Hoàn thiện cơ chế huy động vốn trong dân cư qua hệ thống kho bạc nhà nước

Lời mở đầu Sau hơn 15 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: về cơ bản đã ra khỏi khủng hoảng và trì trệ. Nền kinh tế đã có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đạt được chưa đảm bảo chắc chắn để vượt qua tình trạng một nước kém phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ chế huy động vốn trong dân cư qua hệ thống kho bạc nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước trong khu vực. Thực trạng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt yếu kém, bất cập. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 với mục tiêu: "Đưa nước ta ra tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. ". Để thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược đề ra, vấn đề then chốt là phải có đủ nguồn vốn đầu tư. Vốn là lực lượng chủ đạo và là công cụ đi tiên phong để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế. Chính vì vậy, huy động vốn cho đầu tư trở thành chính sách được ưu tiên hàng đầu của nước ta. Trong tình hình hiện nay, khi mà nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tăng chậm lại thì việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư thường không được quan tâm đúng mức, chưa thấy được vị trí đáng kể của nó trong cung cấp vốn cho nền kinh tế. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nguồn vốn này ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng trong đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trong những năm qua, công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ không những đã thu hút được một lượng tiền mặt khá lớn trong dân cư, đáp ứng vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển, mà còn góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ, kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả, thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ còn gặp không ít trở ngại khó khăn về mặt cơ chế chính sách, khối lượng vốn huy động được vẫn còn hạn chế so với tiềm năng vốn nhàn rỗi rất lớn trong dân cư. Chính vì vậy, cần phải giải quyết những khó khăn, thách thức nêu trên nhằm khơi dậy và huy động vốn từ dân cư để phát triển kinh tế xã hội được coi là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay. Đề tài “Hoàn thiện cơ chế huy động vốn trong dân cư qua hệ thống Kho bạc Nhà nước” được lựa chọn nhằm đáp ứng nhu cầu bức xúc trên. Ngoài phần mở bài và kết luận, bố cục luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn trong dân cư qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn trong dân cư qua hệ thống Kho bạc Nhà nước 1.1. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và trong nền kinh tế 1.1.1 Tổng quan về nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và trong nền kinh tế Cho đến nay, chưa có một định nghĩa bằng văn bản nào của Nhà nước về vốn. Tuy nhiên các nhà kinh tế học từ xa xưa nghiên cứu về vốn và đã khẳng định vốn là một phạm trù kinh tế. Đại diện của trường phái trọng nông đã quan niệm vốn là những khoản tiền ứng trước đầu tư vào nông nghiệp. Và đến thời kỳ C.Mác, ông không chỉ vạch ra nguồn gốc tích luỹ của vốn mà còn đi sâu phân tích tác động của nó qua ba giai đoạn: mua - sản xuất - bán hàng hoá. Mỗi giai đoạn tư bản mang một hình thái: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá, vận động liên tục trong thời gian. Kế thừa phát triển những thành tựu của C.Mác và các trường phái kinh tế trong lịch sử nghiên cứu về vốn, các nhà kinh tế học Mác xít đã chỉ rõ nguồn gốc chủ yếu của vốn tích luỹ là lao động thặng dư của người lao động được dùng vào việc mở rộng và phát triển sản xuất xã hội. Vào những năm 90 của cuối thế kỷ XX này, một nhà nghiên cứu kinh tế người Hàn Quốc tên là Sang sung Part sau 15 năm làm việc và nghiên cứu tại ngân hàng Hàn Quốc, ông đã định nghĩa về vốn là “ Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích luỹ, là phần thu nhập thường có chưa được tiêu dùng”. Tuy mỗi trường phái, mỗi nhà kinh tế học, ở mỗi thời kỳ lịch sử đưa ra các quan niệm, phân tích, kết luận về vốn có những nét riêng, song nhìn nhận một cách tổng thể chúng ta có thể rút ra khái niệm về vốn của các nhà kinh tế học từ xưa đến nay như sau: - Phạm trù vốn được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế khi được đưa vào chu chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn, các tài sản hiện vật như máy móc, vật tư tài nguyên, đất đai... mà còn bao gồm giá trị tài sản vô hình như vị trí của đất đai, các thành tựu khoa học và công nghệ, quyền phát minh sáng chế... - Vốn hiểu theo nghĩa trực tiếp là phần giá trị tài sản Quốc gia được tích luỹ dưới dạng tiền và giá trị của tài sản hữu hình và vô hình nhằm mục đích sinh lợi, được chuyển thông qua các hoạt động đầu tư thành tư liệu sản xuất cần thiết khác để sử dụng vào quá trình đầu tư cho nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, nhưng có thể xếp chúng thành 4 loại sau: Vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng ngân hàng, vốn tự có của doanh nghiệp và vốn tích luỹ của dân cư. Huy động các nguồn vốn nói trên cho đầu tư phát triển kinh tế là một nhiệm vụ hết sức cấp bách trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, cần phải chú trọng hơn nữa vào nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, bởi đây là nguồn vốn có tiềm năng rất lớn nhưng khai thác còn hạn chế. Nguồn tài chính của dân cư (vốn trong dân) nếu nhìn ở giác độ tổng quan, nó có thể được hình thành từ một số nguồn cơ bản, đó là: thu nhập từ kết quả lao động (tiền lương, tiền thưởng của các thành viên trong hộ gia đình), thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ gia đình, thu từ đầu tư tài chính (đầu tư vào chứng khoán), gửi tiết kiệm, thu nhập do nhân thân của họ gửi từ nước ngoài về (người định cư, hợp tác lao động, học tập và công tác...); thu nhập do được quyền thừa kế gồm: tiền, vàng, nhà cửa và đất đai, thu nhập được hình thành từ những cơ hội may mắn bất ngờ (trúng số độc đắc, giá của tài sản thay đổi...). Với nguồn tài chính này, sau khi đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân, gia đình; phần còn lại là phần tiết kiệm của dân cư. Tiết kiệm trong dân cư là một bộ phận của tổng tiết kiệm trong nước, đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành vốn đầu tư của các Quốc gia. Nó đã được thừa nhận là một bộ phận lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng số các khoản tiết kiệm thực ở các nước giàu (chiếm 50% năm 1964 và 93% năm 1981), mô hình này đang và sẽ là hiện tượng phổ biến trong các nước đang phát triển. 1.1.2 Sự cần thiết và vai trò của công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, cùng với những công cụ kinh tế vĩ mô như các chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại... chính sách huy động vốn là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước để củng cố và điều chỉnh chiến lược phát triển lâu dài, bền vững của nền sản xuất xã hội. Bởi vậy, công tác huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển giữ vị trí và vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Sự cần thiết của công tác huy động vốn trong dân cư dưới hình thức trái phiếu Chính phủ thể hiện: 1.1.2.1 Huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển Ngân sách Nhà nước là một bức tranh kinh tế, tài chính tổng hợp, phản ánh trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. ở nước ta, thu Ngân sách Nhà nước trong những năm gần đây liên tục tăng. Các nguồn thu chủ yếu và quan trọng như thuế, phí, lệ phí, dầu khí đang được Nhà nước tiếp tục khai thác... Tuy nhiên, nhu cầu chi Ngân sách cũng rất lớn và tăng lên với tốc độ nhanh. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo, năng suất lao động thấp, lực lượng sản xuất còn kém phát triển nên thu không đáp ứng được các nhiệm vụ chi của Nhà nước. Để bù đắp số thiếu hụt này, ngoài việc khai thác triệt để các nguồn thu, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi, Nhà nước lựa chọn một trong hai giải pháp sau: - Phát hành thêm tiền giấy: đây là giải pháp cơ bản để giải quyết bội chi Ngân sách Nhà nước. Giải pháp này tuy nhanh và dễ dàng nhất để cân đối Ngân sách Nhà nước, song nó không gắn với nhu cầu của lưu thông hàng hoá và càng làm tăng nhanh tốc độ lạm phát. - Vay nợ: nếu làm tốt công tác này thì đây sẽ là một giải pháp tốt nhất, không những vừa tập trung vốn giải quyết được cân đối Ngân sách Nhà nước mà còn hạn chế đẩy lùi nạn lạm phát, tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Ngay từ những năm 80, nhận thức được hiểm hoạ tiềm ẩn của việc phát hành tiền và vay nợ nước ngoài để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, chủ yếu là vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư dưới hình thức công trái xây dựng tổ quốc với các loại 5 năm, 10 năm. Tuy nhiên, do lãi suất thấp (2-3% năm) trong điều kiện tỷ lệ lạm phát cao, công tác huy động vốn mang nặng ý nghĩa chính trị nên đạt kết quả thấp. Bước sang thập kỷ 90, cùng với việc thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước, công tác huy động vốn đã có những bước đổi mới hết sức quan trọng. Từ năm 1991, hệ thống Kho bạc Nhà nước đã tổ chức thí điểm và sau đó mở rộng phát hành nhiều loại tín phiếu, trái phiếu Kho bạc với các loại kỳ hạn, lãi suất khác nhau đã tạo ra khả năng huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư đáp ứng nhu cầu vốn Ngân sách Nhà nước. Nhờ đẩy mạnh công tác huy động vốn nên đã góp phần cải tiến và từng bước tạo thế chủ động cho công tác xây dựng kế hoạch, điều hành Ngân sách Nhà nước, đặc biệt trong việc cân đối và bố trí nguồn vốn cho Ngân sách Nhà nước. Sở dĩ việc huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển dưới hình thức trái phiếu Chính phủ có vị trí quan trọng, bởi vì so với các hình thức huy động khác, huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ có một số ưu thế: đối tượng và phạm vi huy động vốn rộng, được Ngân sách Nhà nước đảm bảo nên có độ rủi ro thấp nhất. Bên cạnh đó, phát hành trái phiếu Chính phủ để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển thay cho việc vay nước ngoài sẽ góp phần giảm nợ nước ngoài, nâng cao uy tín và khả năng độc lập của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, đẩy mạnh công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ góp phần thúc đẩy tiết kiệm trong sản xuất và trong tiêu dùng, tăng cường tiềm lực cho Ngân sách Nhà nước. 1.1.2.2 Huy động vốn góp phần thực hiện Công nghiệp hoá - hiện đại hoá Bất cứ một nước chậm phát triển nào muốn đạt được trình độ của một quốc gia phát triển, không bị tụt hậu xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thì đều cần phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Đối với nước ta, việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đang là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng hiện nay. Để thực hiện được chiến lược này, nhất thiết phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật đủ mạnh thể hiện dưới dạng các cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội phải đạt trình độ tiên tiến, hiện đại, từ đó tác động mang tính quyết định đến việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển. Đối với các công trình kết cấu hạ tầng, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra: “Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất ở những khâu ách tắc nhất đang cản trở sự phát triển”. Chúng ta hiểu rằng, kết cấu cơ sở hạ tầng giữ vai trò chi phối tất cả các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Do đó, muốn nền kinh tế cất cánh, mỗi quốc gia phải có một kết cấu hạ tầng phù hợp. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội, các cơ sở hạ tầng cũng được quan tâm hơn. Hệ thống đường sá, cầu cống, đê điều, bến cảng... đã được phục hồi, cải tạo, nâng cấp nhưng so với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội thì quá chậm, một số cơ sở hạ tầng đang bị xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là đường giao thông. Chính vì vậy, cần có vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, nhằm từng bước thiết lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, từ đó tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường đầu tư trong nước; đồng thời, sẽ tạo điều kiện phân bố lại lực lượng sản xuất bao gồm cả phân bố lại nguồn lao động và tư liệu lao động. Tuy nhiên, thiếu hụt Ngân sách Nhà nước là tình trạng phổ biến ở mỗi quốc gia nên nguồn vốn từ Ngân sách dành cho đầu tư phát triển rất hạn hẹp. Trong khi đó, nhiều công trình, dự án trọng điểm của Nhà nước như: xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất; xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng của tỉnh Cà Mau, Bình Thuận; tiếp tục công trình thuỷ điện Yaly... đang đòi hỏi hàng trăm ngàn tỷ đồng nhưng Ngân sách Nhà nước không đủ khả năng đáp ứng kịp thời. Vì vậy, đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án, công trình trọng điểm để thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành, tiếp tục triển khai thi công công trình theo kế hoạch đã được duyệt, nhằm khôi phục từng bước tình trạng lạc hậu, yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vững chắc thì việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra công chúng có ý nghĩa quyết định. Như vậy, thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ, Nhà nước đã huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án, công trình trọng điểm của Nhà nước. Ngược lại, việc thiết lập cơ sở hạ tầng kinh tế cho nền kinh tế quốc dân sẽ tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, từ đó làm tăng khả năng tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế, đó là điều kiện để nguồn vốn huy động vào trong tay Nhà nước tăng lên. 1.1.2.3. Huy động vốn góp phần tích cực ổn định tiền tệ Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ hàng đầu đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp kinh tế, tài chính, tiền tệ, trong đó giải pháp quan trọng đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng có hiệu quả là tăng cường công tác huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Nhà nước đã sử dụng nhiều hình thức huy động vốn nhằm thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát; trong đó, huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ giữ vị trí quan trọng, thể hiện: - Huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ là một trong những giải pháp hữu hiệu góp phần điều hoà khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Nhà nước có thể rút bớt lượng tiền mặt trong lưu thông bằng cách phát hành tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc... và ngược lại, việc mua lại, chiết khấu và tái chiết khấu trái phiếu Chính phủ là một kênh phát hành thêm tiền mặt vào lưu thông. Tuỳ theo tình hình thị trường, Nhà nước sẽ sử dụng linh hoạt trái phiếu Chính phủ để “bơm” hoặc “hút” tiền từ lưu thông, nhằm đảm bảo ổn định tiền tệ. - Lạm phát là hiện tượng thừa tiền trong lưu thông, làm cho hàng hoá tăng giá, gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế, xã hội. Huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ ngoài việc ổn định tiền tệ còn góp phần giảm và đi đến chấm dứt phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, mà phát hành tiền là nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát. Vì vậy, việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một trong những biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát. 1.1.2.4. Huy động vốn góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán Phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán là một trong những yếu tố quyết định tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia trong điều kiện nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Sự phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán sẽ tạo ra cơ chế giao lưu thông thoáng giữa người có nhu cầu vốn đầu tư với các nhà đầu tư, huy động tới mức tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển kinh tế. Vai trò của công tác huy động vốn đối với sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán thể hiện qua các mặt sau: - Tạo ra sự đa dạng các loại hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Trái phiếu Chính phủ có độ rủi ro thấp, tính thanh khoản cao đã trở thành công cụ cơ bản trên thị trường chứng khoán và lãi suất trái phiếu Chính phủ đã trở thành mức lãi suất chỉ đạo trên thị trường tài chính. - Mặt khác, phát hành trái phiếu Chính phủ bước đầu tạo ra cơ chế giao lưu hàng hoá trên thị trường vốn và thị trường chứng khoán, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán... đồng thời tạo thói quen đầu tư, kinh doanh chứng khoán cho các tầng lớp dân cư, từng bước xoá bỏ tâm lý cất tiền ở nhà đã tồn tại bấy lâu nay của người dân Việt Nam. - Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu Chính phủ còn góp phần tăng cường chức năng định hướng phát triển và điều tiết thị trường của Nhà nước. Cùng với các công cụ khác, lãi suất trái phiếu Chính phủ là công cụ quan trọng giúp cho Nhà nước có thể định hướng phát triển và điều tiết hoạt động của thị trường theo những mục tiêu đã định. Hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán lại có tác động quan trọng đến hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, xét trên phạm vi rộng, công cụ huy động vốn (đặc biệt là trái phiếu Chính phủ) là một trong những công cụ quan trọng trong tay Nhà nước để tiến hành quản lý vĩ mô nền sản xuất xã hội. Vai trò này đã được thể hiện rõ trong việc điều hành thị trường tài chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung của Chính phủ các nước có nền kinh tế phát triển như: Mỹ; Nhật Bản... và các nước có nền kinh tế đang phát triển như: Trung Quốc ... trong những năm gần đây. - Ngoài ra, công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ gắn liền với yêu cầu nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ. Do đó, việc đẩy mạnh công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ sẽ góp phần tạo ra đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi để phục vụ cho hoạt động của thị trường vốn ở nước ta trong thời gian tới. Tóm lại, với chủ trương huy động mọi nguồn vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển; trong đó, vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, tăng cường huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết; đặc biệt, khi nước ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn. 1.2. Cơ chế huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư qua hệ thống KBNN 1.2.1 Nguyên tắc huy động vốn 1.2.1.1 Việc huy động vốn phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, Nhà nước và nhân dân cùng có lợi. Nguồn vốn huy động dưới hình thức phát hành các loại trái phiếu Chính phủ được sử dụng để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước và bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế. Đây là một chỉ tiêu tài chính quan trọng được Quốc hội phê duyệt hàng năm cùng với dự toán Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, khối lượng vốn huy động phải nằm trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua, nhằm đảm bảo tính cân đối của Ngân sách Nhà nước trong kế hoạch và đảm bảo nguồn để thanh toán trái phiếu trong các năm tài chính tiếp theo. Đối với người dân, việc mua trái phiếu Chính phủ được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, tuỳ theo tình hình tài chính của mình. Nhà nước động viên các tổ chức, cá nhân tham gia mua trái phiếu Chính phủ góp phần xây dựng Tổ quốc thông qua công tác tuyên truyền. 1.2.1.2 Nguồn vốn huy động phải sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và có hiệu quả Nguồn vốn huy động dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ cũng như tất cả các nguồn vốn khác của Ngân sách Nhà nước phải được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và có hiệu quả. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. 1.2.1.3 Ngân sách Nhà nước đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời khi trái phiếu Chính phủ đến hạn Phát hành trái phiếu Chính phủ là một hình thức vay nợ của Nhà nước có thời hạn và có lãi. Vì vậy, Ngân sách Nhà nước phải có trách nhiệm bố trí nguồn để thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho chủ sở hữu trái phiếu khi đến hạn. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo uy tín của Nhà nước trong quá trình thực hiện chính sách huy động vốn, đồng thời đây cũng là một đặc trưng cơ bản của hoạt động tín dụng nói chung. 1.2.2 Các hình thức huy động vốn Kho bạc Nhà nước thực hiện nhiệm vụ huy động vốn thông qua việc phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ có thời hạn, có mệnh giá, có lãi do Bộ Tài chính phát hành dưới các hình thức sau: 1.2.2.1 Tín phiếu Kho bạc Tín phiếu Kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn dưới một năm, được phát hành với mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ. 1.2.2.2.Trái phiếu Kho bạc Trái phiếu Kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ một năm trở lên được phát hành với mục đích huy động vốn theo kế hoạch Ngân sách Nhà nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt. 1.2.2.3 Công trái xây dựng Tổ quốc Công trái xây dựng Tổ quốc là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ một năm trở lên. Công trái xây dựng Tổ quốc do Chính phủ phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng từng công trình cụ thể thuộc diện Ngân sách Nhà nước đầu tư, nằm trong kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí vốn Ngân sách trong năm kế hoạch. 1.2.3 Các hình thức phát hành 1.2.3.1 Phát hành dưới dạng chứng chỉ Chứng chỉ trái phiếu có 2 phần: phần thân giao cho tổ chức, cá nhân mua trái phiếu (gọi tắt là người mua trái phiếu); phần cuống lưu tại cơ quan Kho bạc Nhà nước. Chứng chỉ trái phiếu do Bộ Tài chính quy định mẫu và các nội dung chính sau: + Tên cơ quan phát hành + Mệnh giá, số sêri + Thời hạn, lãi suất trái phiếu + Tên tổ chức hoặc cá nhân sở hữu trái phiếu (trường hợp trái phiếu có ghi tên) + Ngày phát hành, ngày đến hạn thanh toán + Chữ ký của Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước Căn cứ vào kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ đã được phê duyệt, Kho bạc Nhà nước Trung ương có trách nhiệm tổ chức in và quản lý thống nhất chứng chỉ trái phiếu trong phạm vi cả nước. 1.2.3.2 Phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ Trái phiếu Chính phủ được phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ: là hình thức phát hành không sử dụng chứng chỉ trái phiếu. Kho bạc Nhà nước hoặc đơn vị được uỷ nhiệm mở sổ theo dõi việc mua trái phiếu từng cá nhân, tổ chức. Trái phiếu Chính phủ phát hành qua hệ thống Kho bạc Nhà nước dưới hình thức bút toán ghi sổ áp dụng đối với các đối tượng mua trái phiếu có số tiền lớn từ 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) trở lên hoặc theo yêu cầu của người mua trái phiếu. Sổ theo dõi mua trái phiếu được thành lập thành 2 liên theo mẫu đính kèm: liên 1 lưu tại Kho bạc Nhà nước nơi phát hành trái phiếu, liên 2 giao cho cá nhân, đơn vị mua trái phiếu. 1.2.4 Hình thức chứng chỉ 1.2.4.1 Trái phiếu có ghi tên Trái phiếu có ghi tên là loại trái phiếu ghi tên tổ chức, cá nhân sở hữu trái phiếu trên chứng chỉ trái phiếu hoặc trên sổ theo dõi mua trái phiếu. 1.2.4.2 Trái phiếu không ghi tên Trái phiếu không ghi tên là loại trái phiếu không ghi tên tổ chức, cá nhân sở hữu trái phiếu trên chứng chỉ trái phiếu. 1.2.5 Phương thức bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước 1.2.5.1 Hình thức bán trái phiếu Tuỳ theo từng đợt phát hành, Kho bạc Nhà nước bán trái phiếu cho các đối tượng theo một trong hai hình thức sau: - Hình thức ngang mệnh giá áp dụng trong trường hợp trái phiếu phát hành liên tục trong năm hoặc từng đợt kéo dài, không xác định trước thời điểm dừng phát hành. Theo hình thức này người mua trái phiếu phải nộp cho Kho bạc Nhà nước số tiền đúng bằng mệnh giá trái phiếu. Ngày phát hành trái phiếu được tính là ngày Kho bạc Nhà nước nhận tiền của người mua trái phiếu hoặc nhận giấy báo Có của Ngân hàng (trường hợp mua trái phiếu bằng chuyển khoản) - Hình thức chiết khấu áp dụng trong trường hợp: + Trái phiếu được phát hành thành từng đợt, thời gian phát hành mỗi đợt không quá 2 tháng, có xác định trước thời điểm phát hành và thời điểm kết thúc. + Các trái phiếu phát hành trong 1 đợt có cùng ngày phát hành và ngày đến hạn thanh toán. Giá bán trái phiếu là số tiền người mua phải nộp cho Kho bạc Nhà nước và được xác định theo một trong hai phương pháp sau: Phương pháp 1: Ngày phát hành được xác định là ngày đầu tiên của đợt phát hành trái phiếu. Công thức tính giá bán trái phiếu như sau: G= MG + Trong đó: G : Giá bán trái phiếu MG : Mệnh giá trái phiếu Ls : Lãi suất trái phiếu (% / năm) n : Số ngày tính từ ngày phát hành đến ngày mua thực tế Phương pháp 2: Ngày phát hành được xác định là ngày cuối cùng của đợt phát hành trái phiếu. Công thức tính giá bán trái phiếu như sau: G= MG - Trong đó: G : Giá bán trái phiếu MG : Mệnh giá trái phiếu Ls : Lãi suất trái phiếu (% / năm) n : Số ngày tính từ ngày mua thực tế đến ngày phát hành Bộ Tài chính sẽ quy định cụ thể phương pháp xác định giá bán trái phiếu cho từng đợt phát hành. 1.2.5.2 Quy trình phát hành trái phiếu Chính phủ + Quy trình phát hành trái phiếu bằng tiền mặt Người mua Thủ quỹ Kế toán tổng hợp Kế toán bàn (3) (1) (2) (4) (5) Chú thích (1) Người mua viết các yếu tố quy định trên phiếu mua trái phiếu: ngày mua, số tiền mua bằng số và bằng chữ, ký tên, sau đó chuyển phiếu mua cùng CMND cho kế toán bàn. (2) Kế toán bàn nhận phiếu mua, thực hiện các công việc: - Kiểm tra các yếu tố trên phiếu mua trái phiếu - Lựa chọn các mệnh giá trái phiếu phù hợp với yêu cầu của người mua, viết các yếu tố lên phiếu mua trái phiếu (phần dành cho Kế toán Kho bạc Nhà nước) - Viết các yếu tố quy định trên tờ trái phiếu tem lĩnh lãi ( nếu có); kỳ hạn; lãi suất; ngày phát hành; ngày đến hạn thanh toán; mã liên Kho bạc và tên Kho bạc Nhà nước nơi phát hành – thanh toán. Ký vào chỗ quy định trên phiếu mua trái phiếu. Nhập các yếu tố của tờ trái phiếu vào máy tính (chương trình tín dụng Nhà nước). Giao tờ trái phiếu và phiếu mua trái phiếu cho thủ quỹ. (3) Thủ quỹ kiểm tra các yếu tố trên tờ trái phiếu, phiếu mua trái phiếu, bảo đảm hợp lệ, hợp pháp, sau đó thực hiện các công việc: - Thu tiền của người mua trái phiếu. Ký tên lên chỗ quy định phiếu mua trái phiếu. Đóng dấu “Đã thu tiền” lên phiếu mua trái phiếu. Ghi sổ quỹ. Trả CMND cùng tờ trái phiếu cho người mua. (4) Hết giờ giao dịch, kế toán in 2 liên bảng kê phát hành phiếu trái phiếu; Kế toán bàn và thủ quỹ phải đối chiếu tổng số tiền thu bán trái phiếu trên bảng kê với cuống trái phiếu, phiếu mua trái phiếu và sổ quỹ, bảo đảm khớp đúng, sau đó: - Kế toán bàn và thủ quỹ cùng ký lên 2 liên bảng kê phát hành. - Thủ quỹ kế tên lên các cuống trái phiếu, sau đó chuyển trả kế toán bàn cùng toàn bộ phiếu mua. Lưu ý: Trường hợp vì lý do nào đó việc phát hành trái phiếu cho khách hàng không thực hiện được thì thủ quỹ trả lại phiếu mua và tờ trái phiếu (đã viết) cho kế toán bàn. Kế toán bàn huỷ bỏ phiếu mua và xử lý trái phiếu như đối với trái phiếu hư hỏng. Sau khi hoàn tất các thủ tục tại bàn bán trái phiếu, kế toán bàn mang toàn bộ phiếu mua trái phiếu, bảng kê chi tiết phát hành trái phiếu nộp kế toán tổng hợp theo dõi trái phiếu tại văn phòng Kho bạc Nhà nước (từ đây gọi tắt là kế toán tổng hợp). Kế toán tổng hợp kiểm soát, bảo đảm khớp đúng số liệu trên bảng kê và phiếu mua, tiến hành lập phiếu thu và giấy nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước theo quy định. Đối với các bàn thành lập riêng để bán trái phiếu tại trụ sở Kho bạc và các bàn bán trái phiếu nằm ngoài trụ sở Kho bạc, cuối ngày sau khi làm các thủ tục đối chiếu tại điểm 4, thủ quỹ nộp tiền bán trái phiếu cho trưởng quỹ; sau đó kế toán bàn thực hiện các công việc tại điểm 5. + Quy trình phát hành trái phiếu bằng chuyển khoản Kho bạc Kế toán giao dịch Kế toán bàn (1a) (1a) (2) (1b) Kế toán tổng hợp Người mua Chú thích: (1)a Kế toán giao dịch nhận được “giấy báo Có” chuyển tiền mua trái phiếu Kho bạc phải hạch toán thu Ngân sách Nhà nước ngay và sao 01 liên gửi kế toán bàn trái phiếu. (1)b Nhận được giấy giới thiệu, CMND và phiếu mua trái phiếu bằng chuyển khoản, kế toán bàn kiểm tra nếu nhận được “giấy báo Có” xác nhận người mua đã chuyển tiền đến Kho bạc Nhà nước, tiếp đến thực hiện các công việc: Lựa chọn số trái phiếu có tổng mệnh giá bằng số tiền ghi trên giấy báo Có. Viết các yếu tố quy định lên tờ trái phiếu ( thân và cuống), ngày phát hành ghi ngày nhận được báo Có, ký vào cuống trái phiếu, phần thủ quỹ ghi “chuyển khoản”. Trường hợp trái phiếu không ghi tên chỉ ghi các yếu tố trên phần thân trái phiếu. Ghi số sêri, mệnh giá lên phiếu mua trái phiếu. Yêu cầu người mua ký chữ ký mẫu vào cuống trái phiếu (đối với trường hợp trái phiếu có ghi tên). Cắt phần thân tờ trái phiếu trả cho người mua. Nhập vào máy tính (chương trình tín dụng Nhà nước) các yếu tố trên tờ trái phiếu. (2) Cuối ngày kế toán bàn in 2 liên bảng kê phát hành trái phiếu chuyển khoản. Chuyển “giấy báo Có”, bảng kê và phiếu mua cho kế toán tổng hợp để kiểm soát như đối với quy trình phát hành trái phiếu bằng tiền mặt. Trường hợp nhận được “giấy báo Có”, nhưng người mua chưa đến, kế toán bàn làm đầy đủ các thủ tục trên và lưu tờ trái phiếu cùng bản sao “giấy báo Có”. Khi người mua trái phiếu đến, kế toán bàn kiểm tra giấy giới thiệu, CMND nếu khớp đúng thì trả tờ trái phiếu cho người mua. 1.2.5.3 Quy trình thanh toán trái phiếu Chính phủ Kho bạc Nhà nước trực tiếp thanh toán gốc, lãi trái phiếu cho chủ sở hữu khi đến hạn. (3) + Quy trình thanh toán trái phiếu bằng tiền mặt Người mua Thủ quỹ Kế toán tổng hợp Kế toán bàn (2) (1) (4) (5) Chú thích: (1) Chủ sở hữu trái phiếu viết các yếu tố trên phiếu thanh toán: Ngày thanh toán, họ tên sau đó nộp cho kế toán bàn cùng tờ trái phiếu. (2) Kế toán bàn nhận tờ trái phiếu thực hiện các công việc: - Kiểm tra tờ trái phiếu bằng mắt thường bảo đảm hợp lệ, hợp pháp. Kiểm tra trên máy vi tính để xác định tờ trái phiếu và tem đã phát hành và chưa được thanh toán. - Cắt tem thanh toán lãi tương ứng với kỳ lãi được thanh toán. Đối với trường hợp thanh toán gốc ._.và lãi 1 lần thì kế toán bàn tính và viết số tiền phải thanh toán lên tờ trái phiếu. - Ký tên lên phiếu thanh toán trái phiếu. - Nhập máy vi tính (chương trình tín dụng Nhà nước) các yếu tố xác định việc thanh toán lãi định kỳ). - Trả tờ trái phiếu cho khách hàng, chuyển tem lãi và phiếu thanh toán trái phiếu cho thủ quỹ (theo đường nội bộ). (3) Thủ quỹ nhận được chứng từ do kế toán bàn chuyển tới tiến hành các công việc: - Kiểm tra tem lĩnh lãi bằng mắt thường và đèn cực tím, phiếu thanh toán bảo đảm hợp lệ; ký tên vào phiếu thanh toán trái phiếu. - Yêu cầu người thanh toán ký tên vào phiếu thanh toán trái phiếu. - Chi tiền cho khách. Cắt gốc tem lãi (góc phía trên, bên trái, mỗi chiều khoảng 2cm) và dán tem vào tờ phiếu thanh toán (ngay phía dưới chữ ký của kế toán). - Đóng dấu “Đã chI TIềN” và tem lãi. - Ghi sỗ quỹ. (4) Hết giờ giao dịch kế toán bàn in bảng kê thanh toán trái phiếu (1 liên); đối chiếu số liệu trên bảng kê thanh toán bảo đảm khớp đúng với các tờ trái phiếu đã thanh toán, phiếu thanh toán và sổ quỹ của thủ quỹ. Sau khi đối chiếu, thủ quỹ chuyển trả toàn bộ phiếu thanh toán và các tờ trái phiếu cho kế toán bàn, đồng thời làm thủ tục thanh toán số tiền đã tạm ứng đầu ngày. (5) Kế toán bàn chuyển bảng kê, phiếu thanh toán và các tờ trái phiếu đã thanh toán cho kế toán tổng hợp. Kế toán tổng hợp kiểm soát, tiến hành lập phiếu chi và hạch toán theo quy định. Trường hợp thanh toán hộ cho Kho bạc khác, kế toán bàn lập riêng “Bảng kê thanh toán trái phiếu vãng lai” để báo Nợ cho Kho bạc Nhà nước được thanh toán hộ. + Quy trình thanh toán bằng chuyển khoản Kế toán tổng hợp Người sở hữu Kế toán bàn Kho bạc (1) (2) (3) Chú thích (1) Người sở hữu trái phiếu viết các yếu tố quy định trên phiếu thanh toán và nộp các giấy tờ có liên quan như: họ tên, ngày thanh toán, địa chỉ, số CMND, số tiền được thanh toán (gốc, lãi)... (2) Kế toán bàn nhận tờ trái phiếu, phiếu thanh toán và các giấy tờ có liên quan; thực hiện các công việc: - Kiểm tra tờ trái phiếu (bằng mắt thường và đèn cực tím), CMND và các giấy tờ có liên quan, bảo đảm hợp lệ, hợp pháp. - Rút cuống trái phiếu để đối chiếu chữ ký mẫu với chữ ký trên phiếu thanh toán trái phiếu. - Tính và viết số tiền phải thanh toán lên tờ trái phiếu. Tính số phí phải thu và số tiền còn phải trả cho chủ sở hữu. Ký tên vào chỗ quy định trên phiếu thanh toán và tờ trái phiếu (phần thủ quỹ ký ghi “chuyển khoản”) - Yêu cầu người lĩnh ký tên lên chỗ quy định trên tờ trái phiếu. - Cắt gốc tờ trái phiếu - Nhập máy vi tính (chương trình tín dụng Nhà nước) các yếu tố xác nhận việc thanh toán trái phiếu. - Lập uỷ nhiệm chi gửi ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước nơi người lĩnh mở tài khoản. (3) Chuyển uy nhiệm chi, thân, cuống, phiếu thanh toán trái phiếu cùng các giấy tờ liên quan cho kế toán tổng hợp kiểm soát, hạch toán và xử lý ngay trong ngày. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư Thực chất của công tác huy động vốn trong dân cư cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển kinh tế là huy động các nguồn tiết kiệm. Song tổng tiết kiệm trong dân cư mới chỉ nói lên tiềm năng của nguồn vốn huy động. Từ tiết kiệm đến đầu tư còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố bao gồm cả nhân tố khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Vì vậy, để tiến hành huy động vốn, cần phải làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn. 1.3.1 Các nhân tố khách quan + Môi trường kinh tế vĩ mô Huy động vốn trong dân chịu ảnh hưởng của nhân tố khác nhau thuộc hệ thống môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế vĩ mô. Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố: sự ổn định kinh tế, sức mua, sự ổn định giá cả, tiền tệ , lạm phát, sự thay đổi mức thu nhập. Các chính sách kinh tế vĩ mô: chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách đầu tư, chính sách đất đai, chính sách giá cả... luôn ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn trong dân, cũng như các quyết định tích luỹ tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư của mỗi người dân. Lạm phát là một yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện siêu lạm phát, đồng tiền không còn thực hiện trọn vẹn các chức năng của nó. Do đó, nó gây ra những khó khăn về tài chính cho đất nước. Chẳng hạn: những món nợ phát sinh trước lạm phát đã trở nên thuận lợi cho con nợ và bất lợi cho chủ nợ. Vì vậy, việc huy động vốn trong dân cư rất khó khăn vì không ai muốn bỏ tiền ra cho vay sau đó thu về những đồng tiền mất giá (điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền gửi của dân). Nhưng với mức lạm phát vừa vừa phải (khoảng 5%) lại được thừa nhận là một công cụ kích thích tăng trưởng. Một số nhà kinh tế trong thập kỷ của những năm 50 và 60 cho rằng, lạm phát nhẹ như “dầu bôi trơn” cho sự phát triển, buộc những người giữ tiền phải tiết kiệm và chuyển số tiết kiệm cho Chính phủ – nơi đang thiếu các nguồn vốn cho đầu tư. + Thu nhập của dân cư Thu nhập của dân cư cũng ảnh hưởng đến công tác huy động vốn. Nếu thu nhập dân cư cao thì khả năng huy động vốn có nhiều thuận lợi. Ngược lại, thu nhập của dân cư thấp, chỉ đủ chi tiêu trong cuộc sống hằng ngày thì khả năng huy động vốn rất thấp. + Phong tục tập quán Việc huy động vốn nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư còn phụ thuộc nhiều vào tâm lý, tập quán của người dân theo tuổi tác và các vùng lãnh thổ trong một quốc gia. Trong cùng quốc gia, nếu như người dân có cùng mức thu nhập nhưng mức tiết kiệm trong thu nhập khác nhau, từ đó tạo ra khoản để dành cũng khác nhau. Một hiện tượng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới là, với mức thu nhập như nhau, thì dân cư nông thôn để dành tiết kiệm một tỷ lệ thu nhập khá cao hơn dân thành phố. Nhóm dân cư trẻ tuổi có tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập thấp hơn so với nhóm dân cư cao tưổi. Dân cư ở những vùng bị thiên tai khắc nghiệt (bão lụt, hạn hán…), tập quán của họ thường có khuynh hướng tiết kiệm thu nhập và hình thành những khoản để dành dự trữ, ngay cả trong trường hợp có thu nhập thấp. Một bộ phận dân cư ở các vùng nông thôn Miền Bắc, đặc biệt là Miền trung ở nước ta là những ví dụ điển hình. + Môi trường chính trị - xã hội Trong một quốc gia, với một hệ thống chính trị ổn định, hoạt động vì lợi ích chung dân tộc, phù hợp với nguyện vọng đông đảo người dân và xu hướng chung của quốc tế... thì việc huy động vốn trong dân cư sẽ rất thuận lợi, nhất là huy động vốn trung và dài hạn. Ngược lại, với một đất nước mà Hiến pháp thường xuyên phải sữa đổi lại, không được tôn trọng, Quốc hội và Chính phủ thường bị thay đổi giữa nhiệm kỳ, tình trạng tham nhũng không kiểm soát được, các cuộc biểu tình, đình công, xung đột biên giới và xung đột các sắc tộc thường xảy ra... thì công tác huy động vốn trong dân cư là rất khó khăn. 1.3.2 Các nhân tố chủ quan + Chính sách lãi suất Lãi suất là một công cụ quan trọng, nó có độ nhạy cảm đối với hoạt động tiết kiệm và đầu tư. Lãi suất là giá cả của vốn mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng một số tiền trong một thời gian nhất định. Giá cả của vốn trong phạm vi đề cập này là lãi suất danh nghĩa, nó bao gồm cả mức lạm phát trong đó. Đối với những người tiết kiệm và đầu tư, lãi suất danh nghĩa là những vấn đề họ cần quan tâm, nhưng vấn đề buộc họ phải quan tâm hơn cả là lãi suất thực tế. Bởi vì lãi suất thực tế phản ánh chi phí thực của việc cho vay và đi vay. Theo phương trình Fisher lãi suất thực tế được tính bằng: ir = i - p2 Trong đó: ir là lãi suất thực tế i là lãi suất danh nghĩa p2 là lạm phát dự tính Do đó, việc ấn định mức lãi suất danh nghĩa sao cho lãi suất thực tế là một số lớn hơn 0 và ở mức vừa phải, đủ mức hấp dẫn họ. Trong trường hợp này, chính sách lãi suất góp phần tích cực vào việc huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư. Nếu việc ấn định mức lãi suất cao thì khả năng huy động nhanh nhưng lại không hiệu quả đối với việc sử dụng vốn, và ngược lại việc ấn định mức lãi suất thấp, điều này sẽ không tạo ra sự hấp dẩn đối với nhà đầu tư, do đó khả năng huy động vốn là rất hạn chế. Một chính sách lãi suất hợp lý bảo đảm được lợi ích của nhà đầu tư là một đòn bẩy kinh tế hấp dẫn, xoá bỏ e ngại đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. + Phạm vi huy động Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vững chắc. Đời sống nhân dân dần dần được cải thiện. Phạm vi huy động vốn càng mở rộng thì khả năng tiếp cận được với nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư càng cao, dẫn đến khả năng huy động vốn càng lớn. Còn phạm vi huy động vốn chỉ bó hẹp ở một số vùng, một số cụm nhất định thì khả năng huy động vốn sẽ không đạt được kết quả như mong muốn. + Cơ chế huy động vốn Để có thể huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, điều này đòi hỏi Chính phủ phải có chính sách huy động vốn phù hợp với khả năng phát triển của nền kinh tế, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của người dân. Nguồn vốn huy động đó cần phải được quản lý và sử dụng có hiệu quả để vốn không ngừng sinh sôi nảy nở và đạt được chiến lược kinh tế - xã hội đề ra. Đó là cơ sở để tạo niềm tin của người dân đối với chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, người dân mới tin tưởng giao phần tiền tiết kiệm của mình cho Nhà nước sử dụng. + Công tác vận động, tuyên truyền: cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí... để cung cấp những thông tin cho người dân, làm cho người dân hiểu được lợi ích của việc huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Thực tế chứng minh cho thấy, công tác tuyên truyền, vận động càng tích cực và có hiệu quả bao nhiêu thì khả năng huy động vốn trong dân cư càng lớn bấy nhiêu và ngược lại. Chương 2 Thực trạng công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư qua hệ thống KBNN 2.1 Vài nét về cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống KBNN 2.1.1 Lịch sử hình thành Ngày 29/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha ngân khố trực thuộc Bộ Tài chính để giúp Chính phủ giải quyết các nhiệm vụ cấp bách về tài chính và tiền tệ trong những ngày đầu của Chính quyền Cách mạng. Ngân khố Quốc gia trước đây và hệ thống quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước trong những năm qua đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chế độ tài chính tiền tệ độc lập, tự chủ, góp phần đưa 2 cuộc kháng chiến của dân tộc ta đi đến thắng lợi. Để thực hiện nhiệm vụ đổi mới toàn diện nền kinh tế đồng thời cải tiến cơ chế quản lý và điều hành Ngân sách Nhà nước; Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính và thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngày 4/1/1990 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ký Quyết định 07/HĐBT về việc thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính trên cơ sở chuyển giao nhiệm vụ quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước từ Ngân hàng Nhà nước về Bộ Tài chính. Thi hành quyết định 07/HĐBT, hệ thống Kho bạc Nhà nước đã ra đời và hoạt động từ ngày 1/4/1990. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống KBNN Kho bạc Nhà nước là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính có nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quỹ Ngân sách Nhà nước (bao gồm cả quỹ ngoại tệ tâp trung của Nhà nước); quỹ dự trữ tài chính Nhà nước, tiền, tài sản tạm thu, tạm giữ; huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. Kho bạc Nhà nước được tổ chức và quản lý thống nhất từ Trung Ương đến địa phương: - ở Trung ương là Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước có Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc giúp việc Tổng Giám đốc. Tổng giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Các Phó Tổng Giám đốc do Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm và miễn nhiệm. Bộ máy Kho bạc Nhà nước Trung Ương gồm có: 1. Vụ Kế hoạch tổng hợp Vụ Kế toán 3. Vụ Huy động vốn 4. Vụ Ngân quỹ 5. Vụ Thanh tra 6. Vụ Tổ chức cán bộ 7. Vụ thanh toán vốn đầu tư 8. Phòng thanh toán vốn đầu tư liên tỉnh 9 Văn phòng KBNN TW 10 Trung tâm tin học 11 Trung tâm bồi dưỡng công chức 12 Tạp chí quản lý Ngân quỹ Quốc gia - ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có Kho bạc Nhà nước trực thuộc Kho bạc Nhà nước ở Trung Ương (gọi chung là Kho bạc Nhà nước tỉnh). Kho bạc Nhà nước tỉnh có Giám đốc và một số Phó Giám đốc giúp việc Giám đốc. Giám đốc và các Phó Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh do Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Phó Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước . Tổ chức bộ máy chung của Kho bạc Nhà nước ở tỉnh gồm: 1. Phòng kế hoạch tổng hợp 2. Phòng kế toán 3. Phòng vi tính 4. Phòng kho quỹ 5. Phòng thanh tra 6 Phòng tổ chức cán bộ Phòng hành chính – quản trị Phòng thanh toán vốn đầu tư. Căn cứ tình hình thực tế, Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy cho phù hợp với hoạt động của từng đơn vị, không nhất thiết phải đủ các phòng như đã nêu trên. Đối với Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố có quy mô hoạt động lớn như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà nẵng… có thể thành lập thêm phòng hoặc bộ phận nghiệp vụ để tổ chức thực hiện các công việc được giao theo quyết định của Bộ Tài chính trên cơ sở đề nghị của Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước . - ở quận, huyện, thị xã hoặc khu vực (liên huyện) có Kho bạc Nhà nước trực thuộc Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố (gọi chung là Kho bạc Nhà nước huyện). Kho bạc Nhà nước huyện có Giám đốc và một số Phó Giám đốc giúp việc Giám đốc. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc Kho bạc Nhà nước ở quận , huyện, thị xã, khu vực do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định. Tổ chức bộ máy ở Kho bạc Nhà nước huyện: Kho bạc Nhà nước huyện được tổ chức thành các bộ phận nghiệp vụ: kế toán tổng hợp, kế toán kho quỹ, các điểm thu . Đối với các Kho bạc Nhà nước ở huyện có quy mô hoạt động lớn có thể thành lập các phòng nghiệp vụ để tổ chức thực hiện công việc được giao. Việc thành lập các phòng trong Kho bạc Nhà nước huyện do Tổng Giám đốc Kho bạc quyết định sau khi thống nhất với vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo – Bộ Tài chính. 2.2 Thực trạng công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư qua hệ thống KBNN trong giai đoạn 1991 - 2002 Thực hiện chủ trương khai thác tối đa nguồn vốn trong nước phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế, từ năm 1990 đến nay, hệ thống Kho bạc Nhà nước đã tổ chức phát hành các loại tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc và công trái xây dựng Tổ quốc với các loại kỳ hạn, lãi suất khác nhau nhằm huy động các nguồn vốn trong xã hội mà chủ yếu là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước và tăng cường nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Kết quả huy động dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ được thể hiện cụ thể như sau: 2.2.1 Tín phiếu Kho bạc Từ đầu năm 1991, cục Kho bạc Nhà nước (nay là Kho bạc Nhà nước Trung ương) đã nghiên cứu trình Chính phủ quyết định áp dụng biện pháp huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua việc phát hành tín phiếu Kho bạc để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển kinh tế. Thi hành Quyết định của Bộ Tài chính, từ tháng 3/1991 đến tháng 7/1992, Kho bạc Nhà nước Hải Phòng đã tổ chức phát hành thí điểm 6 đợt tín phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 tháng với lãi suất từ 4% đến 5% / 1tháng, bán cho đối tượng là các tầng lớp dân cư , các tổ chức. Tổng số tiền thu được : 317,6 tỷ đồng; Cụ thể như sau: Bảng 1 Kết quả phát hành tín phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 tháng Đơn vị tính: tỷ đồng Năm Số phát hành Số thanh toán Gốc Lãi 1991 140,9 88,8 12,2 1992 176,8 228,9 25,7 Tổng 317,7 317,7 37,9 Nguồn : Vụ Huy động vốn - Kho bạc Nhà nước Trung Ương Kết quả của đợt phát hành tín phiếu Kho bạc tại Hải Phòng có tác dụng vô cùng to lớn. Nó không những tập trung được một lượng tiền mặt rất lớn hỗ trợ cho Ngân sách Nhà nước gặp nhiều khó khăn, góp phần làm giảm tỷ lệ lạm phát; mà còn đem lại những kinh nghiệm quý giá cho việc tổ chức phát hành tín phiếu rộng khắp trên cả nước. Trên cơ sở kết quả của đợt thí điểm thành công, Bộ Tài chính quyết định mở rộng phạm vi phát hành tín phiếu Kho bạc kỳ hạn 6 tháng tại 3 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Từ 1/12/1991 đến 31/12/1991, phát hành đợt 1 với lãi suất 4,5%/tháng, tổng số thu của đợt phát hành là 79,6 tỷ đồng. Từ 1/6/1992 đến 30/12/1992, phát hành đợt 2 với lãi suất 4%/tháng, tổng số thu của đợt này là 946,6 tỷ đồng. Đến tháng 10/1992, Bộ Tài chính quyết định mở rộng địa bàn phát hành tín phiếu Kho bạc loại kỳ hạn 6 tháng, lãi suất 2,6%/tháng trên 30 tỉnh, thành phố trong cả nước. Ngoài các tầng lớp dân cư, đối tượng được mở rộng đến các doanh nghiệp trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể xã hội. Tín phiếu Kho bạc loại kỳ hạn 6 tháng được phát hành liên tục qua hệ thống Kho bạc Nhà nước đến 3/3/1995 với số tiền huy động được là 15540 tỷ đồng. Để chủ động nguồn vốn và tiền mặt chi trả cho các tín phiếu Kho bạc đã hết hạn, hệ thống Kho bạc Nhà nước tổ chức phát hành đợt tín phiếu mới vào thời điểm đợt tín phiếu cũ đã hết hạn, dùng số tiền huy động của đợt mới thanh toán cho đợt cũ, nhờ đó mà việc thanh toán được đúng hạn, thuận lợi, gây được lòng tin trong nhân dân. Bảng 2 Kết quả phát hành tín phiếu kỳ hạn 6 tháng trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước Đơn vị tính: tỷ đồng Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Số phát hành 79,6 964,6 4.491,2 7.020 2.984,966 0 Thanhtoán gốc 391,1 2.032,5 4.479 5.667,353 2.870,413 Thanh toán lãi 95,6 312,2 1.178,04 1.477,934 423,329 Nguồn : Vụ Huy động vốn - Kho bạc Nhà nước Trung Ương Song song với việc phát hành tín phiếu Kho bạc để huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước, Kho bạc Nhà nước đã thực hiện nhiệm vụ phát hành tín phiếu Kho bạc huy động vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm của nền kinh tế. Tháng 7/1992, thực hiện Quyết định số 134 HĐBT của Hội Đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), hệ thống Kho bạc Nhà nước lần đầu tiên triển khai phát hành loại tín phiếu Kho bạc đảm bảo giá trị theo giá vàng nhằm huy động vốn xây dựng đường dây tải điện Bắc - Nam 500kv. Thời hạn trái phiếu gồm 3 loại: 1 năm, 2 năm, 3 năm. Lãi suất trái phiếu 4,2%; 4,5% và 5% /năm tương ứng với các kỳ hạn 1 năm, 2 năm và 3 năm. Từ 1/7/1993 lãi suất được nâng dần lên ở mức 6,5%; 7% và 7,5%/năm. Tiền mua tín phiếu được đảm bảo bằng vàng (vàng 99,99%) tính tại thời điểm mua tín phiếu. Giá vàng được căn cứ đảm bảo giá trị tín phiếu là giá vàng mua vào của công ty vàng bạc đá quý quốc doanh trên địa bàn. Ngoài thu bằng đồng Việt Nam, một số tỉnh còn được phép thu bằng vàng và ngoại tệ. Loại tín phiếu này vừa mang tính chất tự nguyện (đối với tầng lớp dân cư), vừa mang tính chất bắt buộc (đối với các doanh nghiệp kinh doanh có lãi thuộc mọi thành phần kinh tế). Nguồn thu tín phiếu được sử dụng để đầu tư cho công trình đường dây tải điện Bắc - Nam 500kv. Đợt phát hành tín phiếu đường dây 500kv kéo dài từ tháng 7 năm 1992 đến hết tháng 12 năm 1994. Tổng số thu được là 334,3 tỷ đồng. bảng 3 Kết quả phát hành tín phiếu đường dây Bắc - Nam 500kv Đơn vị tính: tỷ đồng Năm 1992 1993 1994 Tổng tiền 242,5 81,5 10,3 Nguồn : Vụ Huy động vốn - Kho bạc Nhà nước Trung Ương Số thu phát hành tín phiếu đường dây 500kv đã góp phần quan trọng vào việc tạo nguồn cho công trình thế kỷ này khởi công kịp thời và bảo đảm tiến độ xây dựng. Bảng 3 cho thấy: số tiền huy động giảm dần qua các năm. Năm 1993, số thu bằng 33,61% năm 1992, năm 1994 số thu bằng 4,25 % năm 1993 và bằng 12,64% năm 1992, tổng số thu so với kế hoạch chỉ đạt 28%. Nguyên nhân chính là do lãi suất thấp, chưa đủ sức hấp dẫn người mua. Mặt khác, giá vàng tuy có biến động tăng trong năm 1992, nhưng giảm dần và ổn định trong các năm 1993,1994. Do đó, việc bảo đảm giá trị tín phiếu theo giá vàng không hấp dẫn nữa, số thu tín phiếu tự nguyện thấp (chưa đến 10% tổng số thu); số thu tín phiếu bắt buộc (đối với các doanh nghiệp) cũng gặp nhiều khó khăn do sự chi phối của cơ chế thị trường. Sau một thời gian phát hành, tín phiếu Kho bạc đã tạo được niềm tin trong dân chúng, tạo ra một kênh huy động vốn mới trong nền kinh tế. Tuy nhiên, nhu cầu vốn phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế phải bao gồm cả vốn trung và dài hạn, vì vậy việc phát hành tín phiếu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước không thể kéo dài. Mặt khác, để từng bước cải tiến công tác huy động vốn theo thông lệ quốc tế, từ tháng 4/1995, Kho bạc Nhà nước đã chuyển sang phát hành trái phiếu Kho bạc với thời hạn từ một năm trở lên. 2.2.2 Trái phiếu Kho bạc Từ tháng 6/1994, thực hiện Quyết định số 433 TC/KBNN của Bộ trưởng Bộ Tài chính, hệ thống Kho bạc Nhà nước phát hành thí điểm trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 năm với mục tiêu tăng dần tỷ trọng nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho đầu tư phát triển. Đợt phát hành trái phiếu này có một số điểm mới so với các loại tín phiếu đã phát hành trước đây: + Lãi suất trái phiếu được điều chỉnh và công bố hàng năm, bảo đảm cho người mua được hưởng lãi suất thực dương trên cơ sở lãi suất cơ bản cộng với lạm phát. Theo đó, mức lãi suất quy định cho năm thứ nhất là 15%/năm, năm thứ 2 là 21%/năm, năm thứ 3 là 14%/năm. + Trái phiếu được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, không ghi tên người mua, có in sẵn các loại mệnh giá; được tự do mua bán, chuyển nhượng, cầm cố trong các quan hệ tín dụng; được thanh toán vãng lai tại tất cả các đơn vị Kho bạc Nhà nước trong cả nước. + Đối tượng mua trái phiếu được mở rộng cho mọi cá nhân Việt Nam ở trong và ngoài nước, cá nhân nước ngoài hoạt động và sinh sống hợp pháp tại Việt Nam. + Trái phiếu được thu và ghi bằng đồng Việt Nam. Tiền gốc trái phiếu được thanh toán một lần khi đến hạn (3 năm), tiền lãi được thanh toán định kỳ 6 tháng một lần theo lãi suất được công bố trong thời hạn thanh toán lãi. Nếu đến hạn trả lãi mà người sở hữu trái phiếu không đến thanh toán, Kho bạc Nhà nước bảo lưu riêng, không tính nhập gốc. Đợt phát hành trái phiếu kéo dài 1 năm (từ 20/6/1994 đến 19/6/1995), mặc dù cơ chế đã được nới lỏng nhưng kết quả chỉ thu được hơn 800 triệu đồng. Nguyên nhân là cùng thời điểm này, kỳ phiếu của các Ngân hàng Thương mại, tín phiếu Kho bạc ngắn hạn có lãi suất bình quân từ 21 - 22%/năm, cao hơn lãi suất trái phiếu 3 năm. Sự chênh lệch lãi suất này đã làm triệt tiêu yếu tố kích thích, nới lỏng của loại trái phiếu trung hạn 3 năm. Ngoài ra sự thiếu vắng của thị trường thứ cấp đã không phát huy được yếu tố tự do mua bán. Trong khi đại bộ phận dân chúng chưa quen với hình thức gửi tiết kiệm dài hạn, lại chưa có một thị trường thứ cấp thực hiện việc mua bán lại trái phiếu sau phát hành. Vì vậy, người sở hữu trái phiếu rất khó khăn khi có nhu cầu rút tiền để chi tiêu hoặc chuyển đổi sang hình thức đầu tư khác. Nếu người mua trái phiếu rút trước hạn thì quá thiệt thòi vì không được hưởng lãi trong thời gian mua trái phiếu. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự thất bại của đợt phát hành trái phiếu kỳ hạn 3 năm trong năm 1994. Để từng bước thể chế hoá công tác huy động vốn, ngày 26/7/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/CP tạo ra môi trường pháp lý thúc đẩy và tăng cường khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển. Triển khai Nghị định này, từ tháng 4/1995 đến tháng 10/1995, Kho bạc Nhà nước bắt đầu phát hành trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 1 năm, lãi suất 21%/1năm với các loại trái phiếu vô danh in sẵn mệnh giá và trái phiếu ghi danh không in sẵn mệnh giá. Kết quả, số tiền huy động được 4442 tỷ đồng. Từ 1/3 đến 15/4/1996, tiếp tục phát hành trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 1 năm với loại ghi danh không in sẵn mệnh giá, lãi suất 16%/năm, kết quả thu được 3966,947 tỷ đồng. Để đảm bảo nhu cầu vốn cân đối Ngân sách Nhà nước theo chỉ tiêu Quốc hội giao, đồng thời tạo tiền đề về hàng hoá cho cân đối vốn, từ 10/9/1996, Kho bạc Nhà nước bắt đầu phát hành trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm , lãi suất 12%/năm, loại ghi danh, không in sẵn mệnh giá, bán cho các đối tượng là cá nhân người Việt Nam, người nước ngoài làm việc và sinh sống hợp pháp tại Việt Nam. Tiền gốc và lãi trái phiếu được thanh toán một lần khi đến hạn (đủ 24 tháng), nhưng với những trường hợp có nhu cầu thanh toán trước hạn mà thời gian mua từ đủ 12 tháng trở lên đến dưới 24 tháng vẫn được hưởng lãi. Lãi suất trái phiếu Kho bạc giảm dần qua các năm, từng bước phù hợp với các chỉ số lạm phát, đảm bảo tôn trọng các thông lệ có tính nguyên tắc. Năm 2001, lãi suất trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm là 7,8%/năm. Tuy nhiên, do sức ép cạnh tranh thu hút vốn trong dân cư từ các Ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm, điều này buộc ngành Kho bạc phải nâng lãi suất để đáp ứng nhu cầu và tâm lý của người dân. Vì vậy, năm 2002 lãi suất trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm được đẩy lên mức 8,2%/năm. Với sự điều chỉnh này, trong thời gian 1996 – 2002 Kho bạc Nhà nước huy động được 19605 tỷ đồng qua phát hành trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm. Bảng 4 kết qủa phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm Đơn vị tính: tỷ đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Số tiền huy động 1259 3376 2500 3500 3370 2600 3000 Nguồn : Vụ Huy động vốn - Kho bạc Nhà nước Trung Ương Bảng 4 cho thấy, năm 2002 số tiền huy động từ dân cư cao hơn năm 2001 (bằng 115,38%). Tuy nhiên so với năm 1999, năm 2000 thì số tiền huy động năm 2002 vẫn còn thấp (bằng 85,71% năm 1999 và bằng 90,91% năm 2000). Nguyên nhân là do trong thời gian gân đây, các Ngân hàng thương mại đang khan hiếm nguồn vốn bằng đồng Việt Nam, nên đã đưa ra mức lãi suất huy động vốn khá cao so với lãi suất của trái phiếu Kho bạc. Mức lãi suất cao đã tạo nên tính hấp dẫn đối với khu vực dân cư, do đó họ đã dùng tiền tiết kiệm của mình để mua kỳ phiếu Ngân hàng hay gửi tiết kiệm vào Ngân hàng thay vì họ dùng số tiền đó để mua trái phiếu Kho bạc như những năm trước đây (năm 1999, năm 2000). Mặt khác, trong đầu năm 2001, năm 2002, do tồn quỹ Ngân sách Nhà nước lớn nên Bộ trưởng chỉ đạo chỉ thực hiện bán lẻ trái phiếu từ đầu quý 2. Vì vậy, Kho bạc Nhà nước đã không tận thu được khối lượng vốn khá lớn trong dịp tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó, thị trường bất động sản trong thời gian qua bắt đầu hoạt động nhộn nhịp trở lại đã thu hút một lượng vốn không nhỏ vào đấy. Thành phố Hồ Chí Minh luôn là đơn vị có số tiền huy động từ khu vực dân cư cao nhất trong cả nước (Năm 2001: số tiền huy động được là 1087,5 tỷ đồng, chiếm 41,8% số tiền huy động của cả nước. Năm 2002: số tiền huy động được là 1051 tỷ đồng, chiếm 35,04% số tiền huy động của cả nước). Tiếp theo là các đơn vị : Hà Nội, Vũng tàu, Hải Phòng, Nghệ An. Đây là những tỉnh, thành phố có nền kinh tế phát triển khá cao so với các tỉnh, thành phố còn lại trong cả nước. Mức thu nhập bình quân đầu người ở các tỉnh, thành phố này cao so với mức trung bình cả nước: Thành phố Hồ Chí Minh (thu nhập bình quân đầu người: 9,4 triệu đồng/người); Hà Nội (8,7 triệu đồng/người); Vũng tàu (16,8 triệu đồng/người). Đời sống của dân cư ở các tỉnh, thành phố này ngày một khấm khá, số tiền tiết kiệm ngày một tăng. Cộng với công tác tuyên truyền phổ biến sâu rộng, tinh thần phục vụ khách hàng nhiệt tình, chu đáo... nên hàng năm, số tiền huy động luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao. Ngược lại, một số tỉnh có số tiền huy động rất thấp. Chẳng hạn như: tỉnh Long An (số tiền huy động được vào năm 2001 là 0,97 tỷ đồng và vào năm 2002 là 4,73 tỷ đồng), Bến Tre, Kiên Giang hay các tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng và các tỉnh Sơn La, Lai Châu... Đây là những tỉnh thường chịu nhiều thiên tai, lũ lụt tàn phá thường xuyên, những tỉnh nằm ở các vùng sâu, vùng xa của đất nước. Đời sống bà con ở các tỉnh này cũng còn gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, đối với những người có tiền nhàn rỗi, họ vẫn hăng hái mua trái phiếu Kho bạc. Số tiền huy động năm 2002 cao hơn năm 2001, điều đó cho thấy đã có sự chuyển biến tích cực ở đây. Để tiếp tục phát triển thị trường vốn trong nước, đồng thời tạo thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán, từ ngày 16/4 đến 15/6/2001, Kho bạc Nhà nước đã phát hành thí điểm trái phiếu chiết khấu kỳ hạn 5 năm, lãi suất 7,2%/năm tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trái phiếu không ghi tên, in sẵn mệnh giá, thống nhất ngày phát hành và ngày đến hạn thanh toán, được niêm yết và giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như: giá ngoại tệ và bất động sản có biến động lớn, tâm lý người dân thích đầu tư vào cổ phiếu vì lợi tức cao... nên kết quả của đợt phát hành còn hạn chế. Trong thời gian 2 tháng chỉ huy động được gần 50 tỷ đồng. 2.2.3 Công trái xây dựng Tổ quốc Thực hiện chủ trương tạo nguồn vốn đầu tư để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn, trước hết là các xã nghèo đặc biệt khó khăn, ngày 27/4/1999 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh phát hành công trái XDTQ số 12/1999/PL-UBTVQH và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/1999/NĐ-CP ngày 12/5/1999 quy định việc phát hành công trái XDTQ năm 1999. Phát hành công trái XDTQ là một giải pháp huy động vốn quan trọng đã được Chính phủ thực hiện từ những năm 1983 - 1988. Được sản sinh ra trong thời kỳ bao cấp nên công trái XDTQ thời kỳ này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Nhà nước đã cải tiến cơ chế phát hành công trái năm 1999 cho phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế đang phát triển theo cơ chế thị trường. Cụ thể là: - Để bảo vệ lợi ích của người đầu tư, Nhà nước quy định cơ chế bảo đảm tiền mua công trái bằng chính số tiền ghi trên công trái cộng với mức trượt giá tại thời điểm đến hạn thanh toán công trái so với thời điểm mua công trái. Ngoài mức trượt giá, người mua công trái còn được hưởng lãi suất thực dương, tối thiểu là 1,5%/năm. Trên cơ sở đó, Nhà nước công bố lãi suất công trái là 10%/năm (tỷ lệ trượt giá bình quân là 8,5%/năm và lãi suất thực 1,5%/năm). Trường hợp sau 5 năm lãi suất thực cộng với tỷ lệ trượt giá thực tế lớn hơn 50%, chủ sở hữu công trái được cấp bù mức chênh lệch, còn nếu nhỏ hơn 50%, chủ sở hữu công trái vẫn được hưởng mức lãi suất 50%. - Đối tượng được mua công trái được mở rộng cho mọi cá nhân, tổ chức, bao gồm: Công dân Việt Nam ở trong và ngoài nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài làm việc, sinh sống và định cư ở Việt Nam; các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội, xã hội - nghề nghiệp; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; các cơ quan hành chính, sự nghiệp; các tổ chức khác đóng trên lãnh thổ Việt Nam. - Tiền gốc và lãi công trái được ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37124.doc