Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần cảng Đoạn Xá

Tài liệu Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần cảng Đoạn Xá: ... Ebook Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần cảng Đoạn Xá

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần cảng Đoạn Xá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Mục lục 1 Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt 3 Danh mục các bảng 4 Danh mục các sơ đồ 5 LỜI MỞ ĐẦU 6 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 10 1.1. Hoạt động tài chính và vai trò của phân tích tài chính 10 1.1.1. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp 10 1.1.2. Vai trò của phân tích tài chính 13 1.2. Công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp 14 1.2.1. Quy trình phân tích tài chính 14 1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính 16 1.2.2.1. Phương pháp so sánh 17 1.2.2.2. Phương pháp tỷ số 18 1.2.2.3. Phương pháp phân tích tài chính Dupont 19 1.2.3. Nội dung phân tích tài chính 20 1.2.3.1. Phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn 20 1.2.3.2. Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh 26 1.2.3.3. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán 29 1.2.3.4. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng hoạt động 31 1.2.3.5. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng sinh lãi 33 1.2.3.6. Đánh giá khả năng tăng trưởng 36 1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoàn thiện công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp 41 1.3.1. Nhân tố chủ quan 41 1.3.2. Nhân tố khách quan 42 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CẢNG ĐOẠN XÁ 44 2.1. Tổng quan về Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 44 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 44 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Công ty 46 2.1.3. Cơ chế quản lý tài chính của Công ty 47 2.1.4. Tổ chức Bộ máy kế toán và Công tác kế toán của Công ty 49 2.2. Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 51 2.2.1. Về quy trình phân tích tài chính 51 2.2.2. Về phương pháp phân tích tài chính 52 2.2.3. Về nội dung phân tích tài chính 52 2.2.3.1. Phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn 53 2.2.3.2. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán 56 1.2.3.3. Phân tích hiệu quả kinh doanh 59 2.3. Đánh giá công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 61 2.3.1. Những mặt đạt được 61 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 62 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CẢNG ĐOẠN XÁ 65 3.1. Định hướng cơ chế quản lý tài chính và công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 65 3.2. Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 66 3.2.1. Về quy trình phân tích tài chính 66 3.2.2. Về nội dung phân tích 67 3.2.2.1. Về cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn 67 3.2.2.2. Về tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh 71 3.2.2.3. Về khả năng thanh toán 74 3.2.2.4. Về khả năng hoạt động 76 3.2.2.5. Về hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lãi 78 3.2.2.6. Đánh giá khả năng tăng trưởng 79 3.2.3. Về phương pháp phân tích 80 3.2.4. Về tổ chức và nhân sự cho công tác phân tích tài chính 82 3.2.5. Về kỹ thuật và công nghệ 83 3.2.6. Về công tác kế toán, kiểm toán và thống kê 84 3.3. Kiến nghị 84 3.3.1. Về phía Nhà nước 84 3.3.2. Về phía ngành liên quan 85 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 PHỤ LỤC 89 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DN: Doanh nghiệp. SXKD: Sản xuất kinh doanh. CP: Cổ phần HĐTC: Hoạt động tài chính. PTTC: Phân tích tài chính BCTC: Báo cáo tài chính TSCĐ: Tài sản cố định TSLĐ: Tài sản lưu động DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Bảng phân tích cơ cấu tài sản 22 Bảng 1.2: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn 24 Bảng 2.1: Bảng phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 54 Bảng 2.2: Các khoản phải thu của Công ty 56 Bảng 2.3: Các khoản phải trả của Công ty 57 Bảng 2.4: Bảng đánh giá khả năng thanh toán của Công ty 58 Bảng 2.5: Doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh của Công ty 59 Bảng 2.6: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty 60 Bảng 3.1: Bảng phân tích cơ cấu tài sản năm 2006 của Công ty 68 Bảng 3.2: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn năm 2006 của Công ty 70 Bảng 3.3: Bảng phân tích tình hình đảm bảo vốn năm 2006 của Công ty 88 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1: Quá trình chuyển hoá 11 Sơ đồ 1.2: Quá trình sản xuất kinh doanh 12 Sơ đồ 1.3: Sơ đồ sự gia tăng của doanh thu đòi hỏi sự gia tăng của nợ vay và giữ lại lợi nhuận 37 Sơ đồ 1.4: Mối quan hệ giữa tăng trưởng bền vững và khả năng sinh lời 40 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Công ty 46 Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức Bộ máy kế toán của Công ty 46 Sơ đồ 2.3: Hình thức kế toán tại Công ty 51 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên lý thuyết cũng như thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, phân tích tài chính đóng vai trò hết sức cần thiết. Mục đích của việc phân tích tài chính là giúp người sử dụng thông tin đánh giá được sức mạnh tài chính, khả năng sinh lời và triển vọng của doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp mà các thông tin từ việc phân tích tài chính mang lại còn hữu ích đối với các nhà đầu tư, nhà cung cấp, nhà cho vay, người lao động trong doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đặc biệt, đối với các công ty cổ phần, công tác này đặc biệt chiếm vị trí nổi bật bởi nó ảnh hưởng rất lớn tới việc ra quyết định của các nhà đầu tư - một nhân tố giữ vai trò không nhỏ tới hoạt động của doanh nghiệp. Song, vì những lý do khác nhau, trên thực tiễn, công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự trở thành công cụ hữu ích cho các đối tượng liên quan, do vậy chưa thực sự phát huy được vai trò, ý nghĩa tích cực của nó. Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác cảng biển, đại lý và giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong lĩnh vực này, doanh nghiệp chịu sự cạnh tranh khá lớn của gần 200 doanh nghiệp làm dịch vụ hàng hải chủ yếu tập trung tại các trung tâm thưong mại hàng hải như Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà Nẵng… và trong tương lai có thể còn phải cạnh tranh gay gắt với các hãng tàu nước ngoài. Muốn tồn tại và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh, một nhân tố quan trọng là doanh nghiệp cần phải đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định đúng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư, các nhà cho vay, các nhà cung cấp… hay không cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá cũng quan tâm tới công tác này. Nhưng công tác phân tích tài chính của Công ty vẫn chưa thực sự có hệ thống, chưa có chiều sâu, chưa thực sự là công cụ đắc lực cho việc ra quyết định của các nhà quản lý và chưa trở thành đòn bẩy để thu hút sự quan tâm của các đối tượng liên quan khác. Để khắc phục những tồn tại trong công tác phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá, tôi đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá”. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là lý thuyết về phân tích tài chính doanh nghiệp và thực tiễn công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của công tác này tại Công ty, đề tài đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần Cảng Đoạn xá từ năm 2004 đến năm 2006. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài * Phương pháp luận: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử * Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp phân tích - tổng hợp: trên cơ sở phân tích lý thuyết và thực tiễn công tác phân tích tài chính tại doanh nghiệp, đề tài khái quát hoá bản chất của công tác phân tích tài chính tại Công ty, trên cơ sở đánh giá đó nhằm đưa ra những giải pháp cần thiết cho việc hoàn thiện công tác này tại Công ty. - Phương pháp so sánh: Đề tài sử dụng phương pháp so sánh để đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của Công ty qua các năm và trong mối quan hệ với các doanh nghiệp cùng ngành – đây là một nội dung quan trọng của công tác phân tích tài chính. * Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: - Phương pháp thu thập thông tin: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu những thông tin sau: · Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài (trong các tài liệu, giáo trình về lý thuyết phân tích tài chính...) · Kết quả nghiên cứu của các tác giả khác (trong các tạp chí, báo cáo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học ... có liên quan tới vấn đề phân tích tài chính doanh nghiệp) · Chủ trương, chính sách liên quan tới nội dung nghiên cứu (chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước điều chỉnh các nội dung liên quan tới tài chính doanh nghiệp) · Số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài (chủ yếu là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp qua các năm, số liệu thống kê ngành...) + Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn các nhà đầu tư, các nhà quản trị doanh nghiệp hoặc các đối tượng liên quan khác để làm rõ nội dung nghiên cứu. - Phương pháp xử lý thông tin: + Phương pháp xử lý toán học đối với các thông tin định lượng: Sử dụng phương pháp thống kê toán để xác định xu hướng diễn biến của các số liệu, xác định được quy luật của tập hợp số liệu + Phương pháp xử lý logic đối với các thông tin định tính: Đưa ra những phán đoán về bản chất các sự kiện và thể hiện liên hệ logic của các sự kiện. 5. Kết cấu của đề tài Đề tài với tên gọi: ”Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá”, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tài liệu tham khảo, danh mục các chữ viết tắt và các phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về công tác phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng về công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần Cảng Đoạn xá. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP. Hoạt động tài chính và vai trò phân tích tài chính doanh nghiệp: Hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh. Để đạt được lợi nhuận mong muốn, doanh nghiệp cần phải có những quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất và vận hành quá trình trao đổi. Trong quá trình đó, có rất nhiều yếu tố tác động tới hoạt động của doanh nghiệp. Trước hết, doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp mặt khác là đối tượng quản lý của nhà nước. Nhà nước điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy định về cơ chế quản lý tài chính. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn luôn phải dự tính trước các khả năng rủi ro có thể xảy ra, đặc biệt là rủi ro tài chính để có thể có cách ứng phó kịp thời, đúng đắn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp luôn luôn phải đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao hơn của khách hàng về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hoá và các loại dịch vụ. Doanh nghiệp cũng thường phải đáp ứng được đòi hỏi của các đối tác về mức vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sở hữu có tác động đáng kể tới hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế khác nhau. Muốn phát triển bền vững, doanh nghiệp phải làm chủ và dự đoán trước sự thay đổi của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Trong môi trường đó, quan hệ tài chính của doanh nghiệp được thể hiện rất phong phú và đa dạng. Trước hết, để tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh, doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định để đầu tư các yếu tố đầu vào (máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên liệu, nhân lực…) và sau đó là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào tạo ra các hàng hoá - dịch vụ đầu ra (hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hoặc được sử dụng cho quá trình sản xuất, kinh doanh khác). Như vậy, trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoá các hàng hoá, dịch vụ đầu vào thành các hàng hoá, dịch vụ đầu ra để trao đổi (bán). Quá trình này được mô tả qua sơ đồ sau: Hàng hoá và dịch vụ (mua vào) ¯ ¯ Sản xuất - chuyển hoá ¯ ¯ Hàng hoá và dịch vụ (bán ra) SƠ ĐỒ 1.1: QUÁ TRÌNH CHUYỂN HOÁ Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một tài sản đặc biệt – đó là tiền. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phát sinh từ đó, tức là sự dịch chuyển hàng hoá, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế. Như vậy, tưong ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào). Quy trình này được mô tả qua sơ đồ sau: Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ) ¯ ­ Sản xuất chuyển hoá ¯ ­ Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi ra (xuất quỹ) SƠ ĐỒ 1.2: QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó được đặc trưng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó được đặc trưng bởi các yếu tố cần thiết cho sự vận hành – đó là tư liệu sản xuất và sức lao động. Quá trình công nghệ này có tác dụng quyết định tới cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá, dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ đầu ra và tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ quá trình trao đổi đó. Hoạt động tài chính có quan hệ chặt chẽ với hoạt động kinh doanh và nó phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một cách cụ thể, hoạt động tài chính doanh nghiệp là hoạt động của các luồng chuyển dịch, các luồng vận động và chuyển hoá các luồng tài chính trong quá trình sản xuất, cung cấp và trao đổi để tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể khái quát hoạt động tài chính với những nội dung cơ bản sau: Hoạt động huy động vốn và hình thành các nguồn vốn. Hoạt động sử dụng vốn trong quá trình kinh doanh. Hoạt động phân phối vốn. Hoạt động luân chuyển vốn trong kinh doanh. Hoạt động phân phối nguồn tài chính trở lại các quỹ tiền tệ và vốn kinh doanh. Vai trò của phân tích tài chính. Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về tài chính nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Với những nội dung này, phân tích tài chính của một doanh nghiệp trở thành mối quan tâm của nhiều đối tượng khác nhau như Ban Giám đốc, Hội đồng quản trị, các nhà đầu tư, các cổ đông, người cho vay… Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Do vậy, hơn ai hết, họ cần có đủ thông tin và hiểu rõ doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua, thực hiện cân bằng tài chính và khả năng thanh toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán tình hình tài chính nhằm đề ra quyết định đúng. Đối với với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ đặc biệt chú ý tới số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển dổi thành tiền nhanh; từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Ngoài ra, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn,… Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư. Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ, họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng, thanh toán chậm hay không. Cũng như các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, nhóm người này cũng cần phải biết được khả năng thanh toán hiện tại và thời gian sắp tới của khách hàng. Công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp. Quy trình phân tích tài chính. Phân tích tài chính doanh nghiệp thông thường phải trải qua các giai đoạn sau: * Xác định mục tiêu phân tích: Đối với mỗi doanh nghiệp ở từng thời kỳ nhất định, mục tiêu phân tích tài chính được xác định một cách khác nhau và trong mỗi vấn đề của hoạt động tài chính như khả năng cân đối vốn, quản lý hàng tồn kho, kiểm soát chi phí và lợi nhuận… thì mỗi vấn đề có mục tiêu riêng như: Về khả năng cân đối vốn sẽ có mục tiêu phân tích cơ cấu vốn, khả năng thanh toán và lưu chuyển vốn. Về quản lý hàng tồn kho sẽ có mục tiêu phân tích về doanh số, giá cả và cấu trúc tài sản. Về kiểm soát chi phí và lợi nhuận có mục tiêu phân tích là khả năng sinh lãi, doanh thu… Xác định mục tiêu phân tích là bước rất quan trọng quyết định đến ý nghĩa của công tác phân tích tài chính đối với doanh nghiệp cũng như các đối tượng có liên quan. * Lập kế hoạch phân tích: Trên cơ sở tuân thủ mục têiu phân tích đã đề ra, bộ phận phân tích phải xác định rõ phạm vi phân tích, thời gian tiến hành, phân công trách nhiệm bố trí nhân sự cho công tác phân tích tài chính. Về phạm vi phân tích có thể chia ra phân tích theo chuyên đề hay phân tích toàn diện. Về thời gian phân tích, kế hoạch phân tích phải xác định rõ việc phân tích là phân tích trước, phân tích hiện hành hay phân tích sau. Phân tích trước là phân tích trước khi tiến hành một kế hoạch kinh doanh nào đó. Phân tích trước thường đưa ra những dự đoán về nhu cầu, cách thức phân bổ các nguồn lực tài chính và lập kế hoạch thu hồi vốn của doanh nghiệp. Phân tích hiện hành là việc phân tích đồng thời với quá trình kinh doanh nhằm xác minh tính hợp lý về mặt tài chính của các dự án, dự đoán kế hoạch phục vụ cho việc điều chỉnh kịp thời các dự án, dự đoán kế hoạch đó. Phân tích sau là việc phân tích các kết quả trên giác độ tài chính sau khi đã thực hiện toàn bộ công việc. Về nhân sự, công tác phân tích tài chính phải được thực hiện bởi đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm và có tinh thần trách nhiệm cao. * Thu thập, xử lý thông tin. Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp có thể là những thông tin chung (thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất…), thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần…) và các thông tin về phương diện pháp lý đối với doanh nghiệp (các thông tin mà doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp…) Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Nói tóm lại, đó là tất cả các thông tin quan trọng mà nhà phân tích cần thu thập, xử lý nhằm phục vụ công tác phân tích. * Tiến hành công tác phân tích tài chính: Công tác phân tích tài chính dựa trên cơ sở các yêu cầu về nội dung, phương pháp phân tích đã đề ra, dựa trên các thông tin và số liệu đã thu thập và xử lý, sau đó được tiến hành như sau: Một là đánh giá chung tình hình tài chính: sử dụng các phương pháp và các chỉ tiêu đã lựa chọn tính toán để đánh giá theo từng chỉ tiêu cụ thể, từ đó tổng kết khái quát toàn bộ xu hướng phát triển và mối quan hệ qua lại giữa các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Hai là xác định các nhân tổ ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đối với đối tượng phân tích. Tuỳ theo yêu cầu quản lý và điều kiện cung cấp thông tin để xác định số lượng các nhân tố sử dụng trong phân tích, qua các phương pháp phân tích mà xác định chiều hướng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới đối tượng phân tích. Ba là tổng hợp kết quả phân tích, rút ra kết luận, nguyên nhân tác động và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Lập báo cáo phân tích tài chính: Đây là bước cuối cùng trong việc thực hiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Kết quả phân tích phải được viết thành báo cáo gửi cho Ban giám đốc doanh nghiệp, những đối tượng có nhu cầu để phục vụ công tác quản lý doanh nghiệp. 1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính: Phương pháp phân tích tài chính là cách thức hay kỹ thuật dùng để xử lý các thông tin tài chính nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Hiện nay có rất nhiều phương pháp được các nhà phân tích tài chính sử dụng. Sau đây là một vài phương pháp chủ yếu được sử dụng phổ biến nhất: 1.2.2.1 Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong phân tích tài chính, được dùng để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích tài chính, phương pháp so sánh thường được sử dụng bằng cách so sánh ngang (còn gọi là phân tích ngang) và so sánh dọc (còn gọi là phân tích dọc). So sánh ngang là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính; so sánh dọc là việc sử dụng các tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo để rút ra kết luận. Để tiến hành so sánh được, cần lưu ý các vấn đề cơ bản sau: - Thứ nhất, trong quá trình so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện sau: + Các chỉ tiêu được sử dụng để so sánh phải cùng phản ánh một nội dung kinh tế. + Các chỉ tiêu phải có cùng phương pháp tính toán. + Các chỉ tiêu phải được tính theo cùng một đơn vị đo lường. + Các chỉ tiêu phải được thu thập ở cùng một phạm vi thời gian và cùng một qui mô không gian. - Thứ hai, phải chọn được tiêu chuẩn so sánh. Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được chọn làm căn cứ để so sánh, gọi là gốc so sánh. Gốc so sánh thường được xác định theo thời gian và không gian. Tuỳ vào mỗi mục đích phân tích khác nhau, người phân tích sẽ chọn các gốc so sánh phù hợp. + Để đánh giá xu hướng phát triển của các chỉ tiêu: gốc so sánh được chọn là số liệu kỳ trước hoặc cùng kỳ này năm trước. + Để đánh giá tình hình thực hiện so với kế hoạch, dự toán, định mức: gốc so sánh được chọn là số liệu kế hoạch, số liệu dự toán, số liệu định mức. + Để đánh giá kết quả đạt được của doanh nghiệp so với các đơn vị khác: gốc so sánh được chọn là số liệu của các đơn vị có điều kiện tương đương hoặc số liệu trung bình ngành... 1.2.2.2. Phương pháp tỷ số Phương pháp tỷ số là phương pháp phản ánh kết cấu, mối quan hệ giữa các chỉ tiêu tài chính và sự biến đổi của lượng tài chính thông qua hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục và theo từng giai đoạn. Các tỷ số được chia thành bốn nhóm chính: - Tỷ số về khả năng thanh toán: đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. - Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dịng nợ, vay của doanh nghiệp. - Tỷ số về khả năng hoạt động: đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên nguồn lực của doanh nghiệp. - Tỷ số về khả năng sinh lãi: nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất – kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà các nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Ví dụ, các chủ nợ đặc biệt quan tâm tới khả năng thanh toán của người vay, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm tới khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Đồng thời, họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng, tỷ số về cơ cấu vốn làm thay đổi đáng kể lợi ích của các nhà đầu tư. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất và quy mô của hoạt động phân tích. 1.2.2.3. Phương pháp phân tích tài chính Dupont: Phương pháp Dupont là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính: tỷ suất hoạt động và tỷ suất doanh lợi tiêu thụ để xác định khả năng sinh lời của vốn đầu tư. Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng, doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) là chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện của mục tiêu này. Công thức xác định như sau: ROE = Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu ROE phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, tăng mức doanh lợi của vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có chỉ tiêu doanh lợi tài sản (ROA) ROA = Lợi nhuận trước thuế & lãi Tài sản Hoặc: ROA = Lợi nhuận sau thuế Tài sản Đây là chỉ tiêu dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách tỷ số ROE: ROE = LN sau thuế = Lợi nhuận sau thuế x Tài sản = ROA x EM Vốn CSH Tài sản Vốn CSH (EM: số nhân vốn) EM có thể được biến đổi thành: EM = Tài sản = Tổng nguồn vốn = 1 = 1 Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu 1- Tỷ suất nợ Tổng nguồn vốn ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sở hữu - mức tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Còn ROA phản ánh mức sinh lời của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp – khả năng quản lý tài sản của các nhà quản lý. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài. Tách ROA: ROA = Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận sau thuế x Doanh thu = PM x AU Tài sản Doanh thu Tài sản PM: Doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp. AU: hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Khi PM tăng thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả. Như vậy, doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) có thể được biến đổi như sau: ROE = PM x AU x EM Có thể tóm tắt các yếu tố cơ bản tác động đến ROE của một doanh nghiệp đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lý chi phí, quản lý tài sản và đòn bẩy tài chính. Nội dung phân tích tài chính. 1.2.3.1. Phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ giữa tài sản với nguồn vốn * Phân tích cơ cấu tài sản: Phân tích cơ cấu tài sản giúp người phân tích tìm hiểu sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng của tài sản qua các thời kỳ như thế nào, sự thay đổi này bắt nguồn từ những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh doanh, có phù hợp với việc nâng cao năng lực kinh tế để phục vụ cho chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không. Ngoài ra, việc phân tích này còn cung cấp cho nhà phân tích nhìn về quá khứ tìm kiếm một xu hướng, bản chất sự biến động tài sản của doanh nghiệp. Khi phân tích cơ cấu tài sản, ngoài việc so sánh sự biến động trên tổng số tài sản và từng loại tài sản (tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho, …) giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà phân tích còn tính ra và so sánh tỷ trọng của từng loại tài sản chiếm trong tổng số, từ đố thấy được xu hướng biến động và mức độ hợp lý của việc phân bổ. Giá trị của từng bộ phận tài sản Tổng số tài sản = Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản 100 x Nhà phân tích có thể lập bảng phân tích theo mẫu sau: BẢNG 1.1: BẢNG PHÂN TÍCH CƠ CẤU TÀI SẢN Tài sản Kỳ gốc Kỳ phân tích Kỳ PT so với KG Chênh lệch tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) 1 2 3 4 5 6 7 8 A. Tài sản ngắn hạn I. Tiền và tương đương tiền II. Đầu tư tài chính ngắn hạn III. Phải thu ngắn hạn IV. Hàng tồn kho V. Tài sản ngắn hạn khác B. Tài sản dài hạn 1 2 3 4 5 6 7 8 I. Phải thu dài hạn II. Tài sản cố định III. Bất động sản đầu tư IV. Đầu tư tài chính dài hạn V. Tài sản dài hạn khác Tổng cộng * Phân tích cơ cấu nguồn vốn: Phân tích cơ cấu nguồn vốn nhằm giúp nhà phân tích tìm hiểu được sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng của nguồn vốn qua các thời kỳ. Sự thay đổi này bắt nguồn từ những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh doanh, có phù hợp với việc nâng cao năng lực tài chính, tính tự chủ tài chính, khả năng tận dụng, khai thác nguồn vốn trên thị trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay không cũng như có phù hợp với chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không? Phân tích cơ cấu nguồn vốn cung cấp thông tin cho người phân tích sự thay đổi nguồn vốn, một xu hướng cơ cấu nguồn vốn hợp lý trong tương lai. Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng được tiến hành tương tự như việc phân tích cơ cấu tài sản. Cùng với việc so sánh tổng nguồn vốn cũng như từng loại nguồn vốn giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà phân tích còn tính ra và so sánh tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số, từ đó thấy được xu hướng biến động, mức đ._.ộ hợp lý và tính tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn Tổng sô nguồn vốn = Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn 100 x Khi phân tích có thể lập bảng theo mẫu sau: BẢNG 1.2: BẢNG PHÂN TÍCH CƠ CẤU NGUỒN VỐN Nguồn vốn Kỳ gốc Kỳ phân tích Kỳ PT so với KG Chênh lệch tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) A. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn B. Nguồn vốn chủ sở hữu . Vốn chủ sở hữu II. Nguồn vốn và kinh phí khác Tổng cộng * Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn thể hiện sự tương quan về giá trị tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích mối quan hệ này giúp nhà phân tích phần nào nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn doanh nghiệp huy động và sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ, và sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay không. Khi phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn, nhà phân tích cần tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau: + Hệ số nợ so với tài sản: Nợ phải trả Tài sản = Hệ số nợ so với tài sản Chỉ tiêu này cho biết mức độ doanh nghiệp dùng các khoản nợ đầu tư cho tài sản là bao nhiêu. Thông thường các chủ nợ thích hệ số này vừa phải vì khi đó các khoản nợ của họ được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích hệ số nợ cao vì họ muốn gia tăng lợi nhuận nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Hệ số nợ cao, mức độ an toàn tài chính giảm đi, mức độ rủi ro cao hơn và có thể doanh nghiệp sẽ bị lỗ nặng nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không ổn định, nhưng doanh nghiệp cũng có khả năng thu lợi nhuận cao khi điều kiện kinh tế thuận lợi. Dù vậy, nếu hệ số này quá cao thì doanh nghiệp sẽ dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và không thể kiểm soát được hoạt động của mình. Vì vậy, để vừa đảm bảo khả năng gia tăng lợi nhuận cao vừa giảm thiểu rủi ro khi đưa ra các quyết định tài chính, doanh nghiệp cần xem xét mức độ cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. + Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu = Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu Tài sản Đây là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, chứng tỏ tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bằng vỗn chủ sở hữu càng ít làm cho khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng kém và ngược lại. 1.2.3.2. Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh Bất kỳ một doanh nghiệp nào để đi vào hoạt động thì cũng phải huy động được một lượng vốn chủ sở hữu đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu về tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp sẽ tiếp tục hình thành nên các khoản chiếm dụng vốn tạm thời, vốn vay ngắn hạn, vốn vay dài hạn đồng thời với sự tích luỹ dần về vốn chủ sở hữu. Thực chất của phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh là việc xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản, nói cách khác là việc phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệp. * Phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Nguồn tài trợ tương ứng cho hai loại tài sản này là nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn trong doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, còn nguồn vốn dài hạn bao gồm nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản dài hạn, nguồn vốn ngắn hạn và phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư vào tài sản ngắn hạn. Trong mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sẽ là hợp lý nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn vì điều này chứng tỏ doanh nghiệp giữ vững mối quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sử dụng đúng mục đích nợ ngắn hạn. Đồng thời nó cũng chỉ ra một sự hợp lý trong chu kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn với chu kỳ thanh toán nợ ngắn hạn. Ngược lại, nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn thì đây là dấu hiệu cho thấy một phần nguồn vốn ngắn hạn đã được đầu tư vào tài sản dài hạn. Khi đó, chu kỳ luân chuyển tài sản khác với chu kỳ thanh toán nên dễ dẫn đến những vi phạm nguyên tắc tín dụng và có thể đưa đến một hệ quả tài chính không tốt. Trong mối quan hệ giữa tài sản dài hạn với nợ dài hạn, nếu tài sản dài hạn lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ vốn chủ sở hữu thì là điều hợp lý vì khi đó doanh nghiệp đã sử dụng đúng mục đích nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên nếu phần thiếu hụt được bù đắp bằng nợ ngắn hạn thì lại là bất hợp lý vì nó làm mất cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Nếu tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn thì chứng tỏ một phần nợ dài hạn đã được chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Điều này vừa làm lãng phí chi phí lãi vay nợ dài hạn vừa thể hiện sử dụng sai mục đích nợ dài hạn. Ngoài ra, khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, người phân tích cũng cần chú trọng đến vốn hoạt động thuần (còn gọi là vốn ngắn hạn thường xuyên) là số vốn mà doanh nghiệp không cần phải vay mượn hay đi chiếm dụng, được sử dụng để duy trì những hoạt động bình thường, diễn ra thường xuyên tại doanh nghiệp. Vốn hoạt động thuần có thể tính theo một trong hai cách sau: Vốn hoạt động thuần = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn Hoặc: Tài sản dài hạn Vốn hoạt động thuần - = Nguồn tài trợ thường xuyên Trong đó, nguồn tài trợ thường xuyên là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng thường xuyên lâu dài, bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn (nợ dài hạn, trung hạn). Nếu vốn hoạt động thuần lớn hơn 0 thì đây là dấu hiệu tài chính bình thường hay khả quan, thể hiện sự cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nguồn vốn ngắn hạn hoặc cân đối giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản dài hạn. Cân bằng tài chính trong trường hợp này gọi là cân bằng tốt. Ngược lại, nếu vốn hoạt động thuần nhỏ hơn 0 sẽ thể hiện một sự mất cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn và mất cân đối giữa nguồn tài trợ thường xuyên với tài sản dài hạn. Điều này chỉ ra rằng doanh nghiệp dùng nguồn tài trợ tạm thời cho cả tài sản dài hạn và nếu tình trạng này kéo dài thì có thể dẫn đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp rối loạn nghiêm trọng hơn, toàn bộ vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể mất dần và đi đến bờ vực phá sản. Và tất nhiên, cân bằng tài chính trong trường hợp này là cân bằng xấu. * Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh Để phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, nhà phân tích cần tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau: + Hệ số tài trợ thường xuyên Nguồn tài trợ thường xuyên Tổng nguồn vốn = Hệ số tài trợ thường xuyên Hệ số này cho biết, so với tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn tài trợ thường xuyên chiếm mấy phần. Trị số này càng lớn chứng tỏ tính ổn định về tài chính càng cao và ngược lại. + Hệ số tài trợ tạm thời Nguồn tài trợ tạm thời Tổng nguồn vốn = Hệ số tài trợ tạm thời Nguồn tài trợ tạm thời là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong một thời gian ngắn. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay nợ ngắn hạn, vay nợ quá hạn và các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua, người lao động (mua hàng mà không có thanh toán, bán hàng mà không giao hàng, thuê công nhân mà không trả lương…). Tương tự như hệ số tài trợ thường xuyên, hệ số tài trợ tạm thời cho biết, so với tổng nguồn tài trợ, nguồn tài trợ tạm thời chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ tính ổn định về mặt tài chính của doanh nghiệp càng thấp và ngược lại. + Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên Vốn chủ sở hữu Nguồn tài trợ thường xuyên = Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn vốn tài trợ thường xuyên Thông qua chỉ tiêu này, nhà phân tích thấy được trong tổng số nguồn tài trợ thường xuyên, số vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì tính tự chủ và độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. + Hệ số nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn Nguồn tài trợ thường xuyên Tài sản dài hạn = Hệ số nguồn vốn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ của tài sản dài hạn bằng nguồn vốn thường xuyên. Trị số của chỉ tiêu càng lớn thì tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại. + Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn Tài sản ngắn hạn Nợ ngắn hạn = Hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn Với chỉ tiêu này người phân tích biết mức độ tài trợ tài sản ngắn hạn bằng nợ ngắn hạn là cao hay thấp. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1 thì tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. 1.2.3.3. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán Chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu phụ thuộc chủ yếu vào tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ có ít công nợ, ít bị chiếm dụng vốn và cũng ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu hoạt động tài chính kém, doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với các khoản công nợ kéo dài. Phân tích tình hình thanh toán là việc xem xét tình hình thanh toán các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá được chất lượng và hiệu quả hoạt động tài chính. * Chỉ tiêu khả năng thanh toán tổng hợp: Hệ số khả năng thanh toán tổng hợp = Số tiền có thể dùng thanh toán (khả năng thanh toán) Số tiền phải thanh toán (Nhu cầu thanh toán) Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp. Nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán, trang trải hết công nợ, tình hình tài chính khả quan. Ngược lại, nếu hệ số này nhỏ hơn 1 chứng tỏ thực trạng tài chính không bình thường, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trang trải công nợ. Hệ số càng nhỏ phản ánh thực trạng tài chính của doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn, mất dần khả năng thanh toán dẫn tới nguy cơ phá sản. * Chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn = Tài sản lưu động + đầu tư ngắn hạn Nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn là công cụ đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Qua thực tiễn thấy rằng hệ số này là 2 thì tốt nhất. Tuy nhiên, hệ số này tăng lên chưa hẳn chứng tỏ tình hình tài chính được cải thiện tốt hơn mà có thể do sự gia tăng của hàng tồn kho ứ đọng… Vì vậy, cần phải nghiên cứu tỉ mỉ các khoản mục riêng biệt của tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. * Chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh: Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này khắc phục được nhược điểm của hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn và đánh giá trung thực hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp vì hàng tồn kho, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển - những khoản mục không đáp ứng tức thời cho việc thanh toán thì không được đưa vào xem xét. Thông thường, hệ số này là 0,5 thì hợp lý, nếu cảng nhỏ hơn 0,5 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp sẽ phải bán gấp sản phẩm, hàng hoá để lấy tiền thanh toán các khoản nợ. * Chỉ tiêu thanh toán tức thời Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Vốn bằng tiền Nợ ngắn hạn Nếu hệ số này lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán của Doanh nghiệp tốt hơn. Nếu nhỏ hơn 0,5 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này quá cao lại không tốt vì gây tình trạng quay vòng vốn chậm, hiệu quả sử dụng vốn không cao. * Chỉ tiêu khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi: Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Lãi vay Hệ số này phản ánh mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Nói cách khác, số vốn doanh nghiệp đi vay được sử dụng như thế nào, mang lại lợi nhuận là bao nhiêu, có đủ bù đắp tiền vay hay không. 1.2.3.4. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng hoạt động: Các chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này được thiết lập dựa trên doanh thu nhằm mục đích tìm ra tốc độ quay vòng của một số đại lượng cần thiết cho quản lý tài chính ngắn hạn. * Vòng quay tiền: Vòng quay tiền = Doanh thu Tiền và các khoản tương đương tiền Tỷ số này cho biết vòng quay của tiền trong một năm. CNó phản ánh với một lượng tiền nhất định dùng vào kinh doanh đã mang lại tổng số doanh thu là bao nhiêu trong một năm. Tuy nhiên cần phải kết hợp với các chỉ tiêu khác mới phản ánh được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. * Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho = Giá vồn hàng bán ra trong kỳ Trị giá hàng tồn kho bình quân Đây là tỷ số đặc trưng cho tốc độ lưu chuyển hàng hoá phản ánh hiệu quả sử dụng hàng tồn kho và trình độ quản lý dự trữ của doanh nghiệp và sự phù hợp của hàng hoá với nhu cầu của thị trường. Vòng quay hàng tồn kho có thể rất khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp. Thông thường tỷ số này cao cho thấy khả năng chuyển đổi hàng tồn kho thành tiền mặt cao, nguy cơ ứ đọng hàng hoá giảm, chứng tỏ hoạt động của doanh nghiệp là hiệu quả góp phần củng cố niềm tin của khách hàng. Các doanh nghiệp mong muốn duy trì lượng hàng tồn kho càng thấp càng tốt bởi chi phí cho việc dự trữ hàng tồn kho là tương đối lớn như: bảo hiểm cho hàng tồn kho, đọng vốn hàng tồn kho, nguy cơ bị lạc hậu… Tuy nhiên, nếu lượng hàng tồn kho quá thấp, doanh nghiệp không đủ nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc không đủ hàng hoá thoả mãn nhu cầu khách hàng… thì cũng không tốt cho doanh nghiệp. * Vòng quay các khoản phải thu: Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu Số dư bình quân các khoản phải thu Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp. Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh là tốt, tránh tình trạng doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn. * Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x 360 Doanh thu Chỉ tiêu này cho biết thông tin về khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, đặc biệt là việc thu hồi vốn từ việc bán chịu hàng hoá, đồng thời cũng phản ánh hiệu quả việc quản lý các khoản phải thu và chính sách tín dụng doanh nghiệp thực hiện với khách hàng của mình. Nó phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). * Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu Tài sản cố định bình quân Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại tại thời điểm lập báo cáo. * Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu Tổng tài sản bình quân Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản hoặc nguồn vốn, cho bết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, đánh giá khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp. 1.2.3.5. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng sinh lãi: Đây là các chỉ tiêu đánh giá khái quát nhất hiệu quả kinh doanh, khả năng dinh lợi của doanh nghiệp. Nó là kết quả của quá trình quản lý doanh nghiệp đồng thời cũng là căn cứ để đưa ra các quyết định cho các nhà quản lý. * Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: (PM) Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Chỉ tiêu này phản ánh tính hiệu quả của quá trình hoạt động kinh doanh, nó phản ánh lợi nhuận sau thuế do doanh thu tiêu thụ sản phẩm đem lại. Tỷ số này chỉ ra tỷ trọng kết quả trọng tổng các hoạt động của doanh nghiệp, chỉ rõ năng lực của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận và năng lực cạnh tranh. * Doanh lợi vốn chủ sở hữu: (ROE) Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) = Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà chủ đầu tư quan tâm đặc biệt khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào các doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất tong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. * Doanh lợi tài sản: Doanh lợi tài sản (ROA) = Lợi nhuận trước thuế và lãi Tài sản Hoặc Doanh lợi tài sản (ROA) = Lợi nhuận sau thuế Tài sản Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của đơn vị được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản. * Ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính: Đòn bẩy tài chính còn được gọi là hệ số nợ, được tính theo công thức sau: Đòn bẩy tài chính = Tài sản Vốn chủ sở hữu Hoặc được thể hiện bởi công thức: Đòn bẩy tài chính = Tổng số nợ vay Tổng vốn Từ đó ta có thế xác định được doanh lợi vốn chủ sở hữu như sau: Doanh lợi vốn Chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận sau thuế Vốn CSH Tổng vốn - Tổng nợ vay = Lợi nhuận sau thuế = Doanh lợi tổng vốn Tổng vốn Tổng vốn - Tổng nợ vay 1- Hệ số nợ (ĐBTC) Tổng vốn Từ công thức trên ta thấy, khi doanh lợi tổng vốn không thay đổi, hệ số nợ càng cao (vốn vay càng nhiều) thì doanh lợi vốn chủ sở hữu càng lớn. Do vậy, người ta gọi hệ số nợ là đòn bẩy tài chính và dùng nó để khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, sử dụng đòn bẩy tài chính như con dao hai lưỡi. Nếu tổng tài sản không có khả năng sinh ra một tỷ lệ lợi nhuận đủ lớn để bù đắp các chỉ phí lãi vay phải trả thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Gọi: T: Tổng vốn; C: Vốn chủ sở hữu; V: Vốn vay P’TT&L : Doanh lợi tổng tài sản EBIT: Lợi nhuận trước thuế và lãi vay P’TT&L = EBIT/T; Suy ra: EBIT = P’TT&L x T r : Lãi suất tiền vay ; t% : Thuế suất thuế TNDN Vậy, lãi vay phải trả là : V x r Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế = (EBIT - V x r) x (1- t%) Vốn CSH C = [(P’TT&L x T – V x r)] x (1 – t%) C = [(P’TT&L x (C + V) – V x r)] x (1 – t%) C = [(P’TT&L x C) + (P’TT&L x V) – (V x r)] x (1 – t%) C = [(P’TT&L + (V/C) x (P’TT&L – r))] x (1 – t%) Ta thấy (1 – t%) là một hằng số, vậy doanh lợi vốn chủ sở hữu chỉ phụ thuộc vào lãi suất tiền vay r, doanh lợi tổng tài sản (P’TT&L) và tỷ lệ giữa tài sản được tài trợ bằng vốn vay với tài sản được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu với (V/C) ≥ 0. Vì vậy: Nếu P’TT&L > r thì thu nhập ròng của một đồng vốn chủ sở hữu bằng hệ số sinh lợi của tổng tài sản và được khuyếch đại thêm một lượng là: (V/C) x (P’TT&L – r). Trường hợp này người ta gọi là đòn bẩy tài chính dương. Nếu P’TT&L < r thì thu nhập ròng của một đồng vốn chủ sở hữu bằng hệ số sinh lợi của tổng tài sản và được khấu trừ đi một lượng là: (V/C) x (P’TT&L – r). Trường hợp này người ta gọi là đòn bẩy tài chính âm. 1.2.3.6. Đánh giá khả năng tăng trưởng: Đánh giá chính xác khả năng tăng trưởng, giúp cho việc tính toán khả năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai là vấn đề có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với nhà quản lý doanh nghiệp mà kể cả các nhà đầu tư. Thực tế hiện nay cho thấy không phải chỉ có doanh nghiệp suy thoái bị phá sản mà có nhiều doanh nghiệp bị phá sản bởi tăng trưởng quá nhanh, một số khác thì tăng trưởng quá chậm. Việc quản lý để đạt được sự tăng trưởng đúng mức và bền vững là mục tiêu theo đuổi của các nhà quản lý nếu muốn tối đa hoá lợi nhuận. Phân tích, đánh giá khả năng tăng trưởng được bắt đầu từ việc nghiên cứu, xác định được tốc độ phát triển bền vững của doanh nghiệp. Đây lµ tốc độ tăng trưởng tối đa trong sự phù hợp với tốc độ tăng doanh số mà vẫn không làm cạn kiệt nguồn nội lực tài chính của doanh nghiệp. Tiếp theo tiến hành so sánh tốc độ tăng trưởng mục tiêu với tốc độ tăng trưởng bền vững đồng thời nghiên cứu, xem xét tình huống đặt ra cho các nhà quản trị một khi tốc độ tăng trưởng mục tiêu vượt quá tốc độ tăng trưởng bền vững hay ngược lại nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng bền vững. Trước hết hãy giả định rằng: 1. Trong điều kiện thị trường cho phép, mọi doanh nghiệp đều muốn tăng trưởng càng nhanh càng tốt; 2. Doanh nghiệp không thể hoặc không muốn tăng vốn chủ bằng cách gọi thêm và phát hành cổ phiếu; 3. Doanh nghiệp muốn duy trì một chính sách tài chính mà công ty cần phải đạt được. Tình hình tài chính của một doanh nghiệp đang trên đà phát triển nhanh có thể biểu diễn qua hình sau: Tài sản Nguồn vốn Tài sản mới gia tăng để đáp ứng sự gia tăng của doanh thu ® ¬ Khoản vay mới và giữ lại lợi nhuận Tài sản gốc Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu gốc SƠ ĐỒ 1.3: SƠ ĐỒ VỀ SỰ GIA TĂNG CỦA DOANH THU ĐÒI HỎI SỰ GIA TĂNG CỦA NỢ VAY VÀ GIỮ LẠI LỢI NHUẬN Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp được trình bày làm 2 cột: Tài sản và nguồn vốn. Phần dưới là tài sản và nguồn vốn ở thời điểm đầu năm (bằng nhau). Doanh nghiệp muốn gia tăng doanh thu cần phải gia tăng tài sản như khối lượng sản xuất, hàng tồn kho, các khoản phải thu. Do Công ty không thể bỏ thêm vốn chủ như giả định nên nguồn tài trợ cho sự gia tăng của tài sản là lợi nhuận giữ lại và tăng thêm nợ vay. Vấn đề cần xác định là tốc độ giới hạn mà doanh nghiệp có thể tăng doanh thu đó chính là tốc độ tăng trưởng bền vững (ký hệu Tbv). Ta biết rằng: vốn chủ sở hữu (bằng thu nhập giữ lại) và nợ vay tăng theo một tỉ lệ thì cấu trúc tài chính không thay đổi. Như vậy thì tỷ lệ tăng vốn chủ và nợ vay quyết định tỷ lệ gia tăng tài sản mà tỷ lệ gia tăng tài sản giới hạn tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu. Do đó: Tbv = Thay đổi vốn chủ sở hữu = Thu nhập giữ lại Vốn chủ sở hữu đầu kỳ Vốn chủ sở hữu đầu kỳ Công thức này có thể biểu diễn dưới dạng: Tbv = TN X LN x DT x TS LN DT TS VC (1) X (2) x (3) x (4) Trong đó: Tbv: tỷ lệ tăng trưởng bền vững TN: thu nhập giữ lại LN: Lợi nhuận sau thuế DT: Doanh thu thuần TS: tổng tài sản bình quân; VC: vốn chủ sở hữu Trong công thức trên: (1) là tỷ lệ lợi nhuận giữ lại. (2) Hệ số lãi thuần; (3) Hệ số vòng quay tài sản; (4) Hệ số tài sản Phương trình trên cho thấy: (1) và (4) tức là tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và đòn bẩy tài chính phản ánh chính sách tài chính, các hệ số còn lại phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó: tỷ lệ lợi nhuận giữ lại phản ánh thái độ của lãnh đạo doanh nghiệp trong việc phân chia lợi nhuận, đòn bẩy tài chính cho biết chính sách của doanh nghiệp trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Tbv phụ thuộc vào 4 nhân tố. Nếu một trong 4 hệ số trên thay đổi thì Tbv cũng thay đổi theo. Điều đó nói lên rằng: muốn có tốc độ tăng trưởng lớn hơn so với tỷ lệ tăng trưởng bền vững đã xác định thì tốt nhất là tác động vào (2) và (3) tức là cải thiện tình hình hoạt động nếu không phải chuẩn bị phương án thay đổi chính sách tài chính. Một cách triển khai Tbv khác: Tbv = TN X TS x LN LN VC TS (1) X (2) x (3) 2 bộ phận đầu cho thấy chính sách tài chính của doanh nghiệp (3) là tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (khả năng sinh lợi của tài sản). Cách biểu diễn này cho thấy: với chính sách tài chính ổn định cho trước, tốc độ tăng trưởng bền vững thay đổi tuyến tính với khả năng sinh lời của tài sản. Sơ đồ 1.4 phác hoạ mối quan hệ này. Đường biểu diễn mối quan hệ này có thể được gọi là đường “tăng trưởng cân bằng”. Gọi là cân bằng bởi lẽ doanh nghiệp chỉ có thể tài trợ nếu các điểm biểu diễn tăng trưởng doanh thu và khả năng sinh lời của tài sản đều nằm trên đường này. Ngoài ra sẽ dẫn đến thiếu hụt hay dư thừa tiền mặt. Như vậy, nếu tăng trưởng quá nhanh mà mức lợi nhuận có hạn thì doanh nghiệp nằm trong vùng thiếu tiền và ngược lại nằm trong vùng thừa tiền. Tốc độ tăng trưởng doanh thu Đường tăng trưởng cân bằng Thiếu hụt tiền mặt Dư thừa tiền mặt Tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản SƠ ĐỒ 1.4: MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI Nếu doanh nghiệp rơi vào sự tăng trưởng không cân bằng có thể điều chỉnh, tác động đến 1 trong 3 nhân tố là: tốc độ tăng trưởng, chính sách tài chính, tỷ suất lợi nhuận. Khi đó đường tăng trưởng cân bằng sẽ dịch chuyển và sự cân bằng mới sẽ được thiết lập. Tuy nhiên trong từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn bộ phận cần tác động. Trường hợp tăng trưởng thực tế lớn hơn tốc độ tăng trưởng bền vững: trước tiên là xem xét tình hình này kéo dài bao lâu. Nếu tốc độ này có thể giảm xuống trong tương lai gần do doanh nghiệp đã đạt được mức bão hoà thì điều đó có nghĩa là tốc độ tăng trưởng nhanh chỉ là tạm thời, do đó có thể giải quyết việc vay mượn thêm. Khi tốc đọ tăng trưởng thực tế giảm xuống nhỏ hơn hoặc bằng tăng trưởng bền vững, lúc đó doanh nghiệp chuyển từ kẻ tiêu tiền sang người tạo ra tiền và có thể trả được nợ vay. Trường hợp tốc độ tăng trưởng lớn kéo dài, cần có sự phối hợp các chiến lược như: - Huy động vốn cổ động mới: khi vốn cổ đông tăng, cộng với số tiền có thể được vay thêm, sẽ là nguồn tài trợ giúp cho tăng trưởng. - Gia tăng các đòn bẩy bằng cách: 1. Giảm tỷ lệ chia cổ tức (tăng tỷ lệ giữ lại thu nhập). 2. Tăng nợ vay. - Thay đổi quá trình hoạt động kinh doanh để kiểm soát tăng trưởng quá nhanh (ví dụ đa dạng hoá sản phẩm với mục tiêu bình quân hoá các nguồn thu trên cơ sở đó giảm tỷ lệ tăng trưởng). - Sử dụng ngoại lực bằng cách thuê ngoài và giảm vệic thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp. Điều này có thể giải phóng một số tài sản gắn liền với các hoạt động và nó sẽ làm tăng việc luân chuyển tài sản của doanh nghiệp, điều đó làm giảm bớt khó khăn trong vấn đề tăng trưởng. Trường hợp tăng trưởng thực tế thấp hơn tốc độ tăng trưởng bền vững: các doanh nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng quá thấp vướng vào tình thế nan giải là không biết làm gì với nguồn lực quá lớn. Khi không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cần thiết thì có thể lựa chọn các giải pháp như: - Hoàn trả vốn cho các chủ sở hữu thông qua việc tăng tỷ lệ thanh toán cổ tức và mua vào chính cổ phiếu của chính doanh nghiệp. - Mua sự tăng trưởng bằng cách nghiên cứu tìm kiếm các cơ hội đầu tư ra các ngành khác đang là trào lưu. Khi phân tích tăng trưởng cần lưu ý đến ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng. Bởi tăng trưởng có được từ 2 nguyên nhân: khối lượng sản phẩm và lạm phát. 1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoàn thiện công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp. Việc hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố, có thể khái quát lại qua các nhân tố chủ quan và khách quan sau: 1.3.1. Nhân tố chủ quan Nhân tố thứ nhất ảnh hưởng tới việc hoàn thiện công tác phân tích tài chính là nhân tố con người. Trước hết, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thực hiện phân tích doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới kết quả của công tác phân tích tài chính. Cán bộ phân tích được đào tạo đầy đủ về chuyên môn nghiệp vụ thì phương pháp, nội dung phân tích sẽ đầy đủ, khoa học, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Sau đó, lãnh đạo doanh nghiệp cũng phải quan tâm, đánh giá được tầm quan trọng của công tác tài chính, từ đó mới có sự đầu tư thoả đáng cũng như sự vận dụng triệt để kết quả của phân tích tài chính trong quá trình điều hành doanh nghiệp. Việc hoàn thiện công tác tài chính cũng chịu ảnh hưởng bởi tâm lý người sử dụng thông tin. Đó không chỉ là đội ngũ lãnh đạo mà còn có các nhà đầu tư, các nhà cho vay… Khi các đối tượng này đặc biệt quan tâm tới công tác phân tích tài chính cũng kích thích sự phát triển hoàn thiện của công tác này. Nhân tố ảnh hưởng thứ hai chính là kỹ thuật, công nghệ. Nếu ứng dụng tốt kỹ thuật, công nghệ vào quá trình phân tích tài chính sẽ đem lại kết quả chính xác, khoa học, tiết kiệm được thời gian, công sức ( ví dụ ứng dụng các phần mềm phân tích tài chính, tra cứu thông tin qua internet, liên kết thông tin giữa các phòng ban thông qua hệ thống mạng…). Việc ứng dụng này không những đảm bảo tính chính xác, khoa học, tiết kiệm mà còn đảm bảo tính toàn diện, phong phú, phù hợp với xu hướng phát triển của công tác phân tích tài chính. Nhân tố thứ ba là công tác kế toán, kiểm toán, thống kê. Công tác kế toán, thống kê mang lại những số liệu, thông tin thiết yếu nhất phục vụ cho quá trình phân tích tài chính (các báo cáo tài chính, chính sách kế toán, các số liệu liên quan về kế hoạch sản xuất kinh doanh…). Bên cạnh đó, công tác kiểm toán sẽ đảm bảo tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên để việc phân tích tài chính trở nên chính xác, khách quan, tránh định hướng sai lệch cho công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Vì vậy, sự hoàn thiện của công tác kế toán, kiểm toán thống kê cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới công tác phân tích tài chính. 1.3.2. Nhân tố khách quan Nhân tố thứ nhất trong các nhân tố khách quan chính là hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Đó là các chính sách về thuế, về kế toán, thống kê… ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động tài chính doanh nghiệp. Với tư cách là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước, trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng, các doanh nghiệp đều phải có nghĩa vụ tuân thủ chính sách, pháp luật. Các chính sách này được các nhà phân tích tài chính vận dụng trong quá trình phân tích để đảm bảo tính phù hợp, tính sát thực của công tác phân tích với pháp luật của nhà nước. Ngoài ra, các chính sách đó còn có tính định hướng và là động lực cho công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Nhân tố khách quan thứ hai là hệ thống thông tin của nền kinh tế và của ngành. Công tác phân tích tài chính chỉ thực sự có hiệu quả khi có hệ thống chỉ tiêu trung bình chuẩn của toàn ngành, trên cơ sở đó các doanh nghiệp có thể đánh giá, xem xét tình trạng tài chính để nhận thức vị trí của mình nhằm đưa ra những chính sách đúng đắn, phù hợp, cũng như có hướng phấn đấu, khắc phục. Hay nói cách khác, đây có thể được xem như số liệu tham chiếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này cũng phụ thuộc vào tính trung thực của các thông tin. Nếu thông tin do các doanh nghiệp trong ngành mang lại không chính xác có thể còn có tác dụng ngược lại. Vì vậy, trách nhiệm của cơ quan thống kê cũng như các doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin cũng ảnh hưởng không nhỏ. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CẢNG ĐOẠN XÁ 2.1. Tổng quan về Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần Cảng Đo._. 36.774 54.670 54.517 153 45,74 9,25 36,49 54,26 54,09 0,17 20.088 -98 20.196 2.834 2.881 -47 12,33 -2,86 15,19 -12,33 -12,24 -0,09 Tổng cộng 77.843 100.776 (Nguồn: Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá) Nhìn vào bảng cơ cấu nguồn vốn, ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu luôn chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng nguồn vốn, điều đó thể hiện khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập của Công ty đối với các chủ nợ là cao. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu có sự giảm đi (giảm 12,33%) mặc dù có sự gia tăng về số tuyệt đối (tăng 2.834 triệu đồng). Sở dĩ có sự giảm sút về tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu bởi có sự gia tăng về nợ phải trả. Nợ phải trả tăng cả về số tương đối và tuyệt đối. So với đầu năm, nợ phải trả tăng 20.230 triệu đồng và về tỷ trọng tăng 12,33% trong cơ cấu nguồn vốn. Sự gia tăng nợ phải trả chủ yếu do sự gia tăng của nợ dài hạn. Công ty đã mạnh dạn vay Ngân hàng Đầu tư phát triển với hai khoản vay trung hạn giá trị lên tới 20.801 triệu đồng để đầu tư vào tài sản cố định. Điều này phù hợp với xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh của Công ty. Sự gia tăng tỷ trọng nợ phải trả và sự giảm sút tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong trường hợp này không làm mất đi cân bằng tài chính bởi mức độ độc lập của Công ty về mặt tài chính vẫn khá cao. 3.2.2.2. Về tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh: Việc phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh sẽ giúp công ty thấy được mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp hay chính là việc phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Khi phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, để nhận xét chính xác về tình hình, Công ty cần xem xét đến các chỉ tiêu sau: + Vốn hoạt động thuần + Hệ số tài trợ thường xuyên + Hệ số tài trợ tạm thời + Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên + Hệ số nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn + Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn Việc xem xét các chỉ tiêu trên sẽ giúp bộ phận phân tích có căn cứ đánh giá tính ổn định và bền vững về cân bằng tài chính của Công ty. Khảo sát tình hình bảo đảm nguồn vốn tại Công ty cố phần Cảng Đoạn Xá qua bảng 3.3 ta thấy vốn hoạt động thuần của Công ty trong cả 2 năm 2005 và 2006 đều lớn hơn 0. Đây là dấu hiệu tích cực thể hiện sự đảm bảo nhu cầu tài chính. Trong cả 2 năm, tài sản ngắn hạn đều đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn và tài sản dài hạn, trong đó chủ yếu là tài sản cố định đều được tài trợ bởi nguồn tài trợ thường xuyên. Vốn hoạt động thuần tuy có giảm sút nhưng không ảnh hưởng lớn tới cân bằng tài chính vì vẫn đảm bảo an toàn cho việc thanh toán nợ ngắn hạn. Nguồn vốn tài trợ tạm thời giảm không đáng kể và nguồn vốn tài trợ thường xuyên đều tăng thể hiện tình hình đảm bảo nguồn vốn của Công ty luôn ở trạng thái ổn định và bền vững. Hệ số tài trợ thường xuyên của Công ty rất cao và tăng so với năm 2005. Với một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển với giá trị tài sản dài hạn lớn thì hệ số tài trợ thường xuyên lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc đầu tư vào tài sản cố định để phục vụ hoạt động kinh doanh. Hệ số vốn chủ sở hữu trong nguồn tài trợ thường xuyên luôn luôn trên 0,5, chứng tỏ tính độc lập và tự chủ về tài chính của Công ty cao. Tuy hệ số này có giảm sút vào năm 2006 do việc huy động vốn vay dài hạn để đẩy mạnh đầu tư mới tài sản cố định, song vẫn đảm bảo được tính tự chủ về tài chính của Công ty. Trong hoạt động của mình, Công ty đã rất chú ý đến sự cân bằng tài chính. Điều này là tốt bởi sự vững vàng trong cân bằng tài chính sẽ giúp cho Công ty hoạt động ổn định, không phải đối mặt với các khó khăn trong thanh toán. BẢNG 3.3: BẢNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH BẢO ĐẢM NGUỒN VỐN NĂM 2006 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Cuối năm so với đầu năm ± % 1. Vốn hoạt động thuần (đ) (Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn) 12.510.938.937 7.614.057.782 -7.199.127.891 51 2. Tài sản ngắn hạn 21.940.716.666 16.936.382.258 -5.004.334.408 77,2 3. Nguồn vốn tài trợ tạm thời (đ) (Nợ ngắn hạn) 9.429.777.729 9.322.324.476 -107.453.253 98,86 4. Tài sản dài hạn (đ) 55.903.107.901 83.830.173.032 27.927.065.131 149,96 5. Nguồn vốn tài trợ thường xuyên (đ) (Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu) 68.414.046.838 91.444.230.814 23.030.183.976 133,66 6. Hệ số tài trợ thường xuyên (6 = 4/ Tổng NV) 0,72 0,83 0,11 115,28 7. Hệ số tài trợ tạm thời (7= 3/ Tổng NV) 0,12 0,09 -0.03 75 8. Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên (8= Vốn CSH / 5) 0,78 0,6 -0,18 81,08 9. Hệ số nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn (9= 5/2) 1,22 1,09 -0,13 86,51 10. Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn (10= 2/Nợ NH) 3,08 1,82 -1,26 59,09 (Nguồn: Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá) 3.2.2.3. Về khả năng thanh toán: Trong nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, Công ty nên bổ sung hai chỉ tiêu: Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ) – Đòn bẩy tài chính và khả năng thanh toán lãi vay. Như đã phân tích, việc bổ sung các chỉ tiêu này trong công tác phân tích tài chính của Công sẽ giúp các nhà phân tích đánh giá được hiệu quả sử dụng nợ và mức độ hợp lý của việc huy động vốn vay. Điều này hết sức cần thiết trong bối cảnh Công ty đang có nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh nhưng chưa có điều kiện huy động thêm vốn cổ đông. - Tỷ số nợ trên tổng tài sản: Hệ số nợ = Tổng nợ = Hv Tổng tài sản Trên cơ sở số liệu trên bảng cân đối kế toán của ba năm 2004 đến 2006, ta thấy các hệ số nợ lần lượt là: 0,37 ; 0,33 ; 0,46. Hệ số nợ càng lớn thì Công ty càng có lợi vì chỉ phải đóng góp một lượng vốn ít nhưng được sử dụng một lượng tài sản lớn. Đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ cảng biển đòi hỏi lượng vốn lớn do phải trang bị số lượng lớn tài sản cố định, vì vậy việc sử dụng đòn bẩy nợ có ý nghĩa thiết thực đối với Công ty. Năm 2006, Công ty đã phát huy được đòn bẩy nợ để thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đòn bẩy nợ cũng là con dao hai lưỡi. Bởi như lý thuyết, nếu doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận trên tiền vay lớn hơn so với tiền lãi phải trả thì phần lợi nhuận dành cho chủ sở hữu sẽ được nhân lên; nhưng ngược lại thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ giảm sút và làm mất cân bằng cán cân thanh toán. Việc phân tích chỉ tiêu này phải được phân tích kết hợp với chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) và doanh lợi tài sản (ROA). - Khả năng thanh toán lãi vay: Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) Lãi tiền vay Công ty cần phải phân tích chỉ tiêu này để đánh giá lợi nhuận của mình của mình có đảm bảo khả năng chỉ trả lãi hàng năm hay không. Đây là chỉ tiêu không chỉ dành được sự quan tâm của chủ nợ mà còn phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên số liệu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004 đến năm 2006, khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp qua các năm lần lượt là: 15,8 ; 11,2 ; 7,9. Tuy khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp rất cao song trên các con số tính toán, khả năng này giảm dần qua các năm vì lãi tiền vay tăng song lợi nhuận tăng không đủ lớn so với sự gia tăng của lãi tiền vay. Điều này chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chưa thật tốt. 3.2.2.4. Về khả năng hoạt động: - Vòng quay tiền: Vòng quay tiền = Doanh thu Tiền và các khoản tương đương tiền So sánh giữa các năm từ 2004 đến 2006, ta thấy vòng quay của tiền lượt là 6,5; 22,2; 11,5 (mỗi đồng tiền và khoản tương đương tiền lần lượt tạo ra 6,5; 22,2; 11,5 đồng doanh thu qua các năm), như vậy có sự tăng giảm không đều qua các năm. Điều này chưa chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp không ổn định vì doanh thu tuy không tăng nhanh nhưng tăng khá đều qua các năm, tuy nhiên lượng tiền dự trữ có sự thay đổi do chính sách dự trữ tiền của doanh nghiệp qua các năm khác nhau. Cuối năm 2005, doanh nghiệp quyết định giảm lượng tiền dự trữ để đầu tư mua sắm tài sản cố định nên khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền giảm đột biến và cũng dẫn tới sự gia tăng của chỉ tiêu vòng quay tiền trong năm 2005. - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong năm, qua đó đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng tài sản cố định của Công ty. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu Tài sản cố định Căn cứ các số liệu trên các báo cáo tài chính của Công ty có thể thấy hiệu suất sử dụng tài sản cố định qua các năm lần lượt là 0,76; 0,99 và 0,71. Ở một số doanh nghiệp cùng ngành với số vốn tương đương (Công ty cổ phần Cảng Rau quả, Công ty cố phần thương cảng Vũng tàu) thì chỉ tiêu này trung bình là 6, tức là hiệu suất sử dụng tài sản cố định của Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá là rất thấp, vì vậy bên cạnh việc đầu tư thêm tài sản cố định, Công ty cần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định như tiến hành các biện pháp nhằm hợp lý hoá sản xuất, áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật ... nhằm tăng sản lượng xếp hàng trên bãi, rút ngắn thời gian giao nhận hàng, ... - Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho = Giá vồn hàng bán ra trong kỳ Trị giá hàng tồn kho bình quân Qua tính toán có thể thấy vòng quay hàng tồn kho của Công ty tương đối cao (qua các năm từ 2004 đến 2006 lần lượt là 130,1; 133,3; 140,03). Song so với các doanh nghiệp cùng ngành (có thể lấy điển hình là Công ty cố phần Cảng Rau quả và Công ty cổ phần Cảng Đồng Nai với vòng quay hàng tồn kho trung bình là trên 300), tỷ số này của Công ty là không cao. Đây là đặc trưng của doanh nghiệp dịch vụ, số lượng hàng tồn kho không nhiều. Hơn nữa, với loại hình kinh doanh dịch vụ vận tải biển, các vật liệu, phụ tùng cũng như các công cụ, dụng cụ khác... không nhiều mà chủ yếu sử dụng nhiều nhiên liệu (xăng, dầu...) (Đối với việc cung cấp nhiên liệu, Công ty đã có nhà cung cấp thường xuyên là Công ty Xăng dầu Khu vực 3). Việc lượng hàng tồn kho không nhiều giảm được áp lực cho doanh nghiệp trong việc gia tăng chi phí để dự trữ. Tuy nhiên, để đảm bảo yêu cầu thường xuyên phải cung cấp nhiên liệu phục vụ công tác xếp dỡ, chuyển tải hàng hoá, Công ty cũng phải có chính sách hàng tồn kho thích hợp, tránh trường hợp thiếu nguyên liệu, vật liệu phục vụ hoạt động kinh doanh. Theo thông tin từ phía Công ty, việc cung cấp nhiên liệu của Công ty Xăng dầu Khu vực 3 luôn đảm bảo tính kịp thời, song việc phụ thuộc vào 1 nhà cung cấp có thể dẫn tới những rủi ro ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện kinh doanh của Công ty. - Vòng quay các khoản phải thu: Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần Các khoản phải thu ngắn hạn bình quân Tỷ lệ này của Công ty qua các năm là 6,9; 4,1 và 3,6. Ở Công ty cổ phần Cảng Rau quả, số liệu này từ năm 2004 đến 2006 lần lượt là 9,01; 6,55; 7,14 và ở Công ty cổ phần Cảng Đồng Nai, số liệu này từ năm 2004 và 2006 lần lượt là 11,14; 7,11 và 10,19. Qua số liệu này cho thấy vòng quay các khoản phải thu của Công ty qua các năm đều thấp, chứng tỏ đã có sự ứ đọng ở khâu thanh toán, chủ yếu ở phần phải thu của khách hàng, tốc độ thu hồi chậm, công ty bị chiếm dụng vốn nhiều. Tình trạng này càng xấu đi qua mỗi năm vì tỷ lệ này giảm dần. Theo thông tin từ phía Công ty, các khoản phải thu đều tập trung ở các khách hàng lớn, khách hàng truyền thống của Công ty (Công ty vận tải biển VINALINES, Công ty HANJIN Shipping Vietnam, Công ty TNHH vận tải liên hợp Hải Phòng, Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển...), đối với các khách hàng khác (chiếm 15% doanh thu), hình thức thanh toán đều là thanh toán ngay bằng tiền mặt. Xuất phát từ uy tín và mối quan hệ truyền thống với các bạn hàng lớn cũng như để tăng doanh thu nên Công ty áp dụng chính sách thanh toán chậm. Song bên cạnh đó, Công ty không áp dụng chính sách chiết khấu để kích thích việc thanh toán. Để giải quyết tình trạng này, Công ty phải xác định được chính sách bán hàng, chính sách chiết khấu hợp lý cũng như xem xét về các đối tượng khách hàng để giảm sự ứ đọng ở khâu thanh toán, triển khai công tác thu hồi nợ. - Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x 360 Doanh thu Tỷ số này cho biết khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, đặc biệt việc thu hồi vốn từ việc bán chịu hàng hoá. Nó phản ánh số ngày cần thiết để thu hồi được các khoản phải thu. Tỷ số này của Công ty lần lượt qua các năm là: 45, 136, 76. Như vậy, năm 2004 Công ty cần đến 45 ngày để thu hồi các khoản phải thu, năm 2005 có sự gia tăng đột biến, cần tới 136 ngày và năm 2006 là 76 ngày. Hiệu quả của công tác thu hồi công nợ giảm sút qua các năm. Tuy năm 2005, việc tăng đột biến chỉ tiêu này là do Công ty có ứng trước 15% giá trị của dự án cần trục chân đế 40 tấn số 2 (TUKAL 02), nên khoản trả trước cho người bán tăng thêm một lượng đáng kể (gần bốn tỷ đồng), song khoản phải thu của khách hàng vẫn cao nên dẫn tới chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân cao. Theo thông tin từ phía Công ty, đối với những khách hàng lớn, thời gian thanh toán theo hợp đồng là 45 ngày, nhưng trên thực tế phải cần tới 2 tháng hoặc 3 tháng Công ty mới thu hồi hết các khoản phải thu này. Trong thời gian tới, Công ty cần có những biện pháp thu hồi nợ cần thiết để giảm thời gian thu hồi các khoản phải thu, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn. 3.2.2.5. Về hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lãi: Công ty đã tiến hành phân tích những chỉ tiêu cơ bản: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên tài sản, trên vốn chủ sở hữu và đã phân tích việc quản lý chi phí. Tuy nhiên, cần phân tích thêm ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính vì đây là yếu tố có tác động rất lớn đến doanh lợi vốn chủ sở hữu, ảnh hưởng tới khả năng sinh lãi của Công ty. - Ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính: Đòn bẩy tài chính là tỷ lệ giữ vốn đi vay so với tổng số vốn hiện có hay còn gọi là hệ số nợ. Đòn bẩy tài chính = Tổng số nợ vay Tổng tài sản Như đã phân tích, trị số của đòn bẩy tài chính càng cao doanh nghiệp càng có lợi. Song đòn bẩy tài chính cũng là con dao hai lưỡi, bởi nếu tổng tài sản không có khả năng sinh ra một tỷ lệ lợi nhuận đủ lớn để bù đắp các chi phí lãi vay phải trả thì doanh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) sẽ bị giảm sút. Trên lý thuyết đã phân tích, nếu doanh lợi tổng tài sản (ROA) lớn hơn lãi suất tiền vay thì trong trường hợp này đòn bẩy tài chính dương và sẽ khuyếch đại thêm cho ROE, trường hợp ngược lại đòn bẩy tài chính âm và sẽ làm giảm sút tương ứng ROE. Doanh lợi tổng tài sản Công ty đã tiến hành tính toán qua các năm từ 2004 đến 2006 lần lượt là 10,69; 10,78 và 11,38. Xem xét các tỷ lệ lãi vay của Công ty trên thuyết minh báo cáo tài chính, các tỷ lệ này dao động ở mức 3,5 đến 6,5% , như vậy vẫn đảm bảo được tác dụng của đòn bẩy tài chính với hiệu quả kinh doanh của Công ty. Mặt khác, Công ty vẫn có thể huy động vốn để mở rộng quy mô kinh doanh bằng cách tăng cường các khoản vay mà không bị ảnh hưởng tới cân bằng tài chính. 3.2.2.6. Đánh giá khả năng tăng trưởng. Ngoài ra, Công ty còn có thể tối đa hoá mức tăng trưởng bền vững của mình qua việc tác động vào chính sách tài chính (thông qua tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và đòn bẩy tài chính) hoặc nếu không có phương án thay đổi chính sách tài chính thì cải thiện tình hình hoạt động bằng cách tăng hiệu suất sử dụng tài sản và tăng tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu. Đồng thời, Công ty có thể so sánh tỷ lệ tăng trưởng bền vững này với tỷ lệ tăng trưởng thực tế của Công ty để thấy tỷ lệ tăng trưởng thực tế có phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng bền vững hay không. Nếu tỷ lệ tăng trưởng thực tế lớn hơn tốc độ tăng trưởng bền vững, có thể có những biện pháp thực tế như: huy động vốn cổ đông mới, giảm tỷ lệ chia cổ tức, thay đổi về hoạt động kinh doanh để kiểm soát tăng trưởng quá nhanh ... Nếu tỷ lệ tăng trưởng thực tế thấp hơn tốc độ tăng trưởng bền vững thì có thể tìm các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng, hoặc tăng tỷ lệ thanh toán cổ tức, mua lại cổ phiếu của chính công ty, nghiên cứu tìm kiếm cơ hội đầu tư ra các ngành khác... Có thể lấy ví dụ trong trường hợp này trên cơ sở các số liệu trong năm 2005 và 2006. Dựa trên các số liệu và công thức tính tăng trưởng thực tế, tăng trưởng bền vững, có thể tính toán được tăng trưởng thực tế của Công ty trong năm 2005 là 12,7%, trong khi đó tăng trưởng bền vững chỉ giới hạn ở 7,9%. Khi tăng trưởng thực tế lớn hơn tăng trưởng bền vững, nhu cầu về mọi mặt của doanh nghiệp tăng, đến một lúc nào đó doanh nghiệp không đủ sức để tài trợ cho nhu cầu của chính mình, nếu tình trạng này kéo dài có thể dẫn tới những khó khăn trầm trọng về vốn. Do vậy, cần có sự điều chỉnh để tăng tỷ lệ tăng trưởng bền vững bằng cách tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại hoặc tăng cường vốn vay. Tỷ lệ tăng trưởng bền vững đã được cải thiện vào năm 2006 với con số là 11,54% với việc tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và tăng cường vốn vay, song tỷ lệ tăng trưởng thực tế lại quá thấp (6,3%). Nếu tình trạng này tiếp tục gia tăng doanh nghiệp cần phải xem lại đây có phải tình trạng chung của toàn ngành vận tải biển hay vấn đề đơn lẻ của doanh nghiệp. Nếu là vấn đề của doanh nghiệp thì cần tìm kiếm các nguyên nhân để tháo gỡ các ràng buộc bên trong gây cản trở sự tăng trưởng, mặt khác có thể tìm kiếm thêm cơ hội đầu tư sang các ngành khác... Một số chỉ tiêu bổ sung thêm sẽ giúp Công ty có thể phân tích sâu sắc hơn tình hình tài chính, là cơ sở để ra các quyết định quản lý cần thiết. 3.2.3. Về phương pháp phân tích. Về phương pháp phân tích, ngoài phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ, doanh nghiệp nên bổ sung phương pháp Dupont để phân tích tài chính. Đây là phương pháp tạo được mối liên kết giữa các chỉ số với nhau, không mang tính rời rạc như các chỉ tiêu trong phương pháp so sánh, tỷ lệ. Như đã biết, phương pháp Dupont dựa trên hai chỉ tiêu ROA và ROE. Mối liên hệ của ROE – ROA được thể hiện trên công thức: ROE = ROA x EM Hay ROE = PM x AU x EM = PM x AU x 1/(1- tỷ suất nợ) Trên cơ sở số liệu của Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, ta lần lượt tính được các chỉ tiêu như sau: Chỉ tiêu Năm ROA PM AU EM ROE Năm 2004 10,69 18,3 0,58 1,58 16,88 Năm 2005 10,78 16,62 0,65 1,50 16,20 Năm 2006 11,38 20,56 0,55 1,84 20,97 Qua các chỉ tiêu trên ta thấy sự thay đổi của ROE chịu ảnh hưởng của ba nhân tố: - Sự thay đổi của doanh lợi doanh thu: Nếu giữ nguyên các nhân tố khác không thay đổi, sự thay đổi của doanh lợi doanh thu sẽ làm ROE thay đổi một lượng là: Δ ROE (2005 – 2004) = (16,62 – 18,3) x 0,58 x 1,58 = -1,54 Δ ROE (2006 – 2005) = (20,56 – 16,62) x 0,65 x 1,5 = 3,84 - Sự thay đổi của hiệu suất sử dụng tài sản: Nếu giữ nguyên các nhân tố khác không thay đổi, sự thay đổi của hiệu suất sử dụng tài sản sẽ làm ROE thay đổi một lượng là: Δ ROE (2005 – 2004) = 18,3 x (0,65 - 0,58) x 1,58 = 2,02 Δ ROE (2006 – 2005) = 16,62 x (0,55 - 0,65) x 1,5 = -2,4 - Sự thay đổi của đòn bẩy tài chính: Nếu giữ nguyên các nhân tố khác không thay đổi, sự thay đổi của đòn bẩy tài chính sẽ làm ROE thay đổi một lượng là: Δ ROE (2005 – 2004) = 18,3 x 0,58 x (1,5 - 1,58) = -0,84 Δ ROE (2006 – 2005) = 16,62 x 0,65 x (1,84 - 1,5) = 3,67 Như vậy, sự giảm sút của ROE năm 2005 là do hai nhân tố gây lên: sự giảm sút của doanh lợi doanh thu và đòn bẩy tài chính. So với năm 2004, công tác quản lý chi phí của doanh nghiệp chưa thật tốt, bên cạnh đó chưa phát huy được tác dụng của đòn bẩy nợ. Năm 2006, ROE tăng do sự gia tăng của cả hai nhân tố là doanh lợi doanh thu và đòn bẩy nợ, doanh nghiệp đã quản lý chi phí tốt hơn và phát huy được tác dụng của đòn bẩy nợ, tuy có sự giảm sút của hiệu quả sử dụng tài sản nhưng sự giảm sút này ảnh hưởng không thật lớn tới ROE. 3.2.4. Về tổ chức và nhân sự cho công tác phân tích tài chính. Như đã đề cập, nhân tố con người là nhân tố chủ quan ảnh hưởng lớn đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Nếu công tác này được đảm trách bởi bộ phận nhân sự kém thì không thể đem đến thành công được. Hiện nay, tại Công ty, việc phân tích báo cáo tài chính lại chỉ tập trung vào một người, đó là kế toán trưởng nên việc triển khai công tác phân tích gặp không ít khó khăn về nhân lực. Chính vì vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách và chuyên viên phân tích tài chính là yêu cầu cần thiết đối với Công ty. Những tiêu chuẩn đối với một người làm công tác phân tích là: - Am hiểu chuyên môn về tài chính, kế toán. - Được đào tạo về kỹ thuật phân tích. - Có kiến thức đặc điểm kinh doanh và về môi trường kinh doanh của ngành cũng như kiến thức về pháp luật, về tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Đây là yêu cầu được đặt ra trong công tác tuyển dụng nhân sự cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ của Công ty. Bên cạnh đó, Công ty có thể mời một số chuyên gia phân tích ở các công ty tư vấn đào tạo về chuyên môn và kinh nghiệm phân tích. Hàng năm, Công ty cần phải tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và cập nhật các thông tin kinh tế, xã hội cần thiết phục vụ cho việc phân tích. Để phân tích báo cáo tài chính đạt hiệu quả cao, bên cạnh việc xây dựng quy chế, đào tạo đội ngũ làm công tác phân tích, Công ty cũng cần chú ý tổ chức tốt công tác phân tích. Tổ chức công tác phân tích được thực hiện qua các công việc sau: - Thành lập Ban Phân tích gồm các chuyên viên phân tích. Quy định cụ thể chức năng, quyền và trách nhiệm của Ban cũng như của từng thành viên trong Ban. Ban phân tích này nên trực thuộc Ban Giám đốc và có cơ cấu như sau: + Trưởng Ban phân tích: Là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc về toàn bộ công tác phân tích tài chính trong Công ty. Hiện nay, đối với Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá, trưởng Ban phân tích nên là Kế toán trưởng, vì đây là người nắm rõ nhất mọi quy định, quy chế của Công ty về quản lý tài chính và cũng là người nắm rõ nhất mọi diễn biến về tài chính của Công ty. + Các thành viên khác của Ban phân tích có thể lấy từ đội ngũ nhân viên kế toán hiện nay, nhưng phải được tập huấn, đào tạo về công tác phân tích báo cáo tài chính. Về thực chất, có thể xây dựng Ban phân tích theo hướng chuyên môn hoá hoàn toàn, nghĩa là, bố trí nhân sự độc lập, chỉ làm công tác phân tích chứ không kiêm nhiệm. Tuy nhiên, trong điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá còn ở quy mô vừa phải, thiết nghĩ, sắp xếp nhân sự như đã trình bày trên đây là hợp lý Trên cơ sở tổ chức nhân sự như trên, Trưởng Ban phân tích có trách nhiệm triển khai công tác phân tích, tổng hợp kết quả phân tích từ các thành viên trong Ban và viết báo cáo phân tích. Ban lãnh đạo sẽ là những người sử dụng thông tin phân tích đầu tiên để đưa ra những quyết định quản lý tài chính và sẽ quyết định những thông tin phân tích nào được phép công bố rộng rãi ra bên ngoài, thông tin nào chỉ cung cấp cho nhà lãnh đạo trong Công ty. 3.2.5. Về kỹ thuật và công nghệ. Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính, Công ty cần có sự đầu tư thoả đáng về cơ sở vật chât kỹ thuật để phục vụ công tác phân tích tài chính, ví dụ: trang bị hệ thống máy vi tính với phần mềm phân tích tài chính để đảm bảo việc phân tích nhanh chóng, hiệu quả và chính xác, khai thác thông tin về ngành và nền kinh tế, chính sách pháp luật của nhà nước qua hệ thống internet, qua hệ thống mạng để liên kết thông tin giữa các phòng ban... Điều này không chỉ tăng cường hiệu quả của công tác phân tích tài chính mà còn là động lực thúc đẩy các cán bộ phụ trách công tác này. 3.2.6. Về công tác kế toán, kiểm toán, thống kê. Để phục vụ công tác phân tích tài chính, công ty cần hoàn thiện công tác tổ chức kế toán, kế toán, thống kê. Công ty cần tổ chức bộ máy kế toán hoạt động một cách khoa học, các bộ phận phối hợp chặt chẽ với nhau, đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, kịp thời. Trên cơ sở đó, Công ty có thể rút ngắn được thời gian hoàn thành báo cáo tài chính, tạo điều kiện cung cấp sớm số liệu cho công tác phân tích. Bên cạnh đó, Công ty nên thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán nội bộ định kỳ. Điều này sẽ giúp Công ty phát hiện được những sai sót, nhầm lẫn, góp phần nâng cao tính chính xác, khách quan của thông tin kế toán, tránh định hướng sai lệch cho công tác phân tích tài chính. 3.3. Kiến nghị. 3.3.1. Với Nhà nước Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện tốt phân tích báo cáo tài chính, về phía Nhà nước, cần có những thay đổi trong cơ chế, chính sách… như sau: - Xây dựng các quy định làm định hướng cho công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để công tác này không diễn ra một cách tự phát trong các doanh nghiệp, đồng thời tạo cho doanh nghiệp có một động lực để có sự đầu tư thoả đáng cho công tác này. Cụ thể, Bộ Tài chính nên ban hành một số nội dung, chỉ tiêu và phương pháp phân tích có tính chất bắt buộc hoặc tham khảo cho các doanh nghiệp, phù hợp với từng loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. - Xây dựng quy định về việc công bố thông tin, đặc biệt là các Công ty cổ phần. Hiện nay, mặc dù các văn bản hiện tại đã quy định được trách nhiệm công bố thông tin nhưng các quy định này vẫn chưa hoàn thiện. Bên cạnh việc công bố thông tin, nhà nước cũng cần ban hành các chế tài xử lý vi phạm đối với các đơn vị liên quan trong việc công bố thông tin, tránh tình trạng công bố thông tin thiếu tin cậy, gây định hướng sai lệch đối với quá trình phân tích tài chính của các doanh nghiệp. - Ban hành những quy định cụ thể đối với công tác thống kê. Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng khi tiến hành phân tích. Thông qua việc đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó đánh giá được cụ thể hơn thực trạng tài chính cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. 3.3.2. Với ngành liên quan. Đối với các ngành liên quan, để công tác phân tích tài chính thực sự có hiệu quả, cần phải đảm bảo những yêu cầu sau: - Cần công khai hoá các thông tin tài chính làm cơ sở để có số liệu trung bình của ngành và xây dựng các quy định về chế độ, trách nhiệm của những người liên quan trong quá trình lập, công bố thông tin và phân tích thông tin trên báo cáo tài chính. - Đánh giá đúng mức tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Kinh tế và Quản lý trường Đại học Bách khoa Hà Nội, trong 100 doanh nghiệp hoạt động thuộc các ngành nghề khác nhau, chỉ 40% trong số đó có tiến hành hoạt động phân tích tài chính. Các doanh nghiệp thuộc ngành vận tải biển cũng không nằm ngoài thực trạng này. Nếu công tác phân tích tài chính trở thành một hoạt động thường xuyên của các doanh nghiệp trong ngành, mỗi doanh nghiệp sẽ có động lực hơn trong việc hoàn thiện công tác này tại doanh nghiệp mình. KẾT LUẬN Trong điều kiện hiện nay, những biến động của thị trường và điều kiện kinh tế chính trị trong nước và quốc tế luôn mang lại những cơ hội, nhưng cũng không ít rủi ro cho doanh nghiệp. Vì vậy, để có được những quyết định đúng đắn trong sản xuất - kinh doanh, các nhà quản lý đều quan tâm đến vấn đề tài chính. Trên cơ sở phân tích tài chính, sẽ biết được tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu, sự vận động của tài sản và nguồn vốn, khả năng tài chính, cũng như an ninh tài chính của doanh nghiệp. Qua kết quả phân tích tài chính, có thể đưa ra các dự báo về kinh tế, quyết định về tài chính trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn. Là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khai thác Cảng, Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập với nhiều cơ hội và thách thức như hiện nay, hoạt động quản lý tài chính và công tác phân tích tài chính của Công ty càng phải được đẩy mạnh hơn nữa để nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường. Qua thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá” đã hoàn thành. Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận về công tác phân tích tài chính , đánh giá được thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, trên cơ sở đó đã nêu ra những giải pháp cụ thể để hoàn thiện nội dung công tác này cho Công ty. Hy vọng rằng những kết quả đạt được của luận văn sẽ giúp cho Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá có thể hoàn thiện hơn công tác phân tích tài chính, làm cơ sở để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, với khả năng và thời gian còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp bổ sung của các quý thày cô, quý độc giả để đề tài được hoàn thiện hơn DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Tấn Bình (2004), “Phân tích hoạt động doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Thống kê. Nguyễn Tấn Bình (2003), “Kế toán quản trị” – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh”. Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá (2004), “Báo cáo tài chính năm 2004”. Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá (2005), “Báo cáo tài chính năm 2005”. Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá (2006), “Báo cáo tài chính năm 2006”. PTS. Ngô Thế Chi, PTS. Đoàn Xuân Tiên, PTS. Vương Đình Huệ (1995), “Kế toán – Kiểm toán và Phân tích tài chính doanh nghiêp”- Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. PGS.TS. Ngô Thế Chi – TS. Vũ Công Ty (2002), “Đọc, lập, phân tích báo cáo tài chính” – Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS Nguyễn Văn Công (2005), “Chuyên khảo về Báo cáo tài chính và lập, đọc, kiểm tra, phân tích báo các tài chính” – Nhà xuất bản Tài chính, Hà nội. TS. Đặng Văn Dược, Đặng Kim Cương (1999), “Kế toán quản trị và phân tích kinh doanh” – Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS Phạm Thị Gái (2004), “Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh” – Nhà xuất bản Thống kê. TS Vũ Duy Hào (2000), “Những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS. Lưu Thị Hương (2003), “Giáo trình Tài chính doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS Đặng Thị Loan (2005), “Giáo trình Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Thống kê. TS. Nguyễn Năng Phúc (2002), “Phân tích kinh tế doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Tài chính.. Học viện tài chính (2006), “Quản trị doanh nghiệp hiện đại cho giám đốc và thành viên Hội đồng quản trị tại Việt Nam” – Nhà xuất bản tài chính. PHỤ LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThSA21.doc
Tài liệu liên quan