Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại chi nhánh Công ty XNK Da giầy Sài Gòn

Lời mở đầu Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kế toán là một công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý nền kinh tế cả về mặt vĩ mô và vi mô. Cơ chế thị trường làm xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp đa dạng, phong phú hơn các loại sản phẩm, hàng hoá. Điều đó buộc doanh nghiệp phải cạnh tranh lẫn nhau để tồn tại và phát triển. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tự bù đắp được chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại chi nhánh Công ty XNK Da giầy Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và đảm bảo có lãi hay không. Vì vậy hạch toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm là việc làm cần thiết và hữu hiệu nhất để doanh nghiệp đạt được mục tiêu tối thiểu hoá chi phí sản xuất. Hơn nữa xét trên góc độ vĩ mô do các yếu tố sản xuất nước ta còn rất hạn chế nên vấn đề tiết kiệm chi phí sản xuất thực sự là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác quản lý kinh tế. Mặt khác nhiệm vụ của kế toán là không những hạch toán đầy đủ chi phí sản xuất mà còn phải làm thế nào để kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất, phục vụ tốt công tác hạ giá thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu của chế độ hạch toán kinh doanh, đồng thời cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chi nhánh công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn là một doanh nghiệp sản xuất mặt hàng truyền thống là giài vải theo các đơn đặt hàng với khối lượng lớn và liên tục đòi hỏi chi nhánh phải luôn chú trọng đến công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Nhìn nhận đúng vai trò hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại chi nhánh, trong thời gian thực tập tìm hiểu thực tế tại chi nhánh em quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại chi nhánh công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn" Nội dung của đề tài bao gồm 3 phần Phần I: Lý do nghiên cứu đề tài tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất. Phần II: Thực trạng tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại chi nhánh công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn. Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại chi nhánh công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn. Mặc dù em đã cố gắng nhưng do thời gian thực tập còn ít và khả năng bản thân còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý tận tình của cô giáo và hướng dẫn của đơn vị thực tập. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn trong khoa kế toán đặc biệt là cô giáo Nguyễn Ngọc Lan và cán bộ trong chi nhánh công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn đã giúp em hoàn thành đề tài này. Phần I: Lý do nghiên cứu đề tài I. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất 1. Khái niệm về chi phí sản xuất kinh doanh. Trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào thì việc sản xuất đều gắn với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất đó. Đó là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là quá trình người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội. Ba yếu tố này được kết hợp và tiêu hao trong quá trình sản xuất. Như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vậy, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra đẻe tiến hành sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. 2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh. Trong thực tế, chi phí bao gồm nhiều loại khác nhau với nội dung kinh tế khác nhau. Vì vậy để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được hiệu quả, tiết kiệm chi phí từng bộ phận sản xuất và toàn xí nghiệp. Cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo yêu cầu của công tác hạch toán và quản lý ta có thể có các cách phân loại chi phí khác nhau, mỗi cách phân loại có tác dụng khác nhau, đáp ứng nhu cầu thông tin cho quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau: a) Phân theo yếu tố phí: (hay chi phí sản xuất kinh doanh được phân theo nội dung kinh tế). Cách phân loại này dựa vào nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của khoản chi đã chi ra, không tính đến công dụng, địa điểm phát sinh của chúng trong quá trình sản xuất. ở nước ta toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm 7 yếu tố sau: + Yếu tố nguyên vật liệu: gồm tất cả giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ… sử dụng vào sản xuất, kinh doanh (trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực). + Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi) + Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương, phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức. + Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức. + Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. + Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền trả cho các loại dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (như điện, nước…) + Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. b) Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm (hay phân theo công dụng kinh tế). Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành công xưởng sản phẩm ở Việt Nam bao gồm 3 khoản mục chi phí sau: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ… - Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh - Chi phí sản xuất chính: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp). Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm các khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng. Cách phân loại này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính giá thành là chủ yếu. c) Phân theo cách thức kết chuyển chi phí. Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. - Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua - Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. d) Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành. Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh lại được phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí được chia thành biến phí và định phí. - Định phí (chi phí cố định): là những chi phí không thay đổi khi khối lượng sản phẩm, chi phí, công việc thay đổi. Như vậy định phí có 2 đặc điểm: + Tổng định phí giữ nguyên khi mức độ hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp và tồn tại cả khi không có sản xuất sản phẩm. + Định phí một đơn vị sản phẩm sẽ thay đổi khi sản lượng thay đổi. - Biến phí: là những chi phí thay đổi khi sản lượng thay đổi như chi phí nguyên vật liệu chính, tiền lương công nhân sản xuất, biến phí có 3 đặc điểm sau: + Biến phí một đơn vị sản phẩm không đổi + Biến phí bằng không khi doanh nghiệp không hoạt động + Tổng biến phí biến đổi khi sản lượng thay đổi Tóm lại, có rất nhiều cách phân loại chi phí sản xuất, mỗi cách đều có ý nghĩa riêng của nó trong việc tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất của các doanh nghiệp. Đồng thời chúng có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau với mục đích chung góp phần giúp các doanh nghiệp quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. II. Giá thành sản phẩm và các loại chỉ tiêu giá thành. 1. Khái niệm giá thành Để đánh giá chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất, đó là kết quả sản xuất thu được. Quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu: "Giá thành sản phẩm" khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thể hiện các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, là thước đo mức tiêu hao để bù đắp trong quá trình sản xuất, là một căn cứ để xây dựng phương án giá cả của sản phẩm hàng hoá. Chỉ tiêu giá thành phải gắn với từng loại sản phẩm hoặc lao vụ cụ thể, chỉ tiêu này tính toán đối với số lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành kết thúc toàn bộ quy trình sản xuất hay một số giai đoạn của quá trình sản xuất (bán thành phẩm) chứ không tính cho các sản phẩm đang trên dây truyền sản xuất. Với công thức : Giá trị = C + V + m C: Hao phí lao động quá khứ (tức là giá trị của tư liệu sản xuất và tiêu hao trong quá trình sản xuất sản phẩm). V: Hao phí lao động sống (chi phí nhân công gồm tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản trích theo lương). m: Giá trị mới do lao động sống sáng tạo ra trong quá trình tạo ra giá trị sản phẩm. Chúng ta thấy giá thành là một bộ phận của giá trị bao gồm V và một phần của C và hoàn toàn không có m. Trên ý nghĩa đó thì giá thành sản phẩm được coi là xuất phát điểm để xây dựng giá cả. Điều đó có nghĩa là các nhà sản xuất luôn luôn mong muốn giá cả của sản phẩm mình bán ra lớn hơn giá thành sản phẩm sản xuất được và sự chênh lệch này luôn có một sự hấp dẫn kỳ diệu thúc đẩy các nhà doanh nghiệp tìm mọi cách tăng cường đến mức có thể, với mục đích tối đa hoá lợi nhuận. 2. Phân loại giá thành sản phẩm: Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả của hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội, giá thành cá biệt còn có các khái niệm giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ… a- Phân theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành. Theo căn cứ này giá thành sản phẩm được chia thành 3 loại: - Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. - Giá thành định mức: giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Nhưng giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù họp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. - Giá thành thực tế: là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt (hụt) định mức chi phí trong kỳ kế hoạch. Từ đó điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức cho phù hợp. b) Phân theo phạm vi phát sinh chi phí Giá thành được chia thành: giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ. - Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. - Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ của sản phẩm = Giá thành sản xuất của sản phẩm + Chi phí quản lý doanh nghiệp + Chi phí bán hàng Vậy cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu. III. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm - Giống nhau: + Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất. + Chi phí là sự biểu hiện về mặt hao phí, giá thành là biểu hiện về mặt kết quả của quá trình vì vậy chúng giống nhau về bản chất và là 2 mặt thống nhất của một quá trình. + Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở, căn cứ để tính giá thành sản phẩm công việc lao vụ hoàn thành, sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí đều ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Quản lý giá thành luôn gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. - Khác nhau: + Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ phát sinh chi phí còn giá thành lại gắn với khối lượng sản phẩm công việc lao vụ hoàn thành. + Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kỳ chưa phân bổ trong kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước nhưng kỳ này mới phát sinh nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này chưa thực tế phát sinh. Còn giá thành sản phẩm thì ngược lại nó chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ. + Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến những sản phẩm hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm hỏng và sản phẩm dở dang. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản phẩm dở dang và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang. Sự khác nhau trên càng thể hiện rõ ở công thức sau: Tổng giá thành sản phẩm = Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ + Chi phí phát sinh trong kỳ + Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Vậy khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau thì tổng giá thành sản phẩm bằng chi phí sản xuất. IV. Nhiệm vụ và nội dung tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp 1. Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. Trong công tác quản lý doanh nghiệp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng luôn được các nhà doanh nghiệp quan tâm vì chúng gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua các số liệu kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cung cấp các nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của từng loại hoạt động, từng loại sản phẩm, lao vụ cũng như toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định mức, dự toán chi phí, tình hình sử dụng lao động vật tư, tiền vốn có hiệu quả, tiết kiệm… hay lãng phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu, kịp thời nhằm hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Việc phân tích, đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần mình, tính chính xác của giá thành sản phẩm lại chịu sự ảnh hưởng của kết quả tập hợp chi phí sản xuất. Do vậy tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm để đảm bảo xác định đúng nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành sản phẩm, lượng giá trị các yếu tố chi phí đã được chuyển dịch vào sản phẩm (công việc, lao vụ) đã hoàn thành có ý nghĩa quan trọng và là yêu cầu cấp bách trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng được những yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm kế toán thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: - Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tính giá thành sản phẩm. - Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã xác định và phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất thích hợp. - Xác định chính xác chi phí về sản phẩm làm dở cuối kỳ. - Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời, chính xác theo đúng đối tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành hợp lý. - Thực hiện phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có những kiến nghị đề xuất cho lãnh đạo doanh nghiệp ra các quyết định thích hợp trước mắt cũng như lâu dài đối với sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Nội dung kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp 2.1. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất a- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất bao gồm nhiều loại với nội dung kinh tế và công dụng khác nhau, nó phát sinh ở địa điểm khác nhau. Mục đích của việc bỏ ra chi phí là tạo ra sản phẩm, lao vụ và việc tạo ra sản phẩm được thực hiện ở các phân xưởng, bộ phận khác nhau theo quy trình công nghệ của doanh nghiệp xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí. Vì vậy đối tượng hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất cần dựa vào những cơ sở sau: + Từng phân xưởng, bộ phận, tổ đội sản xuất hay toàn doanh nghiệp + Từng giai đoạn (bước công nghệ hay toàn bộ qui trình). + Từng đơn đặt hàng, hạng mục công trình + Từng nhóm sản phẩm + Từng bộ phận, chi tiết sản phẩm. Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất trên doanh nghiệp cần phải dựa vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh ; đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất; đặc điểm phát sinh chi phí, mục đích công dụng của chi phí và yêu cầu, trình độ quản lý của doanh nghiệp. b) Trình tự hạch toán chi phí sản xuất. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành, nghề, từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán… mà trình tự hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp khác nhau thì không giống nhau. Tuy nhiên có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau: - Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng. - Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ. - Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan. - Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà nội dung, cách thức hạch toán chi phí sản xuất có những điểm khác nhau. C) Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất C1- Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm,…) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, theo số lượng sản phẩm. Công thức phân bổ như sau: Chi phí NVL phân bổ cho từng đối tượng = Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng x Hệ số phân bổ Tổng chi phí NVL cần phân bổ Hệ số phân bổ = ----------------------------------------- Tổng tiêu thức phân bổ Chi phí NVL trực tiếp được căn cứ vào các chứng từ xuất kho tính ra giá thực tế vật liệu trực tiếp xuất dùng và căn cứ vào các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định để tập hợp. * Tài khoản sử dụng Để theo dõi các khoản chi phí NVL trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 621- "Chi phí NVL trực tiếp". Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm…) Bên Nợ: Giá trị NVL xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Bên Có: - Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp vào TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" - Giá trị thực tế NVL dùng không hết nhập lại kho. TK 621 cuối kỳ không có số dư. TK này có thể mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. * Phương pháp hạch toán - Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX): Sơ đồ 1. TK 151, 152, 331, TK 621 TK 154 111, 112 (2) (1) TK 152 (3) (1) Vật liệu dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm, tiến hành lao vụ, dịch vụ (2): Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (3) Vật liệu dùng không hết nhập lại kho - Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK) Sơ đồ 2: Hạch toán tổng hợp chi phí NVL trực tiếp theo phương pháp KKĐK TK 331, 111, 311 TK 611 TK 621 TK 631 TK 151, 152 Giá trị vật liệu Giá trị NVL xuất Kết chuyển CFVL, nhập trong kỳ dùng cho SXSPDV dụng cụ vào GTSP dịch vụ Giá trị vật liệu tồn kho đi đường cuối kỳ Giá trị vật liệu tồn kho, đi đường đầu kỳ C2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ, và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Ngoài ra chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. Về nguyên tắc cách hạch toán chi phí nhân công trực tiếp cũng tương tự như với chi phí NVL trực tiếp. * Tài khoản sử dụng Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622- "Chi phí nhân công trực tiếp". Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành TK 622 cuối kỳ không có số dư và cũng có thể được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. * Phương pháp hạch toán - Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên Sơ đồ 3: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp (KKTX) TK 334 TK 622 TK 154 Tiền lương và phụ cấp phải trả cho CN trực tiếp sản xuất Kết chuyển vào tài khoản tính giá thành TK 335 Trích trước lương nghỉ phép của CN trực tiếp sản xuất TK 338 Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tiền lương CN sản xuất TK 111, 141 Các khoản chi trực tiếp bằng tiền - Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ Sơ đồ 4: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp (KK ĐK) TK 334 TK 622 TK 631 Tiền lương và phụ cấp phải trả cho CN trực tiếp sản xuất Kết chuyển vào tài khoản tính giá thành TK 335 Trích trước lương nghỉ phép của CN trực tiếp sản xuất TK 338 Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tiền lương CN sản xuất TK 111, 141 Các khoản chi trực tiếp bằng tiền C3. Hạch toán chi phí trả trước * Khái niệm và nội dung Chi phí trả trước (còn gọi là chi phí chờ phân bổ) là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh của kỳ này mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán sau đó. Đây là những khoản chi phí phát sinh một lần quá lớn hoặc do bản thân chi phí phát sinh có tác dụng tới kết quả hoạt động của nhiều kỳ hạch toán. Chi phí trả trước bao gồm các khoản sau: - Giá trị công cụ, dụng cụ nhỏ xuất dùng thuộc loại phân bổ nhiều lần (từ 2 lần trở lên). - Giá trị sửa chữa lớn TSCĐ ngoài kế hoạch. - Giá trị bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thuê - Dịch vụ mua ngoài trả trước (điện, điện thoại, vệ sinh, nước…) - Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp chờ kết chuyển (với doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài). - Chi phí mua bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kinh doanh, lệ phí giao thông, bến bãi - Chi phí nghiên cứu, thí nghiệm, phát minh, sáng chế… (giá trị chưa tính vào TSCĐ vô hình). - Lãi thuê mua TSCĐ (thuê tài chính)… * Tài khoản sử dụng Kế toán sử dụng TK 142- "Chi phí trả trước" Bên Nợ: Các khoản chi phí trả trước đã phân bổ vào chi phí kinh doanh Bên Có: Các khoản chi phí trả trước thực tế đã phân bổ vào chi phí kinh doanh Dư Nợ: Các khoản chi phí trả trước thực tế đã phát sinh nhưng chưa phân bổ vào chi phí kinh doanh TK 142 Chi tiết thành 2 tiểu khoản Tiểu khoản 1421: Chi phí trả trước Tiểu khoản 1422: Chi phí chờ kết chuyển * Phương pháp hạch toán Sơ đồ 5: Sơ đồ hạch toán chi phí trả trước TK 111, 112, 331 TK 142 TK 627, 642, 241 153, 342 Chi phí trả trước Phân bổ dần chi phí thực tế phát sinh trả trước vào các kỳ TK 641, 642 TK 911 Kết chuyển CF bán hàng Kết chuyển CF bán hàng chi phí quản lý vào TK chi phí quản lý kết quả C4: hạch toán chi phí phải trả * Khái niệm và nội dung Chi phí phải trả (còn gọi là chi phí trích trước) là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kỳ hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của đơn vị mà do tính chất hoặc yêu cầu quản lý nên được tính trước vào chi phí kinh doanh cho các đối tượng chịu chi phí nhằm đảm bảo cho giá thành sản phẩm, lao vụ, chi phí bán hàng, chi phí quản lý khỏi đột biến tăng khi những khoản chi phí này phát sinh. Chi phí phải trả trong doanh nghiệp bao gồm: - Tiền lương phép của công nhân sản xuất (với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ) - Chi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch - Thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch - Chi phí bảo hành sản phẩm trong kế hoạch - Lãi tiền vay chưa đến hạn trả - Tiền thuê TSCĐ, mặt bằng kinh doanh, dụng cụ, công cụ… chưa trả - Các dịch vụ mua ngoài sẽ cung cấp * Tài khoản sử dụng: Các khoản chi phí phải trả được theo dõi, phản ánh trên TK 335- "Chi phí phải trả". Bên Nợ: Chi phí phải trả thực tế phát sinh Bên Có: Các khoản chi phí phải trả được ghi nhận (đã trích trước) vào chi phí trong kỳ theo kế hoạch Dư Có: Các khoản chi phí phải trả đã tính vào chi phí kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. * Phương pháp hạch toán Sơ đồ 6: TK 334 TK 335 TK 622 Tiền lương phép, lương ngừng Trích trước lương phép, lương việc thực tế phải trả ngừng việc của CNSX TK 241, 331, 111, 112 TK 627, 641, 642 Các chi phí phải trả khác Tính trước chi phí phải trả thực tế phát sinh khác vào chi phí kinh doanh C5. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất a- Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng * Khái niệm và phân loại Sản phẩm hỏng là sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất về mầu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp. Tuỳ theo mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng được chia làm 2 loại: - Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được: là những sản phẩm hỏng mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế. - Sản phẩm hỏng không sửa chữa được: là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng không có lợi về mặt kinh tế. * Phương pháp hạch toán - Sản phẩm hỏng trong định mức: Giá trị thiệt hại bao gồm giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được và phần chi phí sửa chữa sản phẩm tái chế trừ đi phế liệu thu hồi (nếu có) toàn bộ phần thiệt hại này tính vào chi phí sản xuất sản phẩm và được hạch toán như đối với chính phẩm Khái quát trình tự hạch toán: + Tập hợp chi phí sửa chữa: Nợ TK lq 621, 622, 627 Có TK 152, 153, 334… + Kết chuyển chi phí sửa chữa Nợ TK 154 Có TK 621, 622, 627 + Khi hoàn thành: Nợ TK 155: giá thành sản phẩm Nợ TK 111, 112, 152: Phế liệu thu hồi Có TK 154 - Sản phẩm hỏng ngoài định mức: là những sản phẩm nằm ngoài dự kiến, không được chấp nhận, nên giá trị thiệt hại của những sản phẩm này phải được theo dõi riêng. Đồng thời xem xét từng nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lý. Sơ đồ 7: Hạch toán thiệt hại sản phẩm hỏng ngoài định mức TK 152, 153, 334 TK 1381.SPHNĐM TK 821, 415 Chi phí sửa chữa Giá trị thiệt hại thực về SP hỏng ngoài định mức TK 154, 155, TK 1381, 152 157, 632 Giá trị sản phẩm hỏng Giá trị thu hồi không sửa chữa được bồi thường b. Thiệt hại ngừng sản xuất Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền lao động, khấu hao TSCĐ, chi phí bảo dưỡng… Những khoản chi phí chi ra trong thời gian này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến, kế toán đã theo dõi ở TK 335- chi phí phải trả. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường do không được chấp nhận nên mọi thiệt hại phải theo dõi riêng. Cuối kỳ sau khi trừ phần thu hồi (nếu có, do bồi thường), giá trị thiệt hại thực tế sẽ được trừ vào thu nhập như khoản chi phí thời kỳ. Sơ đồ 8: Hạch toán tổng hợp thiệt hại ngừng sản xuất TK 334 621, 622, 627 154 chi tiết 821 Số thiệt hại thực tế Tập hợp CF thực Kết chuyển thiệt hại 138, 111 tế ngừng sản xuất trong t/gian ngừng SX 152, 111 giá trị bồi thường sản xuất C6. Hạch toán chi phí sản xuất chung * Khái niệm và tài khoản sử dụng Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chính, kế toán sử dụng TK 627- chi phí sản xuất chung. TK 627 mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ Bê._.n Nợ: Chi phí sản xuất chính thực tế phát sinh trong kỳ Bên Có: Kết chuyển, phân bổ chi phí sản xuất chính vào chi phí sản phẩm hay lao vụ, dịch vụ - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chính TK 627 cuối kỳ không có số dư do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ và được chi tiết thành 6 tiểu khoản. + TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng: phản ánh chi phí về lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên phân xưởng và các khoản đóng góp cho các quỹ bảo hiểm, xã hội, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh của nhân viên phân xưởng. + TK 6272: Chi phí vật liệu: Bao gồm các khoản chi phí về vật liệu sản xuất chung cho phân xưởng như xuất sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị, nhà cửa, kho tàng, vật kiến trúc (trường hợp tự làm), các chi phí vật liệu cho quản lý phân xưởng (giấy, bút, văn phòng phẩm…) + TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất: là những chi phí về công cụ dụng cụ sản xuất dùng cho phân xưởng + TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ phản ánh khấu hao TSCĐ thuộc các phân xưởng sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ như máy móc, thiết bị. + TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm những chi phí dịch vụ thuê ngoài phục vụ cho sản xuất kinh doanh của các phân xưởng, bộ phận như chi phí sửa chữa TSCĐ, nước, điện thoại… + TK 6278: Chi phí bằng tiền khác: là những chi phí còn lại ngoài các chi phí kể trên như chi phí hội nghị, lễ tân, tiếp khách, giao dịch… của phân xưởng, bộ phận sản xuất. Ngoài ra tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp từng ngành, TK 627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số nội dung hoặc yếu tố chi phí. * Phương pháp phân bổ chi phí sản xuất chung Do chi phí sản xuất chính có liên quan đến nhiều loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp. Trong thực tế, thường sử dụng các tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất chính như phân bổ theo định mức, theo giờ làm việc thực tế của công nhân sản xuất, theo tiền lươnog công nhân sản xuất. Để xác định mức phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí sử dụng công thức. Mức chi phí sản xuất chính Tổng chi phí sản xuất chung Tiêu thức phân phân bổ cho từng đối tượng = ---------------------------------- x bổ của từng Tổng tiêu thức phân bổ đối tượng * Phương pháp hạch toán Trong kỳ tập hợp chi phí từ tài khoản liên quan vào bên nợ TK 627. Cuối kỳ phân ra các khoản giảm chi phí vào những tài khoản liên quan còn lại phân bổ chi phí sản xuất chính cho từng đối tượng kết chuyển vào TK 154 (với doanh nghiệp sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên) vào TK 631 (với doanh nghiệp sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ). Sơ đồ 9: Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung TK 334, 338 TK 627 TK111, 112 Chi phí nhân viên Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung TK 152, 153 Chi phí vật liệu dụng cụ TK 142, 335 TK 154 Chi phí trả trước Phân bổ CFSXC cho từng chi phí phải trả đối tượng (theo PP:KKTX) TK 214 Chi phí khấu hao TSCĐ TK 111, 112, 331… TK 631 Chi phí mua ngoài và Phân bổ CFSXC cho từng chi phí khác bằng tiền đối tượng (theo PP: KKĐK) 2.2. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang a. Tổng hợp chi phí sản xuất * Tài khoản tổng hợp ở trên chúng ta đã nghiên cứu cách hạch toán và phân bổ các loại chi phí sản xuất. Các chi phí sản xuất kể trên cuối cùng đều phải tổng hợp vào bên Nợ TK 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên) vào bên Nợ TK 631; "Giá thành sản xuất" (nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ). - TK 154: được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí, từng loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ… của các bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ (kể cả thuê ngoài gia công chế biến). Nội dung kết cấu TK 154 Bên Nợ: Tập hợp các chi phí sản xuất trong kỳ (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chính). Bên Có: Các khoản gi giảm chi phí sản phẩm Tổng giá thành sản xuất thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang chưa hoàn thành. - TK 631 được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất) và theo loại, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, lao vụ tương tự TK 154. Nội dung kết cấu TK 631. Bên Nợ: Phản ánh giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ liên quan tới chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ… Bên Có: Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ + Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành + Giá trị thu hồi ghi giảm chi phí từ sản xuất TK 631 không có số dư * Phương pháp hạch toán Sơ đồ 10: Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp KKTX TK 152, 153 TK 621 TK 154 TK 152, 138 xxx Chi phí NVL trực tiếp Kết chuyển phân bổ chi Nhập kho vật liệu tự chế phí NVL trực tiếp gia công, chế biến, thu hồi TK 334, 338 TK 622 TK 155 TK 632 chi phí nhân công kết chuyển phân bổ chi giá thành thực tế xuất kho trực tiếp phí nhân công trực tiếp SPHT nhập kho tiêu thụ TK 627 chi phí nhân viên phân xưởng chi phí vật liệu dụng cụ kết chuyển phân bổ giá thành thực tế SPHT chi phí sản xuất chung bán thẳng TK 214 chi phí khấu hao TK 157 Giá thành thực tế SPHT TK 111, 112, 142, 331 Chi phí dịch vụ mua ngoài bằng tiền khác xxx Sơ đồ 11: Tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ TK 154 TK 631 TK 154 kết chuyển SPLD Kết chuyển SPLD đầu kỳ cuối kỳ TK 611 TK 621 Tập hợp chi phí NVL Kết chuyển chi phí TK 632 trực tiếp NVL trực tiếp Giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ TK 111, 112, 331 334, 338, 214 TK 627 Tập hợp chi phí Kết chuyển chi sản xuất chung phí SXC b. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành, sản phẩm chính xác, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tình hình cụ thể về tổ chức sản xuất kinh doanh, tỷ trọng mức độ và thời gian của các chi phí vào quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm, và yêu cầu trình độ quản lý của doanh nghiệp mà vận dụng phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở (SPLD) cuối kỳ cho phù hợp. Trong các doanh nghiệp sản xuất hiện nay có thể đánh giá SPLD cuối kỳ theo một trong các phương pháp sau: * Đánh giá SPLD cuối kỳ theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp Theo phương pháp này, chỉ tính cho SPLD cuối kỳ phần chi phí NVL trực tiếp hoặc theo NVL chính trực tiếp, còn các chi phí khác tính hết cho sản phẩm hoàn thành. Trường hợp doanh nghiệp chỉ tính cho SPLD cuối kỳ phần chi phí NVL chính thì cần hạch toán chi tiết khoản mục chi phí NVL trực tiếp thành chi phí NVL chính và chi phí vật liệu trực tiếp khác. Giá trị SPLD Chi phí đầu kỳ + Chi phí phát sinh trong kỳ cuối kỳ = ------------------------------------------------------- x SPLD Sản phẩm hoàn thành + SPLD Phương pháp này vận dụng phù hợp với những doanh nghiệp mà trong cấu thành của giá thành sản phẩm thì chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trọng lớn, thông thường là hơn 70%. * Đánh giá SPLD cuối kỳ theo phương pháp ước lượng sản phẩm hoàn thành tương đương: + Phương pháp này vận dụng phù hợp với hầu hết các loại doanh nghiệp nhưng phải gắn với điều kiện có phương pháp khoa học trong việc xác định mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang và mức tiêu hao của từng khoản mục chi phí trong quá trình sản xuất sản phẩm + Theo phương pháp này, SPLD cuối kỳ phải chịu toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ theo mức độ hoàn thành. Do vậy khi kiểm kê phải xác định không chỉ khối lượng mà cả mức độ hoàn thành của chúng. Trên cơ sở quy đổi SPLD cuối kỳ ra số sản phẩm hoàn thành tương đương để tính toán xác định chi phí cho SPLD. Cách tính như sau: - Đối với những chi phí bỏ ra một lần từ đầu (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu chính) thì tính cho sản phẩm hoàn thành và SPLD như sau: SPLD cuối kỳ (theo NVL trực tiếp hoặc NVL chính) = Chi phí đầu kỳ + Chi phí trong kỳ Sản phẩm hoàn thành + SPLD x Sản phẩm làm dở - Các chi phí khác bỏ dần theo mức độ chế biến, sản xuất sản phẩm (chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chính) sẽ tính cho sản phẩm làm dở cuối kỳ theo mức độ hoàn thành. SPLD cuối kỳ (các chi phí khác) = Chi phí đầu kỳ + Chi phí trong kỳ SPHT+ SPHT tương đương x SPHT tương đương SPHT tương đương = SPLD x Mức độ hoàn thành Đánh giá SPLD cuối kỳ theo phương pháp ước lượng SPHT tương đương có ưu điểm là chính xác cao, những khối lượng tính toán nhiều do vậy thích hợp với những doanh nghiệp mà chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng không lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất. * Đánh giá SPLD cuối kỳ theo chi phí sản xuất định mức (kế hoạch) - Phương pháp này vận dụng phù hợp với những doanh nghiệp có xây dựng giá thành định mức - Theo phương pháp này căn cứ vào khối lượng sản phẩm làm dở và chi phí sản xuất định mức cho một đơn vị sản phẩm ở từng phân xưởng, giai đoạn để tính ra giá trị sản phẩm làm dở cuối kỳ Ngoài ra, trên thực tế người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm làm dở như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo vật liệu chính và vật liệu phụ trong sản xuất sản phẩm dở dang. 2.3. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm a. Đối tượng tính giá thành sản phẩm Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong công tác tính giá thành sản phẩm. Trong doanh nghiệp sản xuất đối tượng tính giá thành là kết quả sản xuất thu được những sản phẩm, công việc lao vụ nhất định đã hoàn thành. Việc xác định đối tượng tính giá thành cũng phải căn cứ vào đặc điểm, cơ cấu tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm, đặc điểm tính chất của sản phẩm, yêu cầu, trình độ hạch toán kinh tế và quản lý của doanh nghiệp Trong các doanh nghiệp sản xuất tuỳ vào đặc điểm, tình hình cụ thể mà đối tượng tính giá thành có thể là: - Từng sản phẩm, công việc, đơn đặt hàng đã hoàn thành - Mức thành phẩm, chi tiết, bộ phận sản phẩm - Từng công trình, hạng mục công trình Thông thường nếu doanh nghiệp sản xuất sản phẩm với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ, liên tục thì kỳ tính giá thành thích hợp là tính theo tháng. Còn nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm hoặc loạt sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất của sản phẩm hoặc hàng loạt sản phẩm đó thì chu kỳ giá thành thích hợp là vào thời điểm sản phẩm đó hoàn thành. Như vậy, kỳ tính giá thành của sản phẩm trong trường hợp này có thể không trùng với kỳ báo cáo. b. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm b1. Phương pháp giản đơn (phương pháp trực tiếp): Theo phương pháp này, giá thành sản phẩm được tính bằng cách căn cứ trực tiếp vào chi phí sản xuất đã tập hợp được (theo từng đối tượng tập hợp chi phí) trong kỳ và giá trị sản phẩm làm dở đầu kỳ, cuối kỳ để tính giá thành sản phẩm theo công thức. Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành = SPLD đầu kỳ + Chi phí sản xuất trong kỳ - SPLD cuối kỳ Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành Giá thành đơn vị sản phẩm = --------------------------------------------- Số lượng sản phẩm hoàn thành Cách tính này giản đơn nhất, trong các phương pháp sau dù việc tính toán có phức tạp hơn nhưng cuối cùng giá thành đều phải dựa vào công thức trên. Đây là phương pháp áp dụng thích hợp trong doanh nghiệp sản xuất có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn, khép kín từ khi đưa NVL vào cho tới khi hoàn thành sản phẩm, mặt hàng sản phẩm ít, khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo như các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp khai thác, điện, nước… b2. Phương pháp tính giá thành phân bước Phương pháp giá thành phân bước áp dụng thích hợp trong các doanh nghiệp có quy trình công nghệ kỹ thuật sản xuất phức tạp kiểu liên tục, sản phẩm trải qua nhiều giai đoạn (phân xưởng) chế biến liên tục kế tiếp nhau. Nửa thành phẩm ở giai đoạn trước là đối tượng tiếp tục chế biến ở giai đoạn sau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tình hình cụ thể mà đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp loại hình này có thể là thành phẩm ở giai đoạn công nghệ cuối cùng hoặc là nửa thành phẩm ở từng giai đoạn và thành phảam ở giai đoạn cuối. Do đó phương pháp giá thành phân bước được chia ra: - Phương pháp phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm - Phương pháp phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm * Đối với phương pháp phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm Để tính giá thành của sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn công nghệ cuối cùng cần phải xác định giá thành được giá thành của nửa thành phẩm ở giai đoạn trước và chi phí của nửa thành phẩm của giai đoạn trước chuyển sang giai đoạn sau cùng với các chi phí của giai đoạn sau, cứ như vậy tuần tự đến giai đoạn cuối cùng khi tính được giá thành thành phẩm. Có thể khái quát trình tự tính giá thành như sau Giả sử doanh nghiệp sản xuất sản phẩm phải qua những giai đoạn chế biến liên tục Chi phí NVL chính (trực tiếp) Chi phí khác giai đoạn 1 Giá thành NTP 1 Giai đoạn 1 (PX1) + = Giai đoạn 1 (PX1) Chi phí NTP 1 Chi phí khác giai đoạn 2 + = Giá thành NTP 2 Giai đoạn n (PXn) Chi phí NTP (n-1) Chi phí khác giai đoạn n Giá thành thành phẩm + = Việc kết chuyển tuần tự chi phí từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau theo trình tự như trên có thể theo số tổng hợp (theo tổng giá thành của nửa thành phẩm) hoặc kèm theo từng khoản mục giá thành. Nếu kết chuyển theo số tổng hợp thì sau khi tính được giá thành ta phải hoàn nguyên ngược trở laị theo các khoản mục chi phí quy định, việc quay trở lại rất phức tạp do vậy ít áp dụng trong thực tế. Việc kết chuyển tuần tự theo từng khoản mục sẽ cho ta giá thành của nửa thành phẩm bước sau và thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng theo khoản mục ngay, nên được áp dụng phổ biến * Phương pháp phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm Trong trường hợp này đối tượng tính giá thành chỉ là thành phẩm ở bước công nghệ cuối cùng. Do vậy chỉ cần tính toán, xác định phần chi phí sản xuất của từng giai đoạn nằm trong thành phẩm. Sau đó tổng cộng chi phí sản xuất của các giai đoạn trong sản phẩm ta được giá thành thành phẩm. Cụ thể các bước tiến hành như sau - Tính chi phí sản xuất giai đoạn thành phẩm (theo khoản mục) SPLD đầu kỳ + CPSX trong kỳ CPSX = --------------------------------------- x Thành phẩm SPHT gđi + SPLD gđi Tuỳ theo phương pháp đánh giá SPLD cuối kỳ áp dụng trong doanh nghiệp mà SPLD phải quy đổi theo mức độ hoàn thành hay không. CPSX gđi Giá thành TP= - Sau đó tổng cộng chi phí sản xuất của từng giai đoạn ta tính được giá thành thành phẩm. Có thể khái quát bằng sơ đồ sau: CPSX giai đoạn 1 theo khoản mục CPSX giai đoạn 1 trong thành phẩm CPSX giai đoạn 2 theo khoản mục CPSX giai đoạn 2 trong thành phẩm CPSX giai đoạn n theo khoản mục CPSX giai đoạn 2 trong thành phẩm CPSX giai đoạn n trong thành phẩm Giá thành TP Giai đoạn 1 (PX1) Giai đoạn 1 (PX2) Giai đoạn 1 (PXn) b3. Phương pháp loại trừ chi phí sản xuất sản phẩm phụ Nếu trong cùng một quy trình công nghệ sản xuất ngoài sản phẩm chính còn thu được cả sản phẩm phụ. Để tính được giá thành sản phẩm chính ta phải loại trừ phần chi phí sản xuất tính cho sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất của cả quy trình công nghệ. Phần chi phí sản xuất tính cho sản phẩm phụ thường tính theo giá kế hoạch hoặc cũng có thể tính bằng cách lấy giá bán trừ đi lợi nhuận định mức và thuế. Sau khi tính được chi phí sản xuất cho sản phẩm phụ, tổng giá thành của sản phẩm chính tính như sau: Tổng giá thành sản phẩm chính = SPLD đầu kỳ + CPSX trong kỳ - SPLD cuối kỳ - CPSP phụ b4. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng Phương pháp này áp dụng thích hợp với các doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc loạt nhỏ, vừa theo các đơn đặt hàng Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng, đối tượng tính giá thành là đơn đặt hàng đã hoàn thành. Kỳ tính giá thành không phù hợp với kỳ báo cáo, mà là khi đơn đặt hàng hoàn thành. Nếu trong tháng đơn đặt hàng chưa hoàn thành thì hàng tháng vẫn phải mở sổ kế toán để tập hợp chi phí cho đơn đặt hàng đó, để khi hoàn thành tổng cộng chi phí sản xuất các tháng lại ta sẽ có giá thành của đơn đặt hàng. Nếu đơn đặt hàng được sản xuất, chế tạo ở nhiều phân xưởng khác nhau thì phải tính toán, xác định số chi phí của từng phân xưởng liên quan đến đơn đặt hàng đó. Những chi phí trực tiếp được tập hợp thẳng vào đơn đặt hàng, còn chi phí chung cần phải phân bổ theo tiêu thức thích hợp. b5. Phương pháp hệ số Phương pháp này áp dụng trong trường hợp cùng một quy trình công nghệ sản xuất với cùng một loạt nguyên vật liệu tiêu hao thu được nhiều loại sản phẩm khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất. Để tính được giá thành từng loại sản phẩm ta phải căn cứ vào hệ số tính giá thành quy định cho từng loại sản phẩm, rồi tiến hành theo các bước sau: - Quy đổi sản lượng thực tế từng loại sản phẩm theo hệ số tính giá thành để làm tiêu thức phân bổ. SL thực tế SPi x Hệ số SPi Tổng sản lượng quy đổi = - Tính hệ số phân bổ chi phí của từng loại sản phẩm Sản lượng quy đổi SPi Hệ số phân bổ SPi = -------------------------------- Tổng sản lượng quy đổi - Tính tổng giá thành thực tế từng loại sản phẩm theo từng khoản mục Tổng giá thành SPi = SPLD đầu kỳ + CPSX trong kỳ - SPLD cuối kỳ x Hệ số phân bổ chi phí SPi b6. Tính giá thành sản phẩm theo phương pháp tỷ lệ: Nếu trong cùng một quy trình công nghệ sản xuất kết quả sản xuất thu được là nhóm sản phẩm cùng loại với quy cách, kích cỡ, phẩm cấp khác nhau sẽ tính giá thành từng quy cách, kích cỡ sản phẩm theo tỷ lệ. Để tính được giá thành trước hết phải chọn tiêu chuẩn phân bổ giá thành. Tiêu chuẩn phân bổ có thể là giá thành kế hoạch hay giá thành định mức của sản phẩm tính theo sản lượng thực tế. Sau đó tính ra tỷ lệ giá thành của nhóm sản phẩm Giá thành thực tế cả nhóm sản phẩm Tỷ lệ giá thành = --------------------------------------------------- từng khoản mục Tiêu chuẩn phân bổ Tổng giá thành thực tế từng quy cách = Tiêu chuẩn phân bổ từng quy cách x Tỷ lệ giá thành b7. Phương pháp tính giá thành theo giá thành định mức * Phương pháp này được áp dụng thích hợp với những đơn vị sản xuất có đủ các điều kiện sau: - Quy trình công nghệ sản xuất đã định hình và sản phẩm đã đi vào sản xuất ổn định - Các loại định mức kinh tế kỹ thuật đã tương đối hợp lý, chế độ quản lý định mức đã được kiện toàn - Trình độ tổ chức và nghiệp vụ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tương đối vững vàng, đặc biệt là công tác hạch toán ban đầu tiến hành có nề nếp chặt chẽ. * Nội dung chủ yếu - Trước hết phải căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật hiện và dự toán chi phí được duyệt để tính ra giá thành định mức của sản phẩm - Tổ chức hạch toán riêng biệt số chi phí sản xuất thực tế phù hợp với định mức và số chi phí sản xuất chênh lệch thoát ly định mức. Tập hợp riêng và thường xuyên phân tích những chênh lệch đó, để đề ra kịp thời những biện pháp khắc phục nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm - Khi có thay đổi định mức kinh tế, kỹ thuật, cần kịp thời tính toán lại giá thành định mức và số chênh lệch chi phí sản xuất do thay đổi định mức của số sản phẩm đang sản xuất dở dang nếu có. - Trên cơ sở đã tính được giá thành định mức, số chênh lệch thay đổi định mức và tập hợp riêng được số chi phí chênh lệch thoát ly định mức. Giá thành thực tế của sản phẩm sản xuất trong kỳ sẽ tính được theo công thức dưới đây: Giá thành thực tế sản phẩm = Giá thành định mức ± Chênh lệch do thay đổi định mức ± Chênh lệch thoát ly định mức V. Yêu cầu quản lý và tổ chức kế toán tập hợp chi phsi sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn chi nhánh Hà Nội 1. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Đơn vị đặt ra một số yêu cầu quản lý về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm như sau: - Chi phí nguyên vật liệu, nhiêu liệu, động lực… phải quản lý chặt chẽ hai khâu: mức tiêu hao vật tư và giá vật tư - Kết thúc năm tài chính đơn vị thực hiện quyết toán vạt tư, báo cáo quyết toán thể hiện rõ nội dung chủ yếu sau: + Mức tiêu hao của năm thực tế so với định mức và mức tiêu hao thực tế cùng kỳ trước đối với các loại sản phẩm + Tổng mức tiêu hao và tổng mức chênh lệch + Phân tích đánh giá tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư, xác định rõ nguyên nhân tăng, giảm so với định mức và kỳ trước. - Giá vật tư: Dùng để xác định chi phí vật tư là giá thực tế. Giá vật tư mua ngoài bao gồm giá phải thanh toán ghi trên hoá đơn của người bán hàng cộng với chi phí thu mua. Nguyên vật liệu thu mua phải có hoá đơn chứng từ hợp lệ theo quy định của Bộ Tài chính - Công cụ dụng cụ sử dụng cho quá trình sản xuất như: lưới in, dây curoa, van bi, kéo, dao… công ty căn cứ vào thời gian sử dụng và giá trị của công cụ dụng cụ để phân bổ dần vào khoản mục chi phí trong các kỳ kinh doanh theo tiêu thức phù hợp. - Chi phí khấu hao TSCĐ: Mọi tài sản cố định của công ty phải được huy động vào hoạt động kinh doanh và trích từ khấu hao theo quy định của Nhà nước để thu hồi vốn - Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương: chi phí tiền lương của doanh nghiệp bao gồm tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương phải trả cho người lao động tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Về nguyên tắc: tiền lương phải được quản lý chặt chẽ và chi theo đúng mục đích gắn với kết quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở định mức lao động và đơn giá tiền lương hợp lý được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. + Về định mức lao động: Doanh nghiệp phải căn cứ vào định mức lao động chuẩn do cấp có thẩm quyền ban hành và điều kiện thực tế của doanh nghiệp đẻe xây dựng và không ngừng hoàn thiện định mức lao động của doanh nghiệp bố trí đủ số lượng, cơ cấu lao động phù hợp với nhu cầu công việc. + Về đơn giá tiền lương: căn cứ vào mức lao động đã đăng ký và chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, doanh nghiệp xây dựng đơn giá tiền lương trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. + Lập và sử dụng quỹ tiền lương: Việc trích lập và sử dụng quỹ tiền lương phải căn cứ vào đơn giá tiền lương kế hoạch đã đăng ký và hiệu quả kinh doanh của đơn vị. + Hàng năm doanh nghiệp phải quyết toán quỹ tiền lương - Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ được tính trên cơ sở quỹ tiền lương của doanh nghiệp - Chi phí dịch vụ mua ngoài như: chi sửa chữa TSCĐ, chi phí điện nước, điện thoại, điện phân xưởng, tiền bốc vác vận chuyển hàng hoá, tiền hoa hồng… các khoản chi phí này được hạch toán theo thực tế phát sinh do giám đốc duyệt chi và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. - Các chi phí khác như: chi phí hội nghị, chi phí tiếp khác, giao dịch… hạch toán theo thực tế phát sinh do giám đốc ký và chịu trách nhiệm về quyết định của mình - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước như các loại thuế - Về tính giá thành sản phẩm, dịch vụ + Giá thành sản xuất sản phẩm, dịch vụ gồm các khoản chi phí * Chi phí trực tiếp: gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp * Chi phí sản xuất chung: gồm các khoản chi chung phát sinh ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp + Giá thành toàn bộ sản phẩm dịch vụ bao gồm: * Giá thành sản xuất sản phẩm dịch vụ * Chi phí bán hàng :gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm * Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm các chi phí quản lý doanh nghiệp, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến hoạt động toàn doanh nghiệp 2. Yêu cầu tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại chi nhánh công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn Để đáp ứng được những yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại nhà máy kế toán thực hiện tốt những nhiệm vụ sau: - Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tính giá thành sản phẩm là theo mã hàng. - Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã xác định và phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất thích hợp - Xác định chính xác chi phí về sản phẩm làm dở cuối kỳ - Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời chính xác theo đúng đối tượng tính giá thành và phương pháp giá thành hợp lý - Thực hiện phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có những kiến nghị đề xuất cho giám đốc ra quyết định trước mắt cũng như lâu dài đối với sự phát triển sản xuất kinh doanh của công ty. Tóm lại: Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có bù đắp được chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và đảm bảo có lãi hay không. Đối với b ất cứ một doanh nghiệp thì quá trình sản xuất là quá trình kết hợp và tiêu hao các yếu tố sản xuất để thu được sản phẩm. Vì vậy hạch toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm là việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng. Hơn nữa, xét trên góc độ vĩ mô do các yếu tố sản xuất ở nước ta còn hạn chế nên vấn đề tiết kiệm chi phí sản xuất thực sự là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác quản lý kinh tế. Mặt khác nhiệm vụ của kế toán là không những phải hạch toán đầy đủ chi phí sản xuất mà còn phải làm thế nào để kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất, phục vụ tốt công tác hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của chế độ hạch toán kinh doanh, đồng thời cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn chi nhánh Hà Nội là một doanh nghiệp sản xuất mặt hàng truyền thống là giầy vải theo các đơn đặt hàng với khối lượng lớn và liên tục đòi hỏi công ty phải luôn luôn chú trọng đến công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Xuất phát từ ý nghĩa và vai trò của việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn em quyết định đi sâu nghiên cứu về việc "Hoàn thiện tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm" tại chi nhánh công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn. Phần II tình hình tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành tại công ty xuất nhập khẩu da giầy sài gòn chi nhánh Hà Nội I. Đặc điểm tình hình chung của công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn chi nhánh Hà Nội 1. Quá trình hình thành và phát triển Nhà máy giày da xuất khẩu Hà Nội được thành lập vào năm 1958 với tên ban đầu là xí nghiệp giầy da xuất khẩu thuộc Bộ ngoại thương chuyên sản xuất các loại giầy da, găng gay, túi, cặp giả da. Từ năm 1958 đến năm 1982 xí nghiệp chuyên sản xuất các mặt hàng về giầy dép bằng da và các sản phẩm làm ra chỉ để tiêu thụ trong nước và tiêu thụ nội bộ và phục vụ cho quốc phòng. Năm 1982 xí nghiệp đổi tên là Nhà máy giầy da xuất khẩu Hà Nội trực thuộc liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu da giâỳ thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ cũ nay là bộ Công nghiệp chuyên sản xuất các loại mũ giầy xuất khẩu và găng tay bảo hộ lao động theo hiệp định 19-5 ký kết với Liên Xô và các nước Đông Âu (cũ). Trong những năm này nhà máy thường xuyên là doanh nghiệp làm ăn có lãi có tín nhiệm với thị trường trong và ngoài nước và đây cũng chính là thời kỳ thịnh vượng nhất của nhà máy với sản lượng hàng năm từ 800.000 đến 1200.000 đôi mũ giầy và 300.000 đôi găng tay với quân số của nhà máy là hơn 1000 công nhân trong 5 phân xưởng chính và phụ. Sau khi khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ những hợp đồng theo hiệp định 19-5 bị bỏ dở. Lúc này nhà máy đứng trước khó khăn về thị trường tiêu thụ, thị trường truyền thống đã bị mất hết, thị trường mới chưa được mở. Đứng trước tình hình đó năm 1993 Bộ Công nghiệp nhẹ đã quyết định sáp nhập nhà máy giầy da Hà Nội với Công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn. Công ty xuất nhập khẩu da giày Sài Gòn có trụ sở đặt tại số 14 Nguyễn Huệ quận I thành phố Hồ Chí Minh, công ty là một đơn vị độc lập có tư cách pháp nhân và chuyên xuất nhập khẩu da giầy có kinh nghiệm về thị trường. Cuối năm 1996 lãnh đạo công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn và nhà máy đã quyết định chuyển hướng công nghệ từ sản xuất giầy da sang sản xuất giầy vải với phương châm "chất lượng và sống còn thời hạn giao hàng là quyết định". Nhà máy đã sản xuất được loại giầy vải với chất lượng cao, đến quí 3 năm 1997 nhà máy đã sản xuất được loại giầy phù hợp với thị trường nước ngoài và xuất khẩu được 130.847 đôi giầy cũng là năm đầu tiên sau nhiều năm nghỉ việc nhà máy đã hoạt động có lãi gần 60 triệu đồng. Song song với việc đầu tư mở rộng sản xuất, nhà máy từng bước đổi mới công tác quản lý xây dựng kế hoạch một cách nhanh gọn và có hiệu quả. Do sản phẩm làm ra đạt yêu cầu về chất lượng nên đã đến được các thị trường như Pháp, Đức, và công ty Foottech, Hồng Kông, đã ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm 5 năm liền. Có thể nói sự hình thành và phát triển của nhà máy có nhiều thăng trầm nhưng cho đến nay nhà máy đem lại nhiều thành tựu đáng kể. Cụ thể năm 1998 tổng sản phẩm của nhà máy tăng 285,87% so với năm 1997 kim ngạch xuất khẩu đạt 1043424USD và đảm bảo việc làm cho gần 600 lao động, cán bộ công nhân viên toàn nhà máy. Năm 1999 sản lượng đạt 450.000 đôi giày, doanh thu đạt 15 tỷ. Năm 2000 sản lượng đạt 500.000 đôi giầy, doanh thu đạt 18 tỷ. Thành công bước đầu khẳng định bước đi đúng đắn của nhà máy khi chuyển sang sản xuất giầy vài xuất khẩu. Đó là kết quả phấn đấu không mệt mỏi, lăn lộn với thị trường, chủ động trong sản xuất kinh doanh của tập thể cán bộ công nhân viên nhà máy sau nhiều năm nghỉ việc. Hiện nay nhà máy giầy da xuất khẩu Hà Nội có tên chính thức là chi nhánh Công ty xuất nhập khẩu da giầy Sài Gòn tại Hà Nội có trụ sở đặt tại đường Lĩnh nam- Thanh trì- Hà Nội là một đơn vị sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế phụ thuộc do công ty xuất nhập khẩu da giầy._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28749.doc
Tài liệu liên quan