Hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU “Nhân tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước thịnh và mạnh. Nguyên khí suy thì thế nước suy và yếu”. Câu nói được khắc trên mặt bia Tiến sỹ tại Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của nước Việt Nam ta năm 1442 đã trở thành chân lý, trở thành tư tưởng xuyên suốt trong quá trình tồn tại và phát triển của đất nước. Tinh thần đó đã được phát triển qua các thời kỳ thăng trầm của lịch sử và đã được ghi rõ trong Hiến pháp của nước ta:“Giáo dục là quốc sách hàng đầu

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”. Trong hệ thống giáo dục của tất cả các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng thì giáo dục phổ thông là nền tảng để phát triển đất nước. Giáo dục phổ thông giúp nâng cao nhân cách, khả năng, kiến thức của mỗi con người trong quá trình phát triển. Qua hơn 15 năm đổi mới, hoạt động giáo dục phổ thông ở Hà Nội đã có những bước phát triển cả về quy mô, nội dung, hình thức góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của Thành phố. Tuy nhiên, giáo dục phổ thông ở Hà Nội trong thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn như xuất hiện tượng thương mại hoá các hoạt động giáo dục; tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan; cũng như có rất nhiều tiêu cực trong hoạt động của công tác quản lý giáo dục... những bất cập này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình chung của giáo dục Thủ đô. Vì vậy, để đảm bảo sự công bằng trong sự nghiệp giáo dục thì công tác quản lý ngân sách giáo dục là một trong những công việc thật sự quan trọng và hết sức cần thiết góp phần khắc phục những khó khăn, bất cập của ngành trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông và những tồn tại trong quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông, trong quá trình thực tập tại Sở Tài chính Hà Nội, em đã nghiên cứu thực hiện đề tài: “Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. Mục đích của đề tài là: nhằm kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về giáo dục phổ thông, vai trò và tầm quan trọng của giáo dục phổ thông đối với sự phát triển kinh tế – xã hội và đánh giá quá trình quản lý việc sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước(NSNN) cho giáo dục phổ thông. Đối tượng nghiên cứu là quá trình quản lý các khoản chi NSNN cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Đề tài được trình bầy trong ba chương như sau: Chương I : Giáo dục phổ thông và chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Chương II : Thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Chương III : Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. CHƯƠNG I: GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG. 1.1. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI: 1.1.1. Khái niệm về giáo dục và giáo dục phổ thông: * Khái niệm về giáo dục: Giáo dục được coi là một hiện tượng phổ biến cho mọi giai đoạn phát triển và tồn tại vĩnh hằng cùng xã hội loài người. Đã có nhiều quan điểm khác nhau khi trình bày về khái niệm về giáo dục. Theo Savin- một nhà giáo dục học đã định nghĩa: theo nghĩa rộng, khái niệm giáo dục là tất cả quá trình chuẩn bị cho một thế hệ đang lớn bước vào cuộc sống bao gồm cả quá trình dạy học và đào tạo. Hay theo Gillis thì Giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người hay một cách hẹp hơn đó là một quá trình có ở trong những nơi đã được chuyên môn hoá gọi là giáo dục. Như vậy, giáo dục được coi là hoạt động mà xã hội thiết lập nên để tạo điều kiện cho các thành viên trong cộng đồng nâng cao nhân cách và tri thức. Thực chất đó là quá trình hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức, khả năng của con người thông qua tất cả các dạng học tập. Để thực hiện mục tiêu giáo dục của mình, mỗi nước có một hệ thống giáo dục quốc dân đặc trưng. Và hệ thống giáo dục kinh tế quốc dân được thiết lập nhằm thực hiện các mục tiêu giáo dục, đáp ứng yêu cầu đào tạo con người của đất nước, tập hợp các ngành học, bậc học, cấp học một cách liên tục và thống nhất. Đối với hệ thống giáo dục của Việt Nam thì theo quy định của Luật giáo dục bao gồm: Giáo dục mầm non: Mẫu giáo, nhà trẻ. Giáo dục phổ thông: Tiểu học – Trung học cơ sở(THCS) – Trung học phổ thông(THPT). Giáo dục đại học: Đại học – Cao đẳng. Giáo dục sau đại học: Thạc sĩ – Tiến sĩ. Do vậy, theo cách hiểu chung nhất thì giáo dục phổ thông là một bộ phận hợp thành của hệ thống giáo dục quốc dân, Giáo dục phổ thông giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với Việt Nam thì quan điểm về giáo dục phổ thông được ghi trong Nghị Quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục như sau: “giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của 1 nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời chuẩn bị lao động dự trữ và nguồn tuyển chọn để đào tạp công nhân và cán bộ cần thiết cho sự nghiệp xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá và tăng cường quốc phòng”. Do đặc điểm riêng của nước ta nên hệ thống giáo dục phổ thông cũng có những nét riêng biệt, đặc trưng riêng phù hợp với hệ thống giáo dục của Việt Nam. Hệ thống đó bao gồm: Bảng 1: Hệ thống giáo dục phổ thông ở Việt Nam Cấp học Độ tuổi Số năm học Lớp Mục tiêu Tiểu học Từ 6 đến 11 5 năm 1 đến 5 Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. THCS Từ 11 đến 15 4 năm 6 đến 9 Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có trình độ học vấn phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. THPT Từ 15 đến 18 3 năm 10 đến 12 Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. * Các loại hình trường học phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam hịên nay được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục bao gồm: công lập, bán công, dân lập và tư thục. Nhà trường thuộc các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục đều chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý giáo dục theo sự phân công, phân cấp của Chính phủ. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân mở trường dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. 1.1.2. Mối quan hệ giữa phát triển giáo dục với phát triển kinh tế – xã hội: *Vai trò của giáo dục phổ thông với phát triển kinh tế – xã hội: Giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cuộc đời của từng con người và có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội: Giáo dục phổ thông giữ vị trí quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của thời đại ngày nay, khi xu hướng quốc tế hoá đã bao trùm toàn cầu, việc chuyển giao kỹ thuật ngày càng trở nên quen thuộc và hết sức cần thiết, do vậy nếu không có giáo dục thì khó có thể tiếp cận với những tiến bộ khoa học hiện đại. Giáo dục phổ thông với nhiệm vụ tạo ra mặt bằng dân trí và không ngừng nâng cao trình độ phổ cập cho người dân, cung cấp lực lượng đông đảo cho việc đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đây là chìa khoá để mở cửa tiến vào tương lai, là tiền đề để nâng cao khả năng hội nhập với khu vực và toàn thế giới. Giáo dục phổ thông được coi là nền tảng cho sự phát triển khoa học – công nghệ, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế quốc dân. Giáo dục phổ thông là nền tảng của quá trình tích tụ nguồn vốn con người, là cơ sở tạo ra nguồn nguyên liệu cho đào tạo nguồn nhân lực để cung cấp cho thị trường lao động những người lao động đáp ứng được những nhu cầu của thị trường cũng như yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang biến đổi nhanh chóng trên cơ sở phát triển như vũ bão về khoa học công nghệ thì giáo dục phổ thông không những cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế mà còn đóng vai trò làm nòng cốt trong phát triển khoa học – công nghệ, thông qua việc tìm, tuyển chọn và bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục phổ thông vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Hiện nay, các quốc gia đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ là phúc lợi mà thực sự trở thành động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, là đầu tư chiến lược đối với con người. Nói một cách khác, thì giáo dục là khâu then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế, biến đổi xã hội; nếu không có một nền GDPT phát triển mạnh mẽ và vững chắc thì không có những tiến bộ nhanh chóng và bền vững về kinh tế cũng như văn hoá - xã hội. Giáo dục phổ thông cung cấp nguồn nhân lực, chuẩn bị cho đào tạo nhân lực, đáp ứng nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn. Giáo dục nói chung và GDPT nói riêng thực sự là nguồn đào tạo sức lao động dự trữ cho xã hội, thực hiện việc tái sản xuất sức lao động xã hội, tăng cường yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất là người lao động. GDPT tạo cơ sở cho việc đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ khoa học và công nhân kỹ thuật, cho phép đáp ứng nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu phân công lại lao động và xây dựng một cơ cấu lao động mới trong từng địa phương và trong cả nước. Đồng thời, góp phần đổi mới quan hệ xã hội theo hướng ngày càng rút ngắn bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư. Giáo dục phổ thông là cơ sở phát huy nhân tố con người: GDPT có ảnh hưởng quyết định đến thế hệ trẻ đang lớn lên của một dân tộc. Bởi đối với mỗi người, GDPT là quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách, thế giới quan, tình cảm, đạo đức theo quan điểm nhân văn trong sáng. GDPT đem lại những tinh hoa văn hóa để hình thành nhân cách con người và rèn luyện năng lực trên cơ sở đó phát huy mọi năng lực sáng tạo của con người. Và chính con người với sức sáng tạo của họ là thước đo trình độ của nền văn hoá cũng như tiềm lực sức mạnh của một dân tộc. Xuất phát từ vai trò của giáo dục cũng như GDPT trong chiến lược phát triển quốc gia, là với chức năng thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người hầu như mọi quốc gia đều nhấn mạnh tới chính sách giáo dục khi thiết kế các kế hoạch để tạo gia tốc cho sự phát triển, đồng thời luôn khẳng định tư tưởng vị trí quốc sách hàng đầu của giáo dục là tư tưởng mang tính thời đại. * Tác động của giáo dục phổ thông đối với phát triển kinh tế xã hội: Giáo dục phổ thông là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ là một nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Lực lượng lao động có trình độ cao sẽ có điều kiện tiếp thu và thúc đẩy sự thay đổi công nghệ. Tích luỹ vốn con người, đặc biệt là kiến thức sẽ tạo điều kiện phát triển các công nghệ mới, thúc đẩy tiến bộ khoa học – kỹ thuật và là nguồn duy trì tăng trưởng. Có thể nói rằng công nhân có trí thức là vấn đề sống còn trong cơ chế thị trường hiện nay. Vì vậy, giáo dục trong đó GDPT được coi là sức mạnh của nền kinh tế. Giáo dục phổ thông là một nhân tố quan trọng tạo tiền đề làm biến đổi và tăng năng suất lao động trên thị trường và trong các hộ gia đình, nâng cao thu nhập của người lao động đồng thời góp phần làm giảm đói nghèo. Mối liên hệ giữa thị trường lao động và hệ thống giáo dục phổ thông có vị trí to lớn đối với người dân đặc biệt là đối với người nghèo ở các nước đang phát triển. Giáo dục phổ thông giúp họ có trí thức để tiếp thu và áp dụng kỹ thuật công nghệ lao động sản xuất, tăng thêm cơ hội tiếp cận việc làm, giúp họ nâng cao mức sống. Như vậy, “đầu tư vào giáo dục sẽ tích luỹ vốn con người, là chìa khoá để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập”. Tuy nhiên, không phải mọi tiến bộ của giáo dục đều có tác động nâng cao thu nhập quốc dân/ người. Những tiến bộ của giáo dục chỉ có tác động rõ rệt nếu nó phù hợp với thực trạng và xu thế phát triển của sản xuất; tình hình, đặc điểm của mỗi quốc gia. Giáo dục phổ thông có tác động rất lớn đến các nhân tố xã hội, góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng là một trong những những điều kiện tiên quyết đem lại phúc lợi cho nhân dân trong tương lai. Nó giúp cho mọi người tiếp cận, nắm bắt, vận dụng các thông tin khoa học, tự nhiên, xã hội, môi trường…vào cuốc sống của bản thân, gia đình, xã hội; có cơ hội tiếp cận với các nguồn lực để phát triển bản thân, gia đình, xã hội; xoá bỏ dần các bất bình đẳng thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Giáo dục phổ thông vừa phục vụ mục đích phát triển kinh tế, vừa có tác động lớn đến các nhân tố xã hội. Nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng lớn và sự bất công trong xã hội sẽ gia tăng nếu chúng ta không chú ý đến yếu tố GDPT để tạo ra một lực lượng lao động có trình độ văn hóa, khoa học – kỹ thuật có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, để GDPT thực sự phát huy được tác dụng thì đòi hỏi cần được kế hoạch hóa phù hợp với sự phát triển của toàn hệ thống giáo dục quốc dân và sự phát triển kinh tế – xã hội của từng nước. 1.1.3 Chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông: 1.1.3.1. Các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục phổ thông: Để huy động, khai thác và quản lý tốt các nguồn tài chính đầu tư cho sự nhiệp giáo dục thì trước hết cần phải xem xét các nguồn vốn đó lấy từ đâu và bằng cách nào? Nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục được hình thành trong quá trình phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân của các chủ thể kinh tế – xã hội. Đó là: nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước thuộc phạm vi chi phối của nhà nước, của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước và quỹ tiền tệ tự tạo do hoạt động của ngành giáo dục. Theo luật Ngân sách năm 1992 thì :“đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư, khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”. * Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn vốn chủ đạo và được ưu tiên trong cơ cấu bố trí vốn NSNN hàng năm. Nguồn vốn NSNN cho giáo dục được huy động từ ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương(ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ngân sách quận, huyện và ngân sách xã phường, thị trấn). Ngoài ra Nhà nước còn đầu tư cho giáo dục theo các chương trình mục tiêu quốc gia(từ 600 tỷ năm 2000 đến khoảng 700 tỷ năm 2004) nhằm giải quyết những vấn đề bức thiết trong ngành giáo dục - đào tạo. Hiện nay, nguồn vốn NSNN chiếm vai trò chủ đạo trong các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục là vì: Đây là nguồn tài chính cơ bản, to lớn để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục đào tạo theo định hướng, mục tiêu của Nhà nước. Giải quyết những vấn đề thuộc chính sách xã hội, công bằng trong giáo dục đào tạo như vấn đề về quyền lợi được hưởng giáo dục ở khu vực vùng sâu, xa và người bị thiệt thòi, con em của những gia đình chính sách hoặc gia đình gặp khó khăn về đời sống kinh tế. Giải quyết những vấn đề phát triển của hệ thống giáo dục ở tầm quốc gia và ở những khu vực mà các thành phần kinh tế xã hội khác chưa quan tâm hoặc chưa đủ năng lực để thực hiện. * Nguồn vốn ngoài ngân sách: Nguồn vốn này nhằm bổ sung cho những thiếu hụt của ngân sách giáo dục và đáp ứng yêu cầu của giáo dục ngày càng lớn và hết sức đa dạng của nền kinh tế – xã hội. Hiện nay, vị trí của nguồn vốn này ngày càng trở nên quan trọng và tăng lên nhanh chóng, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo. Nguồn vốn ngoài ngân sách bao gồm: Nguồn vốn thu từ học phí: Đây là nguồn thu lớn nhất chiếm khoảng 60 – 70% tổng số nguồn thu ngoài NSNN. Để đảm bảo công bằng hợp lý và tạo điều kiện chủ động cho các địa phương cũng như để phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh khung mức thu học phí để trên cơ sở đó chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định cụ thể. Hiện nay mức thu học phí tại các cơ sở công lập đang được thực hiện theo quyết định số 70/1998 QĐ- Ttg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn đóng góp của nhân dân: Chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục đã huy động sự tham gia đóng góp của toàn dân đối với sự nghiệp giáo dục trên cả ba mặt: nhân lực, vật lực, tài lực. Trong những năm gần đây, việc đóng góp của nhân dân và các địa phương cho việc xây dựng cơ sở trường học phổ thông ngày càng tăng lên nhất là giáo dục mầm non, tiểu học và THCS. Xã hội hoá giáo dục cũng đã tạo điều kiện đa dạng hoá các loại hình giáo dục, phát triển các loại hình trường ngoài công lập như: bán công, dân lập, tư thục qua đó mở ra tiềm năng huy động các nguồn đầu tư cho giáo dục, tạo cơ hội để các lực lượng ngoài ngành giáo dục tham gia tích cực hơn vào công tác giáo dục. Nguồn viện trợ của các tổ chức xã hội trong và ngoài nước: Đây là nguồn tài chính có tính chất quan trọng cho phát triển giáo dục, được tăng thêm một phần từ nguồn viện trợ phát triển ODA của các nước và vốn vay của nước ngoài, của các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, còn có sự hỗ trợ trực tiếp của các nước đối với một số cơ sở giáo dục ở nước ta. Các nguồn vốn khác: Nguồn vốn từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, nguồn đóng góp của các doanh nghiệp …các nguồn này chưa nhiều và chưa ổn định song trong tương lai đây là nguồn vốn đáng kể cho sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo. 1.1.3.2. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông: * Nội dung chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông: Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo chức năng thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. * Khái niệm: Chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo được hiểu là quá trình đầu tư kinh phí từ quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm duy trì và phát triển sự nghiệp giáo dục theo định hướng chung của Nhà nước. Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ, căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng, thể hiện được chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. * Quan hệ chi NSNN và các khoản đóng góp ngoài ngân sách cho giáo dục phổ thông. Các đơn vị sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước cấp và thu sự nghiệp của đơn vị để chi cho các hoạt động thường xuyên theo những nội dung: Chi cho cán bộ, giáo viên và lao động hợp đồng: Chi tiền lương; tiền công; tiền thưởng; phụ cấp lương; phúc lợi tập thể; các khoản đóng góp trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo chế độ hiện hành. Chi cho sinh viên, học sinh: chi học bổng, trợ cấp xã hội, tiền thưởng; chi các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao của học sinh, sinh viên. Chi quản lý hành chính: chi điện, nước, xăng dầu, vệ sinh môi trường, mua vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng, công tác phí, hội nghị phí, thông tin liên lạc, cước phí điện thoại… Chi nghiệp vụ giảng dạy, học tập: Chi mua sách, báo, tạp chí, tài liệu giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo, thiết bị, vật tư thí nghiệm, thực hành… Trong những năm gần đây, cùng với việc Nhà nước tăng mức ngân sách giáo dục cả về số tuyệt đối cũng như tỉ lệ % trong tổng chi NSNN(theo báo cáo sơ bộ tổng quyết toán NSNN năm 2005, mức chi NSNN cho giáo dục chiếm hon 12% tổng chi NSNN), các nguồn vốn đầu tư, đóng góp ngoài NSNN cho giáo dục cũng đạt được mức huy động cao hơn những năm trước đấy. Hiện nay, ngoài khoản đóng góp các khoản đóng góp khác như: nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, làm dịch vụ, các khoản đóng góp từ các tổ chức kinh tế – xã hội Theo kết quả phối hợp nghiên cứu của Bộ Giáo Dục - Đào Tạo với Ngân hàng Thế Giới và các Bộ, các ngành liên quan về mối quan hệ giữa chi phí của NSNN và chi phí của dân cư trên một đầu học sinh các cấp, bậc học cho thấy: ở bậc tiểu học, phần chi phí do nhân dân đóng góp chiếm tới hơn 40%, ở THCS gần 50% và THPT hơn 50%. Tuy nhiên, theo phân tích của ngân hàng Thế giới, trong cơ cấu chi phí của dân cư cho giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông thì khoản học phí và các khoản đóng góp khác trực tiếp cho nhà trường lại chiếm tỷ lệ thấp: tiểu học và trung học cơ sở khoảng 20% còn trung học phổ thông khoảng trên 20% trong tổng chi phí của dân cư cho giáo dục. Số tiền còn lại trong chi phí cho giáo dục của dân cư thường không thuộc các khoản đóng góp trực tiếp cho nhà trường như chi về mua sách giáo khoa, chi các khoản về mua đồng phục, chi lập các quỹ … Với tình hình thực tế này giúp Nhà nước có cái nhìn thực tế hơn để có thể hoạch định các chính sách, cơ chế phù hợp, phân định phần đầu tư của ngân sách nhà nước và phần đóng góp của người học và pháp quy hoá nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục, nhằm vừa tạo cơ hội cho người học, vừa đảm bảo nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục. Những phân tích, trên cho thấy chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục của Đảng và Nhà nước đã tạo ra khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, làm tăng mức huy động tài chính từ cộng đồng dân cư, cha mẹ học sinh đóng góp để phát triển giáo dục. Bảng dưới đây phản ánh tỷ lệ giữa NSNN và đóng góp của nhân dân cho giáo dục. Bảng 2: Tỷ lệ chi NSNN và nhân dân đóng góp cho giáo dục Đơn vị tính:% Cấp học Chi phí tính trên 1 đầu học sinh Tổng số Phần từ NSNN Phần từ nhân dân đóng góp Tiểu học 100 55,5 44,5 THCS 100 51,3 48,7 THPT 100 48,5 51,5 Nguồn: Đề án đổi mới chương trình GDPT – Bộ Giáo Dục Đào Tạo Ngoài việc đầu tư từ NSNN và phát huy mọi tiềm năng trong nước và đóng góp của nhân dân cho giáo dục, những năm qua Nhà nước còn mở rộng hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, các cá nhân nước ngoài và Việt Kiều nhằm khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực bên ngoài để phát triển giáo dục. Chính phủ đã ban hành các văn bản để khuyến khích nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục đào tạo như cho phép thành lập các cơ sở giáo dục với 100% vốn nước ngoài, mở rộng liên kết giữa các cơ sở đào tạo trong nước với các tổ chức quốc tế. Nhờ có chính sách đúng đắn này, ngành giáo dục đào tạo đã tận dụng được mọi nguồn viện trợ thông qua các hình thức hợp tác song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ để tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Ngoài ra, do Nhà nước có chính sách khuyến khích xã hội hoá giáo dục nên hoạt động du học tự túc đã phát triển mạnh, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước và Việt kiều đã tham gia giảng dạy và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Số học bổng và tiếp nhận học bổng do các tổ chức quốc tế, cá nhân trao tặng cho giáo dục các cấp ngày càng tăng đã góp phần vào sự nghiệp giáo dục ở nước ta. 1.2. QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG: 1.2.1. Nguyên tắc quản lý chi NSNN cho GDPT: Công tác quản lý điều hành, ngân sách nhà nước cho GDPT của các cơ quan tài chính được thực hiện theo các nguyên tắc như sau: Nguyên tắc tập trung thống nhất: Cả quốc gia chỉ có một ngân sách Nhà nước thống nhất theo luật NSNN. Sự thống nhất đó thể hiện bằng pháp luật, bằng các chính sách, chế độ và bằng kế hoạch hàng năm. Quốc hội quy định, sửa đổi, bãi bỏ các khoản chi và thẩm quyền ban hành cũng như nguyên tắc quản lý các khoản chi NSNN. Quốc hội quyết định dự toán NSNN và phê chuẩn quyết toán NSNN. Nguyên tắc toàn diện: Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi tất cả các hoạt động tài chính với mọi số chi cho moi mục đích, bất luận là lấy ở khoản thu nào đều phải được đặt trong hệ thống ngân sách. Đồng thời, phải được thực hiện theo nguyên tắc, chế độ thống nhất trong cả nước do Chính phủ qui định và hướng dẫn. Theo nguyên tắc này, việc lập dự toán ngân sách phải xuất phát từ cơ sở và mọi khoản chi phải ghi đúng và đầy đủ theo giá trị nguyên thuỷ vào kế hoạch ngân sách. Chỉ có ngân sách toàn diện thì việc phê chuẩn ngân sách của các cấp có thẩm quyền mới có giá trị đầy đủ và mới tạo điều kiện phê chuẩn ngân sách của Quốc hội mới chính xác và mới có thể thực hiện kiểm soát hiệu quả. Nguyên tắc rõ ràng, trung thực và chính xác: Nguyên tắc này được thể hiện trong tiến trình lập và công bố ngân sách. Theo nguyên tắc này, ngân sách đã được hoạch định phê chuẩn phải được phản ánh đúng sự thật, khách quan. Các dự toán, quyết toán phải được kiểm tra, thẩm định theo một trình tự chặt chẽ. Các tài liệu cần thiết để trình bầy, biện minh cho những dự trù và đề nghị ngân sách phải là những tài liệu chính xác, mô tả rành mạch, có hệ thống và đúng với sự thật. Nguyên tắc công khai: Các khoản chi của ngân sách được Quốc hội và Hội đồng nhân dân thảo luận và biểu quyết công khai, khi được quyết định phải công bố công khai cho nhân dân biết. Tính công khai của ngân sách Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân“ dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”. Nguyên tắc quản lý theo dự toán: Hoạt động của ngân sách Nhà nước đặc biệt là cơ cấu chi ngân sách nhà nước phụ thuộc vào sự phán quyết của cơ quan quyền lực nhà nước, đồng thời luôn chịu sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước. Phạm vi chi của ngân sách Nhà nước rất đa dạng liên quan nhiều loại hình đơn vị thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Mức chi cho mỗi loại hoạt động được xác định theo đối tượng riêng, định mức riêng. Nguyên tắc tiết kiệm: Nguyên tắc tiết kiệm đòi hỏi trong quá trình quản lý chi ngân sách Nhà nước phải xây dựng các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với từng đối tượng hay tính chất công việc; phải thiết lập các hình thức cấp phát đa dạng và lựa chọn hình thức cấp phát áp dụng cho mỗi loại hình đơn vị một cách phù hợp với yêu cầu quản lý của từng nhóm mục chi; lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động hoặc theo các nhóm mục chi sao cho với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành và đạt chất lượng cao. 1.2.2. Nội dung quản lý chi NSNN cho giáo dục phổ thông: * Công tác lập dự toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông: Hàng năm căn cứ vào chỉ thị của Thủ Tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, thông tư hướng dẫn và giao số kiểm tra về dự toán chi NSNN của Bộ Tài Chính. Căn cứ vào Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu của Chính phủ và Thông tư số25/2002/TT-BTC ngày 21/3/2002 của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 10 quy định về việc lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Các chương trình mục tiêu Quốc gia, của các Thành phố giao cho ngành giáo dục. Dự toán của phòng tài chính các quận, huyện, Sở Giáo dục - Đào tạo đã gửi cho Sở Tài Chính. Các Sở Tài Chính phối hợp với các Sở Kế hoạch Đầu tư xem xét dự toán của các đơn vị, dự toán chi trương trình mục tiêu quốc gia để tổng hợp báo cáo Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân của các Thành phố, các Tỉnh xem xét trước khi báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Giáo dục - Đào tạo. Căn cứ để lập dự toán đó là: + Nhiệm vụ của chương trình Quốc gia về giáo dục đào tạo trong năm. + Căn cứ vào dự toán cũng như tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước của các đơn vị năm trước. + Khả năng ngân sách Nhà nước của các Tỉnh, Thành phố. + Căn cứ dự toán tổng mức thu của các đơn vị. * Phân bổ dự toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông : Trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho Thành phố, các Sở Tài chính có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân các Thành phố, các Tỉnh trình Hội đồng nhân dân quyết định dự toán chi ngân sách, phương án phân bổ ngân sách và mức bổ sung từ ngân sách cấp Tỉnh, Thành phố cho ngân sách cấp dưới; các Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố có trách nhiệm báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự toán ngân sách và kết quả phân bổ dự toán ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định. Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân Thành phố, các Sở Tài chính trình Uỷ ban nhân dân quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi, và tỷ lệ % phân chia các khoản thu giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương(phần ngân sách địa phương được hưởng và giữa các cấp chính quyền địa phương, dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền của ngân sách Trung ương, dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền của ngân sách cấp Thành phố(nếu có) cho từng Huyện, Quận trực thuộc Thành phố. Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu chi của Uỷ ban nhân dân Thành phố, Uỷ ban nhân dân cấp Quận, Huyện trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định dự toán chi ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình. Sau khi nhận được dự toán chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao, các đơn vị dự toán phải tổ chức phân bổ và giao dự toán chi ngân sách cho từng đơn vị trực thuộc, kể cả dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền (nếu có). Tài liệu trình dự toán và phân bổ ngân sách: Theo quy định tại điều 41 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 và Quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương do Chính phủ ban hành thì tài liệu cần thiết khi trình dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân cấp chính quyền địa phương khi trình Hội đồng nhân dân bao gồm: Tình hình thực hiện ngân sách năm trước, các căn cứ xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, những nội dung cơ bản và giải pháp nhằm thực hiện ngân sách nhà nước. Các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước. Các tài liệu khác nhằm thuyết minh rõ dự toán chi và phương án phân bổ. * Công tác cấp phát và kiểm soát chi NSNN cho giáo dục phổ thông : Công tác cấp phát: Sau khi._. nhận được dự toán của đơn vị dự toán, các trường sẽ lập dự toán theo quyết định được giao. Và Kho bạc Nhà nước sẽ thực hiện chi trả các khoản chi ngân sách nhà nước khi có đủ các điều kiện sau: + Đã có trong dự toán chi ngân sách Thành phố. + Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách Thành phố do Hội đồng nhân dân Thành phố phê duyệt. + Đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước hoặc người được uỷ quyền quyết định chi. + Có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán. Theo Thông tư số 100/2005/TT-BTC ngày 17 tháng 11 năm 2005 để tăng cường chủ động cho các đơn vị sử dụng ngân sách, giảm tục hành chính, từ năm 2006 thực hiện quản lý điều hành ngân sách theo dự toán được giao. Căn cứ vào dự toán năm được giao, đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện rút dự toán chi theo chế độ, định mức chi tiêu ngân sách đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiến độ, khối lượng thực hiện nhiệm vụ; đảm bảo nguyên tắc: + Các khoản chi thanh toán cá nhân( lương, phụ cấp lương, trợ cấp xã hội…) đảm bảo thanh toán theo mức được hưởng hàng tháng của các đối tượng hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước. + Các khoản chi có tình chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như: đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản có tình chất không thường xuyên khác thực hiện thanh toán theo tiến độ, khối lượng thực hiện theo chế độ quy định. Trường hợp phát sinh các khoản chi cần thiết vượt mức dự kiến theo quý được giao từ đầu năm nhưng vẫn nằm trong phạm vi dự toán ngân sách năm được giao thì Kho bạc Nhà nước vẫn thực hiện chi cho đơn vị và định kỳ tổng hợp báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp. + Kho bạc nhà nước thực hiện hạch toán các khoản chi đã thực chi trả, rút dự toán chi tiêu theo đúng mục lục ngân sách Nhà nước. Công tác kiểm soát: Cơ quan tài chính kết hợp với Kho bạc Nhà nước cùng kiểm soát quá trình chấp hành ngân sách của các đơn vị: Đối với cơ quan tài chính: Căn cứ vào dự toán từng quý đã được phê duyệt và số cấp phát của Sở Tài chính cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các cán bộ tài chính sẽ kiểm tra việc thực hiện kế hoạch chi của từng đơn vị xem có đúng với các nội dung chi theo dự toán đã được duyệt hay không, có đảm bảo chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước hay không. Kiểm tra việc mở sổ sách, chế độ ghi chép chứng từ chi và trên sổ sách có khớp nhau hay không. Kiểm tra việc thực hiện chế độ báo cáo kế toán của đơn vị theo mẫu biểu quy định(tháng, quý, năm), chế độ quản lý quỹ tiền lương theo biên chế, hợp đồng; biến động tăng giảm tài sản cố định của đơn vị( mua sắm, thanh lý, chuyển nhượng). Đối với Kho bạc: Kho bạc thực hiện việc kiểm soát chi đối với các khoản cấp phát ngân sách qua tài khoản hạn mức của các trường mở tại kho bạc theo nội dung sau: + Cấp tạm ứng: Đối với các khoản chi hành chính Chi mua tài sản, sửa chữa, xây dựng nhỏ, sửa chữa lớn tài sản cố định chưa đủ điều kiện cấp phát, thanh toán trực tiếp hoặc tạm ứng theo hợp đồng. Mức cấp tạm ứng tuỳ thuộc vào tính chất các khoản chi tuỳ thuộc vào tính chất các khoản chi theo đề nghị của đơn vị và phù hợp với tiến độ thực hiện. Tuy nhiên, mức cấp tạm ứng tối đa không vượt quá các nhóm mục chi trong dự toán ngân sách nhà nước được phân bổ. Kho bạc sẽ kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ, tài liệu liên quan đến từng khoản chi kèm theo giấy rút dự toán ngân sách nhà nước(trong đó ghi rõ nội dung tạm ứng) mà các đơn vị sử dụng ngân sách đã gửi. Trường hợp đủ điều kiện quy định thì Kho bạc Nhà nước sẽ thực hiện thanh toán cho các đơn vị; nếu chưa đủ điều kiện thì các đơn vị có thể thanh toán trong tháng sau hoặc quý sau. + Cấp thanh toán: Các khoản cấp thanh toán bao gồm: Lương và phụ cấp lương; Học bổng, sinh hoạt phí; Các khoản chi đủ điều kiện cấp thanh toán trực tiếp; Các khoản tạm ứng đủ điều kiện chuyển từ cấp tạm ứng sang thanh toán tạm ứng. Mức cấp thanh toán căn cứ vào hồ sơ, chứng từ chi ngân sách nhà nước theo đề nghị của đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước. Mức cấp thanh toán tối đa trong quý, năm không vượt quá nhu cầu chi quý và dự toán ngân sách nhà nước năm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân bổ(bao gồm cả chi tạm ứng chưa được thu hồi). Kho bạc nhà nước kiểm tra, kiểm soát tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ thanh toán mà các đơn vị gửi cho mình và đối chiếu với dự toán ngân sách nhà nước được duyệt. Trường hợp đủ điều kiện như quy định thì thực hiện thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ hoặc trả qua đơn vị sử dụng ngân sách. * Công tác quyết toán kinh phí NSNN cho Giáo dục phổ thông: Quyết toán kinh phí là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý ngân sách. Cuối quý các trường tiểu học và trung học cơ sở phải báo cáo tình hình thực hiện và quyết toán kinh phí chương trình cho phòng tài chính của các quận, huyện; các trường trung học phổ thông thực hiện báo cáo cho Sở giáo dục đào tạo Hà Nội theo đúng chế độ kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp theo thông tư số 121/2002/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 về hướng dẫn kế toán đơn vị sự nghiệp có thu và Thông tư số 59/2003/NĐ-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước. Nguyên tắc lập báo cáo quyết toán nhà nước như sau: Số liệu báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán phải theo đúng các nội dung chi trong dự toán được giao(hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép) hoặc chi tiết theo Mục lục ngân sách Nhà nước. Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ; chịu trách nhiệm về những khoản thu, chi, hạch toán, quyết toán ngân sách sai chế độ. Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán cấp dưới gửi đơn vị dự toán cấp trên, đơn vị dự toán cấp I gửi cơ quan tài chính cùng cấp phải gửi kèm theo các báo cáo sau đây: + Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31 tháng 12 và bảng cân đối tài khoản sau khi kết thúc thời gian chỉnh lý quyết toán. + Báo cáo thuyết minh quyết toán năm; thuyết minh quyết toán phải ghi rõ nguyên nhân đạt, không đạt hoặc vượt dự toán được giao theo từng chỉ tiêu và những kiến nghị nếu có. Báo cáo quyết toán năm, gửi cấp có thẩm quyền phê duyệt, thẩm định phải có xác nhận của Kho bạc Nhà nước cùng cấp về tổng số và chi tiết. Báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán không được quyết toán chi lớn hơn thu. Cấp dưới không quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền của ngân sách cấp trên vào báo cáo quyết toán ngân sách cấp mình. Trình tự lập, gửi, xét duyệt báo cáo chi ngân sách Nhà nước đối với đơn vị dự toán quy định như sau: - Sau khi kết thúc công tác khoá sổ kế toán cuối ngày 31 tháng 12, số liệu trên sổ sách kế toán của đơn vị phải bảo đảm cân đối và khớp đúng với chứng từ thu, chi ngân sách của đơn vị và số liệu của cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước về tổng số và chi tiết; trên cơ sở đó đơn vị dự toán lập báp cáo quyết toán. - Ngoài biểu mẫu báo cáo quyết toán năm theo qui định của Bộ trưởng Bộ Tài chính, đơn vị dự toán còn phải gửi kèm báo cáo chi tiết về các loại hàng hoá, vật tư tồn kho, tồn quỹ tiền mặt, số dư tài khoản tiền gửi của đơn vị dự toán đã được xử lý theo quy định tại điều 73 và 74 của Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 của Chính phủ. - Sau khi nhận báo cáo quyết toán của đơn vị dự toán cấp dưới, thủ trưởng đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm xét duyệt và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới. Trong phạm vi 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo xét duyệt quyết toán, đơn vị dự toán cấp dưới phải thực hiện xong những yêu cầu trong thông báo xét duyệt quyết toán. Mỗi lần quyết toán là một lần rút kinh nghiệm trong công tác quản lý, từ đó khắc phục mặt yếu kém để tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả công tác và trình độ quản lý tài chính. Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực. Nội dung trong báo cáo quyết toán phải theo đúng nội dung ghi trong dự toán được duyệt và theo đúng mục lục ngân sách. Các Sở tài chính sẽ tổng hợp tình hình thực hiện ngân sách từ các phòng tài chính và Sở giáo dục đào tạo trên địa bàn của các Thành phố, các Tỉnh mình và báo cáo định kỳ cho Bộ Tài Chính. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục phổ thông: Mức tăng trưởng của nền kinh tế và quan hệ phân phối NSNN: Sự tăng trưởng của một quốc gia nhanh hay chậm được thể hiện qua thu nhập quốc dân cao hay thấp. Khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng chậm, thu nhập quốc dân còn thấp thì điều này dẫn đến nguồn thu của NSNN sẽ hạn chế. Nếu nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, mức động viên vào NSNN lớn và thuận lợi thì nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục sẽ cao hơn là một tất yếu. Chương trình phát triển giáo dục đào tạo của đất nước. Sự phát triển giáo dục phụ thuộc rất lớn vào chương trình phát triển giáo dục đào tạo của đất nước. Số lượng chương trình mục tiêu nhiều thì số lượng ngân sách đầu tư cho giáo dục cũng đồng thời tăng để đảm bảo tiến trình thực hiện các chương trình. Tuỳ vào tầm quan trọng của các chương trình, cũng như yêu cầu về thời gian thực hiện, hoàn thành mà mức độ và số lượng ngân sách dành cho các chương trình đó có sự khác nhau và có sự khác biệt giữa mức chi ngân sách qua các năm. Thực trạng của ngành giáo dục: Số lượng học sinh mỗi cấp học, số lượng giáo viên của ngành giáo dục là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chi NSNN cho giáo dục phổ thông. Với chủ trương miễn học phí với cấp học tiểu học, và mức khung học phí hiện hành thì số học sinh sẽ ảnh hưởng đến mức kinh phí dành cho giáo dục do phụ thuộc vào mức đầu tư ngân sách nhà nước cho mỗi học sinh. Và số lượng giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khoản ngân sách dành cho mục tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương trong công tác quản lý chi NSNN. Ngoài ra, thì thực trạng về cơ sở vật chất của các trường học cũng là nhân tố không kém phần quan trọng. Nếu cơ sở vật chất của các trường còn tốt, hiện đại thì khoản chi cho xây dựng cơ bản; mua sắm, sửa chữa tài sản thiết bị sẽ giảm kéo theo chi NSNN cho giáo dục sẽ giảm và ngược lại. Tốc độ tăng dân số của đất nước. Tốc độ dân số tăng nhanh đồng nghĩa với việc số lượng học sinh đến trường sẽ tăng lên dẫn đến phải tăng thêm số lượng trường, lớp , giáo viên … đảm bảo điều kiện học tập của số học sinh này. Điều này, đòi hỏi số lượng ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tăng. Những quốc gia có tốc độ tăng dân số nhanh thì lượng ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư cho giáo dục của người dân sẽ lớn. Tình hình hợp tác quan hệ quốc tế về giáo dục của quốc gia. Quan hệ hợp tác quốc tế về lĩnh vực giáo dục ảnh hưởng không nhỏ tới ngân sách Nhà nước chi cho ngành giáo dục. Các mối quan hệ này sẽ tác động trực tiếp tới số lượng vốn ngoài ngân sách đầu tư cho giáo dục, góp phần thay đổi tỷ trọng trong mối quan hệ giữa chi NSNN và các khoản đóng góp ngoài ngân sách cho giáo dục phổ thông. Các nhân tố khác như: biến động về kinh tế, chính trị, xã hội; khả năng, trình độ của các cán bộ ngành giáo dục… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chi NSNN cho giáo dục phổ thông. Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chi NSNN cho giáo dục phổ thông có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí nội dung và cơ cấu các khoản chi của NSNN cho giáo dục phổ thông một cách khách quan phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Tóm lại: Chương I của chuyên đề đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về giáo dục phổ thông, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông và công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông. Xuất phát từ tầm quan trọng của giáo dục phổ thông đối với sự nghiệp phát triển giáo dục và sự phát triển của đất nước cho thấy mức độ cần thiết phải đầu tư cho lĩnh vực này. Chi giáo dục phổ thông đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển giáo dục của mỗi vùng, miền, mỗi quốc gia và đây là khoản chi chịu rất nhiều các nhân tố trong đó có cả các nhân tố chủ quan và khách quan. CHƯƠNGII: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI: 2.1 VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC THỦ ĐÔ: Bước vào thế kỷ 21 giáo dục Việt Nam đã trải qua 15 năm đổi mới và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hoá các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng giáo dục được cải biến bước đầu. Cùng với bước phát triển của giáo dục cả nước, giáo dục Thủ đô Hà Nội cũng đang vững bước trên chặng đường đi của mình với rất nhiều thành công. Là trung tâm, trái tim của cả nước và là nơi ngàn năm văn hiến với trường đại học đầu tiên của nước ta – Quốc Tử Giám thì giáo dục luôn là lĩnh vực giành được sự ưu ái đặc biệt, sự quan tâm lớn lao của tất cả mọi tầng lớp nhân dân Thủ đô và thực sự được coi là quốc sách hàng đầu. Với sự quan tâm sâu sắc của các ngành, các cấp cũng như của tất cả người dân giáo dục Thủ đô Hà nội nói chung và của giáo dục phổ thông nói riêng đã gặt hái được những thành tựu to lớn.: Đối với bậc tiểu học: ngành giáo dục của Thủ đô đã duy trì và nâng cáo chất lượng kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, học đúng độ tuổi, đã huy động được 99,9% trẻ vào lớp 1, không có học sinh bỏ học, tỷ lệ học sinh lưu ban thấp – 0,05%; 2187 trẻ khuyết tật còn sức khoẻ được lên lớp(chiếm72,2% trẻ khuyết tật). Việc triển khai đại trà chương trình, sách giáo khoa mới ở khối lớp 1,2,3 được thực hiện nghiêm túc. Ở các khối 4,5 tiếp tục thực hiện nội dung chương trình đảm bảo chất lượng giảng dạy, tránh quá tải và hạ thấp yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng với học sinh. Các đơn vị tham gia thử nghiệm chương trình tiểu học năm 2000 một số môn ở khối 4,5 được quan tâm chỉ đạo. Tỷ lệ học sinh học 2 buổi/ngày đạt 88,5%(tăng 1,8%) ở 260 trường(đạt 95,6%). Cơ bản các trường đã tổ chức có nề nếp dạy học 2 buổi/ngày. Kết quả xếp loại đạo đức, văn hoá của học sinh so với năm học trước tiếp tục được giữ vững: + Về xếp loại đạo đức: 98,2% xếp loại tốt hoặc đạt yêu cầu + Về văn hoá: * Môn Tiếng Việt:44,75% giỏi, 44,53% khá * Môn Toán: 62,35% giỏi, 28,93% khá - Bậc Trung học phổ thông: Quy mô phát triển được giữ vững, đã huy động 100% học sinh tốt nghiệp tiểu học vào lớp 6, số học sinh THCS,THPT tăng hơn so với năm học trước. Năm học 2004 – 2005 thành lập thêm 1 trường THPT, nâng số trường THPT công lập lên 41 trường; có 23 trường thực hiện thí điểm hoà nhập hệ A và hệ B(tăng 16 trường) và 7 trường thực hiện thí điểm phân ban. Số học sinh bỏ học cấp THCS:0,03%(48 em), THPT:0,1%(103 em). Các đơn vị có nhiều biện pháp quản lý, chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện chương trình, công tác phân ban thí điểm ở lớp 10,11 được các trường chuẩn bị tốt. Thực hiện nghiêm túc chương trình lớp 9 thí điểm (vòng 2) tại quận Cầu Giấy. Các trường đã chủ động và thực hiện tốt việc dạy các môn tự chọn. Ba trường THPT là Việt Ba, Nguyễn Trãi và Kim Liên đã tham gia thí điểm kiểm tra trắc nghiệm khách quan ở Bộ môn Toán theo chỉ đạo của Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng. 150 cán bộ quản lý và giáo viên được bồi dưỡng chuyên đề “áp dụng trắc nghiệm khách quan trong giảng dạy và kiểm tra các môn Toán, Vật lý, Tiếng Anh khối lớp 6”. Thí điểm đưa Tin học vào chương trình dạy chính khoá tại 5 trường THCS nội thành. Việc tổ chức dạy 2 buổi/ngày được triển khai ở tất cả các quận, huyện. Số học sinh THCS học 2 buổi/ngày đạt tỷ lệ 28,48%(năm học trước là 18,8%) Tỷ lệ học sinh xếp loại đạo đức văn hoá chung toàn thành phố ổn định và ở mức cao: + Xếp loại văn hoá: cấp THCS:giỏi 28,66%, khá 38,13% Cấp THPT: giỏi 10,2%, khá 38,5% +Xếp loại đạo đức: Cấp THCS:75,33% tốt, 21,87% khá Cấp THPT:58,1% tốt, 32,8%khá Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT giữ ở mức cao: THCS là 98,17%(tăng 1%)- trong đó tỷ lệ khá, giỏi là 56,8%; THPT là 98,02%(tăng 1,67%)- tỷ lệ khá giỏi là 24,3% Chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp được nâng lên, công tác hướng nghiệp được chú trọng cũng như thành phố đã hoàn thành điều tra cơ bản phổ cập trung học. Năm 1990, Hà Nội được công nhận phổ cập tiểu học. Tháng 11 năm 1999, Thành phố Hà Nội là địa phương đầu tiên được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở theo tiêu chuẩn tạm thời. Sau khi được công nhận phổ cập trung học cơ sở, theo sự chỉ đạo của Bộ giáo dục đào tạo, của Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân Thành phố, Sở giáo dục đào tạo Hà Nội tiếp tục chỉ đạo các quận, huyện củng cố và duy trì kết quả đạt được. Đến tháng 8 năm 2002, Hà nội đã phổ cập trung học cơ sở đến 100% số xã và thị trấn theo tiêu chuẩn mới. 2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI: 2.2.1. Thực trạng đầu tư ngân sách nhà nước cho GDPT ở Hà Nội: Với truyền thống hiếu học của người dân Thủ đô, sự quan tâm của các ngành các cấp , cùng với sự phấn đấu không mệt mỏi của ngành giáo dục đào tạo, giáo dục Hà nội đã có bước phát triển vượt bậc trong thời gian vừa qua một lần nữa đã khẳng định tinh thần quán triệt mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước đã đề ra cũng như tinh thần “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Thủ đô. Trong 5 năm( từ 2000 - 2005) Hà nội đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Thành phố đã có quyết định phê duyệt 2 bản quy hoạch cho ngành là: Quy hoạch phát triển và Quy hoạch mạng lưới trường lớp đến 2010 và định hướng đến 2020. Thành uỷ có đề án số 22 chỉ đạo thực hiện kết luận của Nghị quyết Trung ương VI. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà nội có chỉ thị số 26 về chương trình thực hiện kiên cố hoá - hiện đại hoá trường lớp của Thủ đô. Ngành giáo dục đào tạo đã xây dựng 9 chương trình hành động thực hiện, trong đó có một số đề án đã được triển khai thực hiện như: Đề án chiếu sáng học đường, đề án tách cấp về CSVC, đề án di chuyển hộ dân trong khuôn viên trường học, đề án xoá phòng học cấp 4… Song song với việc xoá phòng học cấp 4 là quy hoạch mạng lưới trường lớp , xây dựng, bổ sung phòng học phục vụ việc học 2 buổi/ ngày của THCS và Tiểu học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 40 của Quốc Hội. Với sự quan tâm của Thành phố, đã có sự thay đổi lớn trong tỷ trọng ngân sách thường xuyên và tổng chi ngân sách địa phương trong thời gian qua: Bảng 3: Tỷ trọng chi sự nghiệp GD - ĐT trong tổng chi thường xuyên và chi ngân sách địa phương trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2001- 2005 Đơn vị tính: % Năm Chi sự nghiệp GD - ĐT trong tổng chi thường xuyên Chi sự nghiệp GD - ĐT trong tổng chi ngân sách địa phương Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 2002 605442 24,9 605442 12,1 2003 780627 25,9 780627 13,3 2004 1006712 25,8 1006712 14,5 TH 2005 1998800 23,7 1998800 11,2 Nguồn: Sở Tài Chính Hà Nội Trong giai đoạn 2002-2005, tỷ trọng chi sự nghiệp giáo dục trong tổng chi ngân sách Thành phố cũng như trong tổng chi thường xuyên của ngân sách Thành phố đã có nhiều biến đổi và tăng lên qua mỗi năm. Nếu như tại năm 2002 mức kinh phí đầu tư cho giáo dục chỉ chiếm 12,1% trong chi NSĐP thì đến năm 2003 đã tăng được 1,2%(đạt 13,3%) và năm 2004 đã tăng so với năm 2002 là 2,4 đạt 14,5%. Tuy có sự thay đổi trong TH ngân sách Nhà nước năm 2005 nhưng vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi ngân sách Thủ đô. Cùng với mức tăng tỷ trọng của chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đào tạo trong tổng mức chi ngân sách địa phương thì tỷ trọng này cũng có nhiều biến đổi trong tổng chi thường xuyên của ngân sách Thành phố. Năm 2003, 2004 tỷ trọng này đã tăng lên khoảng 1%. Điều này cho thấy chủ trương tăng cường đầu tư cho giáo dục của Thành phố, đẩy mạnh công tác giáo dục Thủ đô và thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và đào tạo đến năm 2005 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 17 tháng 2 năm 2003. Việc tăng tỷ trọng trong tổng số chi ngân sách địa phương của giáo dục đào tạo thủ đô cho thấy mức đầu tư kinh phí mà Thành phố Hà Nội dành cho sự nghiệp giáo dục đào tạo luôn được tăng lên: Nguồn: Sở Tài Chính Hà Nội Trong giai đoạn từ 2002 đến 2005 tổng mức chi ngân sách cho giáo dục tăng lên đáng kể đạt 1138258 triệu đồng, tăng từ 1,5 - 2 lần. Cụ thể là: năm 2002 mức chi NSNN cho giáo dục chỉ đạt 605442 triệu đồng thì năm 2003 đã tăng 175185 triệu đồng, năm 2004 tăng 401270 triệu đồng và đến năm 2005 là 593358 triệu đồng so với năm 2002. Cho thấy sự quan tâm đầu tư cho giáo dục của Thành phố; đồng thời phù hợp với những đề xuất mà Sở Giáo dục đào tạo đã phối hợp với các Sở, ngành đề xuất Thành phố có quyết định phân bổ ngân sách theo định mức mới cho ngành Giáo dục - đào tạo năm sau cao hơn năm trước. Đây là những tiền đề quan trọng để GD&ĐT Hà Nội phát triển nhanh và vững chắc. Trong tổng mức chi ngân sách của Thành phố cho giáo dục đào tạo có sự chênh lệch rõ rệt trong các cấp học trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Theo số liệu báo cáo tổng quyết toán Ngân sách Hà Nội năm 2004 thì mức chi ngân sách cho các cấp học như sau: Tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo là: 1006712 triệu đồng. Trong đó: Chi cho cấp học Tiểu học : 464999 triệu đồng chiếm 46,2% tổng chi NSĐP cho giáo dục. Chi cho cấp học THCS : 358942 triệu đồng chiếm 35,7% tổng chi NSĐP cho giáo dục. Chi cho cấp học THPT : 124917triệu đồng chiếm 12,4% tổng chi NSĐP cho giáo dục. Trong đó thì số lượng ngân sách địa phương chi đầu tư xây dựng cơ bản là 220000triệu đồng chiếm tỷ trọng 8,3% trong tổng chi NSĐP và chi thường xuyên là 786712 triệu đồng chiếm tỷ trọng 25,8%. Điều này cho thấy Thành phố đã chú trọng và dành mức kinh phí đáng kể để đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất và mua sắm thiết bị trường học với mong muốn mang lại cho học sinh môi trường học tập tốt nhất. Bảng 4: Mức chi Ngân sách cho giáo dục phổ thông phân theo cấp học năm 2004 Đơn vị tính: Triệu đồng Nội dung chi Tiểu học THCS THPT Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng số chi cho giáo dục 464999 100 358942 100 124917 100 1. Các khoản chi thường xuyên 223517 48.1 220591 61.5 76487 61.1 - Tiền lương, phụ cấp lương, tiền công 156165 33.6 148871 41.5 55305 44.3 - Các khoản đóng góp 16529 3.6 18848 5.3 6466 5.1 - Chi nghiệp vụ chuyên môn 28643 6.2 33754 9.4 13546 10.8 - Chi khác 22180 4.7 19118 5.3 1170 0.9 2. Chi không thường xuyên 112014 24.1 53618 14.9 9252 7.5 - Chi xây lắp 104997 22.6 49716 13.9 8338 6.7 - Chi thiết bị 5247 1.1 2315 0.6 336 0.3 - Chi khác 1770 0.4 1587 0.4 578 0.5 3. Chi khác 129468 27.8 84733 23.6 39178 31.4 Nguồn: Sở Tài chính Hà Nội Bảng phân tích mức chi NS giáo dục phổ thông trên cho thấy năm 2004 số lượng ngân sách dành cho các khoản chi không thường xuyên, đầu tư vào cơ sở vật chất trong năm đã tăng lên đáng kể tuy nhiên mức ngân sách dành cho tiền lương, tiền công và phụ cấp theo lương vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng mức chi thường xuyên cũng như tổng mức chi ngân sách giáo dục. Tỷ lệ này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế đó là số lượng giáo viên trong biên chế cũng như hợp đồng đang tăng lên, cho thấy sự quan tâm của Thành phố đến nguồn vật lực mà Thành phố đang tích cực đầu tư. Mặc dù vậy, thì thực tế vẫn đang còn tồn tại là số lượng giáo viên đông nhưng mức lương cơ bản thì vẫn còn thấp, chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế, nhu cầu của đời sống. Trong thời gian qua, được sự quan tâm của Thành phố mức kinh phí chi ngân sách Nhà nước thực tế tính trên đầu học sinh đã đạt được con số khá cao; phần nào đảm bảo cho học sinh Thủ đô những điều kiện tốt nhất để học tập, phát huy khả năng của mình. Tuy nhiên, xuất phát từ chủ trương của Nhà nước về miễn giảm học phí và mức khung học phí áp dụng trong các trường học nên có sự chênh lệch rất khác biệt giữa khoản đầu tư kinh phí cho một học sinh trong năm với tỷ lệ đóng góp của từng học sinh. Nguồn: Sở Tài chính Hà Nội Những năm vừa qua, đặc biệt là năm 2004 NSĐP Thủ đô đã dành cho mỗi học sinh một tỉ lệ đầu tư thực tế rất lớn, trong khi đó mức đóng góp của học sinh ở hai cấp học THCS và THPT là tương đối thấp so với tổng chi phí/ học sinh. Điều này là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế của giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố, bởi khoản thu nay rất khó huy động đủ theo kế hoạch. Số học phí của học sinh đóng góp chủ yếu nằm ở khu vực nội thành, ở các trường có uy tín và một phần số thu chưa được phản ánh đầy đủ vào ngân sách của Thành phố. 2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI: Quản lý chi NSNN nói chung và quản lý chi NSNN cho giáo dục đào tạo nói riêng đều phải tuân thủ theo một chu trình nhất định. Đối với NSNN khi chi cho giáo dục phổ thông cũng tuân theo ba giai đoạn. Đó là: - Lập dự toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông. - Chấp hành dự toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông. - Quyết toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông. Trong những năm qua, việc sử dụng kinh phí đầu tư cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã có những ưu điểm, song bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định. Điều này được thể hiện trong từng giai đoạn của quá trình quản lý chi NSNN cho giáo dục phổ thông. 2.3.1. Công tác lập, phân bổ dự toán cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà nội. * Công tác lập, phân bổ dự toán: Lập dự toán là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Dự toán cung cấp những thông tin cần thiết cho việc điều hành ngân sách chung Thành phố, giúp các cấp có thẩm quyền hoạch định các chính sách tài chính, ngân sách ngắn và dài hạn, cũng như tạo cơ sở cho việc đề xuất, điều chỉnh các chính sách chế độ tài chính hiện hành. Hàng năm, căn cứ vào tình hình thực tế của từng trường: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; nhu cầu về ngân sách của từng đơn vị này. Căn cứ vào định mức chi trong từng đơn vị, quy chế chi tiêu nội bộ, dự toán thực tế của các năm trước… các trường lập dự toán theo mục lục ngân sách gửi các cơ quan tài chính trực tiếp quản lý. Sở Tài chính Hà Nội sẽ tập hợp dự toán của các trường thuộc phạm vi mình quản lý và dự toán của các phòng tài chính các quận, huyện. Sau đó phối hợp với Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội xem xét dự toán của các đơn vị và trình Uỷ ban nhân dân thông qua. Căn cứ vào dự toán đã được Hội đồng nhân dân Thành phố phê duyệt, Sở Tài chính sẽ tiến hành phân bổ dự toán cho các đơn vị, đồng thời gửi cơ quan Kho bạc Nhà nước để theo dõi làm căn cứ kiểm soát thanh toán vốn. * Cơ chế phân bổ dự toán: Cơ chế phân bổ dự toán chi từ NSNN cho giáo dục - đào tạo có vai trò quan trọng then chốt trong việc xác định hiệu lực và hiệu quả của các nguồn vốn ngân sách nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và thực hiện các mục tiêu, chính sách của giáo dục đào tạo. Việc phân bổ mức dự toán chi từ NSNN cho giáo dục phổ thông chịu ảnh hưởng của rất nhiều các định mức chi khác nhau do các cơ quan trực thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp xem xét và quyết định hàng năm. Cơ chế phân bổ dự toán thường được tính theo: số học sinh và số dân trên địa bàn Thành phố. Theo Thông tư số 38TC/NSNN ngày 18/7/1996 của Bộ Tài chính có quy định mức chi ngân sách về giáo dục năm 1997 theo khu vực như sau: Khu vực: - Thành phố: 65000 đồng/1người/năm. - Đồng bằng: 46000 đồng/1người/năm. - Trung du: 57000 đồng/1người/năm. - Vùng sâu, núi thấp: 62000 đồng/1người/năm. - Núi cao, hải đảo :82000 đồng/1 người/năm. Riêng Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được tính thêm 20% so với mức chung của giáo dục. Như vậy, có sự chênh lệch khá lớn trong mức phân bổ ngân sách của các khu vực trên cả nước. Theo Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg ngày 11/07/2003 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách Nhà nước năm 2004 và Quyết định số 135/2003/QĐ-UB ngày 24/10/2003 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách Thành phố Hà Nội năm 2004 thì định mức phân bổ được thực hiện như sau: Bảng 5: Định mức phân bổ ngân sách chi sự nghiệp giáo dục tính theo cấp học trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2004 Đơn vị tính: đồng/học sinh/năm Cấp học Định mức Trung ương Định mức của Hà Nội Thực hiện Tiểu học 220000 780000 2285292 Trung học cơ sở 320000 1060000 1448266 Trung học phổ thông 380000 1150000 3309380 Nguồn: Sở Tài Chính Hà Nội Thành phố đã thực hiện phân bổ ngân sách trên cơ sở kết hợp giữa số học sinh và số dân trên địa bàn cùng với khả năng thu của địa phương để tăng kinh phí đầu tư cho giáo dục. Do vậy, mức chi thực tế bình quân hàng năm của Thành phố còn chênh lệch khá xa so với định mức phân bổ của cả Trung ương và của Thủ đô Hà Nội vào đầu năm. 2.3.2. Công tác quản lý cấp phát, thanh toán và kiểm soát các khoản chi NSNN cho GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội: Công tác quản lý cấp phát, thanh toán và kiểm soát ngân sách cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố trong thời gian qua đã được quan tâm và thực hiện chặt chẽ dưới sự kết hợp nhịp nhàng giữa cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước. Các điều kiện để thực hiện cấp phát, thanh toán và kiểm soát ngân sách đã được quy định cụ thể trong Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn…điều này đã giúp cho công tác quản lý cấp phát ngân sách Nhà nước được trở nên dễ dàng cũng như rõ ràng hơn cả đối với đơn vị trực tiếp cấp phát, quản lý hay đơn vị được nhận cấp phát ngân sách Nhà nước. Về cấp phát kinh phí ngân sách Nhà nước cho các cơ sở giáo dục phổ thông: Trong thời gian vừa qua chúng ta vẫn thực hiện cấp phát “Hạn mức kinh phí” cho từng mục chi theo mục lục NSNN, cuối năm nếu ngân sách không sử dụng hết thì phần hạn mức thừa phải nộp khôi phục hạn mức vào NSNN. Cơ chế này được thực hiện để nhằm mục tiêu khắc phục tình trạng sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước không đúng mục đích và tình trạng tồn đọng ngân sách tại các đơn vị trường học. Tuy nhiên do chất lượng dự toán còn hạn chế hoặc do những biến động trong quý, trong năm thực hiện nên đã dẫn đến tình trạng thường xuyên xảy ra đó là thừa kinh phí ở mục này nhưng lại thiếu kinh phí ở mục khác. Vì vậy, nhiều đơn vị đã phải cố sử dụng kinh phí nằm trong hạn mức được cấp trong năm. Điều này ảnh hưởng lớn tới việc chấp hành ngân sách cũng như gây ra trình trạng lãng phí và làm ch._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9714.doc
Tài liệu liên quan