Hoàn thiện công nghệ Marketing Nhập khẩu tại Công ty XNK Tổng Hợp 3

Mục lục Lời nói đầu .Trong điều kiện hội nhập và tự do hoá thương mại toàn cầu, xuất nhập khẩu là một hoạt động đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế trong nưóc hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy được những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng được những nguồn lực bên ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công nghệ Marketing Nhập khẩu tại Công ty XNK Tổng Hợp 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.Đại hội đảng lần thứ IX vừa diễn ra tại Hà Nội vào tháng 4/2001 đã đề ra chiến lược phát triển xuất nhập khâu trong giai đoạn 2001-2010.Với trọng tâm dành ưu tiên cho xuất khẩu tạo ra những khâu đột phá với bước đi vững chắc trong lĩnh vực này.Cùng với xuất khẩu thì nhập khẩu cũng được định hướng chặt chẽ với mục tiêu là phục vụ cho xuất khẩu, trong đó chú trọng nhập khẩu công nghệ khoa học tiên tiến hiện đại nhằm tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho sản xuất, giúp đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Từ thực trạng nhập khẩu hàng hoá hiện nay các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam đã gặp không ít khó khăn trong kinh doanh:thông tin, nhu cầu tiêu thụ, nguồn cung ứng...Đây chính là do các công ty chưa thấy rõ được tầm quan trọng và hiệu quả của việc thiết lập và thực thi hoạt động marketing đúng đắn. Từ những tồn tại trên, sau khi nghiên cứu tìm hiểu tình hình nhập khẩu của công ty kinh doanh xuất nhập khẩu.Với sự hỗ trợ của thầy giáo hướng dẫn Trần Thanh Toàn nhận thấy việc hoàn thiện hơn các hoạt động công nghệ marketing nhập khẩu cho công ty là cần thiết.Do vậy, sau thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu Tổng Hợp III tôi quyết định chọn đề tài" Các giải pháp nhằm hoàn thiện công nghệ marketing nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Tổng Hợp III". *Mục đích nghiên cứu : trên cơ sở phân tích chi tiết các nội dung, các khâu của quá trình marketing nhập khẩu chỉ ra được các ưu, nhược điểm và nguyên nhân của thực trạng đề xuất một số giải pháp nhằm hòan thiện quá trình nghiên cứu, thiết lập, thực thi chương trình và kiểm soát marketing nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Tổng Hợp III dưới điều kiện tự do hoá thương mại với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. *Giới hạn nghiên cứu : Đề tài giới hạn nghiên cứu hoạt động nhập khẩu marketing hàng hoá trong mối quan hệ với nhiều yếu tố phức tạp trong môi trường marketing thương mại quốc tế.Mặt khác do khả năng hạn chế về không gian, thời gian và mặt hàng nên bài chuyên đề này chỉ tập trung nghiên cứu dưới góc độ tiếp cận của môn học marketing thương mại, marketing thương mại quốc tế để xử lí các vấn đề có liên quan đến hoạt động nhập khẩu của công ty. *Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp sử dụng trong bài chuyên đề này là phương pháp tiếp cận hệ thống duy vật biện chứng , logíc và lịch sử.Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phương pháp tiếp cận thực tế các vấn đề lý luận, phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hoá và sơ đồ hoá dựa trên cơ sở các số liệu và tình hình thực tế của công ty nhằm đạt đưọc mục tiêu nghiên cứu của bài chuyên đề. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.Kết cấu của bài chuyên đề được chia làm ba phần : Phần I : Cơ sở khoa học về kinh doanh nhập khẩu hàng hoá trong thương mại. Phần II : Phân tích thực trạng công nghệ marketing nhập khẩu xe máy tại chi nhánh xuất nhập khẩu Tổng Hợp III. Phần III : Các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện công nghệ marketing nhập khẩu của chi nhánh. Chương I. cơ sở khoa học về kinh doanh nhập khẩu trong thương mại. I. tổng quan về công nghệ marketing 1. Tính tất yếu của kinh doanh xuất nhập khẩu. Hoạt động kinh tế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.Cùng với sự phát triển của các quốc gia thì các nền kinh tế độc lập cũng dần được hình thành.Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động dẫn đến hoạt động kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi của quốc gia mà đã vượt ra khỏi biên giới của từng nước.Kể từ khi hoạt động trao đổi buôn bán giữa các nước ra đời thì nó đã trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho mỗi quốc gia.Song trên thực tế không phải Chính phủ quốc gia nào cũng ủng hộ hoạt động thương mại quốc tế mà muốn xây dựng cho mình một nền kinh tế độc lập mang tính tự cung tự cấp.Thực tế đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể đề ra cho mình một mục tiêu đầy tham vọng như vậy, con đường thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển kinh tế của mỗi nước là phải hướng ra bên ngoài, mở rộng quan hệ giao dịch với các nước trong khu vực và trên thế giới.Do khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...nếu chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước không thể cung cấp đủ những hàng hoá, dịch vụ đáp ứng sản xuất tiêu dùng của nền kinh tế mà cần phải nhập những mặt hàng cần thiết như nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ttrong nước cả về số lượng và chất lượng.Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc phục vụ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có thể tạo nên thặng dư để có thể xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng ngoại tệ cho đất nước để nhập khẩu các thứ thiếu hoặc để trả nợ. Như vậy, do yêu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi giao dịch hàng hoá giữa các nước với nhau, hay nói cách khác, hoạt động xuất nhập khẩu là yêu cầu khách quan của nền kinh tế. 2. Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. 2.1. Vai trò. 2.1.1. Đối với doanh nghiệp. Cùng với xuất khẩu, thì hoạt động nhập khẩu là hình thức hoạt động chủ yếu của kinh doanh thương mại quốc tế.Mà thương mại quốc tế là một bộ phận của thương mại,cho nên trước hết nó phải đảm bảo lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp.Thông qua nó các doanh nghiệp có thể tăng năng lực sản xuất. Nhập khẩu hàng hoá cũng góp phần làm đa dạng hoá thị trường, là động lực bắt buộc thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phải cải tiến kĩ thuật, đa dạng hoá sản phẩm để cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài trên thị trường trong nước và quốc tế. Kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp, tạo thế và lực cho doanh nghiệp,không những ở thị trường quốc tế mà cả thị trường trong nước, thông qua việc mua bán hàng hoá ở thị trường trong và ngoài nước cũng như việc mở rộng quan hệ bạn hàng. 2.1.2. Đối với nền kinh tế quốc dân. Nhập khẩu hàng hoá phục vụ đắc lực trong công cuộc đổi mới kinh tế thông qua việc sử dụng tốt hơn nguồn lao động và tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân, tăng hiệu quả sản xuất.Nhập khẩu công nghệ, thiết bị kĩ thuật tiên tiến từ nước ngoài giúp cho nền sản xuất trong nước phát triển, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Từ đó, hoạt động nhập khẩu kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm bật dậy các nhu cầu tiềm tàng của người tiêu dùng. Mở rộng hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị cũng là một trong những phương pháp quan trọng để tạo công ăn việc làm, giảm bớt lượng người thất nghiệp.Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển, ở đó tỷ lệ thất nghiệp cao, người lao động khó có cơ hội tìm kiếm việc làm. Nhập khẩu hàng hoá cũng là một trong những nhân tố góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. 3. Những thuận lợi và bất lợi của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế quốc tế. 3.1. Thuận lợi từ hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu trong nền kinh tế nhiều thành phần giữa các quốc gia tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể.Từ đó, dẫn đến chất lượng hàng hoá sẽ tốt hơn, mẫu mã đẹp, giá hạ hơn góp phần tích cực vào định hướng cho người tiêu dùng lựa chọn hàng hoá. Nhập khẩu hàng hoá trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần sẽ dẫn đến hình thành các liên doanh liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước một cách tự giác nhằm tạo ra sức mạnh cho các chủ thể một cách tích cực.Xu hướng hiện nay trên thế giới cho thấy các chủ đầu tư thường tiến hành xâm nhập thị trường bằng cách xuất khẩu sản phẩm của mình để bán trong thị trường đó.Khi sản phẩm của họ đã có uy tín và số lượng bán đã được tăng lên thì thường tiến hành liên doanh liên kết để nhập khẩu công nghệ ngay tại chỗ, lúc đó việc làm cũng nhiều lên thu nhập của người lao động cũng tăng lên. Nhập khẩu hàng hoá cũng dẫn tới xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh sản xuất các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được.Điều này có thể thấy rõ ở nước ta từ khi thực hiện chính sách mở cửa.Nhiều doanh nghiệp trong nước phải đóng cửa vì không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu có chất lượng tốt nhưng giá lại hạ. Nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến góp phần đẩy nhanh qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Với kĩ thuật tiên tiến được nhập khẩu, sản xuất trong nước sẽ phát triển, chất lượng và số lượng hàng hoá sản xuất trong nước được nâng cao, đồng thời tỷ trọng xuất khẩu hàng thô sơ chế sẽ giảm đánh kể.Điều này sẽ góp phần làm giảm tình trạng thậm hụt ngoại tệ cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. ảnh hưởng tổng hợp của hoạt động nhập khẩu hàng hoá có thể dẫn tới việc trình độ khoa học tăng lên, nâng cao mức sống, tăng trưởng kinh tế cũng như gia tăng cơ hội xâm nhập vào thị trường thế giới và khả năng cạnh tranh của các công ty trong nước trên thị trường quốc tế. 3.2. Bất lợi từ hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng không có định hướng sẽ làm cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn vì phải cạnh tranh với hàng ngoại, đồng thời tạo ra tâm lí sính dùng hàng ngoại trong dân chúng, dễ làm cho nền sản xuất trong nước bị tụt hậu. Việc cạnh tranh giữa các chủ thể nhập khẩu về nguồn hàng, mặt hàng, khách hàng dễ dẫn đến thôn tính lẫn nhau bằng các biện pháp xấu như mua tranh hàng, phá hoại hợp đồng nhập khẩu của nhau. Nhập khẩu hàng hoá là loại mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ tiêu dùng trong nước.Nhưng việc mua hàng ở đây có những đặc điểm riêng phức tạp hơn nhiều so với việc mua hàng hoá trong nước, như phải giao dịch đàm phán với nước ngoài mà người nước ngaòi có quốc tịch khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, thị trường hàng tiêu dùng để nhập khẩu rất rộng lớn, khó kiểm soát khi mua hàng qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán thường là đồng tiền mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua các quốc gia, qua các biên giới khác nhau, phải tuân thủ theo những tập quán thông lệ quốc tế cũng như của địa phương. Bên cạnh đó, có không ít các doanh nghiệp kinh doanh thương mại chỉ dựa vào hoạt động nhập khẩu để kinh doanh đơn thuần nhằm thu lợi nhuận chênh lệch chứ ít quan tâm đến xuất khẩu hàng hoá.Từ đó dẫn đến tình trạng hàng hoá tiêu dùng được nhập khẩu tràn lan, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất chưa được chú trọng nhập khẩu.Tình trạng này đã làm cho đất nước lãng phí rất nhiều ngoại tệ dành cho nhập khẩu những hàng hoá tiêu dùng mà trong nước đã có thể sản xuất được. 4. ảnh hưởng của môi trường đến kinh doanh xuất nhập khẩu doanh nghiệp nói chung. Môi trường marketing của công ty bao gồm các tác nhân và các lực lượng nằm ngoài chức năng quản trị marketing của công ty và tác động đến khả năng quản trị marketing trong việc triển khai cũng như duy trì các cuộc giao dịch thành công đối với các khách hàng trọng điểm.Môi trường marketing của công ty bao gồm môi trường vĩ mô và môi trường vi mô. 4.1. Môi trường vĩ mô. Bao gồm những lực lượng mang tính chất xã hội rộng lớn ảnh hưởng tới toàn bộ nhân tố thuộc môi trường vi mô của công ty.Đó là những lực lượng về dân số, văn hoá xã hội, kinh tế chính trị, công nghệ và thiên nhiên.Đây là những lực lượng tiêu biểu cho cái "không kiểm soát được" mà công ty phải tiên liệu và phản ứng lại. *Môi trường nhân khẩu học. Đây là yếu tố đầu tiên, tiền đề bởi con người là yếu tố kiến tạo thị trường.Những người làm marketing phải chú ý đến quy mô, tốc độ tăng dân số.Bởi vì, hai chỉ tiêu đó phản ánh trực tiếp quy mô nhu cầu khái quát trong hiện tại và tương lai, do đó nó cũng phản ánh sự phát triển hay suy thoái của thị trường. Vậy để thích ứng một cách tốt nhất với môi trường nhân khẩu học đòi hỏi các nhà quản trị marketing phải phân tích đánh giá sự tăng trưởng dân số của từng khu vực để từ đó tiên liệu nhu cầu của phân đoạn thị trường. *Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế có ảnh ảnh trực tiếp đến những cơ hội và nguy cơ mà công ty phải đối mặt, nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới sức mua của người tiêu dùng trong nuớc.Khi nền kinh tế thịnh vượng có tốc độ tăng trưởng cao sẽ thúc đẩy tiêu dùng, giảm áp lực cạnh tranh trên thị trường do đó mở ra cho công ty cơ hội tăng quy mô kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng.Ngược lại trong thời kì suy thoái của nền kinh tế dẫn đến chỉ tiêu giảm, áp lực cạnh tranh tăng lên điều này sẽ gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty trên thị trường.Điều đó đòi hỏi công ty kinh doanh phải sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách thức mới trong kinh doanh, từ đó điều chỉnh các hoạt động thích ứng, nhằm tránh những đảo lộn lớn trong quá trình vận hành, duy trì và đạt được những mục đích trong kinh doanh. * Môi trường thiên nhiên. Trong những năm gần đây, điều kiện môi trường tự nhiên ngày càng xấu đi đã trở thành vấn đề nóng bỏng đặt ra khắp nơi trên thế giới, ở một vài nơi ô nhiễm môi trường đã đặt trong tình trạng báo động.Những nhà marketing cần phải nhạy bén với những mối đe doạ và cơ hội gắn liền với những xu hướng đang thay đổi trong môi trường tự nhiên để đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. * Môi trường chính trị pháp luật. Đây là một trong yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới quyết định marketing của công ty. Sự tác động của môi trường chính trị pháp luật tới các quyết định marketing được thể hiện dưới các khía cạnh sau : - Tác động của hệ thống pháp luật tới các quyết định marketing:các văn bản luật pháp như luật thương mại, luật thuế…đã chỉ rõ công ty được kinh doanh hoặc cấm hay hạn chế kinh doanh hàng hoá gì, chất lượng hàng hoá như thế nào, có bị kiểm soát hay không…vì vậy buộc các công ty phải tính toán khi thông qua các quyết định marketing. - Hệ thống các công cụ chính sách như : tài chính tiền tệ, thu nhập, xuất nhập khẩu…những công cụ chính sách trên đều liên quan đến khuyến khích hay hạn chế cả sản xuất và tiêu dùng do đó buộc các công ty phải tính đến khi đưa ra các quyết định marketing. Cơ chế điều hành cuả chính phủ tác động lớn đối với các hoạt động của công ty: Nếu một chính phủ mạnh, điều hành chuẩn mực và tốt thì sẽ khuyến khích kinh doanh.Ngược lại, chính phủ điều hành không tốt thì các quyết định marketing trở nên mất phương hướng.Chẳng hạn như trong điều hành xuất nhập khẩu nếu số lượng, thời điểm, giá cả...hàng xuất nhập khẩu không được điều hành tốt đều có thể làm cho thị trường trong nước biến động và gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh. * Khoa học và công nghệ. Khoa học và công nghệ nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của đất nước.Một đất nước không thể đi lên, không thể trở thành một cường quốc mạnh nếu chỉ có những công nghệ cũ kĩ lạc hậu, mà cần phải có những máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến hiện đại mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.với hàng công nghiệp nhập khẩu từ các nước phát triển, với công nghệ cao hiện đại cho phép chúng ta thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Chính vì thế việc nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước là rất cần thiết và cần được quan tâm hỗ trợ hơn nữa của các cấp các nghành có liên quan nhằm góp phần thoã mãn ngaỳ càng tốt nhu cầu tiêu dùng nội địa cả về số lượng và chất lượng. * Môi trường văn hoá. Môi trường văn hoá có ảnh hưởng đặc biệt đến hoạt động marketing trên thị trường trong nước và quốc tế.Nó được xem như rào cản vô hình đối với hoạt động kinh doanh quốc tế do mỗi quốc gia, khu vực có một nền văn hoá riêng quyết định mạnh mẽ đến hành vi, thái độ, tâm lí, sở thích..của người tiêu dùng nước đó.Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đòi hỏi các nhà quản lí, các nhà kinh doanh cần am hiểu về nền văn hoá của phía đối tác trong quan hệ giao dịch buôn bán. 4.2. Môi trường vi mô. Để hoạt động marketing thành công, bộ phận marketing của công ty phải phối hợp hoạt động với các bộ phận khác của công ty và cân nhắc sự ảnh hưởng của những người cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các trung gian marketing và khách hàng.Tất cả các lực lượng đó tạo thành môi trường vi mô được mô tả như sau: Biểu các yếu tố và lực lượng của môi trường vi mô Công ty Đối thủ cạnh tranh Trung gian marketing Khách hàng Công chúng trực tiếp nhà cung cấp *Công ty. Một công ty có cơ cấu tổ chức hợp lí, ăn khớp với nhau là tiền đề cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả .Các mục tiêu, chiến lược mà công ty đặt ra phải phù hợp với hoàn cảnh, có tính khả thi cao và phải áp dụng một cách có triệt để.Mọi hoạt động kinh doanh của các phòng ban đều phải báo cáo lên cấp trên, để cấp trên có những biện pháp giải quyết thích hợp. Đối với hàng hoá công nghiệp nhập khẩu đòi hỏi phải có những đội ngũ bán hàng có kinh nghiệm,có kiến thức, hiểu biết về tất cả các thông số kĩ thuật....do đó các nhân viên trong công ty cần phải thường xuyên bổ xung kiến thức kịp thời.Hơn thế nữa uy tín truyền thống của công ty đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động kinh doanh của công ty nhằm duy trì và thu hút khách hàng.Đối với hoạt động công nghiệp này, vì nó có giá trị lớn nên trước khi nhập khẩu công ty cần phải nghiên cứu kĩ xác định rõ nhu cầu của thị trường thì mới cung cấp được loại hàng hoá công nghiệp thoã mãn nhu cầu mong đợi của khách hàng, nó giúp cho việc kinh doanh của công ty đạt được kết quả cao nhất, thu được lợi nhuận cao nhất. * Đối thủ cạnh tranh. Đó là các tổ chức đơn vị khác trong cùng nghành hàng cạnh tranh với công ty về cả nguồn lực và doanh số bán.Để có được những nhận định xác đáng về các đối thủ cạnh tranh, công ty phải nắm bắt được đặc điểm của các đối thủ cạnh tranh về các mặt như: sức mạnh, điểm yếu, mục tiêu, nguồn lực, chiến lược marketing....công ty phải xác định được đối thủ cạnh tranh trực tiếp,đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.Thông thường các đối thủ cạnh tranh có chiến lược tương tự như công tylà các đối thủ trực tiếp và nguy hiểm nhất. Trên cơ sở phân tích các đối thủ cạnh tranh, công ty phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả như vậy công ty mới đạt được những thành công to lớn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, ngược lại sẽ đem lại cho công ty những thất bại thảm hại hoặc có thể dẫn đến sự phá sản trong hoạt động kinh doanh của mình. * Người cung cấp. Việc lựa chọn nhà cung cấp là rất quan trọng vì trên thị trường quốc tế có rất nhiều nhà cung cấp sản phẩm mà ta muốn nhập.Việc lựa chọn cho mình được nhà cung ứng làm sao có thể cung cấp hàng hoá với chất lượng tốt nhất, giá cả hợp lí, có tính cạnh tranh trên thị trường...đòi hỏi các nhà quản trị trong công ty phải nắm bắt tất cả các thông tin về các nhà cung ứng, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá và lựa chọn cho mình những nhà cung ứng tốt nhất, đáp ứng được các yêu cầu đề ra nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Khi nghiên cứu và lựa chọn đối tác để nhập khẩu cần lưu ý một số vấn đề: - Tình hình sản xuất, lĩnh vực kinh doanh, phạm vi hoạt động, chất lượng, giá cả và uy tín của đối tác trên thị trường. - Khả năng về tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật của đối tác. - Xem xét môi trường chính trị, kinh tế,chính sách và tập quán thương mại của nước nhập khẩu, điều kiện về địa lí... Sau khi lựa chọn được nhà cung ứng thích hợp công ty cần phải tạo được uy tín và thiết lập mối quan hệ thân thiết gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa công ty và các nhà cung ứng nước ngoài có như vậy mới tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của công ty có những bước đi vững chắc, đảm bảo nguồn hàng cung cấp đầy đủ khi có nhu cầu. * Khách hàng. Khách hàng là người quyết đinh sự thanh công hay thất bại của công ty kinh doanh trên thương trường.Bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, quy mô khách hàng tạo nên quy mô thị trường.Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu, bản thân nhu cầu lại không giống nhau giữa các nhóm khách hàng và thường xuyên biến đổi.Nhu cầu và sự biến đổi của nhu cầu lại chịu chi phối của nhiều yếu tố, đến lượt mình nhu cầu và sự biến đổi của nhu cầu lại ảnh hưởng đến toàn bộ các quyết định marketing của công ty.Vì vậy, công ty phải thường xuyên theo dõi khách hàng và tiên liệu những biến đổi về nhu cầu của họ.Để nắm bắt và theo dõi về thông tin khách hàng, công ty thường tập trung vào năm loại thị trường khách hàng như sau: người tiêu thụ, nhà sản xuất, cơ sở mua đi bán lại,chính quyền và thị trường quốc tế. * Trung gian marketing. Các trung gian marketing là các nhà bán buôn, bán lẻ, các tổ chức dịch vụ như tư vấn, nghiên cứu marketing, ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm...tham gia vào quá trình marketing của công ty giúp công ty tìm kiếm khách hàng và tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình tới người mua cuối cùng.Các trung gian là các nhà kinh doanh độc lập, họ có mục tiêu riêng, sức mạnh riêng và có chiến lược riêng trên thị trường.Công ty cần phải nghiên cứu kĩ về các trung gian để có thể lựa chọn và sử dụng tốt nhất trong quá trình làm marketing của mình.Công ty phải phát triển các tiêu chuẩn lựa chọn các trung gian cho phù hợp. * Quan hệ công chúng. Bất kì công ty nào cũng hoạt động trong môi trường bao gồm bảy loại công chúng trực tiếp sau: giới tài chính, các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan nhà nước, các tổ chức quần chúng trực tiếp, quần chúng đông đảo và công chúng nội bộ(cán bộ công nhân viên trong nội bộ của công ty). II. nội dung cơ bản của hoạt động công nghệ marketing nhập khẩu ở công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu và lựa chọn cặp sản phẩm thị trường của công ty xuất nhập khẩu. 1.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. 1.1.1. Nghiên cứu khái quát thị trường. Nội dung nghiên cứu này còn gọi là nghiên cứu thăm dò và xâm nhập thị trường của công ty nhằm mục tiêu nhận định và đánh giá khái quát xâm nhập và tiềm năng của thị trường để đánh giá định hướng quyết định lựa chọn thị trừơng tiềm năng và chiến lược kinh doanh của công ty.Nội dung nghiên cứu bao gồm: - Nghiên cứu các nhân tố môi trường để phân tích được những rằng buộc ngoài tầm kiểm soát của công ty, cũng như những thời cơ có thể phát sinh có thể nắm bắt và xúc tiến chúng. - Thu thập thông tin khái quát về quy mô thị trường chủ yếu thông qua các tài liệu thông kê về tiêu thụ và bán hàng giữa các không gian thị trường. - Nghiên cứu tổng quan kết cấu địa lí, mặt hàng...của thị trường tổng thể. - Nghiên cứu động thái và xu thế vận động của thị trường nghành, nhóm nghành, lĩnh vực kinh doanh. - Từ những phân tích các nội dung trên, công ty có cái nhìn tổng quan về định hướng chọn cặp sản phẩm thị trường triển vọng nhất, đánh giá tiềm năng thị trường tổng thể, đo lường thị phần khả hữu hiệu và tập khách hàng tiềm năng của công ty. * Lựa chọn thị trường mục tiêu. Do tính chất của hàng hoá là hàng công nghiệp , là loại hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng nên công ty đã chọn cho mình được thị trường mục tiêu hợp lí. Các sản phẩm nhập khẩu của công ty thường được tiêu thụ ở một số thị trường đang có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh....vì ở các khu vực thị trường này quá trình đô thị hoá và phân bổ dân cư đang diễn ra một cách mạnh mẽ, các khu công nghiệp và khu chế xuất đang được các bộ nghành quan tâm đầu tư lớn do đó nhu cầu về máy móc thiết bị, phương tiện vận tải tăng nhanh sẽ mở ra cho công ty nhiều cơ hội kinh doanh trong hiện tại cũng như tương lai. 1.1.2. Nghiên cứu khách hàng và người tiêu thụ. Đây là một nội dung nghiên cứu trọng yếu đối với công ty thương mại trên thị trường vì việc xác định hiểu biết các dạng khách hàng có tập tính tiêu dùng mua hàng hiện thực và tinh thần xác định sẽ tạo lập mối quan hệ thích ứng phù hợp và hữu hiệu với thị trường của mình.Nội dung nghiên cứu bao gồm: * Xác định các thông số và phân loại tập khách hàng tiềm năng theo các chỉ tiêu kinh tế và xã hội học như giới tính, tuổi, nghề nghiệp và tầng lớp xã hội... * Nghiên cứu các tập tính hiện thực của khách hàng nghĩa là nắm bắt được tập tính hoạt động, thói quen của khách hàng trong việc mua hàng và thu thập thông tin về sản phẩm. * Nghiên cứu tập tính tinh thần của khách hàng tiềm năng:đó là những điều mà khách hàng suy nghĩ, cách lựa chọn sản phẩm và quyết định mua hàng, ý kiến và thái độ của khách hàng đối với sản phẩm được thể hiện qua mức độ tự chủ của khách hàng trong các quyết định mua hàng và mức độ ảnh hưởng của gia đình, ý kiến khen chê của khách hàng đối với các yếu tố chất lượng của sản phẩm, giá cả và mức giá được chấp nhận. * Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:dung lượng thị trường của một được hiểu là sức dung nạp sản phẩm tối đa được mua bởi toàn bộ thị trường ở một mức giá xác định trong một thời gian xác định.Điều đó có nghĩa nhu cầu thị trường đạt trạng thái bão hoà. - Các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường được chia thành: + Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến đổi có tính chu kì. + Các nhân tố tác động thường xuyên. + Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường. + Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường. 1.1.3. Nghiên cứu cạnh tranh. Nghiên cứu cạnh tranh là việc tìm hiểu toàn diện mục tiêu chiến lược, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh, để tạo ra một lợi thế cạnh tranh mạnh nhất có thể có được trong những điều kiện cụ thể của nguồn lực công ty có thể phát huy được cũng như trong điều kiện môi trường cạnh tranh luôn luôn biến động đòi hỏi công ty phải thích ứng.Nghiên cứu cạnh tranh giúp công ty xây dựng được kế hoạch phòng thủ chặt chẽ và kế hoạch tấn công có hiệu quả với đối thủ, giành thắng lợi trên thương trường . Nội dung này bao gồm những hoạt động linh hoạt và đa dạng nhất tuỳ thuộc vào các yếu tố đối thủ cạnh tranh từ cạnh tranh sản phẩm, giá, chất lượng, quảng cáo chiêu khách, chào hàng và quan hệ với công chúng, marketing hỗn hợp, dịch vụ sản phẩm, thương mại, lợi thế môi trường.... 1.2. Nghiên cứu nguồn cung ứng nước ngoài. 1.2.1. Nghiên cứu mặt hàng và nguồn cung ứng. * Nghiên cứu và lựa chọn mặt hàng nhập khẩu. Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu, trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về quy cách chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất.Nắm bắt được đầy đủ về giá cả hàng hoá, các mức giá cho từng điều kiện mua bán và phẩm chất hàng hoá,khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động dịch vụ phục vụ cho hàng hóa như bảo hành cung cấp phụ tùng, sửa chữa thiết bị, hướng dẫn sử dụng.... Để lựa chọn mặt hàng nhập khẩu, một nhân tố nữa cần phải được tính toán đến đó là tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng.Trong nhập khẩu tỷ suất ngoại tệ là tổng số tiền bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu.Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó(VND/USD) lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trưòng thì việc chọn mặt hàng nhập khẩu là có hiệu quả. Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không chỉ dựa vào những tính toán ước tính mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán được các xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước, khả năng thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán ưu thế hơn. *Lựa chọn nguồn cung ứng. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hóa cần nghiên cứu tình hình sản xuất, khả năng và chất lượng hàng xuất khẩu, chính sách và tập quán thương mại của nước xuất khẩu.Điều kiện về địa lí cũng là vấn đề được quan tâm khi chọn nước giao dịch.Yếu tố này cho phép ta đánh giá được khả năng sử dụng ưu thế về địa lí khi là người mua để tăng thêm khả năng cạnh tranh, đặc biệt là đối với nhà nhập khẩu để giảm chi phí về vận tải, bảo hiểm..... Việc lựa chọn để giao dịch phải dựa trên cơ sở nghiên cứu: - Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, liên kết kinh doanh và đặt hàng sản xuất. - Tình hình về vốn, cơ sở vật chất kĩ thuật, cho phép ta thấy được những ưu thế trong thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán. - Thái độ và quan điểm kinh doanh là vươn tới chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền về kinh doanh, giá cả, những quan điểm trong mua bán với bạn hàng.Tìm hiểu uy tín và quan hệ của đối tác trong kinh doanh cũng là một điều kiện quan trọng cho phép đi lên những quyết định trong mua bán một cách nhanh chóng có hiệu quả hơn.Lựa chọn đối tác giao dịch tốt nhất nên chọn những người xuất khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian.Song trong một số trường hợp cần phải sử dụng trung gian, hoặc có một số mặt hàng do đặc tính kinh doanh hay truyền thống kinh doanh thì sử dụng không gian có nhiều ưu thế trong việc nắm bắt thông tin về hàng hoá, thị trường. Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán ngoại thương.Tuy nhiên, việc lựa chọn các đối tượng giao dịch cũng tuỳ thuộc một phần vào kinh nghiệm của người nghiên cưú và truyền thống mua bán của mình. 1.2.2. Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu. Giá cả là biểu tượng bằng tiền của giá cả thị trường, nó do quan hệ cung cầu hàng hoá chi phối, do người mua, người bán thoả thuận và quyết định. Trong buôn bán quốc tế giá cả thị trường rất phức tạp do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong một thời gian dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước và chính sách thuế khác nhau. Để đạt được hiệu quả cao hơn trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi công ty phải luôn theo dõi,nghiên cứu sự biến động của giá cả, đồng thời phải có những biện pháp tính toán, xác định giá một cách chính xác, khoa học để thực sự trở thành công cụ trong buôn bán quốc tế. Giá cả thị trường luôn biến động và chịu tác động của nhiều nhân tố như: nhân tố chu kì, cạnh tranh, cung cầu, lạm phát, thời vụ...Ngoài ra giá cả hàng hoá thế giới còn chịu tác động của nhiều nhân tố khác như chính sách của nhà nước tư bản, xung đột xã hội, đình công.... Việc nghiên cứu tính toán, xác định giá cả trong hợp đồng nhập khẩu rất khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải xem xét trên nhiêù khía cạnh song nó là một yếu tố hết sức quan trọng góp phần đảm bảo trong kinh doanh có hiệu quả. 1.3. Xác lập cặp sản phẩm-thị trườn._.g. Thực chất của việc xác lập cặp sản phẩm thị trường là công ty đi lựa chọn thị trường mục tiêu và cung ứng cho đoạn thị trường đó những sản phẩm hàng hoá mà nó đang có nhu cầu cần được thoả mãn. Lý do phải tiến hành lựa chọn thị trường mục tiêu xuất phát từ chân lí rất đơn giản: thị trường tổng thể luôn gồm một số lượng rất lớn khách hàng với những nhu cầu đặc tính mua và khả năng tài chính rất khác nhau.Sẽ không có một công ty có thể thoả mãn được tất cả khách hàng tiềm năng.Mặt khác,công ty không chỉ có một mình trên thị trường, họ phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh cùng những cách thức lôi kéo khách hàng khác nhau.Mỗi một công ty thường chỉ có một thế mạnh xét trên một phương diện nào đó trong việc thoả mãn nhu cầu thị trường.Lựa chọn thị trường mục tiêu, thực chất là vấn đề biết tập trung nỗ lực của công ty đúng thị trường, xây dựng cho mình một tư cách riêng, một hình ảnh riêng, mạnh mẽ, rõ nét và nhất quán để khả năng vốn có của công ty được khai thác có hiệu quả nhất . Sau khi đã lựa chọn được thị trường mục tiêu, công việc tiếp theo mà các nhà quản trị marketing phải làm là tổ chức cung ứng các sản phẩm cho thị trường đó hay nói cách khác là họ phải định vị sản phẩm trong tâm trí của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường.Đó thực chất là sự nỗ lực của công ty nhằm xác định vị trí thích hợp cho sản phẩm của công ty hoặc của chính công ty trong nhận thức của người tiêu dùng so với những sản phẩm cạnh tranh khác trên thị trường.Để định vị được sản phẩm rõ ràng công ty phải phân tích đựơc khung cảnh thị trường, vị trí của các sản phẩm cạnh tranh và khả năng của công ty.... 2. Các quyết định marketing-mix trong nhập khẩu 2.1. Quyết định sản phẩm nhập khẩu. Sản phẩm theo quan điểm của marketing là một tập các yếu tố và thuộc tính gắn liền với mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, mang lại những lợi ích cho họ mà vì những yếu tố này mà người tiêu dùng đã chọn mua sản phẩm này hay sản phẩn khác. Sản phẩm ở đây được hiểu gồm cả hàng hoá hữu hình và dịch vụ, tập hợp các yếu tố cấu thành sản phẩm gồm cả các yếu tố vật chất và phi vật chất có thể chia làm ra ba mức độ. - Sản phẩm cốt lõi. - Sản phẩm hiện hữu. - Sản phẩm gia tăng. Như vậy sản phẩm có nhiều thuộc tính khác nhau, khi mua hàng hoá khách hàng thường quan tâm đến các thuộc tính của chung nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình.Vì vậy, khi công ty nhập khẩu một sản phẩm nào đó cần phải quan tâm đến những vấn đề cơ bản sau: - Mặt hàng nhập khẩu:khi quyết định nhập khẩu một mặt hàng nào đó dù tốt đến mấy nhưng điều kiện tiên quyết là nó phải phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng nội địa. - Quyết định nhập khẩu:thông qua kết quả nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu thị trường nội địa công ty đi đến quyết định; + Nhập hàng gì, chất lượng như thế nào, đặc tính kĩ thuật ra sao? + Nhập khẩu theo chủng loại nào? + Loại bỏ hoặc không nhập mặt hàng gì? 2.2. Quyết định giá nhập khẩu Định giá nhập khẩu là việc xác định mức giá hoặc khung giá cho một loại sản phẩm nhập khẩu cụ thể trong những điều kiện thương mại nhất định đảm bảo cho công ty kinh doanh đạt được những mục tiêu chiến lược marketing nhập khẩu. Khi tiến hành định giá cho các sản phẩm nhập khẩu các công ty kinh doanh cần phải quan tâm đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá bao gồm: - Các nhân tố của thị trường tác động tới định giá. + Sự nhạy cảm của khách hàng đối với các mức giá khác nhau và sự thay đổi của giá. + Mức thu nhập, mức cạnh tranh trên thị trường. - Các nhân tố nội tại của công ty. + Chi phí: đối với các sản phẩm nhâp khẩu ngoài các chi phí thông thường thì thường phát sinh thêm những chi phí khác như chi phí về vận chuyển, thuế nhập khẩu...các chi phí này được cộng vào giá bán ở thị trường trong nước đó sẽ ảnh hưởng đến mức giá thấp nhất của sản phẩm. + Mục tiêu và chiến lược của công ty trên thị trường. - Các nhân tố môi trường ảnh hưởng tới định giá. + Tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát, sự kiểm soát của chính phủ... Sau khi cân nhắc kĩ lưỡng các yếu tố nói trên thì công ty đưa ra cho mình một mức giá bán phù hợp cho các sản phẩm nhập khẩu.Bên cạnh đó tuỳ theo sản phẩm đang ở thời kì nào của chu kì sống và vị trí của mình trên thương trường, công ty hay hãng kinh doanh có quyền định giá cao hay thấp so với giá thị trường thế giới để bắt người mua phải tuân theo. 2.3. Quyết định phân phối Một bộ phận quan trọng của chiến lược marketing-mix là phân phối.Hoạt động phân phối giải quyết vấn đề hàng hoá dịch vụ được đưa như thế nào đến người tiêu dùng.Các quyết định về phân phối thường phức tạp và có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực khác trong marketing.Hiện nay càng có nhiều công ty quan tâm đến phân phối như là biến số marketing tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn cho công ty trên thị trường.Các công ty tổ chức và quản lí hoạt động phân phối thông qua các hệ thông kênh phân phối.Như vậy nội dung của chiến lược này là hàng hoá từ sản phẩm đến tiêu dùng được vận động qua nhiều kênh, luồng khác nhau.Hàng hoá có thể bán trực tiếp cho người tiêu dùng hay thông qua trung gian vì họ hiểu rõ tập tục tiêu dùng của người tiêu dùng trên thị trường tiêu thụ. Xu hướng chung là: sản xuất gắn liền với tiêu dùng,nhưng không phải lúc nào việc làm này cũng đem lại hiệu quả.Trong marketing, người ta không coi thường trung gian vì qua đó giúp cho việc cung cấp và xử lí thông tin một cách tốt hơn.Trong kinh doanh, trung gian có chức năng vận chuyển, lưu kho, cấp vốn,nâng cấp chất lượng sản phẩm. 2.4. Quyết định về giao tiếp khuyếch trương Giao tiếp khuyếch trương là một trong các công cụ chủ yếu của marketing-mix mà công ty có thể sử dụng để thao tác vào thị trường mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của công ty.Thực chất hoạt động giao tiếp khuyếch trương chính là truyền tin về sản phẩm tới khách hàng để thuyết phục họ mua. Vì vậy có thể gọi đây là các hoạt động truyền thông marketing. Những công ty kinh doanh hiện tại thường tổ chức điều hành một hệ thống giao tiếp khuyếch trương phức tạp.Một số dạng chủ yếu thường được các công ty sử dụng trong các quyết định giao tiếp khuyếch trương là: - Quảng cáo:bao gồm mọi hình thức giới thiệu một cách gián tiếp và đề cao những ý tưởng,hàng hoá hoặc dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của chủ thể quảng cáo và chủ thể phải trả các chi phí. - Xúc tiến bán:là những biện pháp tác động tức thời ngắn hạn để khuyến khích người mua sản phẩm hay dịch vụ. - Tuyên truyền:là việc kích thích một cách gián tiếp nhằm tăng nhu cầu về hàng hoá dịch vụ hay tăng uy tín của một đơn vị kinh doanh bằng cách đưa ra những tin tức có ý nghĩa thương mại về chúng trên các ấn phẩm, các phương tiện thông tin đại chúng một cách thuận lợi và miễn phí. - Bán hàng cá nhân:là sự giới thiệu bằng miệng về hàng hoá và dịch vụ của người bán hàng qua cuộc đối thoại với một hay nhiều khách hàng tiềm năng nhằm mục đích bán hàng. Trong mỗi loại trên lại bao gồm một tập hợp các công cụ chuyên biệt để thực hiện truyền thông thích hợp trong những thị trường cụ thể đối với những hàng hoá cụ thể, ví dụ như quảng cáo đặc biệt, chiến dịch quảng cáo, triển lãm, hội chợ, catalog,pano,áp phích, quà tặng, phiếu dự sổ số…. Để thực hiện được chiến lược giao tiếp khuyếch trương một cách hiệu quả cần nghiên cứu kĩ bản chất của truyền thông và những phương thức hoạt động của truyền thông như thế nào. 3. Lựa chọn hình thức và triển khai quá trình nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá. 3.1. Lựa chọn hình thức nhập khẩu. Khi tiến hành nhập khẩu hàng hoá, công ty phải lựa chọn các hình thức nhập khẩu phù hợp với môi trường và khả năng của mình, công ty phải xem xét, cân nhắc tính đến các mục đích kinh doanh, các nguồn và khả năng của mình.Đồng thời công ty phải nghiên cứu và đánh giá các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh(môi trừơng trong nước và môi trường ngoài nước, môi trường bên trong và môi trường bên ngoài công ty).Công ty có thể lựa chọn một trong các hình thức nhập khẩu sau: - Nhập khẩu trực tiếp. - Nhập khẩu uỷ thác. - Nhập khẩu tái xuất. - Nhập khẩu hàng đổi hàng. 3.2. Triển khai quá trình nghiệp vụ nhập khẩu. 3.2.1. Đàm phán. Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau với các điều kiện mua bán giữa các công ty xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất kí hợp đồng. Đàm phán bao gồm các hình thức sau đây: - Đàm phán qua thư tín. - Đàm phán qua điện thoại. - Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Biểu số : các bước giao dịch đàm phán hỏigiá (inquiry) chàohàng (offer) đặt hàng (order) xácnhận (confirmation) chấpnhận (acceplance) hoàngiá (counter-offer) 3.2.2. Hợp đồng và phương thức kí kết hợp đồng. * Đặc điểm và nội dung của hợp đồng. Hợp đồng nhập khẩu là loại hợp đồng mua bán đặc biệt, trong đó người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua vượt qua biên giới quốc gia, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị hàng hoá bằng các phương thức thanh toán quốc tế. - Một hợp đồng nhập khẩu bao gồm các đặc điểm sau đây. + Các bên kí kết hợp đồng phải có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. + Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ với một hoặc cả hai bên. + Hàng hoá được di chuyển qua biên giới cua một nước. - Một hợp đồng nhập khẩu bao gồm ít nhất sáu điều khoản chủ yếu sau: tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao hàng. Ngoài ra, các bên có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản khác cho hợp đồng như bảo hiểm, trọng tài, vận tải…. Việc kí kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng một số cách sau đây: - Hai bên kí kết vào một hợp đồng mua bán. - Người mua xác nhận đơn chào hàng cố định của người bán. - Người bán xác nhận bằng văn bản là người mua đã đồng ý với các điều kiện của thư chào hàng tự do, nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi trong thời hạn quy định cho người bán. - Ngưòi bán xác định bằng văn bản đơn đặt hàng của người mua. Trong trường hợp này, hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản là đơn đặt hàng của người mua và văn bản xác nhận của người bán. - Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thoả thuận trước đây giữa các bên. Hợp đồng có thể coi như đã kí kết chỉ trong trường hợp các bên kí vào hợp đồng.Các bên phải có năng lực hành vi, năng lực pháp luật và phải có địa chỉ pháp lí ghi rõ trong hợp đồng. 3.2.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Sau khi kí kết hợp đồng các bên tổ chức thực hiện hợp đồng bao gồm các công việc sau: * Xin giấy phép nhập khẩu hàng hoá. Giấy phép là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lí về hoạt động xuất nhập khẩu.Vì thế, sau khi kí hợp đồng nhập khẩu công ty phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến để thực hiện hợp đồng đó.Nghị định số 57/1998/nđ-CP ngày 31/07/1998 quy định chi tiết thi hành Điều luật thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu. * Mở thư tín dụng(L\C) và đon đốc người bán giao hàng. Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ thì nhà nhập khẩu phải có trách nhiệm mở thư tín dụng.Sau khi nhận được đơn xin mở thư tín dụng ngân hàng căn cứ vào yêu cầu của nhà nhập khẩu để mở một tín dụng thư cho người xuất khẩu hưởng và thông báo cho nhà xuất khẩu biết. Sau đây là một số loại thư tín dụng thường sử dụng trong buôn bán quốc tế : - Thư tín dụng có thể huỷ ngang. - Thư tín dụng không huỷ ngang. - Thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận. - Thư tín dụng không huỷ ngang miễn truy đòi. Sau khi mở L\C nhà nhập khẩu phải đôn đốc nhà xuất khẩu giao hàng. * Thuê tàu lưu cước. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc ai thuê tàu, thuê tàu theo hình thức nào được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau : những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải.Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì bên nhập khẩu phải thuê tàu chở hàng, nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên xuất khẩu có nghĩa vụ thuê tàu. Tuỳ vào đặc điểm hàng hoá kinh doanh, công ty lựa chọn phương thức thuê tàu cho phù hợp : thuê tầu chợ, tầu chuyến… * Mua bảo hiểm hàng hoá. Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất.Vì thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương.Khi cần mua bảo hiểm các công ty nên mua bảo hiểm ở Việt Nam. Công ty có thể lựa chọn mua bảo hiểm là điều kiện A (bảo hiểm mọi rủi ro), loại B (bảo hiểm có tổn thất riêng),loại C (bảo hiểm miễn tổn thất riêng).Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm cần phải căn cứ vào : điều khoản của hợp đồng, tính chất của hàng hoá, tính chất bao bì và phương thức xếp hàng, loại tầu chuyên chở. * Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải là thủ tục hải quan.Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau : - Khai báo hải quan. - Xuất trình hàng hoá. - Thực hiện các quyết địng của hải quan. * Nhận hàng và kiểm tra hàng hoá. Để nhận hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về, đơn vị nhập khẩu phải làm các công việc sau : - Kí hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc nhận hàng. - Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu từng năm, từng quý, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kĩ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận. - Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng (vận đơn,lệnh giao hàng…)nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải. - Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá. - Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu. - Theo dõi vệc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản(nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi mình những vấn đề xảy ra trong giao nhận. - Kiểm tra hàng hoá : hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải được kiểm tra bởi cơ quan Nhà nước có chức năng. Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn cũng phải kiểm tra hàng hoá và lập dự thư, dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thật sự có tổn thất, thiếu hụt hoặc không đúng theo hợp đồng. * Làm thủ tục thanh toán. Thanh toán là khâu quan trọng trong thanh toán quốc tế.Do đặc điểm buôn bán nước ngoài là rất phức tạp nên thanh toán trong thương mại quốc tế phải thận trọng, tránh tổn thất.Có rất nhiều phương thức thanh toán như : tín dụng thư(L|C), phương thức nhờ thu, điện chuyển tiền…Việc thực hiện phương thức thanh toán nào phải được quy định cụ thể trong hợp đồng.Công ty phải tiến hành thanh toán theo đúng quy định trong hợp đồng. * Khiếu nại và xử lí khiếu nại. Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng bị tổn thất, đỗ vỡ, thiếu hụt hay mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngayđể khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại.Đối tượng khiếu nại có thể là bên bán, người vận tải, công ty bảo hiểm…tuỳ theo tính chất của tổn thất.Bên nhập khẩu phải viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại trong thời hạn quy định.Đơn khiếu nại phải kèm theo bằng chứng chứng minh về sự tổn thất như : biên bản giám định, hoá đơn, vận đơn đường biển… 3.3. tổ chức tiêu thụ hàng nhập. Sau khi nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài về, công ty giao hàng cho đơn vị đặt hàng hoặc tổ chức tiêu thụ trong thị trường nội địa.Công ty nhập khẩu phải tiến hành tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả đem lại lợi nhuận cao nhất cho công ty , tạo điều kiện tái đầu tư vào quá trình nhập khẩu tiếp theo.Để tiêu thụ hàng hoá đạt kết quả cao, công ty cần phải : - Nghiên cứu thị trường trong nước và tâm lí khách hàng trong việc mua hàng, nhất là đối với hàng hoá công ty cần kinh doanh. - Xác định các kênh phân phối hàng hoá và các hình thức bán hàng. - Xác định mức giá cụ thể trên cơ sở cung cầu thị trường, giá của đối thủ cạnh tranh, quy định của nhà nước và chi phí bỏ ra của công ty. - Tổ chức nghiệp vụ bán hàng cụ thể. 4. Kiểm soát marketing nhập khẩu. 4.1. Kiểm tra năm. Nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện kế hoạch năm là để khẳng định được công ty đang triển khai tất cả các chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch năm và đánh giá kết quả đã đạt được.Quá trình kiểm tra bao gồm bốn bước : xác định các chỉ tiêu hàng tháng hay hàng quý; đánh giá các kết quả thực hiện các chỉ tiêu đó; xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả thực hiện; đề xuất các biện pháp cải tiến hoạt động. Để kiểm tra kết quả thực hiện kế hoạch có thể dùng năm công cụ sau đây: phân tích mức tiêu thụ; phân tích thị phần; phân tích chi phí marketing trên doanh số bán; phân tích tài chính; theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng. 4.2. Kiểm tra khả năng sinh lời. Kiểm tra khả năng sinh lời là nhiệm vụ đo lường khả năng sinh lời thực tế của các sản phẩm, các nhóm khách hàng, các kênh thương mại và quy mô đơn hàng. Ngoài ra công ty có thể nghiên cứu hiệu quả của marketing để tìm hiểu xem có thể nâng cao hiệu qủa của các biện pháp bằng cách như thế nào.Quá trình phân tích khả năng sinh lời của marketing bao gồm : xác định các chi phí của các chức năng marketing (bao gồm các chi phí trực tiếp và gián tiếp); phân bổ các chi phí chức năng cho các thực thể marketing; xác định lỗ lãi của từng thực thể marketing; xác định các biện pháp nâng cao khả năng sinh lời. 4.3. Kiểm tra hiệu suất marketing. Kiểm tra hiệu suất marketing là để đánh giá hiệu suất hoạt động của lực lượng bán hàng, hiệu suất của quảng cáo, hiệu suất kích thích tiêu thụ và hiệu suất hoạt động của hệ thống kênh phân phối. 4.4. Kiểm tra chiến lược marketing. Kiểm tra việc thực hiện chiến lược là việc nhà quản trị xem xét một cách kĩ lưỡng những chỉ tiêu chung và hiệu quả của toàn bộ chiến lựơc marketing.Hiệu quả của chiến lược marketing không chỉ thể hiện ở doanh số tiêu thụ và mức lợi nhuận hiện .Hiệu quả chiến lược marketing còn đựoc phản ánh qua mức độ nó thể hiện năm tư tưởng cơ bản của quan điểm marketing : triết lí về khách hàng, tổ chức marketing tổng hợp, thông tin marketing chính xác, định hướng chiến lược và hiệu suất của từng bộ phận chức năng. 5. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá. Dưới đây là một số chỉ tiêu thường dùng để đánh giá hoạt động nhập khẩu. * Chỉ tiêu lợi nhuận nhập khẩu. Lợi nhuận nhập khẩu = Doanh thu nhập khẩu - Chi phí cho các hoạt động NK * Chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu. Hiệu quả nhập khẩu = Doanh thu nhập khẩu Chi phí cho các hoạt động NK * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận nhập khẩu x100% Doanh thu nhập khẩu * Chỉ tiêu tỷ suất chi phí nhập khẩu Chỉ tiêu này cho biết để thu được 100 đ doanh thu ta phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Tỷ suất chi phí = Chi phí nhập khẩu x100% Doanh thu nhập khẩu III. ảnh hưởng của môi trường đến kinh doanh xuất nhập khẩu đến công ty centrimex.. 1. Môi trường vĩ mô. * Môi trường kinh tế. Sau một thời gian bị chững lại do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực thì nền kinh tế nước ta đã phục hồi và lấy lại được đà tăng trưởng cao.Nhu cầu sử dụng các mặt hàng ô tô, máy xây dựng đã qua sử dụng ngày càng tăng.Theo thống kê năm 2000, cả nước nhập khẩu 26.000 ô tô các loại và tốc độ tiêu thụ mặt hàng này trung bình trong giai đoạn 2001-2005 theo dự đoán sẽ ở mức rất cao là 60%/năm.Cùng với tốc độ tăng nhanh của nền kinh tế, sự thông thoáng trong luật công ty mới đã mở cửa cho thị trường ô tô Việt Nam sẽ là một trong những điều kiện thuận lợi để công ty xuất nhập khẩu tổng hợp III tiếp tục mở rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh nhập khẩu các mặt hàng mà mình kinh doanh trong thời gian tới. * Môi trường khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ rất cần thiết cho sự phát triển của đất nước.Nước ta là một nước đang phát triển, công nghệ vẫn còn thô sơ lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Chính vì vậy, nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích , nghiên cứu chuyển giao và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại một cách có chọn lọc nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.Điều đó đã tạo cho công ty xuất nhập khẩu tổng hợp III những cơ hội mới trong kinh doanh nhập khẩu. * Môi trường chính trị-pháp luật. Trong những năm gần đây, trước những diễn biến của cơ chế thị trường trong nền kinh tế đổi mới, chính sách điều hành xuất nhập khẩu của Nhà nước có nhiều thay đổi, việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA)tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở công ty.Những quy định nhập khẩu của nhà nước được công ty chấp hành nghiêm túc, đặc biệt với những lô hàng có thuế xuất cao do Nhà nước quản lí chặt chẽ.Sự ổn định của nền chính trị XHCN và ngày càng thông thoáng trong các chính sách điều hành về kinh tế ở Việt Nam là môi trường kinh doanh thuận lợi đã tạo cho công ty xuất nhập khẩu tổng hợp III đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh nhập khẩu. Nó giúp cho công ty có thể cạnh tranh bình đẳng và có hiệu quả với các công ty khác kinh doanh trên thị trường trong nước, tạo ra tiếng tăm cho công ty trên thị trường kinh doanh nhập khẩu. Bên cạnh đó việc ra nhập AFTA sẽ làm giảm mức thuế nhập khẩu và loại bỏ những hạn chế về số lượng nhập khẩu.Do đó những mặt hàng nhập khẩu từ các nước trong khối sẽ có tính cạnh tranh hơn về giá cả so với mặt hàng cùng loại được nhập từ các nước ngoài khối.Trước tình hình như vậy công ty xuất nhập khẩu tổng hợp III cần nghiên cứu kĩ lưỡng các nhà cung ứng từ các nước trong khối, so sánh các mặt hàng cùng loại được sản xuất ở các nước này với các nước ngoài khối để từ đó có chiến lược kinh doanh trong thời gian tới.Công ty cần nghiên cứu xem thị trường hiện tại và tương lai của khách hàng trong nước về mặt hàng nhập khẩu ở các nước ASEAN có gì biến động khi mức thuế xuất thay đổi để có kế hoạch nhập khẩu về số lượng, chủng loại mặt hàng và thị trường nhập khẩu. 2. Môi trường vi mô * Công ty. Công ty xuất nhập khẩu là một trong những công ty có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước.Bộ máy cơ cấu tổ chức của công ty được tổ chức khoa học, gọn nhẹ bao gồm:Giám đốc, phó giám đốc và bộ máy giúp việc, các đơn vị thành viên.Trong kinh doanh công ty luôn coi trọng chất lượng là hàng đầu đối với các khách hàng của công ty, chính vì vậy đã tạo được uy tín lớn về công ty và phạm vi hoạt động của công ty không ngừng được mở rộng.Hơn nữa, công ty cũng được sự quan tâm ủng hộ của nhà nước cũng như của bộ thương mại đã giúp cho công ty có những thành công đáng kể trong hoạt động kinh doanh của mình.Là một công ty Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu tổng hợp trong đó có mặt hàng xe máy do vậy đã tạo được lợi thế hơn hẳn so với các công ty khác trong lĩnh vực kinh doanh, vì ở đây các cán bộ của công ty có trình độ và chuyên môn cao, có thể nắm vững được các đặc tính kĩ thuật, chủng loại cũng như giá cả của từng loại mặt hàng. Với việc lựa chọn mô hình tổ chức hợp lí, phương thức hoạt động đúng đắn, nắm bắt được và tận dụng thời cơ, điều kiện khách quan,phát huy được các tiềm lực sẵn có, công ty xuất nhập khẩu đã đạt được những thành công đáng kể trong kinh doanh của mình. * Cạnh tranh. Là một công ty nhà nước trực thuộc Bộ thương mại nên công ty đã biết tận dụng những ưu thế của mình, xác định đúng lĩnh vực kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu nên đã đạt được những thành công to lớn trên thương trường và có phần vượt trội so vơí các công ty khác.Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường vẫn chưa đạt được mức độ cao do hoạt động của công ty hiện nay chủ yếu vẫn theo hình thức nhập khẩu uỷ thác, còn nhập khẩu tự doanh vẫn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn.Do công ty centrimex có uy tín lớn trên thị trường nên thường được chọn làm đối tượng để các nhu cầu của các công ty khác đầu tư uỷ thác.Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh này thấp hơn so với hình thức kinh doanh nhập khẩu tự doanh.Mặt khác công ty xuất nhập khẩu tổng hợp III sử dụng tốt các mối quan hệ với các công ty tư vấn, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong tổng công ty, từng bước đẩy mạnh hoạt động kinh doanh theo hình thức tự doanh, tạo ra khả năng trên thị trường. * Người cung ứng. Công ty hoạt động trong phạm vi lớn các mặt hàng, vì thế công ty phải quan tâm tới người cung ứng, xem họ là một phần không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của mình.Những người cung ứng này là các công ty nước ngoài, nên cũng gây cho công ty không ít khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin và lựa chọn họ.Trong những năm qua thì các nhà cung ứng hàng hoá được công ty lựa chọn phần lớn thuộc các quốc gia châu á như : Hàn Quốc, Lào, Trung Quốc... Các nhà cung ứng nước ngoài họ có những đặc tính sau : + Có kinh nghiệm trong giao dịch thương mại quốc tế. + Hoạt động Marketing khá tốt. + Thường có mạng lưới phân phối rộng rãi. + Có kĩ thuật công nghệ hiện đại. Trên cơ sở nghiên cứu một cách chi tiết về các tiêu chuẩn mà công ty đề ra như chất lượng, giá cả và các dịch vụ kèm theo...CENTRIMEX sẽ tiến hành kí kết hợp đồng nhập khẩu đồng thời cũng cố gắng thiết lập duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ điều này đã cho phép công ty tạo ra được nhiều thuận lợi trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình. * Khách hàng. Sau ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nền kinh tế nước ta bắt đầu hồi phục và lấy được đà tăng trưởng cao của những năm trước, nhu cầu trang bị và trang bị lại cơ sở vật chất của các tổ chức kinh tế trong nước tăng mạnh điều này đã mở ra những cơ hội mới cho hoạt động kinh doanh của công ty.Để đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng nội địa về các mặt hàng xe gắn máy đã chuyển hướng kinh doanh trên cơ sở giảm tỷ trọng nhập khẩu các mặt hàng truyền thống như sắt thép, thiết bị phụ tùng, thiết bị văn phòng...Nhờ có sự thay đổi chính sách nhập khẩu của mình đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty đạt kết quả tốt. Hiện nay khách hàng chính của công ty là những tổ chức đơn vị cá nhân trên phạm vi toàn quốc do công ty có mạng lưới phân phối tiêu thụ rộng rãi trên nhiều khu vực tỉnh thành khác nhau trên cả nước như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh... Trong những năm tới nếu tốc độ tăng trưởng của kinh tế đất nước vẫn duy trì ở mức độ cao thì chắc chắn nhu cầu tiêu dùng đối với các mặt hàng xe gắn máy sẽ không ngừng gia tăng đây chính là điều kiện để CENTRIMEX mở rộng hoạt động kinh doanh của mình và hứa hẹn nhiều tiềm năng. chươngII : phân tích thực trạng công nghệ marketing nhập khẩu xe máy tại chi nhánh xuất nhập khẩu tổng hợp III. I. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh. 1. Lịch sử hình thành : Chi nhánh Hà nội – Công ty XNK tổng hợp 3 (tên giao dịch đối ngoại The National General EX-IMPORT CORP – Hà nội BRANCH) là một tổ chức kinh doanh tổng hợp trực thuộc công ty XNK tổng hợp 3, có tiền thân là văn phòng đại diện công ty XNK tổng hợp 3 tại Hà nội được thành lập theo quyết định 635/TH-TCCB ngày 28/5/93 của bộ thương mại về thành lập doanh nghiệp nhà nước. Công ty XNK tổng hợp 3 năm sau chuyển thành chi nhánh Hà nội – Công ty XNK tổng hợp 3 theo quyết định 125/TM-TCCB ngày 28/4/94 của bộ thương mại và quyết định số 17/12/1994 của UBND thành phố Hà nội. Địa chỉ điện tín: CENTIMEX Hà nội. Trụ sở chính : 247 phố Giảng Võ – Hà nội. Điện thoại : 8512986 Fax : 8512974 Chi nhánh có tư cách pháp nhân, có tài khoản tiền Việt nam và ngoại tệ tại ngân hàng và có con dấu riêng để giao dịch. Trong hoạt động kinh doanh chi nhánh chịu trách nhiệm vật chất, về những cam kết theo chức năng nhiệm vụ của mình. Chi nhánh phải tuân thủ theo chính sách, luật pháp của nhà nước, pháp luật quốc tế và các qui định của điều lệ tổ chức và hoạt động. Kể từ khi bắt đầu khởi sự cho đến nay chi nhánh Hà nội - Công ty XNK tổng hợp 3 đã được tròn 8 năm tuổi. Trong suốt thời gian này, chi nhánh đã không ngừng nỗ lực và vượt qua mọi khó khăn để từng bước vươn lên ổn định và phát triển như ngày hôm nay.Có thể kể đến một số thành tựu mà chi nhánh đã đạt được thời gian qua : - Doanh số, lợi nhuận cùng với các chỉ tiêu pháp lệnh khác của chi nhánh luôn được hoàn thành và ngày càng tăng cao. - Đời sống của cán bộ công nhân viên của chi nhánh ổn định, thu nhập bình quân tăng, các điều kiện làm việc cũng được cải thiện đáng kể. - Bên cạnh đó, chi nhánh Hà nội- Công ty XNK tổng hợp 3 còn góp phần đáng kể trong việc thực hiện các mục tiêu của Bộ thương mại và chính phủ đề ra, cụ thể là góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước, bình ổn giá cả nội địa và các mục tiêu chính trị khác. Có thể nói, chi nhánh Hà nội – Công ty XNK tổng hợp 3 là một đơn vị làm ăn hiệu quả, có vị trí quan trọng đối với công ty, với nền kinh tế nước nhà, góp phần vào công cuộc đổi mới, phát triển đi lên của đất nước. 2. Chức năng và nhiệm vụ của chi nhánh. 2.1 Chức năng: Chi nhánh có chức năng trực tiếp hoặc uỷ thác cho XNK các loại hàng hoá nông, lâm, hải sản, thực phẩm, công nghệ phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, khoáng sản, hàng gia công, tư liệu sản xuất… theo kế hoạch, theo uỷ quyền của công ty. Tổ chức sản xuất, gia công chế biến, cung ứng vật tư, hàng XNK, dịch vụ, mở cửa hàng, đại lý bán hàng trưng bày, giới thiệu hàng hoá XNK, hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh còn thay mặt công ty giải quyết các công việc đối ngoại, đối nội trong phạm vi được uỷ quyền. 2.2. Nhiệm vụ : Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh của chi nhánh và thực hiện có hiệu quả sau khi công ty duyệt, phù hợp với phạm vi hoạt động kinh doanh của công ty và luật pháp hiện hành của nhà nước. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tạo nguồn bổ xung vốn theo phân cấp của công ty, cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu, làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và công ty. Tuân thủ luật pháp, chính sách kinh tế, tài chính XNK, giao dịch, đối ngoại và các qui định hiện hành của nhà nước, của địa phương và của công ty. Thực hiện và chịu trách nhiệm các cam kết trong hợp đồng kinh tế có liên quan đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong và ngoài nước. Nghiên cức thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng, tăng khối lượng, chủng loại hàng hoá xuất khẩu, mở rộng thị trường nội ngoại, marketing thu hút ngoại tệ, phát triển xản xuất, kinh doanh. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí của chi nhánh : Bộ máy quản lí của chi nhánh được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng. Đứng đầu là Giám đốc chi nhánh, do Giám đốc công ty bổ nhiệm. Giám đốc chi nhánh tổ chức và điều hành chi nhánh theo chế độ t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0033.doc
Tài liệu liên quan