Hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và nâng cao hiệu quả quản lý lao động - Tiền lương ở Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội

lời mở đầu Trong nền kinh tế mở hiện nay, bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều mong muốn có được lợi nhuận tối ưu. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những đối sách phù hợp, tìm mọi cách tiết kiệm chi phí. Một trong những khoản mục chi phí mà doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến là chi phí về nhân công- là phần trị giá sức lao động của công nhân viên tiêu hao cho sản xuất. Chi phí này biểu hiện qua tiền lương và các khoản trích theo lương

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và nâng cao hiệu quả quản lý lao động - Tiền lương ở Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà chủ doanh nghiệp phải trả cho công nhân viên của mình. Tiền lương là một phạm trù kinh tế phức tạp và có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nó là chi phí đối với doanh nghiệp đồng thời là lợi ích kinh tế đối với người lao động. Việc hạch toán chính xác chi phí về tiền lương có ý nghĩa cơ sở cho việc xác định đầy đủ chi phí nhân công của doanh nghiệp, đồng thời tạo nên sự công bằng trong phân phối tiền lương cho người lao động. Có thể nói, hạch toán tiền lương là một trong những công cụ quản lý của doanh nghiệp. Tuỳ theo từng điều kiện hoạt động, đặc điểm sản xuất kinh doanh khác nhau mà các doanh nghiệp có phương thức hạch toán khác nhau. Song các doanh nghiệp cần phải thực hiện công tác quản lý, hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương một cách hợp lý, có hiệu quả và phù hợp. Để từ đó có biện pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động nhằm đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp và thu nhập ổn định cho người lao động. Qua thời gian thực tập tại Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội, em đã được tiếp cận với thực tế hạch toán và quản lý tiền lương của Công ty. Em đã cố gắng kết hợp giữa những kiến thức được học ở trường với kiến thức thực tế để hoàn thành khoá luận với đề tài: "Hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và nâng cao hiệu quả quản lý lao động - tiền lương ở công ty". Khoá luận bao gồm ba phần chính sau: Phần I:Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp. Phần II:Thực trạng hạch toán lao động,tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội. Phần III:Những kiến nghị nhằm hoàn thiện hạch toán tiền lương,các khoản trích theo lương và các biện pháp tăng cường quản lý quỹ lương tại Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội. phần I Những vấn đề lý luận cơ bản về công tác hạch toán tiền lương ,các khoản trích theo lương và quản lý quỹ lương trong doanh nghiệp I.Khái niệm và bản chất kinh tế của tiền lương 1.Khái niệm về tiền lương. Trong mọi quá trình sản xuất, luôn có sự kết hợp đồng thời các yếu tố cơ bản là: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó, sức lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người, sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động, biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người. Theo Mác :"Sức lao động có đặc điểm là khi được tiêu dùng sẽ tạo ra một giá trị mới lớn hơn. Vì thế có thể coi nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động." Đối với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, việc tìm kiếm lợi nhuận chủ yếu thông qua giá trị thặng dư. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra bình thường và liên tục thì nhất thiết phải có yếu tố sức lao động, nếu thiếu nó thì quá trình sản xuất không thể diễn ra. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, sức lao động mang tính chất là một loại hàng hoá đặc biệt. Người lao động có quyền tự do làm chủ sức lao động của mình, có quyền đòi hỏi được trả công xứng đáng với sức lao động mình bỏ ra. Với ý nghĩa đó, tiền lương (tiền công) là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được thoả thuận hợp lý giữa người mua và người bán sức lao động. Trong xã hội phát triển, tiền lương trở thành một bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao động,đảm bảo nhu cầu sống và giải trí của họ. Như bất kỳ một loại hàng hoá nào trên thị trường, tiền lương cũng phải tuân theo quy luật cung cầu, quy luật giá cả trên thị trường và theo quy định của Nhà nước. Để mọi người hiểu rõ được bản chất của tiền lương thì các doanh nghiệp sử dụng lao động phải có mức trả lương hợp lý, đảm bảo tiền lương ngang giá với sức lao động mà người lao động bỏ ra. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương không gắn chặt với số lượng và chất lượng lao động vì thế nó không tạo được động lực phát triển sản xuất. Chỉ từ khi đổi mới cơ chế nền kinh tế, nó mới thực sự đóng vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể tổng hợp lại một cách đầy đủ khái niệm về tiền lương như sau:"Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng lao động phải trả cho người cung ứng sức lao động , tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước." Tiền lương vừa là một phạm trù về phân phối vừa là một phạm trù của trao đổi và tiêu dùng. Trên thực tế, tiền lương chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đáp ứng được nhu cầu của người lao động.Xã hội càng phát triển, trình độ và kỹ năng làm việc của người lao động ngày càng cao, tiền lương không chỉ đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt vật chất mà cao hơn nữa tiền lương còn phải đáp ứng được nhu cầu tinh thần của người lao động. Người lao động không quan tâm đến khối lượng tiền nhận được mà thực chất là họ quan tâm đến khối lượng hàng hoá dịch vụ mà họ có thể mua được bằng tiền lương của mình. Do vậy, đã tồn tại hai khái niệm là tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa. Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ lao động và kinh nghiệm làm việc của họ. Còn tiền lương thực tế là số lượng các loại hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cần thiết mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ. Giữa hai loại tiền lương này có mối quan hệ mật thiết với nhau thể hiện qua công thức: Tiền lương danh nghĩa Tiền lương thực tế = Chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ Như vậy, tiền lương thực tế phụ thuộc nhiều cả vào tiền lương danh nghĩa và chỉ số giá cả hàng hoá dịch vụ. Nếu tiền lương danh nghĩa cao và chỉ số giá cả hàng hoá cũng cao thì có thể tiền lương thực tế lại thấp. Chỉ khi nào tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chỉ số giá cả thì thu nhập thực tế của người lao động mới tăng. Và tiền lương thực tế là yếu tố quyết định khả năng tái sản xuất sức lao động. 2.Các chức năng của tiền lương . Điều 55 của Bộ luật lao động có ghi rõ:"Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và trả theo năng suất lao động,chất lượng lao động và hiệu quả công việc." Để đảm bảo thực hiện theo đúng quy định này,tiền lương bao gồm các chức năng sau: a,Chức năng tái sản xuất sức lao động. Sức lao động được duy trì và phát triển là nhờ có tái sản xuất sức lao động. Tiền lương phải đảm bảo được chức năng này tức là phải thực hiện được cả quá trình tái sản xuất giản đơn và quá trình tái sản xuất mở rộng. Điều này có nghĩa là tiền lương không chỉ đảm bảo mức sống cho người lao động mà còn đủ để họ nâng cao trình độ, năng lực cho bản thân, gia đình, thậm chí còn một phần để tích luỹ. b,Chức năng thước đo giá trị. Chức năng này biểu hiện giá cả của sức lao động, là cơ sở để điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi có sự biến động. Nhờ vậy mà người lao động có thể hài lòng với các mức lương nhận được tương ứng với sức lao động bỏ ra. c,Chức năng kích thích sức lao động. Với người lao động, tiền lương là thu nhập chính đảm bảo cuộc sống cho họ.Vì thế, tiền lương được trả phù hợp với sức lao động sẽ là động lực thu hút, kích thích người lao động phát huy tối đa năng lực của mình. Một chế độ lương được coi là hợp lý khi nó gắn được trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp. Đây là yếu tố tiên quyết trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động. d,Chức năng là công cụ quản lý của Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mục tiêu cao nhất là tối đa hoá lợi nhuận. Các chủ doanh nghiệp luôn muốn tận dụng tối đa sức lao động của công nhân viên nhằm giảm đỡ phần nào chi phí sản xuất. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước đã ban hành một số chính sách, chế độ về tiền lương phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, buộc cả người sử dụng lao động và người cung cấp lao động phải tuân theo . e,Chức năng điều tiết lao động. Thông qua hệ thống bảng lương và các chế độ phụ cấp xác định cho từng ngành,vùng với mức lương hợp lý, người lao động sẽ sẵn sàng đón nhận công việc được giao. Như vậy, tiền lương đã tạo động lực thu hút lao động đến làm việc tại những vùng ngành kinh tế khác nhau, trở thành công cụ điều tiết lao động góp phần tạo cơ cấu lao động hợp lý giữa các vùng, ngành 3.Các nguyên tắc cơ bản của tiền lương. Xuất phát từ những ý nghĩa đặc biệt của tiền lương :giúp người lao động ổn định cuộc sống nhờ đó họ hăng say lao động,có điều kiện phát huy khả năng sáng tạo của mình;Tiền lương là một trong những nhân tố tích cực nhất góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.Yêu cầu của tổ chức tiền lương cho người lao động là phải đảm bảo quá trình tái sản xuất sức lao động,không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động,làm cho năng suất lao động tăng.Đồng thời cũng phải bảo đảm tính đơn giản, dễ hiểu trong công tác hạch toán. Tiền lương luôn là mối quan tâm hàng đầu của người lao động , vì vậy khi trả lương cho người lao động, Nhà nước và các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp phải tuân theo những nguyên tắc sau: a,Nguyên tắc 1.Trả lương ngang nhau cho các lao động như nhau. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Thước đo lao động được sử dụng trong trường hợp này nhằm đánh giá, so sánh và thực hiện trả lương một cách chính xác. Tất cả những người lao động mặc dù khac nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ nhưng có mức hao phí sức lao động như nhau thì phải được trả lương ngang nhau. Nguyên tắc này nhất quán trong từng chủ thể kinh tế, trong từng doanh nghiệp cũng như từng khu vực hoạt động. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này còn nhiều hạn chế. Nó phụ thuộc vào sự phát triển và tổ chức quản lý kinh tế xã hội của từng nước,trong từng thời kỳ khác nhau. Nhà nước ta đang phấn đấu xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ trong đó có công bằng trong tiền lương. Nhà nước hướng các doanh nghiệp thực hiện tổ chức trả lương theo chính sách tiền lương đã được quy định và có những điều chỉnh mới cho phù hợp với cơ chế hiện hành. Điều này có sức khuyến khích rất lớn đối với người lao động. b,Nguyên tắc 2:Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân. Tiền lương cũng là một trong những khoản mục chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm. Nếu năng suất lao động tăng chậm hơn tiền lương bình quân thì đương nhiên chi phí sản xuất của doanh nghiệp sẽ tăng và thu nhập mang lại không đủ bù đắp các khoản chi, sản xuất bị đình trệ. Thực tế trong các doanh nghiệp cho thấy, nếu tăng tiền lương sẽ dẫn đến tăng chi phí sản xuất (cụ thể là chi phí về nhân công) và ngược laị tăng năng suất lao động sẽ làm giảm chi phí sản xuất trong từng đơn vị sản phẩm. Các doanh nghiệp nên quan tâm để thực hiện đúng nguyên tắc này, tránh để doanh nghiệp lâm vào tình trạng đình trệ, làm ăn không có lãi. c,Nguyên tắc 3. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa người lao động làm các ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng đều có các ngành nghề, các khu vực sản xuất kinh doanh khác nhau với điều kiện hoàn cảnh lao động khác nhau. Cần đảm bảo nguyên tắc công bằng hợp lý trong trả lương cho những lao động thuộc các ngành nghề khác nhau nhằm tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho người lao động. Đồng thời qua đó điều tiết lao động giữa các ngành vùng. Nguyên tắc này dựa trên các cơ sở là: trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành; điều kiện lao động của từng ngành, vùng; ý nghĩa kimh tế của mỗi ngành và sự phân cấp theo khu vực sản xuất. 4.Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp. Tuỳ từng điều kiện cụ thể và quy mô sản xuất khác nhau mà các doanh nghiệp áp dụng các hình thức trả lương khác nhau. Song hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đều áp dụng hai hình thức trả lương chủ yếu là trả lương theo sản phẩm và trả lương theo thời gian. 4.1.Hình thức trả lương theo sản phẩm. Đây là hình thức tiền lương tính theo số lượng, chất lượng sản phẩm, công việc hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng và đơn giá tiền lương tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc đó. Hình thức này phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng và chất lượng lao động, khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động, góp phần tăng thêm sản phẩm cho xã hội một cách hợp lý. Trong việc trả lương theo sản phẩm, vấn đề đặt ra là phải xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở cho việc xây dựng đơn gía tiền lương đối với từng loại sản phẩm,từng công việc một cách phù hợp. Hình thức trả lương theo sản phẩm cũng tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể áp dụng một số chế độ trả lương hiện hành sau: a, Trả lương theo sản phẩm trực tiếp. Với hình thức này, tiền lương phải trả cho người lao động được tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm hoàn thành đúng qui cách, phẩm chất và đơn giá tiền lương sản phẩm đã qui định. Hình thức này được các doanh nghiệp áp dụng phổ biến để tính trả lương cho lao động trực tiếp sản xuất. b,Trả lương theo sản phẩm gián tiếp. áp dụng để trả lương cho lao động gián tiếp ở các bộ phận sản xuất như lao động làm nhiệm vụ vận chuyển vật liệu, hành phẩm, bảo dưỡng máy móc thiết bị...Tuy lao động của họ không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng lại gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất lao động của lao động trực tiếp, nên có thể căn cứ vào kết quả của lao động trực tiếp mà lao động gián tiếp phục vụ để tính lương cho lao động gián tiếp. c,Trả lương theo hình thức khoán quỹ lương. Đây là một dạng đặc biệt của tiền lương trả theo sản phẩm, được áp dụng được áp dụng để trả lương cho những người làm việc taị các phòng ban của doanh nghiệp. Căn cứ vào khối lượng công việc của từng phòng ban mà doanh nghiệp tiến hành khóan quỹ lương. Quỹ lương thực tế phụ thuộc vào mức độ hoàn thành công việc được giao cho từng phòng ban. Tiền lương thực tế của từng nhân viên ngoài việc phụ thuộc vào quỹ lương thực tế của phòng ban mình còn phụ thuộc vào số lượng nhân viên của phòng ban đó. Công thức xác định quỹ lương khoán: Mức lương quy Khối lượng Quỹ lương khoán công việc = định cho từng x công việc đã công việc hoàn thành Hình thức trả lương theo sản phẩm có nhiều ưu điểm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động.Tuy nhiên để hình thức này phát huy được tối đa tác dụng, các doanh nghiệp cần phải có định mức lao động cụ thể cho từng công việc,từng cấp bậc thợ. Phải giáo dục ý thức tự giác cho người lao động, nâng cao năng suất tiết, kiệm vật tư. Đồng thời các cán bộ nghiệm thu sản phẩm cũng phải làm tốt công tác kiểm tra, nghiệm thu nhằm đảm bảo sự chính xác, công bằng trong lao động. 4.2.Hình thức trả lương theo thời gian. Hình thức trả lương theo thời gian thực hiện việc tính trả lương cho người lao động theo thời gian làm việc thực tế của họ. Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau mà mỗi ngành nghề cụ thể có một thang lương riêng. Trong mỗi thang lương lại tuỳ theo trình độ thành thạo nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên môn mà chia làm nhiều bậc lương, mỗi bậc lương có một mức tiền lương nhất định. Đơn vị để tính tiền lương thời gian là lương tháng, lương ngày và lương giờ. Lương tháng là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động. Lương tháng thường được áp dụng để trả lương cho nhân viên làm công tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế và các nhân viên thuộc các ngành không mang tính chất sản xuất. Lương ngày là tiền lương trả cho người lao động theo mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng. Mức lương ngày được tính bằng cách lấy mức lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng theo chế độ (trước đây là 26 ngày nhưng từ 1-10-1999 Nhà nước ban hành chế độ làm việc mới : tuần làm việc 5 ngày nên số ngày công chế độ trong tháng rút xuống còn 22 ngày). Lương ngày thường được áp dụng để trả lương cho lao động trực tiếp hưởng lương thời gian,tính lương cho người lao động trong những ngày hội họp, đi học hoặc làm công việc khác. *Tiền lương phải trả trong tháng = Mức lương một ngày x Số ngày làm việc thực tế trong tháng Mức Mức lương tháng theo Hệ số các loại phụ cấp * lương = cấp bậc(chức vụ) x (nếu có) ngày Số ngày làm việc trong tháng theo chế độ = *Mức lương Mức lương ngày giờ Số giờ làm việc trong ngày theo chế độ(8h) Tiền lương trả theo thời gian làm việc được chia thành tiền lương tính theo thời gian giản đơn và tiền lương tính theo thời gian có thưởng. Tiền lương tính theo thời gian giản đơn căn cứ vào số thời gian làm việc thực tế nhân với mức tiền lương của một đơn vị thời gian. Loại tiền lương này không phát huy được đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động vì nó chưa gắn kết được với số lượng và chất lượng thực tế công việc của công nhân viên chức. Tiền lương tính theo thời gian có thưởng là tiền lương tính theo thời gian giản đơn kết hợp với chế độ tiền thưởng trong sản xuất. Loại tiền lương này có tác dụng thúc đẩy người lao động tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nhìn chung hình thức trả lương theo thời gian còn có hạn chế là tiền lương còn mang tính chất bình quân, nhiều khi không phù hợp với kết quả lao động thực tế của người lao động. Vì vậy chỉ những trường hợp chưa đủ điều kiện thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm mới phải áp dụng chế độ trả lương theo thời gian và nên kết hợp với chế độ thưởng để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc. II.Quỹ tiền lương. Việc xác định quỹ tiền lương là một nội dung không thể thiếu trong các doanh nghiệp để tiến hành trả lương cho công nhân viên của mình. 1.Khái niệm quỹ lương và nguồn hình thành quỹ lương. Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền lương mà doanh nghiệp trả cho tất cả các loại lao động doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng. Thành phần quỹ lương của doanh nghiệp bao gồm các khoản chủ yếu là: tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế làm việc (theo thời gian và theo sản phẩm); tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên nhân khách quan,trong thời gian được điều động làm công tác nghĩa vụ theo chế độ qui định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học; các khoản phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ; các khoản tiền thưởng có tính chất thường xuyên. *Nguồn hình thành quỹ lương. Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh,doanh nghiệp xác định nguồn quỹ tiền lương tương ứng để trả lương cho người lao động. Nguồn hình thành quỹ lương bao gồm: Quỹ tiền lương theo đơn giá tiền lương được giao. Quỹ tiền lương bổ sung theo chế độ qui định . Quỹ tiền lương từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Quỹ tiền lương dự phòng từ năm trước chuyển sang. Trong doanh nghiệp, để phục vụ cho công tác hạch toán, tiền lương có thể được chia thành hai loại: Tiền lương chính và tiền lương phụ. Tiền lương chính là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian người lao động làm nhiệm vụ chính của họ gồm tiền lương cấp bậc và các khoản phụ cấp kèm theo. Tiền lương phụ là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian họ thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính và thời gian người lao động nghỉ phép, nghỉ tết, nghỉ vì ngừng sản xuất...được hưởng lương theo chế độ. Việc phân loại quỹ lương trong doanh nghiệp thành tiền lương chính và tiền lương phụ có ý nghĩa nhất định trong công tác hạch toán và phân bổ tiền lương theo đúng đối tượng và công tác phân tích chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm. 2. Phương pháp xác định đơn giá tiền lương. Khi xây dựng được quỹ tiền lương trong doanh nghiệp, vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng quỹ lương có hiệu quả. Để đảm bảo quỹ tiền lương thực tế không vượt chi so với quỹ lương được hưởng các doanh nghiệp Nhà nước tuân theo những quy định phân chia tổng quỹ lương như sau: - Quỹ lương trả trực tiếp cho người lao động theo lương khoán,lương sản phẩm,lương thời gian ít nhất bằng 76% tổng quỹ lương. - Quỹ dự phòng cho năm sau không vượt quá 2% tổng quỹ lương. - Quỹ khen thưởng từ quỹ lương đôi với người lao động có năng suất cao, thành tích tốt không quá 10% tổng quỹ lương. - Quỹ khuyến khích người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tay nghề giỏi không quá 2% tổng quỹ lương. Như vậy, Nhà nước đã qui định khá rõ ràng trong việc phân chia quỹ tiền lương của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý quỹ lương trong doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp, do có những đặc điểm riêng về hoạt động và quy mô sản xuất kinh doanh nên tự xây dựng cho mình một phương pháp tính đơn giá tiền lương thích hợp, trên cơ sở đó xác định được tổng quỹ lương thực hiện một cách chính xác hợp lý. Theo thông tư liên bộ số 20/LB-TT ngày 2-6-1993 của liên bộ Lao động bộ Tài chính, có các cách xác định đơn giá tiền lương như sau: *Đơn giá tiền lương tính theo đơn vị sản phẩm. ĐGsp = TLcb x Tsp Trong đó: ĐGsp : đơn giá tiền lương tính trên đơn vị sản phẩm. TLcb : tiền lương cấp bậc. Tsp : mức thời gian hao phí trên một đơn vị sản phẩm. = x + Quỹ tiền lương (Đơn giá Tổng sản phẩm Quỹ tiền lương thực hiện tiền lương hàng hoá ) thực hiện bổ sung Phương pháp này tương ứng với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất,kinh doanh được chọn là tổng sản phẩm bằng hiện vật(kể cả sản phẩm quy đổi),thường được áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất,kinh doanh loại sản phẩm hoặc một số loại sản phẩm có thể quy đổi được. *Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu - tổng chi phí Vkh ĐGdt-cp = DTkh - CPkh Trong đó: ĐGdt-cp :đơn giá tiền lương tính trên Tổng DT -Tổng CP. Vkh: quỹ tiền lương năm kế hoạch DTkh: tổng doanh thu kế hoạch CPkh: tổng chi phí kế hoạch(gồm toàn bộ các khoản chi phí hợp lệ trong giá thành sản phẩm). = x - Quỹ tiền lương Đơn giá Tổng doanh thu Tổng thực hiện tiền lương thực hiện chi phí Phương pháp này áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất,kinh doanh nhiều loại sản phẩm và có định mức lao động cho từng loại sản phẩm. *Đơn giá tiền lương tính trên lợi nhuận. Vkh ĐGln = Pkh Trong đó: ĐGln : đơn giá tiền lương tính trên lợi nhuận Vkh : quỹ tiền lương năm kế hoạch Pkh : lợi nhuận năm kế hoạch. Quỹ tiền lương Đơn giá Lợi nhuận thực hiện = tiền lương x thực hiện Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi cho các doanh nghiệp có nhiều loại sản phẩm,kinh doanh ổn định,dự đoán được tổng thu,tổng chi và lợi nhuận. *Đơn giá tiền lương tính trên doanh thu. Vkh ĐGdt = DTkh Trong đó: ĐGdt : đơn giá tiền lương tính trên doanh thu Vkh : quỹ tiền lương năm kế hoạch DTkh : doanh thu năm kế hoạch . = x Quỹ tiền lương Đơn giá Tổng doanh thu thực hiện tiền lương thực hiện Phương pháp này được dùng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định,không thể áp dụng các phương pháp khác. Có thể nói, tiền lương có vai trò hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp và với người lao động. Các doanh nghiệp cần có một phương thức trả lương thích hợp nhằm kích thích năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của người lao động đồng thời cũng thực hiện tiết kiệm tối đa chi phí về nhân công. Quỹ lương thực tế phải được thường xuyên đối chiếu với quỹ lương kế hoạch để kịp thời phát hiện những khoản không hợp lý và có biện pháp khắc phục góp phần hạ chi phí trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. III.Các khoản trích theo lương. Các khoản trích theo lương gồm có: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí Công Đoàn. 1.Bảo hiểm xã hội. Theo khái niệm của tổ chức lao động quốc tế ILOS,Bảo hiểm xã hội được hiểu là sự bảo vệ của xã hội với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế-xã hội, bị giảm thu nhập do ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già... Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn: -Đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích BHXH là 20% trong đó, 15% do đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động nộp được tính vào chi phí kinh doanh, 5% do người lao động đóng góp được tính trừ vào thu nhập của họ. -Do Nhà nước đóng góp và hỗ trợ một phần. -Tiền lời từ việc thực hiện các hoạt động đầu tư, bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. -Được viện trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ BHXH được chi tiêu cho các trường hợp người lao động ốm đau,thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất...Quỹ này do cơ quan bảo hiểm xã hội quản lý. Quỹ BHXH mang tính chất cộng đồng, đóng góp xây dựng quỹ BHXH là nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân. 2.Bảo hiểm y tế Nhằm xã hội hoá việc khám chữa bệnh, người lao động còn được hưởng các khoản khám chữa bệnh không mất tiền bao gồm các khoản viện phí, thuốc men khi ốm đau, trong thời gian sinh đẻ...nếu họ có thẻ Bảo hiểm y tế. Thẻ này được trích mua từ quỹ BHYT. Quỹ BHYT được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương của công nhân viên chức thực tế phát sinh trong tháng. Theo qui định hiện nay, tỷ lệ trích BHYT trên lương là 3%, trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ sử dụng lao động trả, 1% tính trừ vào thu nhập của người lao động. BHYT mang tính chất bắt buộc với mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. 3.Kinh phí Công Đoàn. Công Đoàn là một tổ chức của người lao động, do người lao động lập ra, hoạt động vì lợi ích người lao động. Công Đoàn đại diện cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, vừa bảo vệ quyền lợi vừa trực tiếp hướng dẫn và giáo dục thái độ lao động cho họ. Đây là một tổ chức rất cần thiết trong mọi doanh nghiệp. Để có nguồn kinh phí cho hoạt động của tổ chức Công Đoàn,hàng tháng các doanh nghiệp phải trích theo một tỷ lệ qui định trên tổng số quỹ tiền lương, tiền công và phụ cấp thực tế phải trả người lao động để hình thành kinh phí Công Đoàn. Theo chế độ hiện hành,t ỷ lệ trích kinh phí Công Đoàn là 2% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp chịu. Trong 2% này thì 1% nộp cho hoạt động Công Đoàn cấp trên và 1% dành cho hoạt động Công Đoàn cơ sở. 4.Các khoản thu nhập khác. a,Phụ cấp lương. Điều 4 Nghị định 26/CP ngày 23/5/1995 qui định có 7 loại phụ cấp sau: -Phụ cấp khu vực: áp dụng cho những lao động làm việc ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, điều kiện sống và sinh hoạt gặp nhiều khó khăn. -Phụ cấp ca ba: là khoản phụ cấp trả cho những người làm thêm ca ba. -Phụ cấp thu hút: khuyến khích những công nhân viên chấp nhận đến làm việc ở những vùng kinh tế mới, những nơi xa xôi. -Phụ cấp có điều kiện:áp dụng với lao động độc hại hoặc nguy hiểm chưa được xác định trong mức lương. -Phụ cấp đắt đỏ: áp dụng cho những nơi có chỉ số giá cả sinh hoạt cao hơn chỉ số giá bình quân từ 10% trở lên. -Phụ cấp lưu động: áp dụng đối với một số công việc phải thường xuyên thay đổi địa điểm. -Phụ cấp trách nhiệm: trả cho những người vừa trực tiếp sản xuất vừa kiêm cả chức vụ quản lý nhưng không thuộc chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm, hoặc những người làm công việc đòi hỏi trách nhiệm cao nhưng chưa được xác định trong mức lương. b,Chế độ thưởng. Ngoài chế độ tiền lương và các khoản trích theo lương, các doanh nghiệp còn xác định chế độ tiền thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Có 2 chế độ thưởng như sau: -Thưởng thường xuyên: được trích từ quỹ lương để trả cho người lao động theo một tiêu chuẩn nhất định. Đây là một khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động,tránh bình quân chủ nghĩa. Tiền thưởng phụ thuộc nhiều vào năng lực sản xuất và sáng tạo của người lao động, có tác dụng khuyến khích người lao động hăng say làm việc. +Tiền thưởng về chất lượng sản phẩm: áp dụng khi công nhân có sáng kiến làm nâng cao chất lượng sản phẩm. Khoản tiền này tính trên cơ sở tỷ lệ chung không quá 40% phần chênh lệch giá giữa sản phẩm có phẩm cấp cao với sản phẩm có phẩm cấp thấp. +Tiền thưởng về tiết kiệm vật tư: áp dụng khi người lao động có sáng kiến, biện pháp làm việc tiết kiệm được vật tư, hàng hoá. Khoản tiền thưởng này tính trên cơ sở giá trị vật tư người lao động tiết kiệm được so với định mức và tỷ lệ quy định không quá 40%. -Tiền thưởng định kỳ: khoản tiền thưởng này không thuộc quỹ lương mà được trích từ quỹ khen thưởng, khoản tiền thưởng này thường được trả cho người lao động dưới hình thức phân loại người lao động trong một kỳ (quý,năm,nửa năm). Khoản tiền này không thuộc chi phí của doanh nghiệp nhưng thuộc thu nhập của người lao động. Thưởng một cách đúng đắn, hợp lý là cần thiết, nó sẽ trở thành một đòn bẩy kinh tế kích thích tăng năng suất và tiết kiệm chi phí. Vì vậy, chế độ tiền thưởng cần tôn trọng các nguyên tắc sau: *Phải xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu,t ầm quan trọng của sản xuất hay công việc mà áp dụng hình thức hay chế độ thưởng thích hợp. *Phải đảm bảo mối quan hệ giữa chỉ tiêu số lượng và chất lượng. *Đảm bảo mức thưởng hợp lý,công bằng với người lao động. *Tiền thưởng không vượt quá số tiền làm lợi IV.Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Trong các doanh nghiệp, tiền lương phụ thuộc vào vị trí và trách nhiệm của người lao động với công việc. Số tiền phải trả cho những cá nhân khác nhau là khác nhau. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác hạch toán tiền lương là phải hạch toán trên nguyên tắc chính xác tuyệt đối, đảm bảo sự công bằng trong doanh nghiệp. Công tác hạch toán tiền lương được tiến hành theo 2 phương pháp là hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp. 1.Hạch toán chi tiết. Hạch toán chi tiết các nghiệp vụ về tiền lương trong doanh nghiệp là sự quan sát,phản ánh,giám đốc trực tiếp về số lượng lao động,thời gian lao động và kết quả lao động.Trên cơ sở đó sẽ tính toán và xác định số tiền lương phải trả cho từng lao động trong doanh nghiệp. a,Hạch toán số lượng lao động . Để quản lý lao động về mặt số lượng, các doanh nghiệp sử dụng sổ danh sách lao động. Sổ này do phòng lao động-tiền lương lập căn cứ vào số lao động hiện có của doanh nghiệp. Sổ danh sách lao động không chỉ được lập chung cho toàn doanh nghiệp mà còn được lập riêng cho từng bộ phận doanh nghiệp để nắm tình hình phân bổ, sử dụng lao động hiện có của từng đơn vị. Cơ sở để ghi sổ danh sách lao động là những chứng từ ban đầu về tuyển dụng,thuyên chuyển công tác , nâng bâc,t hôi._. việc...Các chứng từ này do phòng tổ chức lao động tiền lương lập mỗi khi có sự thay đổi về số lao động. Mọi biến động đều phải được ghi chép kịp thời vào sổ danh sách lao động để trên cơ sở đó làm căn cứ cho việc tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động kịp thời. b,Hạch toán thời gian lao động. Hạch toán sử dụng thời gian lao động phải đảm bảo ghi chép ,phản ánh kịp thời ,chính xác số ngày công, giờ công làm việc thực tế hoặc ngừng sản xuất, nghỉ việc của từng lao động, từng phòng ban trong doanh nghiệp. Hạch toán sử dụng thời gian lao động có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý lao động, kiểm tra việc chấp hành kỷ luật lao động, làm căn cứ tính lương, thưởng chính xác cho người lao động. Chứng từ ban đầu quan trọng nhất để hạch toán thời gian lao động trong các doanh nghiệp là "Bảng chấm công" (Mẫu 02-LĐTL,chế độ chứng từ kế toán). Mọi thời gian thực tế làm việc, nghỉ việc, vắng mặt của người lao động đều phải được ghi chép hàng ngày vào bảng chấm công. Bảng chấm công được lập cho từng bộ phận, tổ đội lao động sản xuất và dùng trong một tháng. Tổ trưởng sản xuất hoặc trưởng các phòng ban là người trực tiếp ghi bảng chấm công căn cứ vào số lao động có mặt, vắng mặt đầu ngày làm việc ở đơn vị mình.Cuối tháng, bảng chấm công được dùng để tổng hợp thời gian lao động. c,Hạch toán kết quả lao động. Đi đôi với việc hạch toán số lượng và thời gian lao động,việc hạch toán kết quả lao động là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác quản lý và hạch toán lao động ở các doanh nghiệp sản xuất. Hạch toán kết quả lao động phải đảm bảo phản ánh chính xác số lượng và chất lượng sản phẩm hoặc khối lượng công việc hoàn thành của từng người,từng bộ phận. Làm căn cứ tính lương, tính thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả lao động thực tế, tính toán xác định năng suất lao động, kiểm tra tình hình thực hiện định mức lao động của từng người, từng bộ phận và cả doanh nghiệp. Để hạch toán kết quả lao động trong các doanh nghiệp, người ta sử dụng các chứng từ ban đầu khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp. Các chứng từ ban đầu được sử dụng phổ biến để hạch toán kết quả lao động là các báo cáo về kết quả sản xuất như : Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành (mẫu 06-LĐTL,chế độ chứng từ kế toán); Bảng theo dõi công tác ở tổ; Phiếu khoán; Hợp đồng giao khoán; Phiếu báo làm thêm giờ...Chứng từ hạch toán kết quả lao động được lập do tổ trưởng ký, cán bộ kiểm tra kỹ thuật xác nhận. Các chứng từ này được chuyển cho phòng lao động tiền lương xác nhận và chuyển về phòng kế toán để làm căn cứ tính lương,tính thưởng. Hạch toán kết quả lao động là cơ sở để tính lương cho người lao động hay bộ phận lao động hưởng lương theo sản phẩm. Đồng thời kế toán sẽ tính trợ cấp BHXH cho người lao động căn cứ vào: giấy nghỉ ốm, biên bản điều tra tai nạn lao động, giấy chứng sinh... d,Tính lương,thưởng cho người lao động. Công việc tính lương, thưởng và các khoản phải trả khác cho người lao động được thực hiện tập trung tại phòng kế toán doanh nghiệp. Thời gian để tính lương thưởng và các khoản phải trả khác cho người lao động theo tháng. Tất cả các chứng từ làm căn cứ để tính phải được kế toán kiểm tra trước khi tính lương,thưởng và bảo đảm được các yêu cầu của chứng từ kế toán. Sau khi đã kiểm tra các chứng từ kế tính lương, thưởng, trợ cấp, phụ cấp...kế toán tiến hành tính toán theo các hình thức chế độ đang áp dụng tại doanh nghiệp. Để thanh toán tiền lương, thưởng và các khoản phụ cấp,trợ cấp cho người lao động, hàng tháng kế toán doanh nghiệp phải lập "Bảng thanh toán tiền lương" cho từng tổ đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban căn cứ vào kết quả tính lương cho từng người. Trong bảng thanh toán lương có ghi rõ từng khoản tiền lương gồm lương sản phẩm, lương thời gian, các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và số tiền người lao động được lĩnh. Các khoản thanh toán trợ cấp BHXH cũng được lập tương tự. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra, xác nhận, ký, giám đốc ký duyệt, "Bảng thanh toán lương và bảo hiểm xã hội" sẽ là căn cứ để thanh toán lương, bảo hiểm xã hội cho người lao động. Tại các doanh nghiệp, việc thanh toán lương và các khoản khác cho người lao động thường được chia làm 2 kỳ. Kỳ I: Tạm ứng và Kỳ II: thanh toán nốt số còn lại sau khi đã trừ các khoản khấu trừ . Các khoản thanh toán lương,thanh toán BHXH, bảng kê danh sách những người chưa lĩnh lương cùng với các chứng từ báo cáo thu chi tiền mặt phải được chuyển về phòng kế toán để kiểm tra , ghi sổ. 2.Hạch toán tổng hợp tiền lương và các khoản trích theo lương. a,Tài khoản kế toán sử dụng. Để hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương, kế toán sử dụng các tài khoản sau: *Tài khoản 334: "Phải trả công nhân viên". Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản thanh toán với công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương, tiền công, tiền thưởng và các khoản khác thuộc về thu nhập của công nhân viên. Kết cấu tài khoản này như sau: -Bên Nợ :+ Các khoản khấu trừ vào tiền lương , tiền công của công nhân viên. +Tiền lương, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác đã trả, đã ứng cho công nhân viên. + Tiền lương công nhân viên chưa lĩnh kết chuyển -Bên Có: +Tiền lương, tiền công và các khoản khác phải trả cho công nhân viên chức . Dư Nợ (nếu có): Số trả thừa cho công nhân viên. Dư Có : Tiền lương, tiền công và các khoản còn phải trả công nhân viên. *Tài khoản 338: "Phải trả phải nộp khác". Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản phải trả phải nộp cho cơ quan pháp luật, cho các tổ chức đoàn thể xã hội, cho cấp trên về kinh phí Công đoàn,BHXH,BHYT, các khoản khấu trừ vào lương theo quyết định, giá trị tài sản thừa chờ xử lý...Tài khoản 338 có 6 tài khoản cấp 2 song ở đây ta chỉ quan tâm tới 3 tài khoản cấp 2 đó là: -TK 3382.Kinh phí Công Đoàn. -TK 3383.Bảo hiểm xã hội. -TK 3384.Bảo hiểm y tế. Kết cấu các tài khoản này như sau: -TK 3382.Kinh phí Công Đoàn. Bên Nợ : +Chi tiêu kinh phí Công Đoàn tại doanh nghiệp. +Kinh phí Công đoàn đã nộp. Bên Có : +Trích kinh phí Công đoàn vào chi phí kinh doanh. Dư Có : Kinh phí Công đoàn chưa nộp,chưa chi. Dư Nợ : Kinh phí Công đoàn vượt chi. -TK 3383.Bảo hiểm xã hội. Bên Nợ :+BHXH phải trả người lao động. +BHXH đã nộp cho cơ quan quản lý BHXH . Bên Có :+Trích BHXH vào chi phí kinh doanh +Trích BHXH trừ vào thu nhập người lao động Dư Có :BHXH chưa nộp Dư Nợ :BHXH vượt chi -TK 3384.Bảo hiểm y tế. Bên Nợ : Nộp BHYT Bên Có :+Trích BHYT tính vào chi phí kinh doanh +Trích BHYT tính trừ vào thu nhập người lao động Dư Có :BHYT chưa nộp. *Tài khoản 335 :"Chi phí phải trả" Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản được ghi nhận là chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ nhưng thực tế chưa phát sinh mà sẽ phát sinh trong kỳ này hoặc nhiều kỳ sau. Kết cấu tài khoản này như sau. -Bên Nợ :+Các chi phí thực tế phát sinh thuộc nội dung chi phí phải trả. +Chi phí phải trả lớn hơn số chi phí thực tế được hạch toán giảm chi phí kinh doanh. -Bên Có :Chi phí phải trả đã tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh Dư Có :Chi phí phải trả đã tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. Ngoài các tài khoản 334,338,335, kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương còn sử dụng một số tài khoản khác như TK 622,TK 627,TK 111,TK 112,TK 138... b,Tổng hợp phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương. Hàng tháng, kế toán tiến hành tổng hợp và tính trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo quy định trên cơ sở tổng hợp tiền lương phải trả và các tỷ lệ trích BHXH,BHYT,KPCĐ theo chế độ hiện hành. Tổng hợp phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương được thực hiện trên bảng "Phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội". Trên bảng phân bổ này ngoài tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,kinh phí Công đoàn còn phản ánh việc trích trước các khoản chi phí phải trả,cụ thể kỳ trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất. Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội được lập hàng tháng trên cơ sở các chứng từ về lao động và tiền lương trong tháng. Kế toán tiến hành phân loại và tổng hợp tiền lương, tiền công phải trả theo từng đối tượng sử dụng lao động,theo trực tiếp sản xuất ở từng phân xưởng và theo quản lý chung toàn doanh nghiệp. Trong đó phân biệt tiền lương, các khoản phụ cấp và các khoản khác để ghi vào các cột thuộc phần ghi Có TK 334 ở các dòng phù hợp. Căn cứ vào tiền lương thực tế phải trả và căn cứ vào tỷ lệ trích quy định về BHXH, BHYT, KPCĐ để tính trích ghi vào các cột phần ghi có TK 338 thuộc 3382,3383,3384. Căn cứ vào các tài liệu liên quan và căn cứ vào việc tính trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất để ghi vào cột Có TK 335. Tổng hợp số liệu phân bổ tiền lương, các khoản trích BHXH,BHYT,KPCĐ và các khoản trích trước,được sử dụng cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất để ghi sổ kế toán tập hợp chi phí sản xuất cho các đối tượng sử dụng. c,Kế toán tổng hợp tiền lương và các khoản trích theo lương. Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu được thực hiện như sau: -Hàng tháng tính ra số tiền lương phải trả cho công nhân viên và phân bổ cho các đối tượng, kế toán ghi Nợ TK 622 :Tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất Nợ TK 627(6271):Tiền lương phải trả cho lao động gián tiếp và nhân viên quản lý phân xưởng Nợ TK 641(6411):Tiền lương trả cho nhân viên bán hàng Nợ TK 642(6421):Tiền lương trả cho bộ phận quản lý doanh nghiệp Nợ TK 241 :Tiền lương công nhân xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn tài sản cố định Có TK 334:Tổng số tiền lương phải trả công nhân viên trong tháng -Tính ra số tiền thưởng phải trả công nhân viên Nợ TK 431(4311): Thưởng thi đua lấy từ quỹ khen thưởng Nợ TK 622,6271,6411,6421: Thưởng trong sản xuất Có TK 334: Tổng số tiền thưởng phải trả -Trích BHXH,BHYT,KPCĐ hàng tháng Nợ TK 622,627,641,642: Phần tính vào chi phí sản xuất kinh doanh (19%) Nợ TK 334 : Phần tính trừ thu nhập của công nhân viên(6%) Có TK 338 (3382,3383,3384): Tổng KPCĐ,BHXH,BHYT phải trích -Các khoản khấu trừ vào thu nhập của công nhân viên . Nợ TK 334: Tổng các khoản khấu trừ Có TK 333(3338): Thuế thu nhập phải nộp Có TK 141 : Số tạm ứng trừ vào lương Có TK 138 : Các khoản bồi thường vật chất thiệt hại -Thanh toán tiền lương, BHXH, tiền thưởng cho công nhân viên Nợ TK 334 :Các khoản đã thanh toán Có TK 111:Thanh toán bằng tiền mặt Có TK 112:Thanh toán bằng TGNH -Khi chuyển tiền nộp BHXH, BHYT, KPCĐ Nợ TK 338 (3382,3383,3384) Có TK 111,112 -Chi tiêu kinh phí Công đoàn để lại doanh nghiệp Nợ TK 338(3382) Có TK 338(3388) -Trường hợp số đã trả, đã nộp về kinh phí Công đoàn,bảo hiểm xã hội kể cả số vượt chi lớn hơn số phải trả, phải nộp, khi được cấp bù kế toán ghi Nợ TK 111,112 : Số tiền cấp bù đã nhận Có TK 338 (3382,3383): Số được cấp bù Tại các doanh nghiệp sản xuất, để tránh sự biến động của giá thành sản phẩm,doanh nghiệp có thể tiến hành trích trước tiền lương công nhân nghỉ phép tính vào chi phí sản xuất sản phẩm, coi như một khoản chi phí phải trả. Cách tính như sau: Mức trích trước tiền Tiền lương thực tế lương phép của CNSX = phải trả cho CN x Tỷ lệ trích trước theo kế hoạch trực tiếp sản xuất Tổng số tiền lương nghỉ phép kế hoạch năm của công nhân trực tiếp sản xuất Tỷ lệ trích trước = x 100% Tổng số tiền lương chính kế hoạch năm của công nhân sản xuất -Hàng tháng, khi trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất ,kế toán ghi Nợ TK 622 Có TK 335 -Số tiền lương công nhân nghỉ phép thực tế phải trả Nợ TK335 Có TK 334 Đối với các doanh nghiệp không tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất thì khi tính tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất thực tế phải trả kế toán ghi Nợ TK 622 Có TK 334 Có thể khái quát công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương bằng sơ đồ kế toán tổng quát sau: K333,138,141 TK 334 TK622,627,641,642 Các khoản Các khoản Lương chính,thưởng trong sx khấu trừ (thuế, phải trả phải thu,tạm nộp) TK 335 Tiền lương phép Trích trước lương TK 338 của CNSX phép của CNSX BHXH,BHYT do TK 431 người LĐ đóng Tiền thưởng từ quỹ khen thưởng TK111,112,512,3331 Thanh toán các TK 338 khoản cho người lđ BHXH TríchBHXH,BHYT KPCĐ vào chi phí Nộp BHXH,BHYT,KPCĐ,chi tiêu KPCĐ TK 111,112 Số chi vượt được cấp bù V.Tổ chức hệ thống sổ hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương Trong quá trình hình thành và phát triển của khoa học kế toán, công tác kế toán ở các đơn vị đã sử dụng các loại sổ kế toán khác nhau, hình thành những hình thức kế toán khác nhau. Hình thức kế toán là hệ thống tổ chức sổ kế toán bao gồm số lượng sổ, kết cấu mẫu sổ, mối quan hệ giữa các loại sổ được sử dụng để ghi chép, tổng hợp, hệ thống hoá số liệu từ chứng từ gốc theo một trình tự và phương pháp ghi sổ nhất định nhằm cung cấp các tài liệu có liên quan đến các chỉ tiêu kinh tế tài chính, phục vụ việc lập các báo cáo kế toán. Hiện nay, ở nước ta các đơn vị đang sử dụng một trong các hình thức sổ kế toán sau: -Hình thức kế toán Nhật ký -Sổ cái -Hình thức kế toán chứng từ ghi sổ -Hình thức kế toán Nhật ký chung -Hình thức kế toán Nhật ký - chứng từ Lựa chọn hình thức kế toán phù hợp sử dụng trong công tác kế toán sẽ phát huy đầy đủ vai trò kế toán trong quản lý có hiệu quả các hoạt động kinh tế tài chính,thúc đẩy đơn vị. Bởi vậy, các đơn vị cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của đơn vị về qui mô, đặc điểm hoạt động, yêu cầu quản lý, điều kiện trang bị và ứng dụng kỹ thuật tính toán, thông tin, trình độ của cán bộ kế toán, cán bộ quản lý mà lựa chọn hình thức kế toán thích hợp và phải tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc cơ bản của hình thức kế toán đã lựa chọn về loại sổ, kết cấu các loại sổ, mối quan hệ và sự kết hợp giữa các loại sổ cũng như trình tự và phương pháp ghi sổ. *Tổ chức hệ thống sổ hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương theo hình thức Nhật ký-Chứng từ. Hệ thống sổ kế toán sử dụng trong hình thức này gồm: Sổ Nhật ký - chứng từ số 7 tài khoản 334,338; Sổ cái các tài khoản 334,338; Bảng phân bổ tiền lương và BHXH. Ngoài ra có thể sử dụng thêm Nhật ký chứng từ số 1,Nhật ký chứng từ số 2. Sổ Nhật ký chứng từ số 7 được sử dụng để ghi chép toàn bộ các nghiệp vụ về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương đã được hệ thống hoá theo số phát sinh bên Có của từng tài khoản 334, 338 có quan hệ đối ứng với bên Nợ các tài khoản có liên quan. Sổ cái các tài khoản 334, 338 là một loại sổ kế toán tổng hợp được mở cho cả năm. Mỗi tài khoản 334 hay 338 được ghi vào một tờ sổ riêng trong đó phản ánh số phát sinh Nợ, số phát sinh Có, số dư cuối tháng hoặc cuối quý của các tài khoản này. Số phát sinh bên Có phản ánh trong sổ cái tài khoản 334,338 được lấy theo tổng số từ Nhật ký chứng từ số 7 (tài khoản 334,338),số phát sinh bên Nợ được phản ánh chi tiết theo từng tài khoản đối ứng Có lấy từ các Nhật ký chứng từ liên quan (Ví dụ Nhật ký chứng từ số 1,số 2).Sổ Cái chỉ ghi một lần vào ngày cuối tháng hoặc cuối quý sau khi đã kiểm tra,đối chiếu số liệu trên các Nhật ký chứng từ. Bảng phân bổ tiền lương và BHXH được dùng để tập hợp số liệu của các chứng từ gốc như:Bảng thanh toán lương,bảng thanh toán BHXH,bảng thanh toán tiền thưởng...Cuối tháng, số liệu tổng cộng của bảng phân bổ tiền lương và BHXH được chuyển vào Nhật ký chứng từ số 7. Bảng này mở theo vế có của tài khoản 334, TK 338 và theo vế Nợ các tài khoản: 622, 627, 641,642, 142... Nhật ký chứng từ số 1, số 2 được sử dụng để đối chiếu giữa số phát sinh Nợ tài khoản 334, 338 với số phát sinh có của TK 334,338 trong Nhật ký chứng từ số 7. *Trình tự và phương pháp ghi sổ hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong hình thức Nhật ký chứng từ. Căn cứ vào các chứng từ gốc (Bảng thanh toán lương, bảng thanh toán BHXH, bảng thanh toán tiền thưởng...) đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp, kế toán tiến hành tập hợp, phân loại, định khoản, tính toán để ghi vào bảng phân bổ tiền lương và BHXH. Cuối tháng, sử dụng số liệu ở bảng phân bố tiền lương và BHXH để ghi vào Nhật ký chứng từ số 7(ghi Có tài khoản 334,338, ghi Nợ các tài khoản 622,627,642,641...). Cuối mỗi tháng hoặc mỗi quý, kế toán tiến hành đối chiếu, kiểm tra số liệu ghi trong bảng phân bổ tiền lương và Nhật ký chứng từ số 7, đảm bảo số liệu được ghi đúng đắn, đầy đủ, chính xác. Sau đó, sử dụng số liệu ở Nhật ký chứng từ số 7 ghi vào sổ cái các tài khoản 334,338. Trình tự hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương được thể hiện qua sơ đồ sau. Các chứng từ gốc Bảng phân bổ lương và BHXH Nhật ký chứng từ số 7. Có TK 334,338 Các chứng từ thanh toán Nhật ký chứng từ số 1,2. Nợ 334,338 Có 111,112 Sổ cái tài khoản 334,338 Ghi chú: :Ghi hàng ngày. : ghi cuối tháng. : đối chiếu. VI.Phân tích tình hình quản lý quỹ lương của doanh nghiệp và các biện pháp nâng cao năng suất lao động. Tiền lương là một trong những hình thức kích thích lợi ích vật chất đối với người lao động. Vì vậy, để sử dụng đòn bẩy tiền lương nhằm đảm bảo sản xuất phát triển,duy trì một đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao với ý thức kỷ luật vững,đòi hỏi công tác tổ chức và quản lý tiền lương trong doanh nghiệp phải đặc biệt coi trọng.T iền lương phải được xác định một cách tương ứng với tính chất ngành nghề, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế từng doanh nghiệp. 1.Hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình quản lý và sử dụng quỹ lương của doanh nghiệp. Tổng quỹ lương Năng suất lao động Tiền lương bình quân Số lao động bình quân *Nội dung phân tích . Đối với chỉ tiêu tổng quỹ lương : Nếu quỹ lương thực tế lớn hơn so với quỹ lương kế hoạch chứng tỏ doanh nghiệp đã để thêm ra một khoản bổ sung vào quỹ lương kế hoạch. Điều này có thể sẽ làm cho thu nhập của người lao động tăng lên nhưng về phía doanh nghiệp thì lại không tốt vì như thế chi phí nhân công sẽ cao. Nếu ngược lại quỹ lương thực tế nhỏ hơn quỹ lương kế hoạch,doanh nghiệp cần xem xét đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình vì kết quả sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định quỹ lương trong doanh nghiệp. Quỹ tiền lương năm kế hoạch được xác định như sau: ồVkh = [ Lđb x TLmin x (Hcb + Hpc)] x 12 tháng Trong đó: Vkh: quỹ lương năm kế hoạch. Lđb: lao động định biên. TLmin: mức lương tối thiểu doanh nghiệp quy định. Hcb: hệ số lương cấp bậc công việc bình quân. Hpc: hệ số các khoản phụ cấp lương bình quân. Các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu tổng quỹ lương chính là các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh như: Doanh thu, lợi nhuận, chi phí...Doanh nghiệp cần quan tâm đến việc thực hiện các chỉ tiêu này để xác định được quỹ lương thực tế một cách chính xác, hợp lý. Đối với chỉ tiêu năng suất lao động và tiền lương bình quân phải phân tích cả hai chỉ tiêu này đồng thời. Giá trị sản lượng Năng suất lao động = Số lao động bình quân kỳ Quỹ lương Tiền lương bình quân = Số lao động bình quân kỳ Để đảm bảo nguyên tắc của quản lý lao động tiền lương thì tốc độ tăng tiền lương bình quân phải chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Nếu tốc độ tăng năng suất lao động chậm hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân thì doanh nghiệp cần xem lại các khâu từ tổ chức định mức lao động đến quản lý thời gian lao động có phù hợp không, từ đó có biện pháp khắc phục, điều chỉnh kịp thời. Đối với chỉ tiêu số lao động bình quân: đây cũng là một nhân tố có ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng quỹ lương.Các doanh nghiệp nên căn cứ vào đặc điểm,quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình để có các quyết định tuyển chọn hoặc thuyên chuyển nhân viên cho phù hợp.Tránh tình trạng lao động dôi dư gây lãng phí đồng thời không để doanh nghiệp bị thiếu lao động khiến cho quá trình sản xuất không thể tiến hành. Số LĐ đầu kỳ + Số LĐ cuối kỳ Số lao động bình quân = 2 2.Các biện pháp tăng cường quản lý quỹ lương và nâng cao năng suất lao động. Quỹ lương bao giờ cũng phải dựa trên nguyên tắc "...bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp,kết hợp với quản lý thống nhất của Nhà nước về tiền lương trên cơ sở gắn thu nhập của người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời kết hợp hai hoà giữa các lợi ích..." Đối với Nhà nước,quản lý quỹ tiền lương được thông qua các quy định,chế độ như thang lương,bảng lương,mức lương tối thiểu.Nhà nước hướng dẫn việc xây dựng quỹ lương và quản lý nó. Đối với doanh nghiệp việc quản lý quỹ lương được thực hiện thông qua cách tính lương,trả lương,xây dựng các quy định về tiền lương dựa trên các chế độ mà Nhà nước ban hành. Để quản lý quỹ lương có hiệu quả, các doanh nghiệp có thể áp dụng một số biện pháp sau: -Củng cố và đổi mới công tác định mức lao động trong doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc xây dựng mức chi phí tiền lương một cách chính xác. -Bảo đảm tối đa sự thống nhất giữa lợi ích doanh nghiệp với lợi ích người lao động. -Khuyến khích những sáng kiến cải tiến phương pháp và thao tác lao động nhằm giảm bớt chi phí,nâng cao năng suất lao động. -Thực hiện chấn chỉnh lại tổ chức sản xuất và tổ chức lao động trong doanh nghiệp,tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế khoán mức tiền lương theo kết quả sản xuất kinh doanh. -Tiết kiệm chi phí lao động cho một đơn vị kết quả sản xuất kinh doanh,do đó tiết kiệm chi phí tiền lương trong khi tiền lương và thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp vẫn tăng lên. -Trên cơ sở nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đã xác định,xây dựng cơ chế,hợp đồng tuyển dụng lao động. Trong danh sách tuyển dụng lao động các doanh nghiệp cần quán triệt nguyên tắc:nhiệm vụ sản xuất kinh doanh sẽ quyết định mức thuê,tuyển dụng chứ không phải ngược lại. -Xây dựng các hình thức phân công và hiệp tác lao động hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất kinh doanh và tâm sinh lý người lao động. -Xây dựng và áp dụng các hình thức trả lương hợp lý nhằm gắn tinh thần, trách nhiệm của người lao động với kết quả lao động của họ và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường kỷ luật lao động trong doanh nghiệp,hướng người lao động vào việc đề cao tinh thần tự giác,sáng tạo.Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn,trình độ văn hoá,khoa học kỹ thuật cho người lao động. -Cải thiện điều kiện lao động,xây dựng các biện pháp an toàn vệ sinh cho người lao động. Phần II Thực trạng hạch toán lao động tiền lương và các khoản trích theo lương ở công ty sơn tổng hợp hà nội I.Đặc điểm chung của Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội. 1,Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Sơn Tổng Hợp Hà Nội là một công ty trực thuộc và chịu sự quản lý của Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam. Công ty Sơn Tổng Hợp Hà Nội thành lập và hoạt động từ ngày 01 tháng 09 năm 1970 với tên gọi Nhà máy Sơn mực in Tổng hợp Hà Nội thuộc Tổng cục Hóa chất nay là Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam. Hiện tại trụ sở đồng thời là cơ sở sản xuất của Công ty đặt tại xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội, trên diện tích đất 18.490 m2 , trong đó diện tích nhà xưởng, nhà kho, nhà làm việc.. tổng cộng 6.063 m2 với nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất nhựa Alkyd, sơn tổng hợp các loại. Để phục vụ cho công tác sản xuất sản phẩm ngày càng phát triển, ngày 31/12/1996 Công ty được thành lập lại theo quyết định số 682/QĐ/-HĐQT của hội đồng quản trị Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam, hoạt động độc lập và hạch toán kinh tế có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng. Trải qua hơn 30 năm kể từ khi thành lập đến nay Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội có thuận lợi nằm tại địa bàn thành phố Hà Nội, gần cơ quan chủ quản nên có đIều kiện phát triển. Công ty sản xuất nhiều loại sản phẩm nên đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Năm 1995 Công ty đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đưa 5 dây chuyền thiết bị hiện đại vào sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao. Chương trình đầu tư chiều sâu góp phần quan trọng trong việc tăng sản lượng, tiết kiệm chi phí. Sản phẩm làm ra có chất lượng cao đủ sức cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, thu hồi nhanh vốn đầu tư, điều kiện làm việc được cải thiện, môi trường trong sạch lành mạnh. Năm 1997 Công ty đã hợp tác với hãng PPG của Mỹ cung cấp sản phẩm và dịch vụ tư vấn kỹ thuật sơn ô tô cho hãng Ford Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, hợp tác với hãng KAWAKAMI Nhật Bản cung cấp sơn xe máy cho hãng HONDA Việt Nam, doanh thu do hợp tác chiếm 30% trên tổng số doanh thu của Công ty. Thông qua hợp tác quốc tế với PPG và KAWAKAMI, Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội là công ty Việt Nam đầu tiên cung cấp sản phẩm và dịch vụ tư vấn kỹ thuật đạt trình độ quốc tế cho hãng ô tô Ford và xe máy Honda, góp phần thực hiện chủ trương nội địa hoá sản phẩm của Nhà nước. Công ty đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công nghệ sản xuất tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu thị trường như sơn cao su clo hoá, sơn Acrylic, sơn phản quang, sơn bê tông, sơn tường. Hàng năm tiêu thụ trên 200 tấn sơn cao cấp các loại chiếm 8% sản lượng. Với chủ trương đầu tư đúng hướng, chọn bước đi và qui mô phù hợp phát huy hiệu quả đầu tư, năm 1998 Công ty đã đưa công nghệ sản xuất mới sản xuất nhựa Alkyd trên dây chuyền tổng hợp nhựa Alkyd công suất 3000 tấn/ năm. Công ty quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đủ khả năng tiếp thu công nghệ mới và làm việc trực tiếp với chuyên gia nước ngoài, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân kỹ thuật thích ứng với công nghệ mới. Tháng 5 năm 1999 Công ty đã được cấp chứng chỉ ISO 9002 của công ty chứng nhận quốc tế Anh, áp dụng hệ thống ISO 9002 trong toàn công ty nhằm đưa ra thị trường những sản phẩm đảm bảo chất lượng có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời Công ty đang tiếp tục triển khai thực hiện tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000 về môi trường. Trong 10 năm qua, Công ty đã đạt tăng trưởng hàng năm trung bình 30%, giá trị tổng sản lượng tăng 9 lần, công xuất thiết kế tăng 4,5 lần so với năm 1991, tạo ra nhiều việc làm và đưa số lao động tăng 1,5 lần. Với những thành tích đạt được, Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội vinh dự được Nhà nước xét tặng huân chương lao động hạng nhất (tháng 9/2000). Nhiều sản phẩm của Công ty đạt huy chương vàng tại hội chợ triển lãm toàn quốc. Những thành tích ấy có được là do có sự chỉ đạo đúng đắn của cơ quan cấp trên, sự hợp tác của các cơ quan bạn, khách hàng và các đơn vị nước ngoài. 2, Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý. Cũng như các doanh nghiệp sản xuất khác, do đặc điểm của ngành hoá chất, của sản phẩm sản xuất có nhiều loại khác nhau nên việc tổ chức bộ máy quản lý của Công ty mang những đặc thù riêng và ngày càng hoàn thiện, đổi mới đáp ứng yêu cầu quản lý và phù hợp với chính sách chế độ qui định. Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty biểu diễn theo sơ đồ sau. * Chức năng của từng bộ phận. -Giám đốc: Chịu trách nhiệm điều hành chung các công việc quản lý cơ sở, vật chất, con người và các hoạt động của doanh nghiệp, chỉ đạo trực tiếp phòng tổ chức nhân sự, phòng tài vụ, phòng kế hoạch vật tư, chịu trách nhiệm trước Nhà nước và cơ quan chủ quản cấp trên về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. -Các phó giám đốc: Phụ trách trực tiếp các mảng có liên quan như kinh doanh, kỹ thuật, tham gia mọi hoạt động kinh doanh của công ty, quản lý và thực hiện về kỹ thuật máy móc và chất lượng sản phẩm, đảm bảo quy trình sản xuất thời gian sử dụng máy. -Phòng tổ chức nhân sự: Dựa vào quy trình công nghệ và kế hoạch sản xuất của các phòng kế hoạch và kỹ thuật công nghệ để tính đơn giá tiền lương cho các sản phẩm từ đó tính trả lương cho công nhân viên. Đồng thời chịu trách nhiệm về mảng tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho công ty. -Phòng kế hoạch: Có nhiệm vụ đưa ra kế hoạch sản xuất kinh doanh và giao cụ thể kế hoạch sản xuất kinh doanh cho từng phân xưởng. -Phòng kỹ thuật công nghệ: Nghiên cứu, lập quy trình công nghệ về các sản phẩm mà công ty sản xuất. -Phòng cơ điện: Theo dõi tình hình lắp đặt, sử dụng, bảo quản trang thiết bị của toàn công ty. Vẽ các bản thay thế các chi tiết hỏng, quản lý theo dõi sử dụng an toàn về điện và cơ khí. -Phòng tài vụ: Theo dõi, quản lý và ghi chép đầy đủ các chi phí sản xuất, tài sản cố định. Thực hiện đầy đủ các báo cáo về tài chính theo quy định của pháp luật, hạch toán và trả lương cho công nhân viên. -Phòng hợp tác quốc tế: Phụ trách mảng kinh doanh xuất nhập khẩu về phôi liệu và sản phẩm sản xuất. -Phòng thị trường: Nghiên cứu sự biến động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. -Phòng tiêu thụ: Chịu trách nhiệm về mọi hình thức tiêu thụ sản phẩm của công ty. Chỉ đạo các chi nhánh bán đại lý và giới thiệu sản phẩm. -Phòng quản lý vật tư: Nhập kho những nguyên liệu đang phôi và xuất nguyên liệu theo yêu cầu sản xuất. -Phòng quản trị đời sống: Chịu trách nhiệm quản lý, chăm nom đời sống, các chế độ phụ, ăn ca.. cho công nhân viên, thực hiện nghĩa vụ của công ty với người lao động trong các ngày lễ tết. -Phân xưởng nhựa Alkyd: Kiểm tra và nạp liệu dầu thảo mộc. -Phân xưởng sơn công nghiệp: Sản xuất các loại sơn cách điện, sơn tĩnh điện và một số loại sơn bảo vệ máy móc thiết bị. -Phân xưởng sơn tường: Sản xuất các loại sơn tường và bột tường. -Phân xưởng cơ khí: Chịu trách nhiệm sửa chữa các loại thiết bị hỏng hóc, điện sản xuất, sản xuất các công cụ nhằm cải thiện điều kiện làm việc. -Phòng năng lượng: Chịu trách nhiệm cung cấp năng lượng đảm bảo cho tình hình hoạt động của toàn công ty. Với cách tổ chức quản lý của công ty như trên đã tạo điều kiện quản lý chặt chẽ về mặt kinh tế, kỹ thuật tới từng phân xưởng, đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, mang lại hiệu quả cao và tránh thất thoát. 3,Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Quá trình sản xuất sản phẩm được hình thành như một bộ máy liên quan đến nhiều khâu, nhiều bộ phận trong đó mỗi khâu mỗi bộ phận có chức năng riêng và có liên quan chặt chẽ với nhau, thể hiện qua các sơ đồ: Xăng Công nghiệp Nguyên liệu (Dầu thảo mộc Nhựa thiên nhiên Dung môi Rượu đa chức chất xúc tác) Kiểm tra Nạp liệu Tổng hợp Ra liệu Điều chỉnh pha loãng Bơm nhập kho * Công đoạn tổng hợp nhựa Alkyd. * Công đoạn muối trộn. Nguyên liệu (Bột Nhựa Alkyd Dung môi Phụ gia) Đạt chỉ tiêu Đạt chỉ tiê._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36880.doc
Tài liệu liên quan