Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Lời cảm ơn Trước khi trình bày đề tài nghiên cứu của mình, em muốn được nói lời cảm ơn. Em xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, khoa Ngân Hàng- Tài Chính đã dạy bảo em trong những năm học ở trường; em xin cảm ơn các cô ở phòng Xuất nhập khẩu – Tổng Cục thuế , đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tốt nghiệp, và em xin đặc biệt cảm ơn thầy giáo hướng dẫn- TS. Vũ Duy Hào đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Lời mở đầu. Hội nhập kinh tế

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc tế được xem như một yếu tố khách quan và nó đã trở thành vấn đề thời sự của cả thế giới. Trước dòng chảy của xu thế đó, mỗi quốc gia phải tự tìm cho mình một hướng đi thích hợp với hoàn cảnh cụ thể. Để đáp ứng với yêu cầu của hội nhập, Nhà nước ta đã có nhiều cơ chế, chính sách cần phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để thích ứng với thực trạng kinh tế của nước mình và thông lệ quốc tế trong đó chính sách thuế nhập khẩu giữ một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hội nhập, liên kết kinh tế quốc tế. Kể từ khi luật thuế nhập khẩu ra đời (ngày 26/12/91) thuế nhập khẩu đã có hai lần sửa đổi, bổ sung( vào ngày 05/07/93 và ngày 20/5/1998 )dưới dạng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế nhập khẩu đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. Trong thời gian vừa qua chúng ta đã đặt được những thành tựu đáng kể, chúng ta đã trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á(ASEAN ), tham gia tích cực vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) ra nhập diễn đàn Châu á -Thái Bình Dương (APEC) và tiếp tục đàm phán gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) . Tuy nhiên Luật thuế nhập khẩu vẫn còn những bất cập do phần lớn yếu tố khách quan tạo nên, đã hạn chế bước tiến hộp nhập, quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và các nước bạn hàng. Vì thế việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu là hết sức cần thiết nó quyết định tới sự thành bại của mỗi quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được điều này em đã chọn đề tài “Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp của mình. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này: là hệ thống chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam và quá trình thực hiện hệ thống chính sách này. Mục đích nghiên cứu: phân tích và đánh giá quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu và những thành tựu, hạn chế trong những năm vừa qua. Từ đó tìm ra những giải pháp hoàn thiện hơn nữa chính sách thuế nhập khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của chính sách thương mại Việt Nam trong thời gian tới. Kết cấu của Luận văn này bao gồm: Lời mở đầu: Chương I: Tổng quan về thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II: Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Kết luận. Chương I. Tổng quan về thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1. Một số lý luận cơ bản về thuế. 1.1.1. Khái niệm về thuế. Ngay từ khi nhà nước ra đời thì thuế cũng xuất hiện, thuế là sản phẩm tất yếu từ sự xuất hiện hệ thống bộ máy Nhà nước. Ngược lại, đến lượt nó thuế là nguồn thu chính cho sự tồn tại và hoạt động của hệ thống bộ máy nhà nước.Thuế qua quá trình phát triển và hoàn thiện lâu dài đã có nhiều quan điểm cũng như khái niệm khác nhau: -Theo E.R.A Seligman, một học giả tư sản người Mỹ đã đưa ra khái niệm như sau “Thuế là sự đóng góp cưỡng bức của mỗi người cho Chính phủ để trang trải các chi phí và lợi ích chung không căn cứ vào lợi ích riêng được hưởng “. -Theo các nhà kinh điển cho rằng “ Thuế là cái nhà nước thu của dân nhưng không bù lại” và “Thuế cái cấu thành nên phần thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay thu nhập của người chịu thuế” (LêNin toàn tập 15). -Nước ta, đã có nhiều nhà kinh tế, nhiều công trình nguyên cứu đã nêu lên khái niệm thuế, ví dụ như: Khái niệm 1: “ Thuế là hình thức đóng góp bắt buộc do luật định đối với các thể nhân và pháp nhân nhằm đáp ứng về cơ bản các nhu cầu chỉ tiêu của Nhà nước” Khái niệm 2: “Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nước, người đóng góp được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại” Như vậy, không có khái niệm nhất quán về thuế do thuế được nhìn ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ vào từng trường hợp điều kiện cụ thể. Để có thể hiểu rõ hơn về thuế theo tôi cần phải hiểu thêm về những đặc điểm kinh tế của thuế. 1.1.2. Đặc điểm chung về thuế. Thứ nhất:Tính cưỡng chế và tính pháp lý cao Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Trong mỗi quốc gia việc đóng thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc của các tổ chức kinh tế và công dân cho nhà nước. Các tổ chức kinh tế và công dân thực hiện nghĩa vụ thuế theo các luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực tối cao Quốc gia đó quy định phù hợp với các hoạt động và thu nhập của từng tổ chức kinh tế và công dân. Tổ chức hoặc cá nhân nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình tức là họ đã vi phạm pháp luật quốc gia đó. Tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng thuế là biện pháp tài chính mang tính chất bắt buộc của nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập trên nền tảng các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới. Thứ hai: Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp Khác với các khoản vay, nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhưng không hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp và NSNN. Số tiền thuế thu được, nhà nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu nhà nước và của mọi cá nhân trong xã hội. Mọi các nhân, người có nộp thuế cho nhà nước cũng như người không nộp thuế, người nộp nhiều cũng như nộp ít, điều bình đẳng trong việc nhận các phúc lợi công cộng từ phía nhà nước. Số thuế mà các đối tượng phải nộp cho nhà nước được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên hoạt động cụ thể và thu nhập của họ. Đặc điểm này cũng phân biệt giữa thuế với phí và lệ phí. 1.1.3. Chức năng của thuế. Nói đến chức năng hay vai trò của thuế là nói đến công dụng vốn có của thuế đối với đời sống kinh tế- xã hội. Là công cụ vốn có ngay trong bản thân phạm trù thuế, cho dù có những biến đổi của hoàn cảnh nó vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, khi bàn về chức năng của thuế có nhiều ý kiến khác nhau có ý kiến cho rằng thuế có hai chức năng là phân phối và kiểm tra , giám đốc. Có ý kiến cho rằng thuế có bốn chức năng là: công cụ tạo nguồn thu chủ yếu cho NSNN, phân phối và phân phối lại, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là công cụ để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh... Theo em, về số lượng các chức năng của thuế có thể có nhiều ý kiến khác nhau nhưng không mâu thuẫn nhau mà chỉ là sự phân tích cụ thể các chức năng của thuế ở các khía cạnh khác nhau, đó là sự chia nhỏ các chức năng để nhận biết và phân tích nó trong thực tế sử dụng. Chính vì vậy trong bài viết này thuế được đề cập với bốn chức năng cơ bản với mục đích là hiểu rõ hơn về thuế. 1.1.3.1. Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho NSNN. Ngay từ khi nhà nước ra đời, dựa vào quyền lực chính trị của mình nhà nước đã đặt ra các thứ thuế để bắt buộc các thành viên trong xã hội đóng góp một phần sản vật và thu nhập của họ cho nhà nước. Nhờ có khoản đóng góp đó, bộ máy nhà nước mới tồn tại và phát triển được. Như vậy, ngay từ buổi sơ khai thuế đã được sử dụng với các mục tiêu quan trọng là tập trung thu nhập vào tay nhà nước. Lịch sự tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ và các nước cũng cho thấy: tỷ trọng thu thuế thường chiếm phần lớn trong tổng thu nhập của NSNN. Hiện nay, ở hầu hết các nuớc trên thế giới sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu thuế, phí chiếm tới 90% tổng số thu cho NSNN. 1.1.3.2. Thuế thực hiện phân phối và phân phối lại. Do sự tồn tại và phát triển của thuế cho thấy thuế chỉ phát sinh khi có thu nhập. Nếu xã hội không tạo ra được thu nhập thì không thể có cơ sở vật chất của thuế, có thu nhập thì người dân mới có thể đóng thuế cho nhà nước và ngược lại, không có thu nhập thì không thể có nguồn để tái tạo sức lao động, chưa nói đến lấy đâu để đóng thuế. Phân phối ở đây được hiểu là sự phân chia thu nhập ra cho các bên tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quá trình sản xuất đó là Nhà nước, tập thể và người lao động. Một hệ phân chia hợp lý sẽ tác động tích cực đối với tất cả các khâu khác của quá trình sản xuất và ngược lại. Đây là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế mà tất cả các nước phải sử dụng. Thông qua chức năng này của thuế, các quỹ tiền tệ của nhà nước được hình thành trên cơ sở tạo nguồn lực cho hoạt động và tồn tại của nhà nước. Chính chức năng phân phối và phân phối lại của thuế chuẩn bị cho nhà nước những khả năng hiện thực để phân phối lại một bộ phận GDP,GNP nhằm thực hiện những chức năng của nhà nước thông qua nguồn thu vào ngân sách nhà nước. 1.1.3.4. Thuế tham gia vào điều tiết kinh tế vĩ mô. Đây là chức năng đặc biệt quan trọng của thuế trong nền kinh tế thị trường khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung trong cơ chế thị trường, Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh tế,xã hội bằng các mệnh lệnh hành chính. Thay vào đó nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô. tức là nhà nước chỉ các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động xã hội đi theo, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội thực hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nhà nước sử dụng nhiều công cụ để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tề, tín dụng. Trong đó, thuế- công cụ thuộc lĩnh vực tài chính- là một trong những công cụ được coi là sắc bén nhất. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng thuế để tác động trực tiếp lên các yếu tố đầu vào của sản xuất, như lao động, vật tư, tiền vốn nhằm điều tiết hoạt động kinh tế trong nước, sử dụng thuế tác động vào các hoạt động xuất nhập khẩu nhằm thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế thế giới. 1.1.3.5. Thuế còn là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chức năng này xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các luật thuế đã được ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô các cơ sở sản xuất, kinh doanh ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh mặt hàng họ được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà sẽ phát hiện những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của các cá nhân, các đơn vị sản xuất, kinh doanh, hoặc phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội Qua tìm hiểu lý luận cơ bản về thuế nói chung, đặc biệt là những tác động của thuế thông qua các chức năng vốn có của nó đối với nền kinh tế. 1.2. Những vấn đề chung về thuế nhập khẩu 1.2.1. Lịch sử hình thành phát triển của thuế nhập khẩu Hoạt động kinh tế là cơ sơ của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ban đầu chỉ là hoạt động buôn bán trao đổi giữa người trong cùng vùng, cùng địa phương. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu con người ngày một nâng cao. Để đáp nhu cầu đó, đòi hỏi hoạt động kinh tế phát triển mở rộng ra các vùng lân cận. Ngày nay, khi lực lượng sản xuất phát triển sự phân công lao động ngày một mở rộng thì các mối quan hệ kinh tế cũng phát triển ngày một đa dạng hơn, phức tạp hơn. Các hoạt động này không chỉ dừng ở phạm vi một quốc gia mà còn hình thành các mối quan hệ kinh tế mang tính chất quốc tế. Thực tế đã chứng minh bất kỳ nước nào, kể cả những nước có tiềm lực kinh tế và kỹ thuật to lớn nhất cũng không có khả năng cùng một lúc phát triển tất cả các ngành sản xuất được. Vì vậy một nước chỉ tập trung ưu tiên phát triển một số ngành có điều kiện sản xuất tốt hơn (mang tính lợi thế so sánh) và nhờ đó mỗi nước đều có ưu thế riêng trên thị trường thế giới thông qua việc bán hàng hoá đó ra nước ngoài. Đồng thời các nước đều phải dựa vào việc mua từ nước ngoài để thoả mãn nhu cầu về các mặt hàng khác. Hoạt động xuất nhập khẩu ra đời, ban đầu chỉ là sự trao đổi đơn thuần và trả lệ phí mỗi lần qua biên giới. Xã hội ngày càng phát triển nên hoạt động thương mại giao lưu diễn ra ngày càng mạnh mẽ rộng khắp không chỉ giữa các nước trong khu vực mà trên toàn thế giới và từ đó thuế xuất nhập khẩu ra đời. Thuế xuất nhập khẩu là một thuế thu vào hoạt động xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hoá, loại thuế này có nguồn gốc từ thời kỳ cổ đại và phát triển đến nay. Vào thế kỷ XVII-XVIII thuế xuất nhập khẩu thịnh hành ở các nước tư bản sớm phát triển như Anh, Pháp. Tuy nhiên ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau sẽ có nhìn nhận khác nhau về vị trí vai trò của thuế xuất nhập khẩu Trong chế độ tư bản tự do cạnh tranh, chính sách buôn bán quốc tế diễn ra theo hai phương thức trái ngược nhau. Những người theo phái tự do cạnh tranh thì chủ trương xoá bỏ những hàng rào ngăn cách hoạt động ngoại thương ở Anh nơi mà chủ nghĩa Tư Bản phát triển sớm nhất. Sự thắng lợi của quan điểm này đã đi đến hiệp định thương mại giữa Anh và Pháp vào năm 1860 với nội dung xoá bỏ việc đánh thuế quan đối với việc trao đổi hàng hoá giữa 2 nước. Xu hướng ngược lại là bảo hộ nền sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu thông qua biện pháp thuế quan. Song xu hướng này có tính chất tạm thời khi nền sản xuất xuất khẩu ở mỗi nước đồng đều nhau thì việc sự dụng hàng rào thuế quan sẽ mất đi. Bước sang giai đoạn Tư bản độc quyền các nước đế quốc sử dụng thuế xuất nhập khẩu như một công cụ quan trọng trong chính sách ngoại thương để dành ưu thế trong lĩnh vực buôn bán. Hàng rào thuế quan mới được dựng lên, không phải để bảo hộ nền sản xuất trong nước mà để hỗ trợ các ngành mang tính chất độc quyền. Thuế quan cao cho phép độc quyền trong nước thâu tóm thị trường nội địa và nâng giá để trang trải các khoản lỗ cho xuất khẩu nhằm chiếm lấy ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế...Tuy nhiên việc sử dụng biện pháp bảo hộ như vậy còn phải phụ thuộc vào điều kiện, chính trị kinh tế của thế giới. Tại các nước đang phát triển hiện nay thuế quan vẫn thực hiện với các chức năng chính là tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước và kiểm soát hoạt động ngoại thương. Điều này xuất phát từ hai lý do chủ yếu: Một là: Nền công nghiệp của các nước đang phát triển còn yếu chưa đủ cạnh tranh Hai là: Nguồn tài chính của các nước đang phát triển còn eo hẹp trong khi nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn. Do đó người ta coi trọng cả hai mục đích khi sử dụng công cụ thuế quan trong tiến trình phát triển kinh tế của các nước, ta có thể rút ra kết luận sau: -Tuỳ theo tình hình kinh tế, chính trị của mỗi nước, ở từng giai đoạn khác nhau mà việc sử dụng công cụ thuế quan ở mỗi nước khác nhau. -Xu hướng chung nếu nền kinh tế càng phát triển, khả năng cạnh tranh càng lớn thì hàng rào thuế quan không được coi trọng. Đặc biệt đối với nền kinh tế phát triển thì mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước không được coi trọng và mục tiêu thuế quan ít được đặt ra. Ngược lại nếu nền kinh tế chậm phát triển thì khả năng cạnh tranh thấp thì hàng rào thuế quan được coi trọng và là công cụ quan trọng để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Xuất phát từ những lý do đó sự tồn tại thuế quan là hết sức cần thiết bởi nó tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên nếu xem xét các khía cạnh khác nhau thì việc tồn tại thuế quan xuất phát từ những lý do chính sau: Về chính trị: Ngày nay xu hướng chung của các nước trên thế giới là cùng hội nhập về kinh tế cùng nhau phát triển dù thể chế chính trị có khác nhau, song cũng không loại trừ xu hướng thôn tính lẫn nhau. Hoạt động ngoại thương là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Tuy nhiên nếu không có hệ quản lý chặt chẽ, các chính sách đúng đắn thì dễ bị lệ thuộc vào nước ngoài cả kinh tế lẫn chính trị. Và thuế quan là một biện pháp hữu hiệu để quản lý hoạt động ngoại thương của mỗi quốc gia. Về xã hội: Mỗi quốc gia có những phong tục tấp quán khác nhau cho nên việc sản xuất ra những sản phẩm tiêu dùng không phù hợp với các nước khác là điều không thể tránh khỏi. Cho nên việc tự do lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia có thể gây nên những hậu quả xấu. Cho nên Chính phủ các nước phải sử dụng công cụ thuế quan để điều chỉnh kiểm soát hoạt động ngoại thương. Xuất phát từ khía cạnh kinh tế tài chính của mỗi quốc gia nhìn toàn cục lâu dài với lý thuyết lợi thế so sánh cân đối, tự do ngoại thương sẽ mang lại rất nhiều nguồn lợi cho mỗi quốc gia. Tuy nhiên xét trong từng giai đoạn cụ thể tự do ngoại thương có thể xẩy ra những vấn đề bất lợi về kinh tế làm trầm trọng thêm những khó khăn về kinh tế tài chính phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài làm mất cân đối nền kinh tế, làm giảm thu cho NSNN. Do đó cần phải có biên pháp hạn chế hoạt động ngoại thương làm sao cho phù hợp với nền kinh tế của quốc gia nước mình. 1.2.2. Lý luận cơ bản về thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu là một loại thuế trong hệ thống thuế của các nước. Để sử dụng có hiệu quả thuế nhập khẩu chính là phát huy đầy đủ các chức năng cơ bản của nó trong lĩnh vực hoạt động nhập khẩu hàng hoá. Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá hội nhập kinh tế thế giới và khu vực thuế nhập khẩu không chỉ là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mà còn là công cụ thể hiện chính sách đối ngoại giữa các quốc gia. Thuế nhập khẩu xuất hiện do yêu cầu điều chỉnh sự vận động của hàng hoá giữa các quốc gia có chủ quyền, nó là một bộ phận trong chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi nước, nên nó có những nét riêng về mặt nội dung, vai trò, cũng như cách thức hành thu nên cần phải tìm hiểu và làm sáng tỏ. 1.2.2.1. Một số nhận thức chung về thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu có một tên gọi chung là thuế quan ở hầu hết các nước và ở Việt nam trước kia cũng gọi với cái tên như thế. Ban đầu thuế nhập khẩu được ra đời với mục tiêu duy nhất là bảo hộ thị trường trong nước và tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng cùng với phát triển kinh tế rất đa rạng và phong phú thuế nhập khẩu lại phát huy thêm được các vai trò tiềm tàng của mình tuỳ trong từng trường hợp điều kiện cụ thể. Theo cách nhìn của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thì thuế nhập khẩu được xem như là một loại phí vận chuyển. Nếu việc đánh thuế nhập khẩu bằng hoặc lớn hơn chệnh lệch giá giữa hai thị trường thì sẽ không có việc vận chuyển, mua bán hàng hoá từ một nước xuất khẩu đến một nước nhập khẩu. Khi đánh thuế nhập khẩu thì giá hàng hoá ở thị trường nội địa sẽ tăng lên khuyến khích nhà sản xuất trong nước tăng lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường, đồng thời người tiêu dùng có nhu cầu giảm đi vì phải mua hàng với giá cao hơn nên lượng nhập khẩu giảm đi. Thuế nhập khẩu không những ảnh hưởng tới nền kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ ngoại giao và chính sách đối xử giữa các quốc gia. Chỉ riêng yếu tố xác định trị giá trong chính sách thuế nhập khâu mà người ta đưa ra hình ảnh rằng “các phương pháp xác định trị giá hải quan(giá tính thuế hàng nhập khẩu) như là những khuôn mẫu hợp lý đúc lên những tấm bê tông tiêu chuẩn khi trời yên biển lặng nó là nhịp cầu nối cho các quan hệ thương mại giữa các nước, nhưng khi gió bão nó dựng thành hàng giào thuế quan nghiệt ngã hay những pháo đài kiên cố trong các cuộc chiến tranh thương mại vắng tiếng súng nhưng không kém phần khốc liệt”. 1.2.2.2. Phân loại thuế nhập khẩu. *Phân loại thuế quan theo phương diện kỹ thuật thu. -Thuế nhập khẩu tính theo đơn vị : là thuế quy định một khoản tiền nhất định trên một đơn vị hàng hoá nhập khẩu. -Thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ:là thuế được ấn định theo tỷ lệ phần trăm của hàng hóa nhập khẩu. -Thuế nhập khẩu kết hợp giưa tính theo tỷ lệ và tính theo đơn vị: là sự kết hợp giữa thuế nhâp khẩu tính theo tỷ lệ và thuế nhập khẩu tính theo đơn vị. -Thuế nhập khẩu biến thiên: là thuế nhập khẩu được đánh trên hàng nhập khẩu nhưng thuế suất thay đổi thường xuyên, thậm chí mỗi ngày. Sắc thuế này thường được ấn định ở một mức nhằm triệt tiêu ưu thế và giá cả của nước xuất đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Loại thuế nhập khẩu kiểu này được các nước nội bộ Liên Minh Châu Âu (EU) áp dụng đối với các sản phẩm nông nghiệp. Thuế nhập khẩu loại này chỉ phù hợp đối với những dòng hàng không bị rằng buộc thuế nhâp khẩu khi tham gia WTO. Tuy nhiên, khía cạnh biến thiên của loại thuế này chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng tới chủ trương chấp nhận thuế nhập khẩu trong WTO. Trường hợp này có thể lý giải rằng, nếu nhập khẩu ở mức cố định thì các nhà sản xuất nước ngoài có thể vượt rào cản bằng cách hạ giá bán. *Phân loại thuế nhập khẩu theo mục đích. -Thuế nhập khẩu theo ngân sách: loại thuế này tạo nguồn thu cho NSNN, đánh vào hoạt động sản xuất tiêu dùng các hàng nhập khẩu mà trong nước chưa nhập khẩu được. -Thuế quan bảo hộ:mang tính chất bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước. Như hạn chế nhập khẩu bằng cách đánh thuế suất cao. -Thuế quan trừng phạt: Loại thuế này thường được ấn định mức thuế suất cao, sử dụng trong các trường hợp cần thiết dùng để trừng phạt sự phân biệt thuế quan của hàng hoá do một nước khác hoặc có hành vi bán phá giá vào thị trường trong nước. -Thuế quan đàm phán trong thương mại:loại thuế này thường được ấn định trên giới hạn cần thiết để bảo hộ nền sản xuất trong nước đồng thời là phương tiện dùng để đạt những kết quả nhất định trong đàm phán các bên tham gia nhằm mở rộng quan hệ quốc tế. *Thuế nhập khẩu theo cách thức quy định. -Theo giá trị :đây là một dạng thuế có thuế suất quy định bằng phần trăm giá trị ghi trên hoá đơn, không phân biệt số lượng. -Thuế quan đặc thù: có mức thuế suất được quy định bằng số tiền tuyệt đối cho mỗi đơn vị hàng hoá. Loại thuế này đảm bảo nguồn thu ngân sách ổn định không chịu ảnh hưởng của biến động giá cả. -Thuế quan phân biệt: loại thuế này có thể là thuế quan theo giá trị hoặc thuế quan đặc thù. 1.2.2.3. Vài trò của thuế nhập khẩu. 1.2.2.3.1. Kiểm soát hàng hoá nhập khẩu Khi thị trường mở cửa, có thể nói rằng vì mục tiêu lợi nhuận mà việc mua bán hàng hoá, dịch vụ có thể diễn ra ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ hàng hoá gì. Có những hàng hóa phục vụ nhu cầu cơ bản của con người, có những hàng hoá dịch vụ là tư liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm là động lực trực tiếp nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, cũng có những thứ hàng hoá có thể thâm nhập bằng nhiều hình thức làm thâm hại đến chủ quyền an ninh quốc gia, đến đời sống vật chất tinh thần của nhân dân trên thế giới. Nhiều nhà kinh tế học đã chứng minh rằng có hai loại hàng hoá siêu lợi nhuận đó là vũ khí và ma tuý. Ngoài ra còn có những văn hoá đồ truỵ cũng có thể thâm nhập và thị trường nội địa làm phương hại đến môi trường văn hoá- xã hội của nước nhập khẩu. Với loại hàng hoá, vật phẩm đó một khi nhập khẩu vào thị trường trong nước, có thể gây xáo động đến an ninh, trật tự, tệ nạn xã hội...là mầm mống của nhiều tệ nạn xã hội có thể phát phát sinh. Chính vì vậy, thông qua việc kiểm tra thu thuế nhập khẩu, để biết được thực chất hàng hoá nhập khẩu qua của khẩu là loại hàng hoá gì? với số lượng là bao nhiêu? nhập khẩu từ nước nào?vv...thì nhà nước mới kiểm tra được tất cả các loại hàng hoá nhập khẩu. Kết hợp với chính sách kinh tế đối ngoại thích hợp, nhà nước cho phép nhập khẩu những loại hàng hoá nào, cần nhập những loại hàng hoá gì để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời đối với mọi trường hợp. 1.2.2.3.2. Bảo hộ sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào đầu vào của quá trình sản xuất thông qua việc đánh thuế trên hàng hóa nhập khẩu là máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất. Ngoài chức năng điều tiết vĩ mô như các loại thuế gián thu, thuế nhập khẩu có những chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc tác động vào giá cả của hàng hoá nhập khẩu trên thị trường cụ thể. -Đối với những hàng hoá là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, việc đánh thuế nhập khẩu thấp nó tác động trực tiếp vào đầu vào của sản phẩm, giá cả đầu vào giảm giúp Doanh nghiệp sản xuất trong nước có điều kiện đổi mới công nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phẩn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hàng hoá sản xuất trong nước. Thông qua chính sách thuế nhập khẩu sẽ là tín hiệu hướng dẫn sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân từ ngành sản xuất kém hiệu quả sang ngành sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên. Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần dựa trên nền tảng là chiến lược phát triển tổng thể nền kinh tế quốc gia. -Đối với những loại hàng hoá khác, tuỳ thuộc vào nhu cầu và đối tựơng sử dụng thuế nhập khẩu có tác động khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng bằng việc đánh thuế thấp hay cao. Qua đó, việc đánh thuế hàng nhập khẩu thể hiện mức độ bảo hộ hàng sản xuất trong nước. +Khi đánh thuế hàng nhập khẩu cao thì giá cả của hàng khập khẩu cao sẽ hạn chế tiêu dùng sản phẩm trong nước, trong điều kiện đó hàng sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh hơn hàng nhập khẩu nhờ giá thành hạ so với hàng nhập khẩu. +Khi đánh thuế hàng nhập khẩu thấp, tức là khuyến khích nhập khẩu những mặt hàng đó, người tiêu dùng có điều kiện tiêu dùng hàng nhập khẩu (giá thành rẻ, chất lượng tốt) trực tiếp thúc đẩy doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện công tác tổ chức quản lý cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu sẽ bị hạn chế, do việc phải thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực. Hơn nữa, trong thực tế nếu qúa nhấn mạnh vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với ngành sản xuất trong nước không những không thực hiện được chính sách đối ngoại mà còn làm cho nền kinh tế trở nền trì trệ kém phát triển. 1.2.2.3.3. Huy động nguồn lực tài chính cho NSNN. Ngoài chức năng trên thuế nhập khẩu còn góp phần quan trọng trong việc hình thành nguồn thu cho NSNN. Khi thu thuế nhập khẩu ở mức cao vừa góp phần đáng kể cho NSNN. Ngược lại, thu thế nhập khẩu thấp, tức là khuyến khích nhập khẩu, nhìn bề ngoài số thu đóng góp cho NSNN thấp hoặc không đáng kể, nhưng xét tổng thể quy trình sản xuất xã hội thì thu ngân sách tăng lên ở khâu tiêu thụ sản phẩm thông qua các loại thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt. 1.2.2.4. Các phương pháp xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá làm cơ sở để xác định số thuế nhập khẩu phải nộp. Lịch sử phát triển thương mại thế giới đã ghi nhận rằng các quốc gia trên thế giới đã trải qua rất nhiều cách xác định giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu bởi tính đa dạng và phức tạp của nó. Thông qua phương pháp xác định trị giá mà nước nhập khẩu đã sử dụng như là công cụ hữu hiệu để thực hiện chính sách ngoại thương của mình. Vì vậy, để có được một hệ thống phương pháp xác định chính xác, thống nhất trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại quốc tế, hiệp định chung thuế quan và thương mại (GATT) năm 1947 đã cho ra đời các phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu, với nguyên tắc ràng buộc cụ thể: -Phải căn cứ vào trị giá thực tế mua bán của hàng hoá -Không được căn cứ vào trị giá của hàng hoá sản xuất tại nước nhập khẩu hay trị giá hư cấu hay sắp đặt. -Phải là mức giá mà mức giá đó được mua bán trong điều kiện kinh doanh bình thường với các điều kiện cạnh tranh không hạn chế. Với mục tiêu đặt ra là hệ thống xác định trị giá tính thuế đảm bảo công bằng, ổn định và trung lập. Hiệp định này đã có nhiều quốc gia tham gia, làm cơ sở cho việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu của mình. Trong quá trình thực hiện, Hiệp định trị giá (GATT) 1947 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, do vậy đến năm 1994, Hiệp định này đã được sửa đổi, bổ sung và làm cơ sở hình thành hệ thống Hiệp định khung cho hoạt động của WTO. Nội dung của phương phấp xác định trị giá tính thuế theo hiệp định trị giá GATT/WTO.(gọi tắt là hiệp định WTO). Hệ thống phương pháp xác định trị giá tính thuế nhập khẩu bao gồm 6 phương pháp. Phương pháp 1:trị giá giao dịch. Trị giá giao dịch là giá cả thực tế hoặc sẽ phải trả cho hàng hoá khi hàng hoá đó được bán theo nghĩa vụ xuất khâủ đến nước của người nhập khẩu và được điều chỉnh phù hợp với quy định của Điều 8-Hiệp định trị giá GATT. Phương pháp 2:Trị giá giao dịch của hàng cùng loại. Hàng hoá được coi là cùng loại là những hàng hoá mà giống nhau về các khía cạnh tính chất và đặc điểm về thể chất vật chất, giống nhau về chất lượng danh tiếng hàng hoá, được sản xuất cùng một hãng của cùng một nước với hàng hoá được xác định trị giá. Trường hợp không phải là cùng hãng sản xuất thì lấy cùng loại cuả hãng sản xuất trong nước đó. Phương pháp 3: trị giá giao dịch của hàng tương tự. Hàng tương tự là mặt hàng gần giống như mặt hàng đang được xác định trị giá về cấu tạo và đặc điểm vật chất, có thể thực hiện cùng chức năng và về mặt thương mại có thể thay thế cho mặt hàng đang được xác định trị giá. Trường hợp trong cùng một hãng không có mặt hàng tương tự thì có thể lấy mặt hàng tương tự do hãng khác sản xuất nhưng phải cùng một nước của hàng đang được xác định. Phương pháp này cũng quy định nếu khi xác định trị giá tính thuế có nhiều kết quả đều thoả moãn các điều kiện thì trị giá tính thuế nhỏ nhất được thực hiện. Phương pháp 4- phương pháp suy diễn: Theo phương pháp này trị giá tính thuế hàng nhập khẩu được xác định trên cơ sở bán hàng đang cần xác định trị giá ở nước nhập khẩu hoặc trị giá ở mặt hàng cùng loại, mặt hàng tương tự đã nhập khẩu, loại trừ những chi phí nhất định bắt nguồn từ nghiệp vụ nhập khẩu và chi phí bán hàng. Thoả mãn các điều kiện : Hàng được bán phải có cùng điều kiện với hàng nhập khẩu. Việc bán hàng này phải diễn ra cùng thời kỳ với hàng nhập khẩu đang được xác định trị giá. Nghiệp vụ bán hàng phải diễn ra bình thường, sòng phẳng. Đơn giá được sử dụng là đơn giá của lô hàng lớn nhất hoá đơn thương mại được coi là cơ sở chủ yếu để xây dựng đơn giá. Các yếu tố được loại trừ khỏi đơn giá + Hoa hồng liên quan đến bán hàng. + Chi phí vận chuyển, bảo hiểm và các chi phí liên quan trong phạm vi nước nhập khẩu. + Lệ phí hải quan và thuế nhập khẩu của nước nhập khẩu. Phương pháp 5: phương pháp trị giá tính toán: Theo phương pháp nà._.y trị giá tính thuế hàng nhập khẩu được xác định trên cơ sở giá thành của mặt hàng đang được xác định trị giá cộng với một khoản lợi nhuận và chi phí chung được phản ánh trong nghiệp vụ bán hàng cùng loại từ nước của người xuất sang nước người nhập khẩu. Phương pháp 6: phương pháp dự phòng. Khi không thể xác định được giá tính thuế hàng nhập khẩu theo các phương pháp trên có thể được kết hợp cả năm phương pháp trên. Theo phương pháp này không thể tuỳ tiện áp đặt, suy đoán vô căn cứ. Đây là quá trình hoàn thiện hệ thống các phương pháp xác định trị giá hàng nhập khẩu gắn liền với quá trình tự do hoá thương mại. Hệ thống các phương pháp xác định gía tính thuế mang tính ổn định, minh bạch trong điều kiện sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của thị trường quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là yếu tố thường xuyên biến động, sự tăng giá cả trên thị trường phụ thuộc rất nhiều bởi các yếu tố khác nhau. Hệ thống phương pháp xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá WTO, đảm bảo được sự tôn trọng của các quy luật khách quan tác động trên thị trường. Trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu hoặc trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt có thể được xác định hầu hết các trường hợp hàng hoá nhập khẩu. 1.3. Chính sách thuế nhập khẩu. 1.3.1. Khái niệm chính sách thuế nhập khẩu. Chính sách thuế nhập khẩu là tổng hợp các phương hướng của nhà nước vào từng giai đoạn trong lĩnh vực nộp thuế nhập khẩu và các biện pháp, thủ pháp để đạt được mục tiêu đã định. Chính sách thuế nhập khẩu thể hiện đường lối và phương hướng của nhà nước đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước dưới hình thức thuế nhập khẩu. Chính sách thuế nhập khẩu được quy định bởi các văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội và Chính phủ phê duyệt. Chính sách thuế nhập khẩu được thay đổi qua từng giai đoạn thời kỳ nhất định của mỗi quốc gia. Chính sách thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách thuế nói chung, chính sách kinh tế đối ngoại của một quốc gia. Mục đích cơ bản của nó góp phần thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại, đảm bảo ổn định về kinh tế, giải quyết các mục tiêu kinh tế tài chính và các chính sách thương mại. 1.3.2. Các vấn đề xây dựng chính sách thuế nhập khẩu 1.3.2.1. Mục tiêu của chính sách thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩu được coi trọng ở các nước đang phát triển vì đối với các nước phát triển mức thuế rất thấp, mặt khác nguồn thu những nước này cho ngân sách Nhà nước còn eo hẹp, không đủ thực hiện công nghiệp hoá đất nước. Nhằm đạt được mục đích này, các nước chủ trương mở rộng hoạt động ngoại thương, vì thế thuế nhập khẩu có nhiệm vụ động viên tối đa nguồn tài chính do hoạt động ngoại thương mang lại tập trung vào ngân sách nhà nước. Đặc biệt ở những nước đang phát triển do hoạt động ngoại thương còn non yếu nên thường sử dụng các biện pháp thuế quan để đạt được mục tiêu. Nhưng đây là mục tiêu không mang tính chiến lược lâu dài bởi mục tiêu của các quốc gia là phải hoà nhập chung với nền kinh tế thế giới, mà điều đó không đồng nghĩa với việc đánh thuế cao đối với mặt hàng nhập khẩu. * Mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước. Thực tế không có một thị trường hoàn hảo mà trong tình hình mới đòi hỏi đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Để thực hiện chức năng và đường lối của quốc gia mình các nước đã sử dụng đến biện pháp điều tiết thuế nhập khẩu. Sự tồn tại của thuế nhập khẩu là một yếu tố khách quan, nó vẫn tồn tại ở các nước khi hoạt động ngoại thương diễn ra. Tuy nhiên mức độ coi trọng thuế nhập khẩu ở mỗi thời kỳ, mỗi nước là rất khác nhau, nó phụ thuộc vào mục đích của mỗi quốc gia. Một trong những mục tiêu quan trọng đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước khi mà nền sản xuất đang trên đà phát triển. Bảo hộ là bảo vệ và trợ giúp các thành phần kinh tế trong điều kiện cần thiết, là việc nước dùng chính sách công cụ trong tay tạo ra một môi trường hành lang pháp lý thuận lợi giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện phát triển hoạt động của mình, nhà nước có thế dùng nhiều công cụ như chính sách giá cả, chính sách thuế nhập khẩu. Nhưng trong tất cả các công cụ đó thì chính sách thuế nhập khẩu là công cụ linh hoạt và quan trọng nhất. Với hoạt động nhập khẩu ở những nước có nền kinh tế phát triển cao, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nội địa lớn thì biện pháp thuế quan được sự dụng cho mục đích này thường ít được coi trọng. Song đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển hoặc những nước theo đuổi chiến lược CNH, HĐH thay thế hàng nhập khẩu, phát triển theo mô hình hướng nội, độc lập tự chủ về kinh tế thì hết sức coi trọng mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước. * Mục tiêu kiểm soát hoạt động ngoại thương Tất cả các nước đều thông qua thuế quan để điều chỉnh nền kinh tế nội địa và kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu theo hướng có lợi cho quốc gia mình nhưng vẫn bảo đảm hoạt động thương mại quốc tế. Để có thể khuyến khích hay hạn chế hoạt động nhập khẩu một mặt hàng nào đó biện pháp đơn giản là hạn chế mức thuế suất hay là tăng mức thuế suất nhưng chỉ ở một mức độ nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động buôn bán trao đổi với nước ngoài đạt hiệu quả cao. * Mục tiêu giảm thuế để tăng thuế Đây là mục tiêu thể hiện sự nhìn nhận mới mẻ về chính sách thuế nhập khẩu ở mỗi quốc gia. Mục tiêu giảm thuế để tăng thuế nhằm khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo tính công bằng. Chính sách thuế nhập khẩu cần phải thể hiện rõ mục tiêu này khi mà Việt Nam đang trong quá trình gia nhập WTO. Khi thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm cho đối tượng nộp thuế tự giác và có trách nhiệm hơn đối với nghĩa vụ thuế của mình đối với một số thuế còn lại như thuế GTGT, thuế TNCN... Mục tiêu này làm cho hệ thống thuế trở nên ổn định hơn, đảm bảo được tình công bằng, hạn chế việc trốn thuế. Đối tượng nộp thuế sẽ cảm thấy bằng lòng với chính sách thuế thì họ sẽ sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ của mình. 1.3.3. Nguyên tắc cơ bản xây dựng chính sách thuế nhập khẩu. * Nguyên tắc tổng thể: Nguyên tắc này xem xét một cách tổng thể sự tác động thuế quan đối với nền kinh tế của một nước. Thuế nhập khẩu là một công cụ boả hộ nền sản xuất trong nước nó vừa có tính tích cực lẫn tiêu cực khi được áp dụng. Để đánh giá tính hiệu quả của chính sách thuế nhập khẩu, các nhà hoạch định chính sách phải luôn quan tâm so sách những tác động tiêu cực và những tác động tích cực. Như đã phân tích trên, sau khi đánh thuế nhập khẩu giá của các hàng hoá nhập khẩu nội địa tăng lên, khiến các doanh nghiệp sản xuất trong nước có ưu thế còn người tiêu dùng bị thiệt, điều đó cũng tương tự đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Khi bảo hộ một ngành nào đó bằng cách đánh thuế quan để thu hút đầu tư nước ngoài, thì cũng vô hình làm giảm vốn đầu tư vào các ngành khác mà lẽ ra điều kiện bình thường các ngành đó sẽ nhận được vốn đầu tư nước ngoài. Người ta không chứng minh được một cách chắc chắn để làm thế nào có lợi hơn. Khi không có thế quan thì đầu tư nước ngoài được phân bổ theo khả năng sinh lợi của các ngành, khi có thuế quan các ngành được bảo hộ thu lợi, tăng vốn đầu tư từ sự mất mát của các ngành khác. Một số quan điểm cho rằng cần phải có chính sách bảo hộ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để sản xuất nội địa thay cho việc sản xuất sang nước đó. Điều này cho thấy một sự đánh đổi giữa đầu tư và thương mại, càng nhiều hoạt động thương mại thì càng ít đầu tư và ngược lại. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng chính sách thuế phải tính toán lựa chọn đúng mục tiêu để phù hợp với điều kiện phát triển của từng nước. *Tính minh bạch. Nguyên tắc này là tiếp bước của nguyên tắc trên, bởi khi có bảo hộ thì nhất thiết phải có sự đánh đổi. Do vậy điều quan trọng là phải làm cho sự đánh đổi này thật sự minh bạch. Chính sách thuế nhập khẩu phải được phân biệt một cách rõ ràng, phải được thiết lập sao cho xác định rõ ràng ngành nào, lĩnh vực nào được bảo hộ là như thế nào. Tính minh bạch phải được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, bởi chính sách thuế nhập khẩu là một chính sách mang tính chất điều tiết vĩ mô của nhà nước. Đối với những nước phát triển chính sách này thường không có mục tiêu nhất quán rõ ràng, sự tuỳ tiện thay đổi mục tiêu chính sách bằng việc tuỳ tiện thay đổi thuế quan khiến nhiều ngành phải gánh chịu những hậu quả không lường đến, gây khó khăn cho một số ngành kinh doanh. Các nhà hoạch định chính sách thuế nhập khẩu cần phải nắm rõ nguyên tắc này vì chính nó sẽ góp phẩn mang lại tính công bằng, ổn định cho chính sách thuế của mỗi quốc gia. Khả năng dự đoán được. Mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải vạch ra chiến lược cho hoạt động kinh doanh của mình. Để đạt được điều này Chính phủ phải vạch ra các chính sách có khả năng dự đoán được, để tạo nên một số ổn định. Nếu chính sách của Chính phủ luôn thay đổi thì rất có nhiều biến động trong hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp không thể định hướng cho mình. Mối quan hệ của 3 nguyên tắc trên được biểu hiện như sau: Nguyên tắc tổng thể Khả năng dự đoán được Tính minh bạch 1.3.4. Các công cụ của chính sách thuế nhập khẩu * Thuế suất là linh hồn của chính sách thuế nhập khẩu, thể hiện mọi mục tiêu của chính sách. Thuế suất được tập trung trong một văn bản quy phạm pháp luật được gọi là biểu thuế. Biểu thuế nhập khẩu được chia thành từng chương, mỗi chương được chia thành từng nhóm, mỗi nhóm được chia thành từng phân nhóm, thậm chí thành từng loại hàng hoá. Để có thể hình dung được kết cấu của biểu thuế, sự ưu việt của thuế quan theo danh mục hệ thống điều hoà (HS) ta cần phải nắm rõ sự hình thành và kết cấu của nó. + Sự hình thành: Từ khi xuất hiện hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước cần phải thống nhất cách phân loại hàng hoá để phục vụ cho việc đánh thuế, thống kê và áp dụng các quy định khác của pháp luật đặt ra. Đã có nhiều kiểu phân loại hàng hoá ra đời và tồn tại giữa các quốc gia buôn bán với nhau, trở thành tiêu chuẩn chung mang tính quốc tế. + Kết cấu của hệ thống thuế gồm các danh mục đa năng và danh mục cơ cấu *Giá tính thuế: Giá tính thuế hay giá trị hải quan là trị giá của hàng hoá nhập khẩu được xác định theo mục đích quản lý của cơ quan hải quan. Việc xác định đúng đắn trị giá hàng hoá không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu ngân sách, tới chính sách bảo hộ sản xuất nội địa mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến quan hệ thương mại ngoại giao giữa các nước. 13.5. Những nhân tố ảnh hưởng tới chính sách thuế nhập khẩu. Chính sách thuế nhập khẩu là một chính sách nằm trong hệ thống chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc gia và trong quá trình vận động nó cũng không tránh khỏi sự tác động của các nhân tố cơ bản sau: 1.3.5.1 Nhân tố chủ quan. Trình độ chuyên môn ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ ngành thuế. Một chính sách thuế được xây dựng hoàn hảo đến đâu, nhưng thực hiện nó lại được tiến hành bởi một đội ngũ cán bộ bị hạn chế về năng lực, trình độ, tinh thần và ý thức kỷ luật kém thì chính sách thuế đó không phát huy hết tác dụng đối với nền kinh tế, mà còn bị đánh giá một cách sai lệch méo mó. Nhận thức của người dân: Một chính sách thuế muốn thực hiện một cách công bằng và ổn định cần phải phổ biến một cách rộng rãi rõ ràng, để đối tượng nộp thuế hiểu và hành động đúng với trách nhiệm của mình. Trình độ dân trí cao góp phần vào việc thi hành chính sách thuế đơn giản hơn. 1.3.5.2. Các nhân tố khách quan. Những chủ trương đường lối về phát triển kinh tế của quốc gia theo từng giai đoạn.Ta đã biết chính sách thuế nhập khẩu là một trong những chính sách thuộc hệ thống quản lý vĩ mô của nhà nước nên có bất kỳ sự thay đổi nào trong chủ trương chính sách về phát triển, thì bản thân chính sách cũng thay đổi cho phù hợp với toàn bộ hệ thống. Điều này thể hiện rất rõ ràng khi có sự thay đổi trong chính sách thương mại. *Hệ thống pháp luật. Chính sách thuế nhập khẩu thường được cụ thể hoá bởi các văn bản pháp luật, vì vậy một hệ thống luật thống nhất đồng bộ và minh bạch chính là một nhân tố tạo ra môi trường luật pháp thuận lợi để thực hiện tốt chính sách thuế nhập khẩu. Lúc này thuế nhập khẩu sẽ trở nên thuận tiện, chặt chẽ, dễ thực thi hơn khi hệ thống luật pháp của quốc gia đó không đồng bộ. *Tình hình kinh tế chính trị trong và ngoài nước. Sự ổn định và thịnh vượng của bất kỳ quốc gia nào đều không nằm ngoài sự ổn định chung của toàn khu vực và thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong từng khu vực, trong từng tổ chức là một điều tất yếu khách quan. Bởi vậy, có thể chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về kinh tế –chính trị- xã hội của một quốc gia cũng sẽ kéo theo một loạt các thay đổi nhỏ về chính sách điều tiết nền kinh tế quốc gia có quan hệ giao lưu thương mại với nhau. Ví dụ như cuộc khủng khoảng tiền tệ ở Thái Lan năm 1997 đã kéo theo hàng loạt sự ảnh hưởng tới các nước trong khu vực Đông Nam á và một số nước trên thế giới. Do vậy sự ổn định kinh tế chính trị trong và ngoài nước sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình xuất nhập khẩu nói chung giữa các nước và điều tất nhiên là chính sách thuế nhập khẩu cũng thay đổi. *Trình độ của mỗi công dân. Mỗi quốc gia sẽ áp dụng cho mình một chính sách thuế nhập khẩu phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, nếu công dân có nhận thức đúng đắn và thực hiện hiệu quả mà chính sách thuế nhập khẩu đem lại cho chính bản thận họ cũng như đối với tổng thể nền kinh tế thì các quy phạm pháp luật liên quan tới chính sách thuế nhập khẩu thì họ sẽ chấp hành một cách nghiêm túc. Khi đó chính sách thuế nhập khẩu mới có thể thực hiện một cách thuận lợi trên thực tế, để đạt được mục tiêu đã định. 1.4. Những nguyên tắc cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.4.1.Các nguyên tắc ràng buộc về thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới cùng với xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và tự do thương mại quốc tế và tự do thương mại đã tạo ra những nguyên tắc nhất định nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế phát triển. Những nguyên tắc này được áp dụng một cách cơ bản trong các tổ chức như: WTO, cũng như các tổ chức kinh tế khu vực, mà các thành viên trong tổ chức này đều phải có nghĩa vụ thực hiện. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất mà từ đó có thể phát sinh các nghĩa vụ, cam kết hay quy định có liên quan đến chính sách thuế nhập khẩu. Cụ thể như sau: 1.4.1.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại quốc tế: Nguyên tắc không phân biệt đối xử là nguyên tắc bao trùm nhất của WTO và cũng được áp dụng như một nguyên tắc cơ bản trong khối mậu dịch khu vực và các hiệp định thương mại song phương. Nguyên tắc thể hiện dưới hai dạng đó là nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia. +Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN): Nguyên tắc này quy định các biện pháp tham gia ký kết trong buôn bán sẽ dành cho nhau những điều kiện ưu đãi không kém thuận lợi hơn những ưu đãi mà mình đã hoặc sẽ dành cho các nước khác. Tức là, hàng hoá được nhập khẩu từ một bên tham gia trong quan hệ thương mại vào lãnh thổ của nước bên kia chỉ chịu mức thuế quan và các loại phí khác cũng như các thủ tục liên quan đến hàng hoá nhập khẩu như một nước thứ ba nào khác. Như vậy, khi các ưu đãi mậu dịch được hai nước thành viên thoả thuận với nhau thì ngay lập tức sẽ có hiệu lực áp dụng cho tất cả các nước thành viên khác. Chính vì vậy, Hiệp định WTO đã đưa nguyên tắc này vào quy chế của mình và coi đây là cơ sở quan trọng để các nước thành viên thúc đẩy buôn bán và giảm xung đột trong quan hệ thương mại quốc tế. Trong thực tế, tuỳ hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà nguyên tắc này được các nước áp dụng theo quy chế tối huệ quốc không có điều kiện. Nguyên tắc này cho phép có ngoại lệ đối với các nước thành viên trong khối mậu dịch khu vực có một biểu thuế, hàng rào phi thuế quan riêng. Các nước đang phát triển cũng có thể được hưởng ưu đãi riêng giữa các nước phát triển theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập hay là những ưu đãi từ các nước phát triển từ trong hệ thống ưu đãi chung. Đồng thời, Hiệp định trị giá WTO cũng cho phép một nước khi có lý do chính đáng về kinh tế, thương mại có thể khước từ một số nghĩa vụ về thương mại của mình trong một khoảng thời gian nhất định. Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT): quy định việc không phân biệt đối xử giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá sản xuất trong nước thông qua các loại thuế và phí nội địa cũng như các quy định, thủ tục hành chính ràng buộc nhằm điều chỉnh việc tiêu thụ, chào hàng, lưu kho, vận chuyển... Nguyên tắc này xác định tiêu chuẩn công bằng nhằm ngăn chặn các nước bảo hộ sản xuất trong nước thông qua chính sách thuế và phí nội địa (ngoài chính sách thuế quan). 1.4.1.2. Nguyên tắc bảo hộ sản xuất trong nước thông qua chính sách thuế nhập khẩu: Đối với nhiều nước, chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước diễn ra dưới nhiều hình thức như trợ cấp đầu vào của sản phẩm xuất khẩu, lãi xuất thấp, thuế quan ưu đãi hoặc cấm nhập khẩu hay nhập khẩu có định lượng... tất cả những biện pháp trên đây đều tạo nên sự méo mó về giá cả, tạo ra sự cạnh tranh giả tạo, làm phương hại đến nền thương mại cũng như ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Do vậy, nguyên tắc này quy định mỗi quốc gia chỉ được phép bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua hình thức thuế nhập khẩu và chấm dứt sử dụng các biện pháp phi thuế quan. WTO cũng quy định vào các loại phí liên quan đến nhập khẩu, xuất khẩu không được sử dụng để bảo hộ gián tiếp cho sản xuất trong nước hay để đánh thuế đối với xuất, nhập khẩu vì mục đích tạo lập nguồn thu cho NSNN. 1.4.1.3. Nguyên tắc công khai và khuyến khích thúc đẩy cạnh tranh: Các tổ chức kinh tế khu vực cũng như toàn cầu, bao gồm các nền kinh tế thành viên, khi thông thương nó sẽ tạo thành nền kinh tê quốc tế, mà trong đó nguyên tắc công bằng và không bị bóp méo cần phải được tôn trọng. Vì thế, nguyên tắc này nhằm cung cấp cho các thành viên cơ sở để tiến hành việc chống trả lại các biện pháp có thể bóp méo về giá cả hoặc gây tổn hại cho chính các nước thành viên. Nguyên tắc này rằng buộc các nước phải đưa ra những đối xử công bằng với các nước bạn hàng, giảm bớt bảo hộ mậu dịch, luật lệ thương mại thể hiện trong chính sách thương mại quốc tế phải được công khai rõ ràng để giá hàng nhập khẩu cũng như các thủ tục liên quan khác đến quá trình nhập khẩu hàng hoá không bị bóp méo. Hay nói cách khác, việc thực hiện chế độ công khai thuế nhập khẩu, cũng như các thủ tục liên quan tới quá trình nhập khẩu phải rõ ràng, rành mạnh, không bị bóp méo bởi các ràng buộc hành chính. 1.4.1.4. Nguyên tắc có đi có lại và tôn trọng các cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu. Nguyên tắc này quy định nếu một nước có một số biện pháp mở cửa thị trường như hạ thấp thuế nhập khẩu, xoá bỏ một phần hay toàn bộ hàng rào hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu, thì họ có quyền đòi hỏi các nước thành viên khác phải có những nhượng bộ tương tự. Nguyên tắc này đòi hỏi các nước thành viên phải tìm cách cân bằng lợi ích và nghĩa vụ của mình trong các Hiệp định song phương và đa phương. Đối với WTO, nguyên tắc này được duy trì trong quá trình đàm phán. Trước hết, việc hình thành các nghĩa vụ, tiếp theo là các nhượng bộ trên cơ sở công bằng giữa bên tham gia đàm phán. Trường hợp khi nước thành viên không thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiệp định thương mại thì phải bồi thường thông qua giải quyết tranh chấp. 1.4.1.5. Nguyên tắc tự do hoá ràng buộc cắt giảm thuế nhập khẩu: WTO cũng như các tổ chức kinh tế khu vực không đòi hỏi tự do hoá thương mại một cách nhanh chóng, mà yêu cầu các nước thành viên tạo điều kiện dễ dàng cho quá trình đàm phán thương mại nhằm mục đích tự do hoá, đặc biệt là thông qua việc giảm cơ bản mặt bằng thuế nhập khẩu nói chung và các khoản phí khác đối với xuất, nhập khẩu hàng hoá, đặc biệt là giảm mức thuế cao đối với hàng hoá nhập khẩu là yếu tố quan trọng mang tính chất nền tảng trong thương mại quốc tế. Những nhượng bộ về thuế nhập khẩu trong các đàm phán có thể là những cam kết về giảm thuế, khống chế cả mức thuế trần. Đối với các khối mậu dịch khu vực, vấn đề cắt giảm thuế nhập khẩu thể hiện những ràng buộc cao hơn với những quy định cụ thể về mức thuế phải được cắt giảm theo những mốc thời gian được quy định chặt chẽ. Bên cạnh đó, WTO đòi hỏi Chính phủ các nước không được phép bắt buộc các nhà nhập khẩu hoặc các nhà xuất khẩu phải theo đuổi thường xuyên những thay đổi quy chế nhập khẩu hoặc các tiêu chuẩn kỹ thuật về hàng hoá nhập khẩu có tính chất gián tiếp là hàng rào phi thuế quan. 1.4.1.6. Nguyên tắc phòng ngừa bất trắc: Các Hiệp định thương mại ở cấp độ toàn cầu và khu vực có quy định vấn đề bảo hộ phòng ngừa trong các trường hợp bất trắc. Những quy định này cho phép các nước thành viên được áp dụng hành động tự vệ trong một số các trương hợp đặc biệt như: -Các trường hợp khẩn cấp về bảo hộ cho nền sản công nghiệp trong nước, nếu việc tăng lượng hàng nhập khẩu không lường trước được do việc thực hiện nghĩa vụ hay nhượng bộ theo Hiệp định là nguyên nhân đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước; Trường hợp có hoạt động bán phá giá; trường hợp nước xuất khẩu áp dụng các hoạt động trợ cấp không được phép. -Các biện pháp áp dụng có thể nâng cao thuế nhập khẩu hoăc đưa ra những quy định về hạn chế định lượng, áp dụng loại thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, thực hiện phụ thu đối với hàng nhập khẩu. Như vậy tham gia vào quá trình hội nhập ở mức độ khu vực hay toàn cầu đều đòi hỏi mỗi quốc gia có những điều chỉnh nhất định trong chính sách để phù hợp với nguyên tắc và thông lệ chung. Mặc dù có những điều khoản ưu đãi và nới lỏng nhất định cho các nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi, nhưng việc tuân thủ các nguyên tắc này là vấn đề phức tạp và khó khăn đối với các nước đang phát triển. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển hơn, hệ thống chính sách trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó có chính sách thuế nhập khẩu, có thể còn nhiều vấn đề bất cập, có thể dẫn đến những vi phạm các nguyên tắc chung trong thương mại quốc tế. Vấn đề đặt ra, mỗi quốc gia tự lựa chọn cho mình bước đi thích hợp, bên cạnh những cam kết quốc tế và quá trình thực hiện cam kết đó, đòi hỏi việc phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực do quá trình mở cửa thị trường mang lại, nhằm nâng cao khả năng và hiệu quả của nền kinh tế, đảm bảo giữ vững thị trường trong nước cũng như cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 1.5. Kinh nghiệm sử dụng chính sách thuế nhập khẩu của một số nước trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế: Trong quá trình hoàn thiện chính sách thuế nói chung cũng như chính sách thế nhập khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc tham khảo kinh nghiệm của các nước là việc không thể thiếu được nhằm rút ngắn khoảng cách và thời gian hội nhập, tránh được những rủi ro có thể xảy ra và đặc biệt là am hiểu về chính sách thuế nhập khẩu của các nước bạn hàng là điều cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà xuất, nhập khẩu. Để có thêm thông tin tổng hợp kinh nghệm từ các nước đi trước, cần tiếp cận nghiên cứu chính sách thuế nhập khẩu của Trung Quốc - đất nước có bước tiến hội nhập tương đồng với Việt Nam; tham khảo kinh nghiệm các nước trong khối ASEAN để có thêm kinh nghiệm trên con đường hội nhập vào kinh tê khu vực. 1.5.1. Tham khảo chính sách thuế quan của Trung Quốc: Do Trung quốc thực hện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước trong một khoảng thời gian khá dài từ trước tới nay, nên mức thuế nhập khẩu luôn ở mức cao. Theo số liệu thống kê: “Năm 1992, mức bình quân thuế nhập khẩu của Trung Quốc là 47,2%, sau đó tuy giảm, nhưng đến năm 1995 vẫn ở mức bình quân là 35,6%. Trung quốc là một trong những nước có thuế nhập khẩu cao trên thế giới. Từ năm 1996 trở đi, Trung quốc đã giảm thuế nhập khẩu xuống mức bình quân là 23%. Khi thực hiện chính sách cắt giảm thuế nhập khẩu, tác động của thuế nhập khẩu đối với nền kinh tế theo chiều hướng tốt. Trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến 1995, Trung quốc đã trải qua bốn ( HS) được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trong thời gian này tỷ lệ thuế suất nhập khẩu bình quân của Trung quốc giảm từ 47,2% xuống còn 36,4% (0,5%), năm 1996 tỷ lệ thuế suất thuế nhập khẩu bình quân lại tiếp tục giảm xuống 23%. Do đã trải qua các lần giảm thuế nhập khẩu, sức chịu đựng của nền kinh tế được nâng lên, các doanh nghiệp dần thích ứng với môi trường cạnh tranh mới khi mà thuế nhập khẩu giảm, lượng hàng hoá nhập khẩu ngày càng tăng. Khi thực hiện chính sách mở cửa, Trung quốc đặt rất nhiều chính sách ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế nhập khẩu. Ví dụ như là miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với chuyển giao công nghệ, hàng hoá nhập khẩu vào trong đặc khu kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hàng hoá là nguyên liệu, bán thành phẩm... Thực tế trên đây cho thấy rằng, việc Trung quốc tiếp tục cắt giảm thuế nhập khẩu để thực hiện chương trình hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai có những đặc trưng cơ bản sau: -Chính phủ Trung quốc chú ý đến hoàn thiện toàn diện Hệ thống thuế, cần mức thuế hợp lý theo hướng tăng dần tỷ lệ thuế đối với tài nguyên, bán thành phẩm, thành phẩm. -Giảm mạnh mức thuế nhập khẩu một cách thích hợp đối với thiết bị kỹ thuật hình thành nên tài sản cố định mà trong nước chưa sản xuất được, nhằm tạo thuận lợi cho việc hiện đại hoá sản xuất, giảm giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. -Thuế nhập khẩu đối với hàng nông sản thực hiện theo phương thức thuế quan hạn ngạch. -Thực hiện mức thuế tạm thời tương đối thấp với một số mặt hàng mà Chính phủ Trung quốc đang cố gắng phát triển sản xuất, các mặt hàng không tiện giảm thuế nhập khẩu một cách chính thức hoặc một số nguyên, vật liệu và thiết bị kỹ thuật trong nước rất cần nhập khẩu những vẫn giữa mức thuế suất tương đối cao nhằm ổn định ngân sách nhà nước cũng như thực hiện giảm dần mức độ bảo hộ bằng chính sách thuế nhập khẩu. Bằng việc xác định mục tiêu hội nhập kinh tế thế giới, Chính phủ Trung quốc đã có những bước tiến khá thành công trong việc mở cửa thị trường, tạo điều kiện cho hàng hoá Trung quốc xuất khẩu ra thế giới bên ngoài, thúc đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế. Đặc biệt “từ năm 1979, khi Trung quốc ký Hiệp định thương mại (lần thứ nhất) với Hoa kỳ đã gia tăng từ khoảng 40 triệu USD năm 1979 lên khoảng 80 tỷ USD năm 1999”. Kết quả mang lại qua số liệu trên đây chứng tỏ khả năng thích ứng của các doanh nghiệp Trung quốc tăng lên trước sức cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu từ bên ngoài, nhằm tạo thuận lợi cho việc dành lợi thế cho hàng hoá xuất khẩu từ Trung quốc. Đây chính là nhân tố dẫn tới sự thành công của quá trình cải cách kinh tế, mà Việt Nam chúng ta có thể lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho chính mình trong qua trình hội nhập kinh tế thế giới. 1.5.2. Tham khảo chính sách thuế nhập khẩu của các nước ASEAN: Thực hiện mở cửa thị trường, tự do thương mại, phần lớn các quốc gia trong ASEAN đã thực hiện các trương trình cắt giảm thuế nhập khẩu để thu hút đầu tư, cải tiến kỹ thuật, tạo điều kiện mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình trên thị trường khu vực và thế giới. Kết quả của quá trình này là sự phát triển vượt bậc của các nền kinh tế thành viên. Những điểm chính rút ra khi tham khảo kinh nghiệm các nước trong khối ASEAN; +Điểm chung nhất của chính sách thuế quan mà các nước ASEAN là thực hiện chương trình cắt giảm thuế, nhằm thúc đẩy tự do hoá mậu dịch và đầu tư trong và ngoài khu vực ASEAN; +Tuy mức độ có khác nhau, các nước đều phải thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý đặc biệt là việc giảm thuế nhập khẩu tài sản cố định, vật tư, nguyên liệu, giảm dần mức thuế suất cao đối với hàng hoá phục vụ tiêu dùng. Thực tiễn chứng minh rằng sức chịu đựng của các nền kinh tế được tăng lên và khả năng cạnh tranh của hàng hoá các nước ASEAN được củng cố. +Tất cả các nước trong ASEAN đều áp dụng phương pháp thuế tỷ lệ, từng bước áp dụng phương pháp xác định giá tính thuế theo quy định của Hiệp định trị giá WTO. +Biểu thuế nhập khẩu phù hợp với danh mục HS, mức thuế suất hợp lý tính cho từng chương, nhóm mặt hàng, dựa trên tính chất của hàng hoá. +Tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng và tạo điều kiện thông thoáng cho đầu tư, kiểm soát hàng nhập khẩu là việc làm không thể thiếu được trong việc mở rộng thị trường với thế giới bên ngoài, đặc biệt là bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng khoảng kinh tế-tài chính năm 1997. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những hạn chế mà chúng ta cần lưu ý: +Tự do hoá mậu dịch và đầu tư đã tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động nhập khẩu, mở rộng môi trường thu hút vốn đầu tư, khả năng kiểm soát hàng hoá nhập khẩu bằng công cụ thuế nhập khẩu đối với hoạt động nhập khẩu chưa theo kịp yêu cầu xu thế tự do hoá thương mại làm ảnh hưởng đến quá trình tự do hoá thương mại. +Trong điều kiện toàn cầu hoá và khu vực hoá các nước trong khối ASEAN đã có những bước tiến quan trọng về tự do hoá mậu dịch bằng việc đề ra các chương trình cắt giảm hàng rào thuế nhập khẩu và phi thế quan vào năm 2003 (đối với thành viên cũ). Tuy nhên, so với xu thế phát triển ngày càng cao bằng sự hỗ trợ bởi thành tựu khoa học công nghệ, thương mại quá trình này còn chậm hơn so với các nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển đã chi phối rất lớn đối với thương mại thế giới. Việc thực hiện chính sách thuế nhập khẩu, ở một số nước trên đây cho thấy rằng các nước đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá mậu dịch bằng việc giảm thiểu hàng rào thuế nhập khẩu, thuế hoá các rào cản phi thuế quan kết hợp với tổ chức thực hiện đã góp phần lành mạnh hoá môi trường đầu tư, phát huy tối đa vai trò và vị trí của thuế nhập khẩu trong hệ thống các công cụ kinh tế -tài chính. Khi thực hiện các chương trình cắt giảm thuế, nguồn thu của ngân sách nhà nước không giảm mà còn tăng lên bởi hệ quả của qúa trình phát triển kinh tế mang lại. Qua đó có thể rút ra bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam. Chương II. Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua. 2.1. sự hình thành và phát triển chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam: Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tháng 9/1945, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến việc sử dụng thuế xuất, nhập khẩu. Từ đó đế._. nhập khẩu và sự phối hợp liên quan tới thuế nhập khẩu của các ngành, các cấp còn thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế phối hợp tổ chức thực hiện: Trên thực tế, các văn bản của các Bộ, ngành ban hành thiếu thống nhất, thiếu minh bạch, thiếu kịp thời khó tổ chức thực hiện từ phía doanh nghiệp và cả ngành hải quan, làm ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách thuế nhập khẩu. Thể hiện bất cập ở chỗ: -Thể hiện chưa nhất quán và kịp thời giữa luật thuế nhập khẩu và văn bản hướng dẫn thực hiện. -Thiếu đồng bộ giữa chính sách thuế nhập khẩu và thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu gây cản trở tới quá trình hội nhập. - Chưa quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu. -Chưa bao quát hết các loại hình xuất nhập khẩu, đầu tư, dịch vụ mới phát sinh do hệ quả của quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Kể từ khi áp dụng cơ chế thu thuế nhập khẩu mới ngày 1/1/1999, doanh nghiệp tự khai báo, tự tính thuế và chịu trách nhiệm pháp lý, với kết quả bước đầu đã giúp việc giải phóng hàng nhanh, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội như đã phân tích. Nhưng với thời gian ngày càng rút ngắn, hàng hoá thông quan ngày càng nhiều, đa dạng về chủng loại…hệ quả tất yếu là khả năng kiểm soát trước và trong khi thông quan ngày càng giảm Chương III. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.1. Định hướng và nguyên tắc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 3.1.1. Định hướng hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 3.1.1.1.Định hướng bảo hộ bằng thuế nhập khẩu phải có thời hạn: Bảo hộ chỉ là một biện pháp tình thế trong một giai đoạn quá độ nào đó và nó được áp dụng một cách triệt để đặc biệt đối đối với các nước đang phát triển, nhưng đến khi hội nhập hoàn toàn cũng như tham gia vào khu mậu dịch tự do thì chính sách thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước bị xoá bỏ hoàn toàn. Cho tới thời điểm này, Việt Nam đã có hai cam kết hội nhập với hai mốc thời gian để xoá bỏ bảo hộ hoàn toàn đó là: +Đối với ASEAN, Việt Nam cam kết hội nhập đầy đủ vào khu vực mậu dịch tự do vào năm 2006. +Đối với APEC, Việt Nam sẽ thực hiện cam kết của mình vào năm 2020, mà các thành viên trong APEC chiếm một tỷ lệ lớn trong thương mại thế giới. Điều này dẫn tới sự mở rộng ưu đãi đối với thành viên của WTO. Vì vậy, thời hạn bảo hộ đối với APEC và WTO có thể bị chấm dứt đồng thời vào năm 2020. Như vậy trong tương lai không xa, chính sách bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước sẽ bị xoá bỏ. Để tạo thế chủ động cho các doanh nghiệp trong chiến lược kinh doanh của mình thì trong chính sách thuế nhập khẩu cần xác định chính xác thời hạn bảo hộ nếu không các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cứ ỷ vào chính sách bảo hộ của Nhà nước mà không dành thời gian vào khâu nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành tăng sức cạnh tranh của hàng hoá thì chẳng bao lâu thị trường hàng hoá của chúng ta sẽ không tồn tại. Vì vậy, bảo hộ bằng thuế nhập khẩu cần phải xác định thời hạn là hết sức cần thiết. 3.1.1.2. Cam kết về thuế nhập khẩu phải đảm bảo chủ động hội nhập, tránh làm xáo trộn, tác động tới nền sản xuất trong nước Đứng trước thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình hội nhập này tuỳ thuộc vào khả năng thích ứng của nền kinh tế của từng quốc gia. Vì thế, những nước đang phát triển cần phải biết phát huy nội lực dựa vào nguồn lực dồi dào sẵn có của mình tạo một vị trí vững chắc trong quá trình hội nhập và xem sự hội nhập này là cơ hội để các nước đang phát triển khai thác nguồn vốn công nghệ từ bên ngoài để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá và nâng cao tính cạnh tranh hàng hoá sản xuất trong nước. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với chính sách thuế nhập khẩu vừa đảm bảo yêu cầu của hội nhập vừa đảm bảo sự chủ động cho nền sản xuất trong nước có được thế cạnh tranh và thâm nhập sâu vào thị trường quốc tế. Đồng thời phải có giải pháp nhằm hạn chế sự xáo trộn lớn đối với nền sản xuất trong nước cũng như nguồn thu đối với ngân sách Nhà nước. Do nền kinh tế của ta còn qúa non trẻ, yếu kém hầu như ở dạng tiềm năng trong khi nền kinh tế thế giới thì cực mạnh, phát triển nhanh như vũ bão dễ dàng quật đổ những cây non, gốc nông nhỏ như nền kinh tế Việt Nam. 3.1.1.3. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải dựa trên cơ sở chiến lược hội nhập tổng thể. Theo nguyên tắc của tổ chức WTO khi tham gia hội nhập chỉ có thể được sử dụng duy nhất một biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước là thuế quan. Mức thuế suất của thuế nhập khẩu thể hiện mức độ bảo hộ đối với các ngành sản xuất trong nước. Để thực hiện nguyên tắc này, các nội dung cam kết về thuế nhập khẩu sẽ bao gồm cả các yếu tố bảo hộ bằng biên pháp phi thuế quan khác. Như vậy mức cam kết về thuế nhập khẩu đề cập ở đây được coi là mức cuối cùng, đã tính đến vấn đề xử lý đối với các cam kết khác có liên quan đến các biện pháp phi thuế quan khác như chế độ giá tính thuế, trợ cấp xuất khẩu, han chế định lượng. Vì vậy các biện pháp liên quan tới cơ chế quản lý nhập khẩu hiện hành phải đảm bảo được thể chế hoá. Mặc dù thuế quan đựơc sử dụng bảo hộ sản xuất trong nước, nhưng cần phải có chọn lọc, điều kiện theo hướng hiệu quả, không dàn trải, không cục bộ và trong một khoảng thời gian nhất định phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế. Vậy nhất thiết phải tiến hành việc phân loại các ngành hàng, nhóm hàng trong biểu thuế suất nhập khẩu vào các cấp độ khác nhau, căn cứ vào triển vọng và khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, mở cửa thị trường cho phù hợp với chiến lược phát triển. 3.1.2. Nguyên tắc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu. 3.1.2.1. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo phát huy tối đa lợi ích quốc gia trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Không xa nữa chúng ta sẽ phải xoá bỏ hàng rào thuế quan nhằm thực hiên các cam kết tự do hoá thương mại ở phạm vi toàn cầu trong điều kiện là quốc gia đang phát triển. Trong thời thời gian này chúng ta phải hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu như thế nào để có thể phát huy nội lực của nền kinh tế, tận dụng tối đa nguồn lực từ bên ngoài, yếu tố bên ngoài(vốn, kỹ thuật, công nghệ) là hết sức quan trọng bởi vì chỉ có thể có cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, hiện đại thì chúng ta mới tiếp cận được với thế giới bên ngoài thông qua thương mại, đầu tư vv... Mặt khác, các quốc gia khác rất cần có một thị trường như Việt Nam để tiêu thụ hàng hoá, đầu tư nhằm mục đích thu lợi nhuận thông qua hoạt động đó. Những quan hệ qua lại này thực sự cần và cần có trong khi chính sách thuế nhập khẩu lại điều chỉnh những hoạt động này. Vì vậy cần phải phát huy chức năng và vai trò của thuế nhập khẩu trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới nhằm đem lại lợi ích tối đa cho đất nước. 3.1.2.2. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế phải đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Đổi mới kinh tế hội nhập với thế giới bên ngoài là nỗ lực của mỗi quốc gia với mục đích cuối cùng là nâng cao đời sống của người dân, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Như vậy, việc phân phối lợi ích giữa các thành phần tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế phải được đảm bảo, trong đó lợi ích quốc gia thông qua chính sách thu hút nguồn thu cho NSNN là nhiệm vụ của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Nguồn thu cho ngân sách thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế xã hội, đến qua trình đầu tư phát triển. Cho nên hội nhập kinh tế đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu cũng như các loại thuế khác trong hệ thống thuế một cách tối ưu tránh gây ảnh hưởng làm giảm sút nguồn thu cho ngân sách khi cắt giảm thuế nhập khẩu, bằng cách nâng cao kim ngạch nhập khẩu song song với tăng cường kim ngạch xuất khẩu đồng thời chúng ta sẽ chuyển dần sử dụng đồng bộ các loại thuế khác, nhằm tăng thu thuế nội địa nhằm khắc phục giảm thu ngân sách do cắt giảm thuế nhập khẩu. 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2.1. Giá tính thuế. Hiên nay Việt Nam đang sử dụng chủ yếu hai phương pháp xác định giá tính thuế đó là : -Phương pháp xác định giá tính thuế theo hợp đồng, nếu trong quan hệ mua bán ngoại thương có hợp đồng và đủ điều kiện để áp giá tính thuế theo hợp đồng để tính thuế phải nộp, riêng phương pháp này áp dụng ở Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề, nguyên nhân phần lớn là do ý thức kém của đối tượng phải nộp thuế đã không thực hiện đúng quy cách, mục đích mà các nhà hoạch địch chính sách mong muốn. Mặt khác phương pháp này cũng chưa giống với cách xác định giá tính thuế theo hợp đồng trong Hiệp định trị giá WTO. -Phương pháp định giá tính thuế theo bảng giá tối thiểu đối với danh mục hàng hoá do Nhà nước quản lý thì quá cứng nhắc thiếu tính chính xác do giá hàng hoá thường xuyên thay đổi theo quy luật cung cầu trong khi đó bảng giá để áp giá tính thuế thì nửa năm có khi một năm thay đổi một lần. Nay lại áp dụng Quyết định 149/2002/QD_BTC đối với hàng hoá không thuộc mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế, không đủ điều kiện áp giá tính thuế theo hợp đồng. Theo quyết định này đã tạo ra một sự ùn tắc đối với những hàng hoá nhập khẩu về chưa xác định được giá tính thuế. Vậy để giải quyết vướng mắc trên, nhất thiết là chúng ta phải xây dựng lại phương pháp xác định giá tính thuế. *Biện pháp tạm thời: Đối với việc giải quyết các mặt hàng theo quyết định 149, cho những lô hàng này qua cửa khẩu với điều kiện các chủ hàng của những lô hàng này phải cam kết sẽ thanh toán số tiền thuế khi mà ngành Hải quan xác định được giá tính thuế. Đồng thời giao cho các Cục Hải quan, Chi cục Hải quan xác định giá tính thuế để giải quyết đối với những lô hàng đã nhập khẩu về và sẽ nhập khẩu. Nhưng đề ra biện pháp tạm thời phải làm cơ sở cho việc xây dựng giá tính thuế hàng nhập khẩu phù hợp với Hiệp định trị giá hải quan của tổ chức thương mại thế giới khi ta hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế Cục Hải quan, Chi cục hải quan nên xây dựng bảng giá tính thuế theo nguyên tắc cơ bản quy định của GATT. +Phải căn cứ vào giá trị thực tế của hàng hoá: Như vậy mỗi Cục Hải quan, Chi cục Hải quan phải phân ra một phòng nghiệp vụ chuyên phụ trách về mảng giá của những mặt hàng mới vừa nhập về, nhu thập các thông tin thông qua nhiều phương diện (như khảo sát giá mua bán trên thị trường, giá của hàng hoá đăng trên báo hàng ngày) +Không căn cứ vào trị giá hư cấu hay áp đặt của hàng hoá cùng loại được sản xuất tại nước nhập khẩu. +Phải là giá hàng hoá đó hoặc hàng hoá tương tự trong kỳ kinh doanh bình thường, với các điều kiên cạnh tranh không hạn chế. *Chiến lược lâu dài: Chúng ta nên chuyển công việc xây dựng giá bổ sung này cho phòng giá hoặc tổ giá trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố và phát triển mô hình phòng tổ này trên một quy mô lớn tương xướng với tầm quan trong của nó đối với lợi ích quốc gia trên con đường hội nhập. Khi đó việc xây dựng giá vẫn tiếp tục dựa trên 4 phương pháp đưa ra trước đây: Phương pháp1: căn cứ vào giá hàng hoá tương tự đã được quy định trong bảng giá của Bộ Tài chính, quyết định giá ở mỗi Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Phương pháp 2:Dựa vào giá bán trên thị trường nội địa: Phương pháp 3:Dựa vào giá chào bán trên báo chí, sách báo quốc tế, internet... Phương pháp 4:Dựa vào giá ghi trên hợp đồng: Khi xây dựng giá phải sử dụng lần lượt từng phương pháp một, nếu phương pháp 1 không được thì chuyển sang phương pháp 2 và lần lượt như vậy. Khi cả 3 phương pháp đầu không thực hiện được thì Hải quan sẽ chấp nhận giá trên hợp đồng. -Đối với áp giá tính thuế nên hướng tới áp giá tính thuế theo giá ghi trên hợp đồng, giảm tối thiểu cánh tính thuế theo khung giá Nhà nước quản lý, khi đó cần: +Cần kiểm soát tổng giá trị của các tổ chức kinh tế đặc biệt là các tổ chức kinh tế có hoạt động xuất nhập khẩu. +Yêu cầu các tổ chức này phải có một lượng tài khoản tương ướng với bình quân giá trị giao dịch xuất nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định. +Có biện pháp khuyến khích các tổ chức kinh tế có hoạt động thương mại này thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng bằng cách giảm một tỷ lệ nhất định thuế suất cho những lô hàng này. đồng thời phải đưa ra các hình phạt thật nặng, làm triệt để đối với các hành vi gian lận thương mại. -Sau khi áp giá tính thuế theo hợp đồng trở thành phương pháp chủ yếu thì có thể dễ ràng mở rộng các phương pháp áp giá tính thuế thuế theo Hiệp định trị giá WTO. 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện đối với biểu thuế. Như biểu thuế hiện hành gồm 97 chương với khoảng 6400 dòng hàng, mỗi dòng hàng được mã hoá chi tiết ở tám con số. Trong khi đó, số mặt hàng trao đổi quốc tế hiên nay ở mức trên 200.000 loại hàng hoá thì số hàng hoá có trong biểu thuế của Việt Nam là quá nhỏ. Như vậy không thể tránh khỏi số mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam mà không có trong biểu thuế để xác định thuế suất. Để thuận tiện cho việc áp mã tính thuế, giảm bớt hiện tượng một mặt hàng có thể bị xếp nhiều mã số thuế, gây ra tình trạng gian lận, sử dụng mánh khoé do khe hở của biểu thuế dẫn tới thất thu thì biểu thuế cần phải được: +Mở rộng quy mô tức là phải đưa thêm số hàng hoá mới vào biểu thuế, chi tiết hoá số dòng hàng. Tránh tình trạng lúng túng không có cách giải quyết mỗi khi có hàng hoá mới nhập khẩu vào Việt Nam. +Cần phải phân loại hàng hoá dựa vào tính chất, công dụng để xác định mức thuế suất cho hàng hoá dựa vào mục đích sử dụng như hiện nay gây ra tình trạng cùng một mặt hàng có 2-3 mã số thuế và tương ứng với thuế suất khác nhau. Ví dụ như; củ gừng làm giống thuế suất là 0%, nhưng làm nguyên liệu là 30%, hương liệu để chế biến thực phẩm là 5%...vì thế, dễ tạo ra sự khai man mục đích sử dụng để được giảm thuế phải nộp. Nhiều tranh chấp khiếu kiện giữa các doanh nghiệp và cơ quan Hải quan trong việc áp mã tính thuế dẫn tới tình trạng nợ đọng thuế dẫn tới thất thu cho NSNN. Cho nên thay đổi biểu thuế theo tính chất sử dụng của hàng hoá là cần thiết và nên làm. 3.2.3. áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với việc tham gia các tổ chức thương mại khu vực hoặc đàm phán để thành lập các khu thương mại tự do mới, Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) này là hướng tới tự do hoá thương mại. Như vậy trong vòng 5 năm đến 10 năm nữa, chính sách thương mại của Việt Nam chắc chắn sẽ tương đối tự do, hàng rào bảo hộ bằng thuế quan của Việt Nam sẽ ngày càng giảm, còn các nước khác vẫn tiếp tục duy trì thậm trí ngày càng tăng cường trợ cấp cho các nhà sản xuất của họ. Trước tình hình đó, Việt Nam cần phải áp dụng các công cụ bảo hộ mới nhưng phải phù hợp với Luật thương mại quốc tế. Thuế chống trợ cấp vừa là công cụ bảo hộ hợp pháp cho sản xuất trong nước, vừa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với các nhà sản xuất của nước ngoài. Vì thế đưa Luật thuế chống trợ cấp vào thực tế áp dụng trong giai đoạn hội nhập hiện nay là hết sức cần thiết. Luật thuế chống trợ cấp đưa vào áp dụng khi: -Khi có nghi ngờ hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc áp dụng thuế chống trợ cấp thì tiến hành điều tra và tính mức trợ cấp; -Điều tra thiệt hại: xác định thiệt hại đối với các nhà sản xuất trong nước khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu được trợ cấp cũng như ảnh hưởng của việc đánh thuế chống trợ cấp đối với người sử dụng hoặc tiêu dùng hàng hoá đó. -Trình tự áp dụng thuế chống trợ cấp: đánh thuế tạm thời, đánh thuế chính thức, thời hạn đánh thuế, rà soát việc đánh thuế. Xác định hàng hoá được trợ cấp, hình thức trợ cấp cũng như mức độ trợ cấp cụ thể. Công việc có thể giao cho một cơ quan duy nhất chuyên trách về khâu này và chỉ thành lập khi có việc chống trợ cấp xẩy ra, sau đó sẽ tự đông giải tán hoặc công việc này có thể giao cho hai cơ quan .Một cơ quan điều tra về thiệt hại(chủ yếu là điều tra trong nước) .Một cơ quan điều tra về trợ cấp và tính mức thuế chống trợ cấp. Theo mô hình tổ chức này thì đảm bảo tính khách quan, chuyên môn sâu hơn nhưng tổ chức này cồng kềnh khó điều phối. Để có thể thực hiện thuế chống trợ cấp, ngoài cơ quan chịu trách nhiệm chính còn có sự phối hợp của các cơ quan liên quan. Trong đó quan trọng nhất là cơ quan nắm các thông tin về phát triển ngành và số liệu xuất nhập khẩu vv...Đồng thời, trong các trường hợp có tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng thuế chống trợ cấp thì cần có sự hợp tác chặt chẽ với các bộ phận phụ trách quan hệ thương mại song phương hoặc với tổ chức diễn đàn tranh chấp đó được đưa ra (WTO, ASEAN vv...) Do yêu cầu đòi hỏi của công việc này, chúng ta nên để cho phòng giá hoặc tổ giá trực thuộc Cục hải quan tỉnh, thành phố vừa phụ trách công việc xây dựng giá tính thuế vừa phụ trách về thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu. Như vậy nếu tổ chức theo hình thức một cơ quan duy nhất sẽ không phải giải tán khi công việc đánh thuế chống trợ cấp kết thúc. Mặt khác do hai công việc xác định giá hàng nhập khẩu để tính thuế và xác định hàng nhập khẩu có hiện tượng trợ cấp cũng không sai khác nhau về chuyên môn nhiều, đều phải thu thập thông tin về giá cả, phải so sánh giá cả giữa thị trường này và thị trường kia và nhiều công việc khác tương tự. Công việc giải quyết chống trợ cấp giá đối với hàng nhập khẩu được tổ chức dưới hình thức một cơ quan duy nhất điều tra đóng vai trò làm đâù mối chung, phù hợp với cơ chế “một cửa” tiết kiệm được đáng kể chi phi, nguồn nhân lực và tránh được các khó khăn phát sinh trong quá trình điều phối. +Cơ quan điều tra thuế chống trợ cấp cần kết hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra về tự vệ và đặc biệt là cơ quan điều tra về thuế chống bán phá giá để tiết kiệm đáng kể nguồn nhân lực, đặc biệt trong bối cảnh số vụ kiện chống trợ cấp thường ít hơn nhiều so với thuế chống bán phá giá hoặc tự vệ. +Cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều tra nên đặt tại Bộ Thương mại, đây là hình thức áp dụng ở hầu hết các nước. Đồng thời, cách tổ chức như trên có thể tận dụng được mạng lưới các thương vụ ở nước ngoài trong khâu điều tra, tính toán trợ cấp. +Cùng với Bộ Thương mại, tham gia cơ quan thực thi cần có đại diện của Tổng Cục thuế và Tổng Cục Hải quan và các bộ ngành quản lý sản xuất chuyên ngành như Bộ Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thuỷ sản, thương mại, kế toán, luật...Các giáo sư, tiến sĩ thuộc các trường, các viện nghiên cứu cũng nên được tham gia trong nhóm điều tra hoặc ít ra cũng đóng vai trò tư vấn cho cơ quan điều tra trong quá trình điều tra và ra quyết định cuối cùng. 3.2.4. Hoàn thiện về việc thu thuế nhập khẩu bổ sung. Mặc dù thuế nhập khẩu bổ sung đã được đề cập trong luật thuế xuất nhập khẩu, nhưng hiện nay vẫn chưa được chuyển khai, công việc này mới chỉ là lý thuyết. Trong qua trình hội nhập hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng, và không tránh khỏi trường hợp bán phá giá hàng nhập khẩu này có sự trợ cấp của Chính phủ nước đó. Nếu chúng ta không sớm đưa thuế nhập khẩu bổ sung này vào áp dụng thì thị trường hàng hoá sẽ không còn sức cạnh tranh và nhanh chóng biến mất. Vì thế, cần sớm đưa “Luật thuế chống bán phá giá”vào thực hiện một cách nhanh chóng tránh trường hợp khi việc đã rồi mới đưa vào áp dụng. Nội dung của Luật thuế chống bán phá giá ở Việt Nam cần phải có những nội dung sau: -Đối với hàng hoá nhập khẩu có hiện tượng bán phá giá hoặc có sự trợ cấp của Chính phủ, cơ quan nước ngoài gây thiệt hại lớn đối với hàng hoá hoá sản xuất trong nước thì áp dụng Luật thuế chống bán phá giá. -Quy định cách tính giới hạn bán phá giá, -Nên quy định Bộ Thương mại là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc điều tra việc chống phá giá, cơ quan Hải quan là cơ quan trực tiếp quản lý thu thuế chống bán phá giá. -Quy định các biện pháp về chống bán phá giá gồm: +Thuế chống bán phá giá tạm thời : thu một mức thuế chống bán phá giá tạm thời theo kết luận bước đầu của cơ quan có trách nhiệm kết luận có việc bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. +Thuế chống bán phá giá chính thức: đây là kết luận chính thức của cơ quan có thẩm quyền về việc có hành vi bán phá giá và gây tổn thất do việc bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất trong khi thuế chống bán phá giá chính thức phải cao hơn mức tạm thời. 3.2.5. Về miễn giảm thuế và xét miễn giảm. Thực tế quy định về miễn giảm thuế ở Việt Nam bi lợi dụng nhiều hàng năm con số này lên tới trên dưới 8 tỷ đồng (IMF) làm cho NSNN bị giảm đi rất nhiều. Số lượng trốn thuế nhập khẩu, VAT đối với hàng nhập khẩu thông qua hình thức miễn giảm thuế là rất nhiều. Vì thế, chính sách thuế nhập khẩu cần phải có chính sách miễn giảm phù hợp, hạn chế tối đa việc gian lận, lợi dụng hình thức này, vì thế: -Nên thực hiên xoá bỏ việc miễn giảm thuế cho hàng hoá nhập khẩu chuyên dùng phục vụ cho an ninh quốc phòng thay vào đó hàng năm NSNN cấp bổ sung một khoản tương ứng số thuế được miến theo quy định hiện hành. Như vậy Nhà nước vừa quản lý được hàng nhập khẩu, tránh được tiêu cực đã nêu trên vừa đảm bảo nguồn thu cho an ninh quốc phòng. Đối với hàng miễn thuế phục vụ giáo dục, đào tạo, nên quy định miễn thuế đối với hàng hoá trong nước chưa sản xuất được, còn mặt hàng mà trong nước sản xuất được thì đánh thuế bình thường. -Tăng cường kiểm tra chặt chẽ hoá đơn, chứng từ đối với các nguyên liệu, vật liệu nhập về để gia công cho bên nước ngoài, nhập về để sản xuất sản phẩm rồi xuất khẩu ra nước ngoài và đặc biệt là xem xét các hợp đồng của bên nhập khẩu đối với nguyên liệu trong các trường hợp trên. -Giảm khối lượng hành lý mang theo của khách hàng nhập cảnh được miễn thuế mặc dù số tiền thuế này tăng lên không đáng kể, nhưng nó vừa hạn chế được việc lợi dụng hình thức này để trốn thuế vừa có thể bù đắp một phần phí để duy trì bộ phận kiểm tra miễn thuế hành lý cho khách hàng nhập cảnh. 3.2.6. Thay đổi hình thức nợ thuế như hiện nay bằng cơ chế tín dụng thông quan. Để tránh tình trạng tồn đọng lô hàng nhập khẩu tại cửa khẩu do chưa nộp đủ thuế, hoặc số thuế nợ tồn đọng ở những lần nhập khẩu trước quá nhiều vượt so với quy định cho phép hàng hoá được thông quan. Hoặc những lô hàng không được thông quan do có tranh chấp về chất lượng, giá cả khai báo hồ sơ thanh toán...nên hình thành: -Cơ chế bảo lãnh và ký quỹ thay cho hình thức nợ thuế như hiện nay là đòi hỏi khách quan, vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa đảm bảo không có thất thoát nguồn thu cho NSNN, giảm chi phí theo dõi, đôn đốc nợ thuế, tránh tình trạng cưỡng chế do tình trạng nợ thuế nhập khẩu dây dưa như hiện nay. -Trong trường hợp mà các doanh nghiệp không thể nộp thuế ngay được hoặc chưa thể cung cấp cho cơ quan Hải quan đầy đủ chứng từ cần thiết để làm thủ tục thông quan hàng hoá nhập khẩu thì vẫn có thể giải quyết cho thông quan bằng bảo lãnh của tổ chức tín dụng thay cho việc giữ lại hàng hoá để chờ bổ sung chứng từ liên quan tới hàng hoá. -Sau khi thông quan, hàng hoá đó đưa vào sản xuất hoặc lưu thông mà doanh nghiệp nhập khẩu vẫn chưa nộp thuế nhập khẩu, chiếm dụng tiền thuế để quay vòng vốn hoặc cố tình trốn tránh nộp thuế cho Nhà nước thì cơ quan Hải quan vẫn thu được tiền thuế thông qua tổ chức tín dụng đó. Như trên ngân hàng sẽ thay mặt doanh nghiệp chuyển số tiền thuế nhập khẩu cho cơ quan Hải quan theo số thuế ghi trên hợp đồng “thông báo thuế” của cơ quan Hải quan mà không cần sự chấp thuận của doanh nghịêp. Nói chung phương pháp này tiết kiệm được chi phí quản lý, tránh thất thu thuế nhập khẩu. 3.2.7. Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện và tuyên truyền về chính sách thuế nhập khẩu. Yếu tố con người có vai trò quyết định đối với thực hiện chính sách thuế nhập khẩu đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài việc hoạch định chính sách, cơ chế hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu, nghiên cứu triển khai các quy định, thông lệ quốc tế liên quan đến hội nhập, đến chính sách thuế quan, công tác tổ chức thực hiện có tính quyết định đến hiệu quả của công tác đổi mới, hoàn thiện chính sách như là đào tạo, huấn luyện và tuyên truyền về chế độ chính sách và cơ chế thuế nhập khẩu. Thời gian qua công tác này đã chú trọng nhưng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu trước xu thế hội nhập. Công khai, minh bạch chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện chính sách liên quan đến thuế nhập khẩu là yếu cầu cần thiết. -Đối với đào tạo, huấn luyện cán bộ, công chức hải quan. Do trình độ, chuyên môn của đội ngũ công chức hải quan hiện nay là đa dạng chuyên môn, đa dạng ngành nghề và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều hình thức đào tạo. Trong khi đó, chuyên môn, nghiệp vụ Hải quan đòi hỏi cán bộ công chức hải quan phải có kiến thức vừa tổng thể, vừa chuyên sâu cùng với công cuộc xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu có nhiều thay đổi. Như vậy, để kịp thời đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực, hiên đại hoá công tác hải quan cần phải tiến hành đồng bộ các khâu trong công tác tổ chức cán bộ hải quan. +Đối với công tác tổ chức đào tạo nguồn nhân lực Hải quan phù hợp với xu thế hội nhập: .Lựa chọn những công chức có đủ điều kiện về chuyên môn được đào tạo đúng chuyên ngành. .Có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại thường xuyên cho đội ngũ cán bộ Hải quan về kỹ năng phân loại hàng hoá, kỹ năng định trị giá Hải quan... .Xử lý nghiêm các hình thức cán bộ hải quan vi phạm luật, cố tình lợi dụng khi làm thủ tục hải quan. +Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực ngành Hải quan: Chính sách sử dụng, đối xử nguồn nhân lực là khâu đột phá tác động trực tiếp đến đào tạo thông qua quy hoạch, tiêu chuẩn hoá đội ngũ. Tôn trọng và phát huy tài năng, song việc tự hoàn thiện hoặc tự đào thải là cơ chế thích hợp để phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt đối với các ngành đặc thù, có nhiều nguồn cán bộ, công chức do lịch sử phát triển của ngành hải quan chi phối. -Đối với các doanh nghiệp. Muốn áp dụng chính sách thuế nhập khẩu một cách có hiệu quả trong thực tế, không chỉ đòi hỏi sự hoàn hảo trong chính sách mà nó còn phụ thuộc vào cơ quan hải quan và các doanh nghiệp cũng có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định tới sự thành bại của một chính sách. Vì vậy, hỗ trợ đào tạo, huấn luyện để họ thực hiện tốt chính sách của Nhà nước về lĩnh vực này được xem là một trong những hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện chính sách, pháp luật Nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. 3.3. Một số kiến nghị: *Kiến nghị với Bộ Tài chính: Do những bất cập trong việc xác định giá tính thuế đối với nhập khẩu những lô hàng chưa đủ điều kiện để áp giá tính thuế theo Quyết định149/2002/QD-BTC và giải pháp tạm thời của Tổng cục trưởng Tổng Cục Hải quan là giao cho các Cục Hải quan và Chi Cục Hải quan xác định giá tính thuế đối với những mặt hàng này, thẩm quyền định giá tuỳ thuộc vào giá trị của từng lô hàng và cho đây là biện pháp tạm thời, tình thê. Nhưng cứ tình thế nối tiếp tình thế như thế này thì bao giờ mới có được một giải pháp lâu dài cho việc xác định giá hàng để tính thuế khi những lô hàng mới mà các tổ chức kinh tế nhập về ngày càng nhiều, khi mà coi nó không phải là công việc hết sức quan trọng để bắt tay ngay vào thực hiện xây dựng giải pháp lâu dài. Theo em giải pháp tình thế chỉ có hiệu quả ngày ngày một ngày hai khi mọi chuyện chưa có sự thay đổi, biến động lớn. Nhưng rồi những ngày sau liệu có còn là những giải pháp tốt nữa chăng hay nó chính là những hậu quả mà không còn biện pháp tháo gỡ nữa. Vì thế, ngay từ bây giờ định giá tính thuế vẫn còn là vấn đề nóng trong các công việc của Ngành Hải quan, thì Bộ Tài chính nên xây dựng một bộ phận trực thuộc Ngành Hải quan như một đơn vị nhỏ chuyên về lĩnh vực xác định giá của hàng hoá nhập khẩu trong phạm vi toàn quốc. Khi đó cán bộ thuộc đơn vị này mới có điều kiện chuyên sâu mới có thời gian để nguyên cứu và thu thập thông tin về giá cả. Đồng thời có điều tra chính xác về giá hàng nhập khẩu. *Kiến nghị với Chính phủ: Mặc dù Luật thuế đã có nhiều lần sửa đổi, bổ sung dần dần thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của hội nhập, nhưng do sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, đất nước ta không muốn bị tụt hậu thì cần phải có những chính sách kinh tế nhằm thoả moãn yêu cầu chung mang tính chất quốc tế . Vì thế Chính phủ cần phải quan tâm, thường xuyên bổ sung, sửa đổi chính sách thuế nhập khẩu, hướng dẫn thi hành cùng với văn bản hướng dẫn chi tiết. Kết luận Trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế, Nhà nước sử dụng chính sách thuế nhập khẩu như là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế đặc biệt là chính sách bảo hộ sản xuất trong nước để thực hiện giải pháp tình thế này trước công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế nhằm chống đỡ sự thu hẹp nền kinh tế còn non yếu, kém sức cạnh tranh. Vì thế, chính sách thuế nhập khẩu không thể tránh khỏi những bất cập do mục đích sử dụng nó, do biến động thường xuyên của nền kinh tế và yêu cầu của hội nhập. Đứng trước thực trạng này, Việt Nam cần phải cải cách chính sách thuế nhập khẩu cho phù hợp với chính sánh thương mại quốc tế nên hoàn thiện chính sáh thuế nhập khẩu là một điều cần thiết, phù hợp với xu thế chung. Đề tài “Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” chỉ là một ý kiến nhỏ của một thực tập sinh khoa ngân hàng- tài chính. Tuy nhiên với sự cố gắng hết mình, em mong rằng sẽ góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn nữa chính sách thuế nhập khẩu này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngân hàng- Tài chính và đặc biệt là thầy giáo: Tiến sĩ. Vũ Duy Hào cùng các anh chị Phòng xuất nhập khẩu của Tổng Cục thuế đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành Luận văn này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Quản lý thuế Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - NXB Thống kê 2001 2. Giáo trình Kinh tế học quốc tế Chủ biên GS.TS. Tô Xuân Dân - NXB Thống kê - 1998. 3. Báo cáo tổng kết công tác năm của Tổng cục Thuế 2002. 4. Hướng dẫn thực hiện các Luật và pháp lệnh trong lĩnh vực thuế. NXB Tài chính - 2002 5. Tư liệu kinh tế của các nước thành viên của ASEAN 6. Thời báo kinh tế tài chính - Tạp chí Thương mại, Báo Hải quan, Tạp chí Kinh tế và phát triển. Mục lục Trang Lời cảm ơn………….………………………………………………………1 Tài liệu tham khảo……………………………………………………………..82 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37115.doc
Tài liệu liên quan