004 của Bộ Tài chính * Đối với hàng hoá nhập khẩu không theo hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc hợp đồng không phù hợp theo quy định tại Luật Thương mại thì giá tính thuế nhập khẩu do Cục Hải quan địa phương quy định. Tổng cục Hải quan hướng dẫn cụ thể phương pháp xác định giá tính thuế theo nguyên tắc phù hợp với giá giao dịch trên thị trường nhằm chống gian lận thương mại qua giá. ªTỷ giá tính thuế. Tỷ giá làm cơ sở để xác định giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố được đăng trên báo Nhân dân hàng ngày. Trường hợp vào các ngày không phát hành báo Nhân dân hàng ngày (hoặc có phát hành nhưng không thông báo tỷ giá) hoặc thông tin không đến được cửa khẩu trong ngày thì tỷ giá tính thuế của ngày hôm đó được áp dụng theo tỷ giá tính thuế của ngày liền kề trước đó. Đối với các đồng ngoại tệ không có giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng thì xác định theo nguyên tắc tỷ giá tính chéo giữa tỷ giá đồng đô la Mỹ (USD) với đồng Việt Nam giao dịch bình quân trên thị trường liên Ngân hàng và tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ với các ngoại tệ khác trên thị trường quốc tế do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố. ª Đồng tiền nộp thuế. Thuế nhập khẩu được nộp bằng đồng Việt Nam. Trường hợp đối tượng nộp thuế muốn nộp thuế bằng ngoại tệ thì phải nộp bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố. c. Thuế suất. Thông thường thuế suất thuế nhập khẩu được xây dựng theo 3 cấp độ: Thứ nhất, cấp độ bảo hộ thông thường. Thứ hai, cấp độ bảo hộ triệt để. Thứ ba, cấp độ bảo hộ th ấp hay không bảo hộ. Tương ứng với mỗi cấp độ bảo hộ thì có một loại thuế suất riêng tượng ứng với nó, bao gồm: Thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường, cụ thể như sau: * Thuế suất ưu đãi là thuế suất áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Mức thuế suất ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Điều kiện để được áp dụng thuế suất ưu đãi: - Hàng hoá nhập khẩu phải có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) từ nước hoặc khối nước đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Nước hoặc khối nước đó phải nằm trong danh sách các nước hoặc khối nước do Bộ Thương mại thông báo đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. - Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) phải phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. * Thuế suất ưu đãi đặc biệt là thuế suất được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước mà Việt Nam và nước hoặc khối n._.ước đó đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. Thuế suất ưu đãi đặc biệt được áp dụng cụ thể cho từng mặt hàng theo quy định trong thoả thuận. Điều kiện để được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt: - Hàng hoá nhập khẩu phải có giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) từ nước hoặc khối nước đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu đối với Việt Nam. Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) phải phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. - Hàng hoá nhập khẩu phải là những mặt hàng được quy định cụ thể trong Danh mục hàng hoá được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt cho từng nước hoặc khối nước do Chính phủ hoặc các cơ quan được Chính phủ uỷ quyền công bố. - Các điều kiện khác (nếu có) để được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt thực hiện theo quy định cụ thể tại các văn bản hướng dẫn riêng cho từng nước hoặc khối nước mà Việt Nam có cam kết về thuế suất ưu đãi đặc biệt. Đối với các trường hợp chưa xuất trình được (C/O) theo đúng quy định khi làm thủ tục hải quan, cơ quan Hải quan vẫn tính thuế theo mức thuế suất ưu đãi đặc biệt hoặc thuế suất ưu đãi theo cam kết và kê khai của đối tượng nộp thuế. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày đăng ký Tờ khai hàng hoá hàng hoá nhập khẩu, đối tượng nộp thuế phải xuất trình (C/O) theo đúng quy định cho cơ quan Hải quan. Trường hợp không xuất trình được C/O theo đúng quy định thì cơ quan Hải quan tính lại thuế và xử phạt vi phạm theo quy định hiện hành. * Thuế suất thông thường là thuế suất được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước mà Việt Nam không có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc hoặc không có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu. Thuế suất thông thường cao hơn không quá 70% (bảy mươi phần trăm) so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi và được tính như sau: Thuế suất = Thuế suất + Thuế suất ´ 70% Thông thường ưu đãi ưu đãi * Hàng hoá nhập khẩu trong một số trường hợp thuộc diện phải chịu thuế bổ sung, thuế suất theo hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối được thực hiện theo văn bản hướng dẫn riêng. Cụ thể như sau: - Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hoá đó quá thấp so với giá thông thường của hàng hoá cùng loại do có sự trợ cấp của nước xuất khẩu, gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự của Việt Nam. - Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ nước mà nước đó có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đối xử khác đối với hàng hoá của Việt Nam. Thông qua việc quy định 3 loại thuế suất thuế nhập khẩu (thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất thông thường) để áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu từ nước hoặc khối nước có quan hệ thương mại khác nhau đối với Việt Nam đã góp phần thúc đẩy các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam nhưng chưa ký kết Hiệp định thương mại về đối xử tối huệ quốc với Việt Nam thực hiện ký kết Hiệp định thương mại với Việt Nam (Hiệp định Việt Nam-Hoa Kỳ được ký trong bối cảnh như vậy). Hoặc quy định thuế bổ sung nhằm tạo cơ sở răn đe những nước, những tổ chức có các hành vi này đối với Việt Nam. 1.2.3. Phương pháp tính thuế nhập khẩu. Số thuế Số lượng hàng hoá Giá Thuế suất nhập khẩu = nhập khẩu ´ tính ´ từng phải nộp thực tế thuế mặt hàng Có thể sử dụng một trong những phương pháp sau để xác định số thuế nhập khẩu phải nộp cho Nhà nước đó là: * Thứ nhất, phương pháp tính thuế theo tỷ lệ. Thuế nhập khẩu được tính theo một tỷ lệ phần trăm (%) trên giá trị thực tế của hàng hoá nhập khẩu. Số thuế nhập khẩu phải nộp theo tỷ lệ phần trăm sẽ thay đổi tuỳ theo trị giá nhập khẩu thực tế của hàng hoá. Chẳng hạn như quy định thuế nhập khẩu phải nộp của một lít xăng là 20% / giá nhập khẩu của một lít xăng. Phương pháp tính thuế này có ưu điểm là đơn giản, dễ tính nên được áp dụng rộng rãi và phổ biến hiện nay trên thế giới trong việc tính thuế nhập khẩu cho các hàng hoá nhập khẩu. * Thứ hai, phương pháp tính thuế theo đơn vị hàng hoá. Thuế nhập khẩu được tính theo đơn vị hàng hoá nhập khẩu (gọi là thuế tuyệt đối). Số thuế được tính theo một số tiền nhất định cho mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Đây là hình thức thuế phức tạp và đòi hỏi rất khoa học khi tính toán xây dựng số tiền thuế phải nộp nhưng lại đơn giản trong khi thu thuế. Do thu thuế theo một số tiền cụ thể nên số thuế thu được không phụ thuộc vào giá kê khai. Ví dụ quy định thuế nhập khẩu phải nộp là 500 VN đồng/ một lít xăng nhập khẩu không phân biệt giá nhập khẩu là bao nhiêu. Phương pháp này tuy đơn giản ở khâu thu thuế nhưng lại rất khó khăn trong việc xác định số tiền thuế phải nộp cho mỗi đơn vị hàng hoá. Vì vây, nó không được áp dụng phổ biến như phương pháp tính thuế tỷ lệ. Phương pháp này thường được sử dụng trong trường hợp Nhà nước muốn làm cho thị trường tiêu dùng trong nước trở thành thị trường hàng hoá cao cấp. * Thứ ba, phương pháp tính thuế kết hợp. Thuế nhập khẩu hỗn hợp là phương pháp tính thuế dựa theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng hoá sau đó cộng với mức thuế tính theo đơn vị hàng hoá. Đây là trường hợp áp dụng kết hợp của thuế tuyệt đối và thuế theo tỷ lệ. Ví dụ, quy định thu thuế nhập khẩu đối với xăng nhập khẩu là thu thuế nhập khẩu 15% + 30 USD / tấn. Phương pháp tính thuế này cũng ít được áp dụng phổi biến bởi vì rất phức tạp trong khâu tính thuế nhập khẩu cho các mặt hàng nhập khẩu, đặc biệt là việc tính thuế nhập khẩu cho nhiều mặt hàng cùng một lúc. * Thứ tư, phương pháp tính thuế theo hạn ngạch hàng hoá nhập khẩu (hạn ngạch thuế quan). Hạn ngạch thuế quan là việc áp dụng mức thuế suất thấp (đôi khi bằng không) cho một lượng nhập khẩu cụ thể của một hàng hoá xác định gọi là thuế trong hạn ngạch và áp dụng thuế suất cao hơn cho lượng nhập khẩu vượt quá mức hạn ngạch cho phép gọi là thuế ngoài hạn ngạch. Hạn ngạch thuế quan một mặt vừa đảm bảo cho các nước vẫn có thể duy trì được mức bảo hộ tương đương, mặt khác tạo cơ hội thâm nhập thị trường cho hàng hoá của các nước khác vào thị trường trong nước, góp phần thực hiện từng bước tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Cơ chế tác động của hạn ngạch thuế quan đối với hàng nhập khẩu: Hạn ngạch thuế quan có thể tác động đến động cơ nhập khẩu của các nhà nhập khẩu. Ảnh hưởng của hạn ngạch thuế quan đối với thương mại phụ thuộc vào lượng cầu nhập khẩu. Trường hợp 1: Nếu nhu cầu nhập khẩu trong nước không đủ lớn để hỗ trợ nhập khẩu ở mức giá thế giới, thậm chí ngay cả khi không có thuế trong hạn ngạch thì sẽ không có nhập khẩu, vì khi đó nhập khẩu là không có lãi (Đường cầu nhập khẩu 1). Trường hợp 2: Cầu nhập khẩu trong nước tăng dẫn đến nhập khẩu trong hạn ngạch là có lãi nhưng nhu cầu này không đủ lớn để nhập khẩu hết hạn ngạch. Do đó, hạn ngạch thuế quan trong trường hợp này chỉ có tác dụng như thuế nhập khẩu thông thường với mức thuế suất trong hạn ngạch. (Đường cầu nhập khẩu 2). Trường hợp 3: Nhu cầu nhập khẩu trong nước đủ lớn để nhập khẩu hết hạn ngạch nhưng không đủ để nhập khẩu vượt quá hạn ngạch mà vẫn có lãi. Như vậy, các nhà nhập khẩu sẽ muốn có được cơ hội nhập khẩu trong hạn ngạch để hưởng thuế suất thấp. Ngoài ra, cơ hội được nhập khẩu trong hạn ngạch còn tạo điều kiện cho nhà nhập khẩu kiếm lợi mà không phải chịu rủi ro đối với lô hàng nhập khẩu vì nhu cầu trong nước là xác định. Do có rất nhiều nhà nhập khẩu muốn được như vậy nên việc tiến hành phân bổ hạn ngạch cho các nhà nhập khẩu là cần thiết. Trong trường hợp này xuất hiện khái niệm lãi hạn ngạch, đây là phần chênh lệch giữa giá trong nước và giá thế giới đã tính thuế trong hạn ngạch mà nhà nhập khẩu trong hạn ngạch sẽ được hưởng. Trên thực tế, khi phân bổ hạn ngạch bằng đấu giá, các nhà nhập khẩu sẽ trả giá cho quyền được nhập khẩu trong hạn ngạch xấp xỉ bằng phần lãi hạn ngạch này. (Đường cầu nhập khẩu 3). Đồ thị 2 Ghi chú: W: Giá thế giới (quy ước bằng 1); P: Giá trong nước; Q: Hạn ngạch t: Thuế trong hạn ngạch; T: Thuế ngoài hạn ngạch (t < T) Trường hợp 4: Nhu cầu trong nước khá lớn, đủ để nhập khẩu vượt quá hạn ngạch vẫn có lãi, lúc này lượng nhập khẩu không còn bị giới hạn bởi hạn ngạch nữa vì cho dù thuế ngoài hạn ngạch có cao thì nhà nhập khẩu vẫn có lãi khi nhập khẩu vượt quá. Tuy nhiên, trường hợp này cũng cần phải phân bổ hạn ngạch cho các nhà nhập khẩu vì nhập khẩu trong hạn ngạch sẽ đem lại cho nhà nhập khẩu nhiều lợi nhuận hơn và ít rủi ro hơn là nhập khẩu ngoài hạn ngạch. (Đường cầu nh?p kh?u 4) Như vậy, so với thuế nhập khẩu thông thường, hạn ngạch thuế quan tạo ra nhiều nấc thang nhập khẩu hơn và có khả năng tự động điều chỉnh lượng hàng nhập khẩu theo những biến động của nhu cầu nhập khẩu trong nước. Nước nhập khẩu có thể khống chế được lượng hàng nhập vào nước mình thông qua việc điều chỉnh thuế suất trong hoặc ngoài hạn ngạch. 1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với chính sách thuế nhập khẩu. Trên thế giới hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế mà cao rộng hơn là toàn cầu hoá đang là một xu thế tất yếu không thể nào khác được. WTO là một siêu thị quốc tế, có tác dụng tích cực cho sự phát triển của mỗi quốc gia.Gia nhập WTO là một bước đi cần thiết của Việt Nam để hội nhập vào toàn cầu hoá, vào WTO cũng để tự bảo vệ mình. Bởi vì, tổ chức thương mại thế giới lớn nhất thế giới này có những “luật chơi” chung nhằm đảm bảo sự công bằng lớn nhất có thể cho các thành viên. Gia nhập WTO không chỉ để mở rộng thị trường buôn bán mà hơn nữa mỗi quốc gia sẽ có một khuôn khổ để tự bảo vệ mình; đó là cơ sở giải quyết các tranh chấp thương mại mà không phải dựa vào các hiệp định song phương và các hiệp định khu vực. Thực tế vụ kiện giữa Mỹ và Costa Rica đã cho thấy nước lớn cũng có thể bị thất bại. Việc thiết lập toà án quốc tế này đã làm cho hiệu quả của hệ thống thương mại đa biên được nâng cao. Vào WTO, những nước yếu như Việt Nam sẽ có quyền thương lượng và khiếu nại một cách công bằng hơn với các cường quốc thương mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ chung. Những tác động của hội nhập tới chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam: Thứ nhất, hội nhập tác động tới việc đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước. Cùng với các loại thuế khác, thuế nhập khẩu đã trở thành một nguồn thu lớn và ổn định góp phần đảm bảo mức huy động cho NSNN của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao. Trong những năm tới, khi mà Việt Nam chính thức tham gia hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới thì việc cắt giảm thuế suất theo lộ trình gia nhập AFTA và giảm thuế nhiều mặt hàng nhập khẩu là nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành sản xuất trong nước là việc làm bắt buộc và cần thiết. Vì vậy mà tỷ trọng thuế nhập khẩu trong tổng thu NSNN chắc chắn sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, nếu tính cả thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng đánh vào hàng hoá nhập khẩu thì tổng thu từ nguồn này vẫn ổn định, nếu như không muốn nói là vẫn tăng. Vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức thương mại trong khu vực và trên thế giới thì thuế nhập khẩu vẫn sẽ phải đảm nhận vai trò đảm bảo nguồn thu cho NSNN, mặc dù chúng ta đều biết rằng để thực hiện được điều này hoàn toàn không phải dễ. Thứ hai, hội nhập tác động tới việc bảo hộ sản xuất trong nước. Khi chúng ta đã mở cửa để hội nhập cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận sự tấn công ồ ạt của hàng hoá quốc tế vào thị trường Việt Nam. Lúc này mọi sự đối xử, phân biệt đều bị dỡ bỏ, tất cả đều bình đẳng và theo đúng thông lệ quốc tế. Vì vậy, việc bảo hộ của Nhà nước đối với nền sản xuất trong nước dường như không còn có tác dụng. Một số ngành sản xuất non yếu không đủ sức cạnh tranh thì sẽ bị tiêu diệt và ngược lại, ngành nào đủ sức cạnh tranh thì sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển. Đây là một thực tế mà chúng ta phải chấp nhận khi tham gia hội nhập. Thứ ba, hội nhập tác động tới vấn đề gian lận thương mại. Việc tính thuế đôi lúc còn tuỳ tiện ở các cửa khẩu biên giới, cộng với tình trạng đánh thuế quá cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu đã dẫn đến tình trạng nhập lậu gia tăng, hàng ngoại lấn át hàng nội, làm cho hàng hoá sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài và gây thiệt hại nhiều cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc buông lỏng quản lý, không giám sát chặt chẽ tình hình hoạt động của các doanh nghiệp ở các cơ quan quản lý thuế đã giúp cho đối tượng nộp thuế có cơ hội trốn thuế và tránh thuế gây ra hiện tượng thất thu thuế cho NSNN. Thứ tư, hội nhập tác động tới cơ cấu kinh tế Việt Nam. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành xây dựng một cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo cả ngành và lĩnh vực. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải hết sức coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp. Tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, tạo điều kiện để phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn liền với các làng nghề, các loại hình sản xuất trang trại, hợp tác xã, sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Tất cả những yêu cầu trên đều là những đòi hỏi của quá trình hội nhập, chúng ta muốn hội nhập thành công thì cần phải làm tốt được những điều đó. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 2.1. Những đóng góp của thuế nhập khẩu đối với kinh tế Việt Nam. 2.1.1. Góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Cùng với các loại thuế khác, thuế nhập khẩu đã trở thành một nguồn thu lớn và ổn định góp phần đảm bảo mức huy động cho NSNN của Việt Nam luôn duy trì ở mức 20%-22% GDP. Trong những năm 1992-1997, tỷ trọng thuế xuất, nhập khẩu trong tổng thu NSNN luôn chiếm 21,36%, trong đó thu từ thuế nhập khẩu là 19,3%, từ thuế xuất khẩu là 2,06%. Trong giai đoạn 1999-2004, do việc cắt giảm thuế xuất theo lộ trình gia nhập AFTA và giảm thuế nhiều mặt hàng nhập khẩu là nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành sản xuất trong nước, vì vậy mà tỷ trọng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong tổng thu NSNN đã giảm xuống còn 15,9%. Tuy nhiên, nếu tính cả thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng đánh vào hàng hoá xuất, nhập khẩu thì tổng thu từ nguồn này chiếm tới 31% tổng thu NSNN. Dựa vào bảng số liệu dưới đây chúng ta có thể thấy rằng: số thu thuế xuất, nhập khẩu từ năm 1998 không tăng , thậm chí có năm còn giảm là do các nguyên nhân sau: - Đã thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu của hơn 5.500 / tổng số hơn 6.400 dòng thuế của Biểu thuế nhập khẩu để thực hiện Hiệp định CEPT/ AFTA. - Đã thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu của hơn 400 / tổng số hơn 6.400 dòng thuế của Biểu thuế nhập khẩu để thực hiện Hiệp định hàng dệt may với EU. - Đã giảm thuế nhập khẩu của hơn 1000 / tổng số hơn 6400 dòng thuế của Biểu thuế nhập khẩu để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu thực hiện thuế giá trị gia tăng. Bảng 3: Tỷ trọng thuế xuất, nhập khẩu trong tổng số thu về thuế giai đoạn 1998-2005. Đơn vị tính: % Năm Tổng kim ngạch XNK (triệu USD) Thuế GTGT hàng hoá XNK (tỷ đồng) Thuế TTĐB hàng hoá XNK (tỷ đồng) Thuế XNK hàng hoá XNK (tỷ đồng) Tổng thu thuế từ hàng hoá XNK (tỷ đồng) Tỷ lệ thuế XNK so với tổng thu về thuế (%) 1998 20,81 Chưa có 864 14.104 16.657 20,52 1999 23,14 8.162 847 13.800 23.669 17,47 2000 30,07 10.718 1.139 12.285 24.417 14,27 2001 31,19 13.480 1.347 15.306 30.320 14,48 2002 35,28 15.287 1.526 19.571 36.402 13,84 2003 39,60 18.423 1.837 22.603 42.945 12,92 2004 43,56 22.549 2.269 25.568 50.482 11,48 2005 47,91 26.285 2.638 28.483 57.506 10,62 Nguồn: Tổng cục thuế- Bộ Tài chính Website: WWW.GDT.GOV.VN Tuy mức thuế suất thuế nhập khẩu của nhiều mặt hàng đã được giảm đi nhưng: - Số thu về thuế xuất, nhập khẩu của năm 2001 tăng so với những năm trước là do trong thời gian qua đã luôn rà soát để sửa đổi tăng thuế của những mặt hàng có mức thuế suất thấp, tăng thuế kịp thời mặt hàng xăng dầu, tăng cường kiểm soát chống trốn lậu thuế. - Tổng số thu về thuế từ hàng nhập khẩu (gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt) lại tăng cao hơn nhiều so với trước khi chỉ thu thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu. Trong những năm tới, khi Việt Nam chính thức gia nhập các tổ chức thương mại trong khu vực và trên thế giới thì thuế nhập khẩu vẫn sẽ phải đảm nhận vai trò đảm bảo nguồn thu cho NSNN. 2.1.2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ban hành từ năm 1991, Quốc hội đã đưa ra hai quy định quan trọng đảm bảo cho việc chủ động tham đàm phán vào các tổ chức thương mại trong khu vực và trên thế giới, đó là tại Điều 4: Hàng hoá xuất, nhập khẩu theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thực hiện theo điều ước quốc tế. Và tại Điều 8 quy định: Căn cứ vào chính sách xuất, nhập khẩu trong từng thời kỳ, uỷ ban Thường Vụ Quốc hội quy định Biểu thuế theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thế suất đối với từng nhóm hàng. Căn cứ vào Biểu thuế do uỷ ban Thường Vụ Quốc hội ban hành, Chính phủ quy định Biểu thuế cụ thể theo danh mục mặt hàng và thuế suất đối với từng mặt hàng. Các quy định này đã tạo ra sự chủ động, linh hoạt trong việc điều chỉnh các mức thuế suất đáp ứng kịp thời những yêu cầu trong quá trình đàm phán gia nhập các tổ chức thương mại và các cam kết quốc tế. Các cam kết khu vực và quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và sẽ tham gia về thuế nhập khẩu bao gồm: * Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu để thực hiện khu vực mậu dịch tự do AFTA / ASEAN. * Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu hàng dệt may trong Hiệp định thương mại hàng dệt may giữa Việt Nam với Cộng đồng Châu Âu (EU). * Cam kết về việc xoá bỏ chính sách phân biệt đối xử quốc gia, xoá bỏ biện pháp cấm và hạn chế nhập khẩu bằng giấy phép, chuyển sang bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu trong Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ. * Cam kết với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) về xoá bỏ biện pháp cấm và hạn chế nhập khẩu bằng giấy phép, chuyển sang bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu nhưng không được vượt quá mức thuế trần tối đa. * Những nghĩa vụ phải thực hiện về thuế nhập khẩu khi trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Tính đến nay, Việt Nam đã thực hiện đúng lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu để thực hiện CEPT / AFTA; chúng ta cũng đã thực hiện đàm phán với nhiều quốc gia để có thể tham gia gia nhập WTO, đồng thời cũng đã cắt giảm thuế nhập khẩu cho các nhóm hàng nhằm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, Hiệp định dệt may Việt Nam- EU. Theo dự báo của Tổng cục thuế, nếu nước ta tiếp tục cắt giảm thuế nhập khẩu với ASEAN, EU, Hoa Kỳ theo đúng tiến độ cam kết và không có những sửa đổi thích hợp về Biểu thuế, giá tính thuế, các ưu đãi thuế, quản lý thuế.v.v… thì trong thời gian tới tỷ trọng thuế xuất, nhập khẩu trong tổng thu NSNN sẽ giảm đáng kể.Bảng số liệu dưới đây sẽ cho chúng ta thấy mức độ giảm thu đó: Bảng 4: Tỷ trọng thuế xuất, nhập khẩu trong tổng thu NSNN giai đoạn 2002-2006. Đơn vị tính: % Năm Thuế xuất, nhập khẩu (Tỷ đồng) Tổng thu NSNN (Tỷ đồng) Thuế xuất, nhập khẩu/S Thu NSNN (%) 2002 19.571 123.860 15,8 2003 22.603 152.272 14,8 2004 25.568 149.320 17,1 2005 28.493 170.000 16,8 Dự báo Năm 2006 29.500 237.900 12,4 Nguồn: Quyết toán NSNN các năm- Bộ Tài chính. Website: WWW.MOF.GOV.VN Theo dự toán của Tổng cục thuế , mức độ giảm thu NSNN từ thuế nhập khẩu giai đoạn 2003- 2010 trong điều kiện thực hiện cắt giảm và không thực hiện cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế được thể hiện cụ thể trong bảng số liệu sau: Bảng 5: Bảng dự kiến số thu thuế xuất, nhập khẩu giai đoạn 2003-2010 trong điều kiện cắt giảm và không cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế. Năm dự kiến Kim ngạch XNK dự kiến (Triệu USD) Số thuế XNK dự kiến khi cắt giảm (Tỷ đồng) Số thuế XNK dự kiến nếu không cắt giảm (Tỷ đồng) Chênh lệch số thuế XNK dự kiến khi cắt giảm và không cắt giảm (Tỷ đồng) ( 1 ) ( 2 ) ( 3 ) ( 4 ) ( 5= 4-3 ) 2003 39.600 22.000 23.160 1.160 2004 43.560 25.400 27.097 1.697 2005 47.916 26.000 31.600 5.600 2006 52.707 26.200 33.800 7.600 2007 57.984 27.300 34.400 7.100 2008 63.782 28.800 36.900 8.100 2009 70.160 30.900 40.200 9.300 2010 77.176 32.400 43.000 10.600 Nguồn: Tổng cục thuế- Bộ Tài chính Website: WWW.GDT.GOV.VN Ghi chú: Bảng trên được tính toán với giả thiết kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân 10% / năm, tỷ giá 15.500 / USD, chính sách thuế nhập khẩu quy định vào thời điểm tháng 6/2003. Bài toán đặt ra cho chúng ta trong thời gian tới là phải đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất của sự giảm thu NSNN, tức là phải biết lựa chọn các mặt hàng cắt giảm, bước đi thích hợp, phối hợp với các sắc thuế khác, sửa giảm thuế nhập khẩu những mặt hàng có mức thuế nhập khẩu cao; đồng thời với việc tăng dần mức thuế nhập khẩu của những mặt hàng có mức thuế nhập khẩu thấp, cải tiến quy trình quản lý thu, tăng cường quản lý chống thất thu NSNN.v.v… Trong nước, việc ổn định thuế suất đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đã góp phần hạn chế những tác động bất lợi do sự biến động về giá trên thị trường thế giới. Ngoài ra, việc quy định ba loại thuế suất đối với thuế nhập khẩu là thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa hỗ trợ tích cực cho quá trình mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. 2.1.3. Bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu. Thuế nhập khẩu được quy định với mức thuế suất phân biệt đối với các loại sản phẩm hàng hoá khác nhau, cụ thể là với hàng hoá trong nước đã sản xuất được hoặc đang khuyến khích trong nước sản xuất thì chịu mức thuế nhập khẩu cao (trên 20%), còn các mặt hàng máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước chưa tự sản xuất được thì áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp (0%-5%). Việc bảo hộ sản xuất trong nước thông qua thuế nhập khẩu đã chuyển hướng tích cực từ bảo hộ theo chiều rộng sang bảo hộ theo chiều sâu. Việc bảo hộ bằng thuế nhập khẩu chỉ tiến hành ở các mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, vì vậu vừa đảm bảo được nguồn thu NSNN vừa phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Không thể phủ nhận vai trò bảo hộ của chính sách thuế nhập khẩu trong hơn 10 năm thực hiện, đã thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những ngành sản xuất trước đây trong nước chưa phát triển, hay mới phát triển ở quy mô nhỏ thì hiện nay đang phát triển một cách nhanh chóng đáp ứng từng bước nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Mấy năm gần đây, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của nước ta tăng nhanh, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá cao như: dệt may, dầu thô, da dày, thuỷ sản, sắt thép, vật liệu xây dựng.v.v…là những minh chứng rõ ràng nhất. Thêm vào đó là việc hầu như không thu thuế với tất cả các mặt hàng xuất khẩu, giảm từ 20 nhóm mặt hàng chịu thuế xuất khẩu xuống còn 6 nhóm mặt hàng. Đồng thời, miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng của các dự án nhằm khuyến khích đầu tư. Bên cạnh đó, việc kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với các loại vật tư nguyên liệu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu đã góp phần tích cực trong việc hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu theo đúng định hướng kinh tế của Nhà nước. 2.2. Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 2.2.1. Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Để quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá qua vùng tự do và vùng bị tạm chiếm nhằm góp phần bảo vệ và phát triển kinh tế của vùng tự do, cùng với nhiều sắc thuế khác, năm 1951, Nhà nước ban hành thuế nhập khẩu lần đầu tiên. Đây là loại thuế được tính trên giá hàng hoá nhập khẩu với thuế suất cao, thấp tuỳ theo yêu cầu hạn chế hay khuyến khích nhập khẩu nhằm đấu tranh kinh tế với địch, có lợi cho ta. Hàng nhập khẩu được hạn chế trong phạm vi hàng cần thiết cho kháng chiến và đời sống nhân dânvùng tự do. Biểu thuế gồm 116 mặt hàng với thuế suất từ 30% trở lên để bảo vệ sản xuất trong vùng tự do. Cuối năm 1954, Nhà nước đã công bố hệ thống thuế mới hoàn chỉnh áp dụng thống nhất trên toàn Miền Bắc, trong đó có thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (Nghị định số 492/ TTg ngày 23/12/1954 của Thủ Tướng chính phủ). Thuế nhập khẩu trong thời kỳ này đánh vào các loại hàng hoá nhập khẩu qua các cửa khẩu Hải Phòng, Vĩnh Linh (Quảng Trị ). Biểu thuế được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ độc lập chủ quyền, bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu. Nghị định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói trên đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ chiến tranh. Bắt đầu từ năm 1975, do đặc điểm của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước độc quyền ngoại thương, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sự trợ giúp của các nước xã hội chủ nghĩa trong khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế), Nhà nước đã cho áp dụng chế độ “thu bù chênh lệch ngoaị thương” đối với hàng hoá nhập khẩu mậu dịch và áp dụng chế độ thu thuế hàng hoá đối với hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch. Ngày 29-12-1987, Quốc hội khoá VIII đã thông qua “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch” để thay thế cho chế độ “Thu bù chênh lệch ngoại thương” trước đây. Đây là Luật thuế đầu tiên của Việt Nam nhằm phục vụ yêu cầu tăng cường quản lý các hoạt động xuất, nhập khẩu mậu dịch của các xí nghiệp trung ương và địa phương đang phát triển, góp phần thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đầu đổi mới, hình thành cơ cấu xuất, nhập khẩu hợp lý, bảo hộ nền sản xuất trong nước, hướng dẫn nhập khẩu và tiêu dùng một cách hợp lý và tạo nguồn thu cho NSNN. Từ năm 1990, Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta chuyển mạnh từ một nền kinh tế đóng sang nền kinh tế mở, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, quan hệ với Liên xô và các nước Đông Âu không còn như cũ, đặc biệt với sự tan rã của khối SEV, quan hệ kinh tế đối ngoại của ta được mở rộng. Trước bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế thay đổi, chính sách thuế nhập khẩu trong thời gian này đã bộc lộ những hạn chế như: phạm vi điều chỉnh hẹp, không còn phù hợp với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới; còn mang nặng tính phân biệt đối xử, thiếu bình đẳng giữa các nước và không còn phù hợp. Để thực hiện mục tiêu bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho NSNN, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, phù hợp với chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, ngày 26-12-1991, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá III đã thông qua “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu” có hiệu lực thi hành từ ngày 01-3-1992. Do yêu cầu về kinh tế- xã hội, Luật thuế này lại được sửa đổi, bổ sung vào tháng 7 năm 1993. Về cơ bản, Luật mới ban hành đã thống nhất được chế độ thu thuế giữa hàng mậu dịch và hàng phi mậu dịch, do đó đối tượng chịu thuế có sự thay đổi. Thuế nhập khẩu đánh vào các hàng hoá nhập khẩu của các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế qua cửa khẩu biên giới Việt Nam, không phân biệt đó là hàng hoá mậu dịch hay hàng hoá phi mậu dịch, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước, Thuế nhập khẩu được tính dựa trên số lượng hàng hoá ghi trên tờ khai hàng hoá nhập khẩu, giá tính thuế và thuế suất của từng mặt hàng đó. Giá tính thuế được quy định đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập theo hợp đồng ngoại thương, kể cả phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải (F). Thuế suất thuế nhập khẩu bao gồm: thuế suất thông thường được quy định trong Biểu thuế và thuế suất ưu đãi do Chính phủ quy định để áp dụng đối với các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam. Biểu thuế nhập khẩu được xây dựng dựa trên “Danh mục mô tả và mã hàng hoá” của tổ chức Hải quan thế giới thay thế cho “Danh mục hàng hoá” theo khối SEV trước đây. Biểu thuế nhập khẩu gồm 36 mức thuế, thấp nhất là mức 0%, áp dụng đối với các mặt hàng hoá chất, thuốc tân dược, máy bay, xe tăng và đa số các máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; cao nhất là mức 200%, áp dụng đối với mặt hàng ô tô con từ năm chỗ ngồi trở xuống. Để thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích sản xuất hàng nhập khẩu, một số chính sách xã hội của Nhà nước, Luật mới ban hành còn quy định một số trường hợp miễn thuế: Hàng tạm nhập tái xuất, hàng tạm xuất tái nhập để dự hội trợ triển lãm, hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo, hàng biếu tặng, hàng là vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia cho phía nước ngoài, hàng là tài sản di chuyển, hàng nhập khẩu thuộc tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao. Nhìn chung Chính sách thuế nhập khẩu trong thời gian này về cơ bản đã thực hiện được yêu cầu đặt ra là: bảo hộ sản xuất trong nước, tăng thu cho NSNN, góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, Luật thuế nhập khẩu bước đầu đã có những nội dung cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, từ đầu năm 1996 nền kinh tế nước ta bắt đ._.ế suất quá thấp. Thứ tư, thực hiện việc cắt giảm thuế nhập khẩu một cách hợp lý, đặc biệt là việc cắt giảm theo lộ trình đã cam kết. 3.2.2. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu đảm bảo bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước Cần thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng có chọn lọc, có hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Để có thể bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước, chúng ta cần tiến hành: Thứ nhất, tiến hành xây dựng lại Biểu thuế nhập khẩu. Sửa đổi Biểu thuế nhập khẩu theo hướng bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, cần công bố lịch trình dài hạn để các doanh nghiệp chủ động xây dựng phương án kinh doanh cho riêng mình. Thứ hai, xây dựng hệ thống các điều kiện bảo hộ hợp lý. Thứ ba, sửa đổi danh mục thuế chi tiết và cụ thể hơn. Thứ tư, tăng cường sử dụng những biện pháp bảo hộ khác. 3.2.3.Tăng cường hơn nữa công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại. Thứ nhất, cải thiện đời sống cho nhân dân các vùng biên giới. Thứ hai, làm tốt công tác tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng. Thứ ba, tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Thứ tư, tăng cường hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước. Thứ năm, hoàn chỉnh hệ thống chính sách pháp luật. 3.2.4. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải tiến tới phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế Để đảm bảo sự tương thích của pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với thông lệ chung, tận dụng cơ hội, hạn chế các bất lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, đàm phán gia nhập WTO nói riêng, chúng ta phải sửa đổi, bổ sung pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp với các cam kết và tập quán thương mại quốc tế. Thứ nhất, xây dựng mức thuế suất hợp lý vừa đảm bảo thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế, vừa phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. a. Thực hiện tăng thuế suất bình quân của Biểu thuế nhập khẩu. Thực hiện tăng thuế suất bình quân của Biểu thuế nhập khẩu bằng cách tăng dần thuế nhập khẩu của các mặt hàng có mức thuế nhập khẩu dưới 5% lên mức cao hơn, thực hiện thu trên diện rộng nhằm bao quát hết nguồn thu, đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất sự giảm thu NSNN do cắt giảm thuế nhập khẩu để thực hiện các cam kết quốc tế. b. Bổ sung hình tức thuế tuyệt đối và hạn ngạch thuế quan. c. Bổ sung hình thức thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối sử. Thứ hai, giá tính thuế. a. Chỉ tập trung vào các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn, mặt hàng có giá trị cao và những mặt hàng nằm trong chiến lược bảo hộ của Nhà nước. b. Việc định giá tối thiểu phải được cập nhật thường xuyên dựa trên các thông tin điều tra về thị trường đảm bảo tính đầy đủ và chính xác, đồng thời thực hiện áp dụng trị giá tính thuế theo GATT-WTO. c. Ngành Hải quan cũng cần làm mới mình, đào tạo và phân công lại cán bộ, đáp ứng yêu cầu của công việc mới đầy phức tạp. Liên quan đến năng lực của cơ quan Hải quan và cơ cấu tổ chức của ngành Hải quan, từ thực tế ở các nước châu Á- Thái Bình Dương cho thấy một số khó khăn đó là: cơ sở dữ liệu về trị giá chưa hoàn thiện, thiếu những cán bộ điều tra có kinh nghiệm, thiếu cơ sở hạ tầng về trị giá, không có hệ thống kiểm tra sau giải phóng hàng. Bên cạnh đó, hầu hết các nước còn vấp phải những lực cản như: người nhập khẩu không nắm rõ về trị giá Hải quan; việc trốn thuế hải quan của một số nhà nhập khẩu không chân chính và thiếu sự phối hợp của cơ quan Hải quan ở nước có hàng hoá xuất khẩu. Thứ ba, khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Cần sửa đổi lại các quy định về đối tượng, thủ tục và thẩm quyền xem xét khiếu nại đối với thuế nhập khẩu. Thứ tư, thu hẹp diện miễn, giảm thuế nhập khẩu. Chỉ xét miễn thuế nhập khẩu trong các trường hợp sau: * Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo. * Thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển chuyên dùng nhập khẩu theo quy định tại Điều 47 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Đều 25 của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. * Hàng là quà biếu, quà tặng của tổ chức, các nhân ớc ngoài cho tổ chức, cá nhân Việt Nam và ngược lại trong mức quy định của Chính phủ. Thứ năm, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các văn bản dưới luật. Đơn giản, vì muốn là thành viên của WTO, Việt Nam phải tiến hành cải cách trên tất cả các lĩnh vực để tương thích với các định chế chung của WTO. Như vậy, một số dự án Luật sẽ được đôn lên, đôn xuống hoặc hoán vị để có thể hoàn thiện ở mức tối đa và cần có hệ thống pháp lý Việt Nam phù hợp thông lệ quốc tế liên quan tới WTO. Trên thực tế, các dự án Luật của nước ta khi được Quốc hội xem xét, thông qua phần lớn vẫn là Luật khung. Vì vậy, sau đó Chính phủ và các bộ hữa quan còn phải khẩn trương soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản dưới Luật bao gồm: các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị và hướng dẫn thực hiện. Đó là những “núi” công việc không hề nhỏ mà chúng ta phải làm. Tất cả được coi như là một cuộc đua đòi hỏi chúng ta phải tăng tốc, bởi vì quỹ thời gian từ nay đến lúc gia nhập WTO không còn nhiều. 3.3. Giải pháp thực hiện 3.3.1. Nhóm giải pháp trọng tâm. Thứ nhất, cần xác định hệ số bảo hộ hiệu quả cho từng ngành kinh tế theo các cấp độ bảo hộ khác nhau, làm cơ sở để đưa ra mức thuế suất bảo hộ hợp lý. Chúng ta cũng biết rằng mọi sự xoá bỏ hay duy trì bảo hộ thị trường trong nước đều có những mặt trái của nó. Nếu bảo hộ quá lâu theo kiểu khép kín nền kinh tế, các nhà sản xuất sẽ ỷ lại và trì trệ. Ngược lại, nếu xoá bỏ ngay thì có thể dẫn đến triệt tiêu sản xuất trong nước và giao thị trường trong nước cho hàng hoá nước ngoài. Do đó, sự bảo hộ thị trường trong nước trong xu thế tự do hoá thương mại ở Việt Nam buộc phải có một số nguyên tắc cơ bản: - Chỉ bảo hộ những mặt hàng mà sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển trong tương lai, tạo được nguồn thu ngân sách và giải quyết lao động; - Việc bảo hộ đó được thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, kể cả các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; - Chính sách bảo hộ được quy định trong từng trường hợp, từng thời kỳ và không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ hàng hóa nào; - Bảo hộ thị trường trong nước nhưng phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các hiệp định quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã ký kết. Để thực hiện mục tiêu trên, chúng ta cần phân loại các ngành kinh tế theo các mức độ bảo hộ cao, thấp khác nhau trên cơ sở tính toán hệ số bảo hộ hiệu quả cho từng ngành có tính đến những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu và tập quán thương mại quốc tế. Để hiệu quả, chúng ta chọn khoảng từ 5 đến 10 ngành kinh tế thật sự có thế mạnh, cần đầu tư phát triển trong tương lai và xây dựng mức độ bảo hộ cao nhất đối với các ngành này. Mức thuế bảo hộ và thời gian bảo hộ cần được lựa chọn theo các nguyên tắc sau đây: * Đối với các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh về lâu dài, mới ra đời (còn non trẻ), ASEAN không có thế mạnh, ngoài các chính sách hỗ trợ khác (ví dụ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm), cần bảo hộ ở mức cao với tỷ lệ bảo hộ thực tế ít nhất phải trên 100% (tỷ lệ bảo hộ thực tế là hệ số được xác định dựa trên mức thuế nhập khẩu bình quân đơn giản đánh vào sản phẩm đầu ra của một ngành, mức thuế nhập khẩu bình quân gia quyền đánh vào đầu vào đối với ngành đó tính theo giá thế giới và tỷ lệ nguyên vật liệu sử dụng trên tổng giá trị đầu ra của ngành đó tính theo giá thế giới) và có thể kéo dài mức bảo hộ này tới năm 2010 để khuyến khích đầu tư phát triển nhanh về quy mô, số lượng, chất lượng trong thời gian các cam kết về tự do hoá thương mại với ASEAN chưa bước vào giai đoạn cuối. Ví dụ: hoá dầu và các ngành công nghiệp vệ tinh của công nghiệp hoá dầu như nhựa, hoá chất, cao su tổng hợp; sản xuất động cơ diezel. Ngược lại, nếu đây là những mặt hàng ASEAN có thế mạnh, chỉ nên bảo hộ ở mức vừa phải và theo xu hướng giảm dần để phù hợp với cam kết về cắt giảm thuế với ASEAN, tránh chuyển hướng luồng thương mại khi có chênh lệch lớn về thuế nhập khẩu giữa các khu vực hoặc định hướng đầu tư sai. * Đối với các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh ở mức vừa phải, ASEAN không có thế mạnh, có thể bảo hộ ở mức trung bình với tỷ lệ bảo hộ thực tế vào khoảng 70%-100% để các ngành này phát triển. Nếu ASEAN có thế mạnh, thì giảm dần mức độ bảo hộ để tránh định hướng đầu tư sai hoặc chuyển hướng luồng thương mại. * Đối với các ngành công nghiệp không có lợi thế cạnh tranh, có thể bảo hộ ở mức trung bình và cũng cần cân nhắc thế mạnh của ASEAN để quyết định nên hay không nên duy trì mức độ bảo hộ này, thời gian duy trì bảo hộ để tránh định hướng đầu tư sai hoặc chuyển hướng luồng thương mại. Tuy nhiên, khi thiết kế mức thuế nhập khẩu theo hướng trên cần lưu ý rằng với mức thuế quan cao có thể sẽ làm tăng giá, từ đó bóp chết sự cạnh tranh quốc tế ngay trên thị trường nội địa, làm triệt tiêu nhu cầu và giảm áp lực thay đổi công nghệ, tạo sự trì trệ về kỹ thuật, gây độc quyền, giảm hiệu quả trong việc khuyến khích sản xuất trong nước, ảnh hưởng tới quyền lợi người tiêu dùng. Vì vậy, việc lựa chọn chính xác mức độ bảo hộ và áp dụng các biện pháp hỗ trợ cần thiết để giảm bớt các hạn chế nêu trên là rất cần thiết, trong đó yếu tố chính và có vai trò quyết định vẫn là các biện pháp phấn đấu giảm chi phí đầu vào của chính bản thân nhà sản xuất. Thứ hai, cần hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu xuất phát từ đòi hỏi cải cách đồng bộ hệ thống pháp luật thuế và ngược lại Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành còn có một số tồn tại như thiếu một số quy phạm so với tập quán thương mại quốc tế, một số quy phạm đã lỗi thời, một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, đòi hỏi phải được hoàn thiện. Do có mối liên hệ hữu cơ với pháp luật thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt, nên khi hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng phải hoàn thiện các quy phạm pháp luật có liên quan của pháp luật thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. chẳng hạn như quy phạm về giá tính thuế, về mức thuế suất, về nơi kê khai nộp thuế.v.v . Vì vậy, có thể nói hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu xuất phát từ đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật thuế nói chung và ngược lại. Các Luật thuế phải được dựa trên cơ sở thực tiễn và việc tính giá nhập khẩu sẽ chuyển từ sự tự chứng minh, sự trung thực của đơn vị nộp thuế sang việc các doanh nghiệp tự kê khai tính giá cho mình. Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện tổ chức thuế, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ thuế là những yếu tố mang tính quyết định cho sự thành công trong việc nghiêm chỉnh chấp hành chính sách thuế nói chung và trong mục tiêu chống thất thu thuế nói riêng. Để có thể triệt để chống trốn thuế và tránh thuế nhập khẩu một cách có hiệu quả chúng ta cần thực hiện các biện pháp như: hạn chế sự bất đồng, mâu thuẫn trong chính sách thuế của các nước hoặc tăng cường hợp tác về thuế giữa các nước bằng việc trao đổi thông tin kim ngạch xuất, nhập khẩu, thông tin về phân loại hàng hoá xuất, nhập khẩu của Biểu thuế. Bên cạnh đó, để ngăn ngừa các hành vi gian lận thương mại trốn thuế nói chung và của thuế nhập khẩu nói riêng, chúng ta cần sửa đổi tội trốn thuế quy định tại Bộ Luật Hình sự theo hướng quy định rõ một trong những hành vi được coi là tội trốn thuế bao gồm: kê khai không đúng tên và trị giá tính thuế của mặt hàng nhập khẩu, dẫn đến số tiền thuế phải nộp chênh lệch từ 100 triệu đồng trở lên. Hình phạt đối với hành vi này gồm: (1) Truy thu đủ số thuế chênh lệch còn thiếu; (2) Phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất, nếu sửa đổi tội trốn thuế của Bộ Luật hình sự theo hướng trên, cần xem xét để sửa đổi các quy phạm pháp luật quy định về xử lý vi phạm của pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thứ tư, không ngừng nâng cao dân trí, cần thấy rõ việc tuyên truyền, phổ biến chính sách để nâng cao dân trí về thuế là một yếu tố quan trọng để thực hiện mục tiêu “thêm người đồng tình, bớt người phản ứng”. Thường xuyên tìm hiểu, giải đáp đầy đủ mọi vướng mắc để các doanh nghiệp hiểu và làm đúng pháp luật. Qua tiếp xúc với nhân dân, với cơ sở kinh doanh, cán bộ thuế phải làm cầu nối truyền đạt chính sách, chế độ pháp luật về thuế cùng với việc thăm dò nguyện vọng, giúp tháo gỡ các vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh hợp pháp, tăng nguồn thu cho NSNN và phản ảnh lên trên xem xét, sửa đổi bổ sung để chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, mang tính khả thi; cán bộ thuế hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với mục tiêu “thu được thuế, thu được lòng dân”. Thứ năm, bổ sung áp dụng các hình thức thuế suất mới như hạn ngạch thuế quan, thuế bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tuyệt đối... * Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành cần quy định rõ ràng hơn nữa về thuế tuyệt đối. Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành, căn cứ tính thuế là số lượng mặt hàng, giá tính thuế và thuế suất (thuế suất được hiểu là thuế theo tỷ lệ %) của hàng nhập khẩu. Quy định này đã loại trừ khả năng áp dụng thuế tuyệt đối. Việc tính thuế theo tỷ lệ % có nhiều ưu điểm là thuận lợi, dễ áp dụng nhưng cũng có một số hạn chế nếu đối tượng nộp thuế kê khai thấp trị giá tính thuế hoặc hàng hoá được chủ động bán vào Việt Nam với giá quá thấp, gây nguy hại cho sản xuất trong nước, thì mục tiêu bảo hộ không đạt được, dù mức thuế suất theo tỷ lệ % được đặt ra rất cao. Để khắc phục tình trạng này thời gian qua chúng ta đã phải quy định và áp dụng giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu đối với hàng nhập khẩu (xây dựng giá tính thuế cho từng chủng loại hàng hoá, căn cứ vào mức giá quy định này để tính thuế nhâp khẩu). Song, việc áp dụng giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu lại là công cụ không phù hợp với các quy định của WTO và cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Vì vậy, để bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước khi phải xoá bỏ cơ chế áp dụng giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế thì thuế của một số mặt hàng thường xuyên bị trốn thuế qua giá (ví dụ trứng gia cầm, đồ sứ vệ sinh, kính xây dựng, phích đựng nước nóng, xe máy) không chỉ áp dụng theo tỷ lệ % như hiện hành mà cùng với thuế theo tỷ lệ % nên quy định thu theo số tiền tuyệt đối. * Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành cần có quy định về hạn ngạch thuế quan. Để bảo hộ sản xuất, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được, thời gian qua, ngoài thuế nhập khẩu, nhà nước còn dùng biện pháp cấm nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu (quota). Tuy nhiên, một trong những yêu cầu đặt ra trong tiến trình hội nhập KTQT là giảm thiểu các biện pháp cấm hoặc hạn chế nhập khẩu đối với thương mại hàng hoá, chuyển sang dùng thuế làm công cụ chủ yếu để điều tiết nhập khẩu. Trên thực tế, trong những năm vừa qua, cùng với việc xoá bỏ biện pháp cấm hoặc hạn chế nhập khẩu Chính phủ cũng đã thực hiện tăng thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng với mức tăng từ 10% đến 40% tuỳ theo mặt hàng. Xét về mặt lý thuyết, việc tăng thuế nhập khẩu thay cho biện pháp cấm và hạn chế nhập khẩu có thể thực hiện ở mức cao. Song trên thực tế, do việc tăng thuế quá cao sẽ làm triệt tiêu khả năng tiếp cận thị trường của các nước thành viên WTO, nên các nước này sẽ phản ứng, ảnh hưởng tới quá trình đàm phán gia nhập WTO của nước ta. Mặt khác, việc tăng thuế cao sẽ gây khó khăn cho chính sản xuất trong nước do trong số này có một số mặt hàng vừa là sản phẩm của ngành nông, ngư nghiệp nhưng lại là đầu vào của công nghiệp (ví dụ: muối công nghiệp, bông). Nếu quy định thuế nhập khẩu cao có thể hạn chế nhập khẩu; sản xuất muối công nghiệp, bông trong nước được bảo hộ nên có thể tăng diện tích trồng bông hoặc tăng sản lượng sản xuất muối công nghiệp. Nhưng việc tăng thuế nhập khẩu các mặt hàng này ở mức cao cũng đồng thời làm tăng chi phí đầu vào cho công nghiệp dệt, thực phẩm, ảnh hưởng đến chiến lược phát triển các ngành này. Vì vậy, để vừa đáp ứng nhu cầu bảo hộ vừa đáp ứng yêu cầu mở cửa thị trường khi gia nhập WTO, đảm bảo hài hoà lợi ích chính đáng của cả đơn vị sản xuất và đơn vị sử dụng những hàng hoá cần bảo hộ, Việt Nam có thể sử dụng hạn ngạch thuế quan như một số nước trên thế giới đang áp dụng. Mặt khác, do hiện nay Việt Nam đang có lợi thế về nông nghiệp, thu nhập của người dân chưa cao, nhu cầu về sử dụng hàng nông sản nhập khẩu chưa nhiều nên Danh mục hàng hóa cấm hoặc hạn chế nhập khẩu thường chỉ bao gồm các sản phẩm công nghiệp. Trong tương lai, lợi thế này sẽ dần mất đi (do thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tất yếu một số bộ phận làm nông nghiệp sẽ chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ, đất đai sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp lại. Đặc biệt do quá trình hội nhập, thị trường trong nước đối với các sản phẩm nông nghiệp cũng bị thu hẹp hơn trước). Do vậy, trong tương lai yêu cầu bảo hộ các sản phẩm nông nghiệp sẽ ngày càng cao hơn. Để thực hiện yêu cầu này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thì hạn ngạch thuế quan sẽ là công cụ có thể sử dụng. * Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành cần quy định cụ thể và rõ ràng hơn nữa về các hình thức thuế chống trợ cấp, thuế bán phá giá. Để có thể thu thuế bổ sung đối với các trường hợp: hàng hoá nhập khẩu được bán với giá quá thấp vào Việt Nam do bán phá giá hoặc được trợ cấp; hàng hoá của nước có hành vi phân biệt đối xử với hàng của Việt Nam theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành thì phải có văn bản quy định về: Nguyên tắc và điều kiện áp dụng; Cách xác định hành vi bán phá giá và mức độ tổn hại đến hàng hoá sản xuất trong nước do hành vi phá giá, trợ cấp, phân biệt đối xử gây ra; Quy trình điều tra và mức thuế áp dụng; Cơ quan có thẩm quyền áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử .v.v. Song trên thực tế hiện nay chúng ta vẫn chưa có các văn bản quy định thật cụ thể và rõ ràng về vấn đề này. Loại thuế này vừa hạn chế nhập khẩu, vừa tạo nguồn thu cho NSNN. Bên cạnh đó, thuế tuyệt đối cần thay thế dần cho thuế quy định giá tối thiểu, không những khắc phục được những hạn chế mà còn tạo được nguồn thu ổn định cho NSNN. Thứ sáu, thực hiện giá tính thuế cho hàng nhập khẩu theo GATT. * Theo hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT (tiền thân của WTO), tất cả hàng hoá của 154 nước thành viên khi xuất, nhập khẩu với nhau có điểm chung là đều áp dụng cách tính thuế chung đó là dựa trên cơ sở trị giá giao dịch. Theo ý kiến của các nhà doanh nghiệp, cách tính này giúp họ chủ động hơn trong đàm phán thương mại, tìm nguồn hàng giá rẻ, tăng lợi nhuận và sức cạnh tranh. Tuy nhiên, chúng ta nên chuyển đổi từng bước phù hợp với điều kiện trong nước, tránh sự hụt hẫng về nguồn thu và những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Để có thể thực hiện việc tính giá theo GATT chúng ta cần làm tốt các công việc sau: * Tăng cường trang bị các phương tiện kỹ thuật một cách đồng bộ nhằm hiện đại hoá hệ thống thu thập, xử lý và truyền dẫn thông tin (về kim ngạch xuất, nhập khẩu, về thị trường xuất, nhập khẩu, về số thuế nhập khẩu, tình hình vi phạm, tình hình khiếu nại.v.v...) để nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng và thực hiện việc tính giá cho hàng nhập khẩu một cách chính xác nhất. * Cần thiết lập mạng trao đổi thông tin về giá tính thuế giữa Bộ Tài chính với các Hiệp hội, Tổng Công ty, Công ty và các cơ quan có liên quan để ban hành giá tính thuế nhập khẩu của các mặt hàng hiện đang giao cho Cục Hải quan địa phương quy định. Uỷ quyền cho Tổng cục Hải quan xử lý một số công việc sự vụ (miễn, giảm, hoàn, xử lý truy thu thuế) mà hiện nay Bộ Tài chính đang làm để đảm bảo một việc chỉ một bộ phận làm, tránh nhiều tầng nấc, chồng chéo, tốn kém công sức.v.v 3.3.2. Nhóm giải pháp khác. Thứ nhất, tuyên truyền, hỗ trợ các đối tượng tham gia nhập khẩu. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và hỗ trợ về pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho mọi tầng lớp nhân dân được biết, đặc biệt là đối với các đối tượng trực tiếp tham gia hoạt động nhập khẩu. Từ đó có thể tháo gỡ những vướng mắc và có những hỗ trợ thích hợp cho các đối tượng này trong quá trình hoạt động. Thứ hai, tăng cường các hoạt động thanh tra và kiểm soát. Cần áp dụng quy trình quản lý dựa trên sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, thanh tra và giám sát chặt chẽ việc thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu. Bên canh đó, cần tăng cường sự phối kết hợp giữa các ngành, các đơn vị có liên quan trong việc ngăn chặn và xử lý các sai phạm về việc thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu. Nếu phát hiện có sai phạm thì cần có những biện pháp xử lý nghiêm minh, cụ htể là: truy thu thuế, phạt tiền, cưỡng chế hoạt động sản xuất- kinh doanh (gồm cưỡng chế hành chính hoặc cưỡng chế tư pháp hoặc đồng thời cả 2 biện pháp này) và truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với cán bộ thu thuế và các cá nhân tổ chức khác có liên quan, nếu có hành vi thông đồng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, làm trái quy định của pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì tuỳ theo mức độ vi phạm phải đền bù tiền thuế, xử lý hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, xây dựng cở sở dữ liệu giá cập nhật. Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành, cơ sở định giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu của hàng nhập khẩu, kể cả phí vận tải, phí bảo hiểm, theo hợp đồng. Trong trường hợp nhập khẩu theo phương thức khác hoặc giá ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua bán thực tế thì giá tính thuế là giá do Chính phủ quy định. Thực tế áp dụng trong những năm qua cho thấy, quy định về giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu như nêu trên là phù hợp với điều kiện Việt Nam (do nước ta chưa có đủ trình độ, công cụ và hệ thống thông tin để kiểm tra giá thực tế phải thanh toán của hàng nhập khẩu). Nhưng xét về lâu dài, những quy định này chưa thật sự phù hợp với bản chất của việc mua bán hàng hoá và thông lệ quốc tế. Vì: * Trên thực tế, giá mua bán của một mặt hàng nào đó có thể được thực hiện theo đúng giá đã ký kết trong hợp đồng hoặc không theo giá ghi trong hợp đồng (trường hợp thay đổi số lượng, chất lượng, hoặc do trong thời gian thực hiện hợp đồng hai bên đã thoả thuận thay đổi lại giá hàng cho phù hợp với thời điểm thực tế nhập khẩu hàng hoá); * Hợp đồng chỉ là một trong những chứng từ để kiểm tra, xác định giá tính thuế (các chứng từ khác có liên quan như hoá đơn, thanh toán bằng thư tín dụng, điện chuyển tiền..v.v cũng là những căn cứ để xác định giá tính thuế). * Việc đặt ra một Bảng giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu để áp dụng đối với những trường hợp “có giá quá thấp so với giá mua bán thực tế” như quy định hiện hành tuy hạn chế những trường hợp khai giá thấp, nhưng lại giảm hiệu quả bảo hộ nếu mức giá quy định thấp hơn giá thực phải thanh toán, mang tính áp đặt của Nhà nước, không phản ánh đúng giá thực tế phải thanh toán của hàng hoá nhập khẩu. Chính vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần phải xây dựng cho được cơ sở dữ liệu giá cập nhật. Thứ tư, xây dựng lực lượng Hải Quan cả về số lượng và chất lượng. Trình độ của đại đa số cán bộ Hải quan còn yếu trong khi yêu cầu về quản lý của các đối tượng này lại rất phức tạp. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế chưa cao, trong khi một bộ phận cán bộ thi hành nhiệm vụ lại thoái hoá, biến chất, tham nhũng và tiếp tay cho hành vi gian lận trốn thuế.v.v. Chính vì vậy, cần phải xây dựng lại lực lượng Hải quan hiện nay của chúng ta cả về số lượng và chất lượng bằng nhiều biện khác khác nhau như: Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ về mọi mặt để có được một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao và phẩm chất tốt. Ví dụ: đào tạo về trình độ pháp luật, về nghiệp vụ xuất- nhập khẩu, nghiệp vụ thuế nhập khẩu, ngoại ngữ, tin học.v.v.... Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về ý thức trách nhiệm trong công việc, đồng thời xử lý các sai phạm một cách nghiêm minh để rút kinh nghiệm và răn đe đối với các hành vi sai phạm khác.v.v... Thứ năm, tăng cường mối quan hệ giữa Hải Quan với các cơ quan quản lý Nhà nước. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chủ trì nghiên cứu xây dựng chính sách thuế (Tổng Cục Thuế) với cơ quan thu thuế (Tổng cục Hải quan). Bên cạnh đó cũng cần có sự phối hợp giữa Tổng Cục Thuế, Tổng Cục Hải quan, với các cơ quan Công an, Kiểm sát, Hải quan trong việc thực hiện, chỉ đạo việc thực hiện, kiểm tra giám sát việc tính, thu, nộp thuế nhập khẩu. Cán bộ Hải quan cần được giao đầy đủ các quyền hạn để có thể đưa ra một quyết định buộc đối tượng nộp thuế phải có trách nhiệm nộp thuế nợ đọng vào NSNN như kê biên tài sản, phong toả tài khoản.v.v. Quy trình kê khai, tính, nộp thuế cần hoàn thiện theo hướng nâng cao trách nhiệm của đối tượng nộp thuế cũng như cán bộ thu thuế (đối tượng nộp thuế tự khai, hải quan kiểm tra, nếu phát hiện sai thì yêu cầu kê khai lại, nếu không phát hiện sai thì chấp nhận như kê khai của doanh nghiệp) và đặc biệt cần áp dụng tin học hoá trong kê khai tính thuế. Thứ sáu, tăng cường cải thiện đời sống kinh tế cho đồng bào vùng biên giới. Khi đời sống kinh tế của nhân dân vùng biên giới được cải thiện thì hoạt động gian lận thương mại, trốn thuế nhập khẩu ở các cửa khẩu sẽ được được đẩy lùi, đồng thời ý thức chấp hành và thực hiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của nhân dân vùng biên sẽ được nâng cao. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, chính sách thuế nhập khẩu đã có đóng góp lớn cho sự tăng trưởng và ổn định không chỉ của hoạt động ngoại thương mà của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách thuế nhập đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, còn nhiều bất cập, khiếm khuyết, không theo kịp với sự phát triển của hoạt động nhập khẩu. Nạn buôn lậu và gian lận thương mại để trốn thuế còn phổ biến, tình trạng chiếm dụng tiền thuế gây nợ đọng thuế nhập khẩu còn lớn và kéo dài, chưa được xử lý triệt để. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách thuế nhập khẩu chưa được chú trọng đúng mức…gây thất thu lớn cho NSNN và hạn chế kết quả của tiến trình hội nhập. Trong phạm vi của đề tài, tác giả đã cố gắng phân tích thực trạng, đánh giá những ưu điểm và những hạn chế còn tại trong chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam. Đồng thời, xem xét tới yêu cầu và tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam; từ đó, đề ra những phương hướng và biện pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu để mở đường cho Việt Nam tiến những bước tiến vững chắc trong lộ trình gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN- AFTA, cũng như Tổ chức thương mại thế giới WTO. Mục Lục Trang Lời mở đầu……………………………………………………………… Chương I: Thuế nhập khẩu với hội nhập kinh tế quốc tế 1.1. Tổng quan về thuế nhập khẩu………………………………………..1 Bản chất của thuế nhập khẩu………………………………………1 Những đặc điểm của thuế nhập khẩu………………………………2 1.1.3. Vai trò của thuế nhập khẩu………………………………………... 5 1.2. Nội dung của chính sách thuế nhập khẩu……………………………10 1.2.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng………………………….................10 1.2.2. Căn cứ tính thuế nhập khẩu……………………………..................11 1.2.3. Phương pháp tính thuế nhập khẩu…………………………………20 1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động………………………...24 Chương II: Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt nam 2.1. Những đóng góp của thuế nhập khẩu đối với kinh tế Việt Nam…….28 2.1.1. Góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNN…………………………28 2.1.2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động………………….30 2.1.3. Bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, khuyến khích …………..34 2.2. Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở việt nam…………………..35 2.2.1. Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam…….35 2.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu………………….40 2.2.2.1. Các quy định chung......................................................................40 2.2.2.2. Giá tính thuế.................................................................................42 2.2.2.3. Thuế suất......................................................................................43 2.2.2.4. Tổ chức kê khai nộp thuế.............................................................44 2.2.2.5. Miễn, giảm và hoàn thuế.............................................................45 2.2.2.6. Truy thu thuế, xử lý khiếu nại và vi phạm....................................47 2.3. Đánh giá chung về chính sách thuế nhập khẩu……………………...48 2.3.1. Tác động của chính sách thuế nhập khẩu…………………………48 2.3.2. Những hạn chế của chính sách thuế nhập khẩu…………………...51 Chương III: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 3.1. Sự cần thiết khách quan…………………………………………….59 3.2. Các quan điểm định hướng chính sách thuế nhập khẩu…………….61 3.2.1.Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu đảm bảo nguồn thu............61 3.2.2. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu đảm bảo bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước……………………………………………………………….62 3.2.3.Tăng cường hơn nữa công tác chống buôn lậu …………………....62 3.2.4. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải tiến tới phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế……………………………………….63 3.3. Giải pháp thực hiện. 3.3.1. Nhóm giải pháp trọng tâm……………………………………….65 3.3.2. Nhóm giải pháp khác…………………………………………….72 Kết luận…………………………………………………………………76 Danh mục tài liệu tham khảo. Danh mục tài liệu tham khảo PGS-TS. Nguyễn Thị Bất, TS. Vũ Duy Hào, Giáo Trình Quản Lý Thuế- Nxb Thống Kê, Hà Nội Bộ Chính trị, Nghị quyết 07 về Hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội. Bộ Ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Nxb chính trị Quốc gia, Hà nội. Bộ Tài chính, Hỏi đáp về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Hà nội. Bộ Tài chính, Chiến lược cải cách Hệ thống thuế giai đoạn 2001-2010. Bộ Tài chính -Tổng cục Thuế, Chính sách thuế trong điều kiện mở rộng quan hệ với các khu vực kinh tế quốc tế, Hà nội. Nguyễn Xuân Thắng, “Toàn cầu hoá kinh tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới. Tổng cục Hải quan, Thủ tục hải quan các nước ASEAN, Nxb Tài chính, Hà nội. Tổng cục Thuế, Những văn bản pháp luật về thuế, (lưu hành nội bộ), Hà nội. Tài liệu tham khảo khác (Các Website, các tạp trí chuyên ngành....) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28236.doc
Tài liệu liên quan