Hoàn thiện công tác quản lý đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2010

Lời nói đầu I- Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia trên thế giới, là điều kiện tồn tại, phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Trong quá trình sản xuất , đất đai là một yếu tố đầu vào không thể thiếu. Tuy nhiên, đặc điểm của đất đai là một nguồn lực khan hiếm có nguồn cung không thể mở rộng được. Do đó, vấn đề sử dụng đất đai như thế nào cho có hiệu quả cao nhất, phân bổ đất đai vào được những phương án sử dụng đất mang

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại lợi ích ròng lớn nhất cho xã hội là một vấn đề được đặt ra cho tất cả các nước. Ngoài ra, việc bố trí đất đai còn có tính lâu dài. Do đó, những sai lầm trong phân bổ nguồn lực này sẽ để lại những hậu quả dai dẳng mà nhiều năm sau mới có thể khắc phục được, với những tốn phí của cải vật chất của xã hội không nhỏ. Bên cạnh việc cải tạo, sử dụng đất đai hợp lý và có hiệu quả là những tác động huỷ hoại đất làm ảnh hưởng đến môi trường sống. Do đó, yêu cầu quản lý chặt chẽ và sử dụng đất đai hợp lý để phát huy tác dụng tích cực và làm giảm những tác động tiêu cực đến đất đai trở nên hết sức cần thiết. Bắc Ninh là một tỉnh mới được tái lập năm 1997, nên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đi kèm với nó là xu hướng đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ làm biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc, xây dựng từ hình thức nông thôn ra thành thị. Quá trình đô thị hoá đặt ra nhu cầu sử dụng đất đô thị ngày càng tăng, chuyển đổi một phần đất nông nghiệp sang xây dựng mới hoặc mở rộng đô thị. Hiện nay, một trong những vấn đề nổi cộm nhất trong xây dựng và phát triển đô thị là vấn đề sử dụng quỹ đất cho xây dựng các công trình đô thị như thế nào cho phù hợp với sự phát triển chung của đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) khẳng định: “Công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém và nhiều vấn đề bức xúc. Tiềm năng đất đai chưa được phát huy tốt; đất đai chưa được chuyển dịch hợp lý, hiệu quả sử dụng còn thấp. Đất sản xuất nông nghiệp còn manh mún; rừng tiếp tục bị tàn phá, diện tích đất trống đồi núi trọc, đất bị xói mòn còn lớn. Việc sử dụng đất của nhiều khu công nghiệp, doanh nghiệp, cơ quan còn lãng phí”. Vì vậy, đòi hỏi của công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá mạnh mẽ là hết sức khó khăn và cần được đẩy mạnh hơn nữa, đối với toàn quốc nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Từ đó, tôi chọn đề tài sau làm luận văn tốt nghiệp: “Hoàn thiện công tác quản lý đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2010”. Với khả năng và thời gian có hạn nên luận văn không tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành từ phía các thầy cô giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn. II- Mục tiêu nghiên cứu Qua đề tài này, tôi muốn tìm hiểu, đánh giá công tác quản lý và sử dụng đất đai ở tỉnh Bắc Ninh trong quá trình đô thị hoá đang diễn ra, từ đó chỉ ra những tồn tại trong công tác này ở tỉnh. Luận văn cũng hy vọng đưa ra được một số kiến nghị và giải pháp có giá trị, góp phần hoàn thiện công tác này tại tỉnh nhà. III- Phạm vi nghiên cứu Công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng và của cả nước nói chung còn rất nhiều bất cập cần được giải quyết. Nhưng do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn, nên không thể đánh giá được tất cả các lĩnh vực có liên quan đến công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay. Vì vậy, trong đề tài này tôi chỉ xin đánh giá công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh, những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại. Từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị đối với công tác này. IV- Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào phương pháp thống kê mô tả, so sánh. Đề tài đứng trên giả thiết cho rằng, cùng với quá trình đô thị hoá nhanh chóng của Bắc Ninh kể từ sau khi tách tỉnh đến nay, cùng với áp lực đô thị hoá của các tỉnh lân cận, quá trình sử dụng đất đai ở tỉnh đã có những biến động gay gắt mà công tác quản lý đất đai chưa theo kịp. Do đó, còn gây ra nhiều lãng phí, tiêu cực trong công tác này. Bằng cách chỉ ra những điểm yếu trong công tác quản lý và sử dụng đất đai, đề tài sẽ đề xuất những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện công tác này trong thời gian tới. V- Kết cấu: Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, luận văn gồm 3 phần sau: Chương I. vai trò của đất đai đối với sự phát triển đô thị và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá Chương II. Thực trạng về công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997- 2000 Chương III: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2010 Chương I Vai trò của đất đai đối với sự phát triển đô thị và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá I- Khái quát chung về đất đai trong quá trình đô thị hoá 1. Khái niệm và đặc điểm của đô thị hoá 1.1. Khái niệm Đô thị hoá chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, đô thị hoá được tiếp cận từ nhiều góc độ: Theo quan điểm vùng: Đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị, mở rộng các thành phố gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước. Nói đô thị hoá cũng có nghĩa là quá trình biến các khu vực nông thôn thành đô thị, biến các vùng vốn dĩ là nghèo nàn, lạc hậu thành những vùng có mật độ dân cư đông đúc, có các hoạt động kinh tế xã hội phong phú, dồi dào, có đời sống tinh thần và vật chất cao và phong phú hơn nhiều so với các vùng lân cận. Theo quan điểm kinh tế quốc dân: Đô thị hoá là quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các điểm đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hoá là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức đô thị của các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hoá cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong các điều kiện mới mà biểu hiện tập trung là sự thay đổi cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động, cơ cấu thành phần kinh tế. 1.2. Các loại hình đô thị hoá. Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế- xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ… Do vậy đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế- xã hội. Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật, là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành thị cho nông thôn. Thực chất đó là quá trình tăng trưởng đô thị. Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật… tạo ra cụm đô thị, liên đô thị, góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn. Đô thị hoá giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến, đặc biệt là từ nông thôn, dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng cuộc sống… Tóm lại, đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số. 1.3. Đặc điểm của đô thị hoá Đô thị hoá mang tính xã hội và lịch sử: Thể hiện ở sự phát triển về quy mô, số lượng, nâng cao vai trò của đô thị trong khu vực và hình thành các chùm đô thị. Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế xã hội: Đô thị hoá thể hiện ở quá trình mở rộng quy mô đô thị gắn với sự phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, hình thành các trùm đô thị, các vùng kinh tế động lực từ đó tạo ra các trung tâm văn hoá phát triển theo. Sự thay đổi này kéo theo một loạt các vấn đề có liên quan đến truyền thống văn hoá của dân cư trong vùng và một loạt các tình trạng được gọi là mặt trái của đô thị hoá như: dân số gia tăng tại các đô thị trật hẹp, các tệ nạn xã hội ngày một tăng nhanh, tình trạng thất nghiệp tăng lên nhanh chóng… 2. Đặc điểm, phân loại và vai trò của đất đai 2.1. Đặc điểm của đất đai 2.1.1. Đất đai có tính khan hiếm Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có giới hạn trên phạm vi toàn cầu và từng quốc gia, có vị trí cố định không thể di chuyển được. Hơn nữa, đất đai không thể sản sinh thông qua sản xuất. Tính cố định không thể di chuyển được của đất đai, đồng thời quy định tính giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với đất đai chịu chi phối bởi các yếu tố như: Nguồn gốc hình thành, khí hậu sinh thái, với những tác động khác của thiên nhiên. Vị trí của đất đai có ý nghĩa về mặt kinh tế trong quá trình khai thác và sử dụng đất. Những đất đai ở gần đô thị, gần đường giao thông, các khu dân cư được khai thác triệt để hơn nhiều so với đất đai ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, do đó có giá trị lớn hơn. 2.1.2. Chất lượng đất đai có khả năng bồi dưỡng và tái tạo được Chất lượng đất đai được biểu hiện qua độ phì của đất, độ phì là một đặc trưng về chất gắn liền với đất, thể hiện ở khả năng cung cấp thức ăn, nước cho cây trồng trong quá trình sinh trưởng và phát triển. Khả năng phục hồi và tái tạo của đất chính là khả năng phục hồi và tái tạo độ phì thông qua tự nhiên hoặc do tác động của con người. Khác với các hàng hoá thông thường khác, trong quá trình sử dụng giá trị của nó sẽ giảm dần đi và qua một thời gian sử dụng nhất định nó sẽ “hỏng”. Nhưng trong đất đai, độ phì của đất trong quá trình khai thác, sử dụng không những không mất đi mà nếu biết bồi dưỡng, nó còn có khả năng tái tạo tăng lên tốt hơn trước. Do đó, đất đai có khả năng tái tạo được và có khả năng tạo ra khối lượng lương thực lớn hơn số lượng đủ để duy trì sự sống của người lao động. 2.1.3. Đất đai là một tư liệu sản xuất gắn liền với hoạt động của con người Trong quá trình hoạt động sản xuất, đất đai trở thành tư liệu sản xuất không thể thiếu được. Tác động của con người vào đất đai thông qua hoạt động sản xuất đa dạng, với nhiều vẻ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp nhằm khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên này vì lợi ích của mình. Những tác động ấy của con người làm cho đất đai vốn dĩ là sản phẩm của tự nhiên trở thành sản phẩm của lao động. Con người không tạo ra được đất đai nhưng bằng lao động của mình (lao động sống và lao động vật hoá) mà cải thiện đất đai, làm cho đất từ xấu trở thành tốt hơn và làm tăng sản lượng ruộng đất. Trong nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành đối tượng của sự trao đổi, mua bán, chuyển nhượng và hình thành thị trường đất đai. Thị trường quyền sử dụng đất, dùng cơ chế thị trường để điều tiết việc sử dụng đất là một nội dung trong công tác quản lý việc sử dụng đất đai. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập được vốn đất như ngày nay. Như vậy, đất đai luôn gắn với sự tồn tại và phát triển của con người, cần được gìn giữ và quản lý tốt. 2.2. Phân loại đất đai Theo luật đất đai năm 1993 của Nhà nước ta quy định, đất đai được chia thành 6 loại chủ yếu sau 2.2.1. Đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. 2.2.2. Đất lâm nghiệp Đất lâm nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất lâm nghiệp gồm đất có rừng tự nhiên, đất đang có rừng trồng hoặc đất để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ để phục hồi tự nhiên, nuôi dưỡng làm giầu rừng, nghiên cứu thí nghiệm lâm nghiệp. 2.2.3. Đất khu dân cư nông thôn Đất khu dân cư nông thôn là đất được xác định chủ yếu để xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ cho sinh hoạt ở nông thôn. Đất ở của mỗi hộ gia đình nông thôn bao gồm đất làm nhà ở và các công trình phục vụ cho đời sống của gia đình. 2.2.4. Đất đô thị Đất đô thị là đất nội thành, nội thị xã, thị trấn được sử dụng để xây dựng nhà ở, trụ sở cơ quan, tổ chức, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, quốc phòng an ninh và các mục đích khác. 2.2.5. Đất chuyên dùng Đất chuyên dùng là đất được xác định sử dụng vào mục đích không phải là nông nghiệp, lâm nghiệp, làm nhà ở bao gồm: đất xây dựng các chương trình công nghệ, khoa học, kỹ thuật, hệ thống giao thông, thuỷ lợi, đê điều, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, dịch vụ, đất sử dụng cho nhu cầu quốc phòng an ninh, đất dùng thăm dò, khai thác khoáng sản, đá, cát, đất làm muối, đất làm đồ gốm, gạch, ngói và các vật liệu xây dựng khác, di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh, đất nghĩa trang, nghĩa địa, đất có mặt nước sử dụng vào mục đích không phải là nông nghiệp. 2.2.6. Đất chưa sử dụng Đất chưa sử dụng là đất chưa có đủ điều kiện hoặc chưa được xác định để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, lâm nghiệp, chưa xác định là đất khu dân cư nông thôn, đô thị, chuyên dùng và Nhà nước chưa giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nào sử dụng lâu dài ổn định. 2.3. Vai trò của đất đai 2.3.1. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội Đất đai đối với các ngành kinh tế Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất đặc biệt. Tuy nhiên, đối với từng ngành cụ thể trong nền kinh tế quốc dân, đất đai có những vị trí, vai trò khác nhau. Đối với ngành công nghiệp (trừ công nghiệp khai khoáng), đất đai làm nền tảng, cơ sở, địa điểm để tiến hành những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp đòi hỏi sự mở rộng quy mô xây dựng, các nhà máy mới tăng lên, các công trình dân cư phát triển đòi hỏi xây dựng nhà ở và hình thành đô thị làm tăng số lượng diện tích đất đai cho yêu cầu này. Trong nông nghiệp, đất đai có vị trí đặc biệt quan trọng, là yếu tố hàng đầu của ngành sản xuất này. Đất đai không chỉ là chỗ tựa, chỗ đứng để lao động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng. Mọi tác động của con người vào cây trồng đều dựa vào đất đai và thông qua đất đai. Đất đai sử dụng trong nông nghiệp được gọi là ruộng đất, là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được, nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình khai thác, sử dụng đất, bởi vậy đất đai không thể thiếu trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đất đai đối với các vấn đề xã hội Đất đai là phần quan trọng trong bề mặt của vỏ trái đất, là môi trường mà các loài vật cùng nhau sinh sống và phát triển. Lịch sử phát triển của loài người cùng gắn liền với đất đai, với ý nghĩa đất đai là nơi sinh sống của các dân tộc, là nơi các thế hệ nối tiếp nhau gìn giữ và sáng tạo ra các giá trị văn hoá. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử phát triển kinh tế xã hội, đất đai là điều kiện chung của lao động, đất đai- lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc. Đất khu dân cư nông thôn Việt Nam chúng ta ngày nay, là kết quả công sức lao động, chiến đấu hàng ngàn thế hệ người Việt Nam trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ sau Cách mạng tháng 8 đến nay, các chính sách quản lý đất đai được Nhà nước ban hành phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, là một trong nguồn lực đưa đất nước ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đất đai đảm bảo cung cấp lương thực thực phẩm: Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, cùng với lao động sản sinh ra của cải vật chất nuôi sống con người. Dù sản xuất công nghiệp và dịch vụ có phát triển đến đâu cũng phải đảm bảo an toàn lương thực thực phẩm. Dân số tăng nhanh, lao động chuyển dần sang phi nông nghiệp, nông sản trở thành hàng hoá nên yêu cầu lương thực hàng hoá là rất lớn. Vì vậy, đất đai là một yêu cầu không thể thiếu trong đời sống vật chất của con người. Đất đai đảm bảo môi trường sống: Mọi hoạt động của con người trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đều có liên quan tác động trực tiếp hay gián tiếp đến môi trường sống làm trong sạch hoặc gây ô nhiễm môi trường. Do đó, phải tính đến các yếu tố kinh tế xã hội có quan hệ tới môi trường sống, kể cả ở tầm vĩ mô và vi mô để phát huy được những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực. 2.3.2. Đất đai đối với quá trình đô thị hoá Đất đai là yêu cầu đầu tiên và cấp thiết đối với quá trình đô thị hoá được thể hiện ở chỗ: Quá trình đô thị hoá là quá trình hình thành và phát triển đô thị, đó cũng là quá trình tập trung dân số vào các đô thị. Quá trình đô thị hoá gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc xây dựng từ hình thức nông thôn sang thành thị. Như vậy, đô thị hoá hoá là hình thức mở rộng diên tích và quy mô của đô thị trên cơ sở sáp nhập nhập các điểm dân cư nông thôn hoặc sử dụng một diện tích đất nông nghiệp cho xây dựng mới hoặc mở rộng đô thị, nên cần phải sử dụng đất đai tiết kiệm trong quá trình này, tránh tình trạng sử dụng sai mục đích sẽ không có biện pháp khắc phục hiệu quả. Đất đô thị là phần diện tích đất có vai trò quan trọng đối với sự mở rộng quy mô đô thị, đất đai đô thị có giới hạn được sử dụng để xây dựng các công trình đô thị như nhà ở, trụ sở cơ quan hành chính- kinh tế, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị như đường giao thông, mạng lưới điện chiếu sáng, lưới điện sinh hoạt, điện sản xuất thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước, phục vụ các nhu cầu lợi ích, công cộng, quốc phòng an ninh và các mục đích sử dụng khác. Chính vì vậy, việc tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất đai là yêu cầu cấp thiết của các cấp các ngành trong từng tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. 3. Những yếu tố tác động đến quản lý đất đai ở đô thị trong quá trình đô thị hoá 3.1. Đất đai được sử dụng theo quy hoạch và kế hoạch của nhà nước Hiến pháp và Luật Đất đai năm 1993 khẳng định: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý về đất đai theo quy hoạch và kế hoạch. Trong đó: Quy hoạch đất đai là việc Nhà nước bố trí, sắp xếp các loại đất đai cho các đối tượng sử dụng theo các phạm vi không gian và trong từng khoảng thời gian nhất định với mục đích phục vụ tốt nhất cho chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và cho phép sử dụng hợp lý và có hiệu quả các yếu tố đất đai. Kế hoạch về đất đai là việc xác định các phương hướng, mục tiêu, các chỉ tiêu về sử dụng đất đai cũng như các biện phsản phẩm cần thiết để đạt được các mục tiêu đó một cách có hiệu quả nhất. Quy hoạch và kế hoạch đất đai là công cụ quản lý quan trọng và không thể thiếu được trong công tác quản lý đất đai nhằm thể hiện ý đồ, mục tiêu và biện pháp của Nhà nước đảm bảo quyền lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất về đất đai của Nhà nước. Với việc quy định của thể trong những đạo luật cơ bản nhất về quyền sở hữu tối cao đối với đất đai thuộc về nhân dân, việc khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai phục vụ yêu cầu phát triển đất nước sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Đô thị hoá là sự mở rộng diện tích và quy mô của đô thị, vì vậy đặt ra một yêu cầu hết sức cần thiết là việc quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất sao cho hợp lý và đem lại hiệu quả cao khi sử dụng. Quy hoạch và đặt ra kế hoạch sử dụng đất nhằm mục đích sử dụng đất đai theo đúng định hướng đã đặt ra để tránh tình trạng phát triển nhanh các thành phần kinh tế gây áp lực đối với đất đai. 3.2. Sự gia tăng giá đất trong quá trình đô thị hoá Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn chế về số lượng và không có khả năng tái sinh. Từ năm 1975 đến nay, việc đầu tư cải tạo và xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị và hạ tầng xã hội đều sử dụng ngân sách nhà nước. Chính nhờ sự đầu tư này mà đất đô thị ngày càng có giá trị. Giá đất đô thị cao hơn đất nông thôn, miền núi là vì đất đai có những đặc trưng cơ bản khiến nó không giống với bất kỳ một loại tư liệu sản xuất nào. Chẳng hạn, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn chế về số lượng và không có khả năng tái sinh; đất đai có vị trí cố định trong không gian và không thể di chuyển theo ý muốn chủ quan của con người. Giá trị của đất được qui định bởi các điều kiện cơ sở hạ tầng, các tiện nghi khác được bố trí trên mảnh đất đó. Vì thế, với hệ thống cơ sơ hạ tầng tốt hơn, tiện lợi hơn đất đai nông thôn, đất đô thị tăng giá trở thành điều hiển nhiên. Đất đô thị hiện nay có giá như một hàng hoá đặc biệt trong quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ như hiện nay. Nhưng kèm theo đó là hàng loạt các vấn đề khác sẽ nảy sinh như đầu cơ, tích trữ đất đai, mua bán trao tay, chuyển đổi mục đích sử dụng bất hợp pháp…, nếu không có sự quản lý chặt chẽ thì sẽ làm thất thoát nguồn lực đặc biệt này của quốc gia. Đô thị hoá diễn ra thì việc sử dụng đất phải được thực hiện theo quy hoạch và kế hoạch của nhà nước. Hiện nay vấn đề nổi cộm nhất trong xây dựng và phát triển đô thị ở nước ta là vấn đề quỹ đất cho xây dựng các công trình đô thị, liên quan đến vấn đề đền bù và giải phóng mặt bằng. Chính vì thế, chính phủ đã định khung giá các loại đất, các tỉnh thành phố đã có quy định về khung giá đất cụ thể, nhưng người sử dụng đất vẫn không thoả mãn với giá mà nhà nước quy định mà tự đẩy giá đất lên cao hơn giá trị thực sự của nó trước kia. Điều này kiến cho công tác giải phóng mặt bằng của Nhà nước gặp nhiều khó khăn. 3.3. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất Quá trình đô thị hoá là quá trình hình thành và phát triển đô thị, đó cũng là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, tạo ra sự hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân. Quá trình đô thị hoá gắn liền với quá trình công nghiệp hoá đất nước, làm biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu không gian kiến trúc xây dựng từ hình thức nông thôn sang thành thị. Quá trình đô thị hoá là quá trình phát triển về kinh tế, xã hội, văn hoá và không gian kiến trúc, gắn liền với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của các ngành nghề mới. Trình độ đô thị hoá phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, truyền thống văn hoá và phương pháp tổ chức đời sống xã hội. Như vậy, có thể chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng sang mục đích sử dụng khác. Quá trình đô thị hoá đặt ra nhu cầu sử dụng đất đô thị ngày càng tăng trong khi khả năng cung diện tích đất đô thị là hữu hạn. Chính vì thế, theo xu hướng này, để đáp ứng được theo sự phát triển chung thì phải gia tăng đất đai sử dụng vào các mục đích theo hướng công nghiệp, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang sử dụng vào phát triển các khu chế xuất, khu dân cư, phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, chuyển đổi theo hướng lấy công nghiệp làm trọng. Điều này cũng đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi theo đúng hướng, phải có sự quản lý chặt chẽ theo đúng quy hoạch và kế hoạch được Chính phủ phê duyệt, tránh tình trạng đầu cơ đất trên thị trường đất đai hiện nay. 3.4. Hệ quả của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá đến sự thay đổi đời sống kinh tế- xã hội Tình trạng thất nghiệp gia tăng: Đối với nước ta, sản xuất nông nghiệp là ngành chủ yếu đáp ứng nhu cầu lao động của nhân dân. Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá, gắn liền với quá trình đô thị hoá, thì tỉ trọng nông nghiệp giảm dần và tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần. Cùng với xu hướng đó, đất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp, nhường chỗ cho đất công nghiệp và xây dựng. Người nông dân mất đất bắt buộc phải tìm kiếm một công ăn việc làm khác so với công vịêc đồng áng trước đây. Nhưng quá trình chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp lại đánh dấu bằng việc giảm bớt các ngành sử dụng nhiều lao động sang các ngành sử dụng nhiều vốn. Do đó, tình trạng dư thừa lao động là không tránh khỏi. Nếu không có sự phát triển nhanh chóng các ngành nghề dịch vụ để thu hút lượng lao động dư thừa này, đồng thời nếu người nông dân không được chuẩn bị sẵn sàng cho sự chuyển đổi cơ cấu việc làm đó, thì nguy cơ thất nghiệp gia tăng nhanh chóng và sẽ là vấn đề khó có thể giải quyết triệt để. Tệ nạn xã hội diễn ra nhanh chóng: Cùng với quá trình đô thị hoá là sự bất công của xã hội ngày càng tăng (mức chênh lệch thu nhập giữa 20% dân số giàu so với 20% dân số nghèo là 30 lần năm 1960 và 60 lần năm 1992); sự tàn phá môi trường sinh thái và ô nhiễm ở thành phố, khủng hoảng xã hội, tan rã gia đình ở đô thị, trẻ em lang thang, cơ nhỡ gia tăng. Vấn đề tệ nạn xã hội như nghiện hút, tiêm chích, cờ bạc, ăn chơi đua đòi của cuộc sống thành thị gia tăng nhiều. Gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của nhân dân trong khu vực thành thị. II. Sự ảnh hưởng của đô thị hoá tới tình hình sử dụng đất đai. 1. Luật sửa đổi bổ sung một số điều về Luật đất đai gây ảnh hưởng lớn đến vấn đề sử dụng đất đai Quá trình đô thị hoá kéo theo rất nhiều yếu tố biến động, Chúng đều được thay đổi và chỉnh lý để theo khớp với sự đô thị hoá. Trong đó Luật Đất đai là luật phải thường xuyên chỉnh lý và điều chỉnh theo sự biến động đó. Đây là yếu tố quyết định rất nhiều đến việc sử dụng đất như thế nào để đáp ứng được nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hoá và thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Chính việc sửa đổi bổ sung một số điều này đã làm ảnh hưởng đến tình hình sử dụng đất đai, sử dụng đất đai như thế nào còn phụ thuộc vào Luật quy định ra sao? Vì vậy, khi sửa đổi bổ sung Luật Đất đai phải chú ýđể tránh tình trạng thay đổi trong việc sử dụng đất . 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cùng với việc tăng dân số đô thị là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trên góc độ dân số và lao động, đô thị hoá là quá trình chuyển đổi cơ cấu dân cư từ khu vực nông thôn sang thành thị. Những người dân trước đây gắn bó với ruộng vườn, sau khi trở thành dân cư đô thị, họ mất phần lớn ruộng đất canh tác. Với số tiền nhà nước đền bù, họ dùng để cải tạo nghề mới, tìm việc mới, xây dựng nơi cư trú mới… và nhiều vấn đề khác cũng thay đổi. Trong quá trình đô thị hoá, cơ cấu ngành kinh tế trong vùng và cả nền kinh tế cũng thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Hình thức đô thị hoá đã thu hẹp đất canh tác nông nghiệp nhanh chóng vì một phần đất do nhà nước thu hồi để xây dựng các công trình, một phần đất dân cư bán cho những người từ nơi khác đến ở, hoặc kinh doanh. Trong quá trình đô thị hoá, nhà nước nắm thế chủ động chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tạo đà mạnh mẽ cho sự phát triển đô thị. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, đô thị hoá dẫn đến tình trạng thu hẹp đất canh tác nông nghiệp. Thực chất quá trình đó là thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đất ở… Quá trình này góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất nhưng cũng gây ra không ít các vấn đề xã hội nảy sinh mà không thể lường trước được. Trước quá trình đô thị hoá nhanh và sự phát triển ngày càng cao của nền công nghiệp trong mỗi quốc gia, cũng như trên phạm vi toàn thế giới, nhiều vấn đề nảy sinh đối với đất đai có hạn đang thực sự trở thành một nỗi lo của toàn nhân loại. ở nước ta, sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá có nghĩa là các khu công nghiệp tập trung, hiện đại đang được mở ra hết sức khẩn trương và nhanh chóng đi vào hoạt động nhằm giải quyết được các vấn đề về thất nghiệp, gia tăng thu nhập cho đại bộ phận dân cư, cải thiện đời sống nhân dân, bộ mặt xã hội đã có những bước chuyển biến tích cực. Bức tranh về công nghiệp hoá đang mở ra trước mắt chúng ta, hứa hẹn một sự phát triển đầy triển vọng. Nhưng đồng thời với sự phát triển đó, tình trạng mất đất nông nghiệp sử dụng vào một số mục đích khác ngày một gia tăng, điều đó gây ảnh hưởng không tốt đến công tác quản lý đất đai, cần phải thực hiện sự phát triển đó theo quy hoạch sử dụng đất đai đã được Chính phủ phê duyệt. 3. Sự di dân từ nông thôn ra thành thị Theo xu hướng hiện nay, quy mô đô thị ngày càng được mở rộng và biểu hiện trước hết là tăng quy mô dân số. Quy mô dân số đô thị tăng nhanh do tốc độ đô thị hoá, đô thị hoá là quá trình biến đổi các vùng chưa phải là đô thị thành đô thị. Sự biến động của dân số đô thị là hiện tượng phổ biến vì đô thị là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và sinh hoạt. Thu nhập ở đô thị thường cao hơn ở nông thôn, địa bàn đô thị có nhiều khả năng kiếm việc làm hơn, chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội tốt hơn. Dân cư tìm mọi cách để được nhập cư vào đô thị, từ đó hình thành một dòng di dân từ nông thôn ra đô thị, chính dòng người này đã gây ra những quá tải dân số ở các đô thị, làm mở rộng đô thị ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng đất đai đô thị có nhiều phức tạp như: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động mới gia tăng bằng việc bố trí đất đai cho phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp, bố trí đất đai cho việc gia tăng nhu cầu sinh hoạt và dịch vụ… Tất cả đều phải được quản lý một cách có kế hoạch và có người để điều hành công việc đó. Trong khi đó, con người và trình độ quản lý thì có hạn mà sự đòi hỏi thì cứ tăng, đặt ra cho cán bộ quản lý một câu hỏi hết sức khó khăn. 4. Sự thay đổi trong công tác quản lý hành chính 4.1. Biến động ranh giới các đơn vị hành chính Đô thị hoá bằng việc mở rộng quy mô đô thị dưới hình thức xây dựng các thị trấn, thị xã, phường, quận mới… dẫn đến biến động ranh giới các đơn vị hành chính cũng như diện tích và dân số của đô thị. 4.2. Bộ máy quản lý hành chính thay đổi. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của đô thị nhỏ không còn phù hợp khi quy mô đô thị ngày một gia tăng. Đồng thời với sự tác động mạnh mẽ đến công tác quản lý nhà nước về địa giới hành chính, quá trình đô thị hoá làm xuất hiện mâu thuẫn giữa cơ cấu kinh tế- xã hội hiện thực với thể chế quản lý hành chính nhà nước. Quá trình đô thị hoá diễn ra với tốc độ ngày càng cao, làm biến động nhiều vấn đề mà chúng ta không thể lường trước được mặt trái của quá trình đô thị hoá, mà trình độ của con người thì có hạn không thể cũng thay đổi theo sự thay đổi của nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề quản lý Nhà nước về đất đai trong quá trình đô thị hoá cần phải tổ chức lại trên từng địa bàn. Về nguyên tắc, đô thị hoá đến đâu cần tổ chức lại quản lý Nhà nước trên địa bàn đến đó. III. Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai. 1. Khái niệm, nhiệm vụ và quyền hạn của quản lý nhà nước về đất đai 1.1. Khái niệm Quản lý nhà ._.nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan nhà nước về đất đai, đó là các hoạt động nắm và quản lý tình hình sử dụng đất đai trong việc phân bố đất đai vào các mục đích sử dụng theo các chủ trương của nhà nước để kiểm tra giám sát quá trình sử dụng đất đai. 1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn quản lý đất đai của nhà nước 1.2.1. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai Nhà nước quản lý và quyết định mục đích sử dụng đất, xây dụng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sử dụng, phân bổ và phát triển đất đai. Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trong khuôn khổ quy hoạch và kế hoạch đã được duyệt. Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, chính sách về đất đai và thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất. Quy định tạo điều kiện thuận lợi, quản lý và giám sát việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Giao đất, cho thuê đất, thực hiện quyền thu hồi đất. Quy định và tổ chức thực hiện chính sách tài chính về đất đai, đầu tư tài chính cho việc quản lý đất đai. Xây dựng và quản lý thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất. Tạo môi trường hợp lý, môi trường kinh tế cho các doanh nghiệp, trong đó các doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt. Đầu tư cải tạo mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng nhà. Ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế xây dựng và quản lý giá quyền sử dụng đất và giá một số loại bất động sản gắn liền với đất. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về đất đai, việc thực hiện quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, việc thực hiện các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của người sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất. Giải quyết các khiếu nại, tố cáo và các tranh chấp về đất đai. Tổ chức hệ thống quản lý Nhà nước về đất đai từ Trung ương đến cơ sở. Quản lý các hoạt động hành chính công và dịch vụ công về đất đai. 1.2.2. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện về đất đai cho những người có nhu cầu sản xuất. Thực hiện chính sách đảm bảo nhu cầu đất đai cho những người trực tiếp sản xuất nông, lâm, ngư và làm muối. Đồng thời đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phân bố lại dân cư phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Để giải quyết một cách cơ bản việc làm và thu nhập cho người nông dân không có đất, ít đất, hoặc có đất bị thu hồi để sử dụng vào các mục đích công cộng, phát triển kinh tế xã hội, cần thực hiện tổng hợp các biện pháp phát triển ngành nghề, đào tạo nghề để tạo việc, làm đổi mới cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi và những biện pháp hỗ chợ cần thiết khác. Đối với từng vùng đồng bào thiểu số, vùng cao cần có chính sách đảm bảo đất sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp phù hợp với quy định pháp luật và điều kiện của từng vùng. Có cơ chế quản lý để đồng bào giữ được đất, có cuộc sống ổn định và làm giầu trên đất được giao. Xây dựng quỹ đất công ích trong nông thôn để địa phương sử dụng vào mục đích công cộng tại các xã, hoặc bổ sung cho những trường hợp có nhu cầu thuê đất. Uốn nắn, sửa chữa những sai phạm, bổ sung những quy định phù hợp về quản lý, sử dụng đất công ích. 1.2.3. Giao đất, cho thuê và thu hồi quyền sử dụng đất đai Về hình thức giao và cho thuê đất: Tiếp tục giữ hình thức giao đất không thu tiền vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư, làm muối của hộ nông dân, đất sử dụng vào mục đích công cộng, an ninh và đất ở cho đối tượng chính sách như hiện nay. Đối với đất dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và đất sản xuất của các tổ chức kinh tế, áp dụng cả hai hình thức có thu tiền và cho thuê đất. Về đối tượng được giao đất, cho thuê đất sản xuất nông nghiệp: Bổ sung đối tượng được giao đất không thu tiền, cộng đồng dân cư thôn bản phù hợp với tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số, những người dân di cư có tổ chức đến nơi ở mới đã ổn định, đúng quy hoạch và không có tranh chấp đất đai. Các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức trong nước có khả năng và có nguyện vọng đầu tư khai phá đất chưa sử dụng tại các xã miền núi, ven biển để sử dụng vào các mục đích sản xuất, thuê đất với mức diện tích phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh và khả năng đất đai của từng địa phương. Về hạn mức giao đất, cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: Nhà nước khuyến khích tích tụ đất đai, sớm khắc phục tình trạng đất sản xuất nông nghiệp manh mún. Quá trình tích tụ đất đai cần có sự chỉ đạo và quản lý của nhà nước, có quy hoạch và kế hoạch, có bước đi vững chắc trên từng địa bàn, lĩnh vực, gắn với chương trình phát triển ngành nghề, tạo việc làm. Tích tụ đất đai thông qua việc nhận chuyển nhượng và nhiều biện pháp khác phù hợp với từng thời kỳ, từng vùng. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng chính sách tích tụ để đầu cơ trục lợi. Khi nhà nước thu hồi đất mà cá nhân hoặc tổ chức đang sử dụng hợp pháp vào công việc phục vụ các công tác quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển sản xuất kinh doanh, nhà nước thực hiện chế độ bồi thường, tái định cư, đào tạo nghề và hỗ trợ tạo việc làm theo quy định của pháp luật. Nhà nước có quy định để xử lý, thu hồi đất lấn chiếm, có quy định cụ thể về thu hồi đất đã giao, đất cho thuê mà không sử dụng, sử dụng sai mục đích, xâm hại đất hoặc sử dụng nhưng hiệu quả quá kém. Nhà nước có trách nhiệm rà soát lại đất đã giao cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, thu hồi diện tích nhà, đất không sử dụng, đất sử dụng sai mục đích, trái pháp luật. 1.2.4. Giải quyết tranh chấp khiếu nại và tố cáo liên quan đến đất đai Việc tranh chấp đất đai trước hết cần hoà giải, nếu hoà giải không thành thì đưa ra toà án giải quyết. Nhà nước quy định thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại không để kéo dài. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối cùng các khiếu nại đất đai trong phạm vi, thẩm quyền của các cấp ở địa phương. Việc giải quyết tố cáo về đất đai thực hiện theo pháp lệnh về tố cáo. Đất trước đây của các cơ quan nhà nước, các tổ chức thuộc hệ thống chính trị mượn hoặc thuê, có đầy đủ giấy tờ hợp pháp thì trả lại, nhưng không nhất thiết là đất cũ, mà có thể trả bằng tiền hoặc đất nơi khác. 2. Nội dung của quản lý nhà nước về đất đai Quản lý nhà nước về đất đai theo luật đất đai năm 1993 được chia ra thành 7 nội dung sau: Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa chính. - Điều tra, đo đạc, khảo sát: Là biện pháp kỹ thuật nhằm xác định số lượng đất, diện tích tổng thể, diện tích của từng người sử dụng, vị trí của từng diện tích đó, chất lượng, các đặc tính lý hoá, độ màu, độ thái hoá, độ bền… nhằm nắm được hiện trạng thực tế của đất đai để sử dụng có hiệu quả. - Phân hạng đất: Là xác định tác dụng sử dụng của từng diện tích đất cụ thể dựa trên cơ sở 6 loại đất đã được quy định thông qua đó Nhà nước quy định mức thuế qua giá trị sử dụng đất, quy định khung giá các loại đất. - Các kết quả thu được tiến hành đánh giá đất được phản ánh trên bản đồ địa chính, bản đồ địa chính có ý nghĩa rất lớn để Nhà nước quản lý đất đai, nó thể hiện vị trí và mô tả các thửa đất khác nhau sao cho không nhầm lẫn được. - Hoạt động đánh giá đất đai phải tuân theo những nguyên tắc sau: bản đồ địa chính được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, các quy trình quy phạm kỹ thuật về điều tra đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính được thống nhất trong cả nước và các tài liệu trên được quản lý lưu trữ theo quy định của pháp luật. Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai. - Quy hoạch đất đai là tổng hợp các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, pháp lý để phân bổ đất đai cụ thể về số lượng, về diện tích, vị trí… cho các mục tiêu kinh tế- xã hội. Nội dung của quy hoạch đất đai bao gồm: Khoanh định các loại đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng của từng địa phương và cả nước. Điều chỉnh việc khoanh định nói trên cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương và trong phạm vi cả nước. - Kế hoạch hoá đất đai chính là khoanh định việc sử dụng từng loại đất trong từng thời kỳ kế hoạch. Điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất đai cho phù hợp với quy hoạch. Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó. - Cơ quan quản lý đất đai ở các cấp ban hành các văn bản pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai ở cấp đó được thực hiện theo Luật Đất đai của Nhà nước. Trung ương và địa phương phối hợp với các cơ quan hữu quan giúp Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp theo dõi việc thực hiện các văn bản luật đó. Giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất. - Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài dưới hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất và giao đất có thu tiền sử dụng đất. - Cơ quan có thẩm quyền giao đất cũng đồng thời là cơ quan có thẩm quyền cho thuê đất. Riêng việc cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê đất do Chính phủ quyết định. Thời hạn cho thuê đất được xác định theo dự án đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt nhưng không quá 50 năm, đối với dự án cần thời hạn thuê đất lâu dài thì căn cứ vào quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quyết định thời hạn cho thuê đối với từng dự án, nhưng không quá 70 năm. - Chuyển quyền sử dụng đất: Trong thời hạn giao đất, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ngoài quyền chiếm hữu, sử dụng học còn có thẩm quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. - Thu hồi đất: là một biện pháp hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tước quyền sử dụng đất của người sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn: Tổ chức đăng ký đất đai, xét để trình UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trên phạm vi hành chính của địa phương mình. - Thống kê đất đai là việc tổng hợp các số liệu thu được từ quá trình đánh giá và đăng ký sử dụng đất do UBND các cấp có trách nhiệm thực hiện chỉ đạo và tổ chức thống kê đất đai, cơ quan quản lý đất đai có trách nhiệm báo cáo kết quả thống kê, Chính phủ chỉ đạo chung. Việc thống kê, tổng kiểm kê đất đai được tiến hành mỗi năm một lần. Hoạt động thống kê đất đai giúp cho công tác quản lý đất đai chặt chẽ, phát hiện ra những vi phạm pháp luật, những thiếu sót trong quản lý đất đai để Nhà nước có kế hoạch, biện pháp xử lý phù hợp, kịp thời. - Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND các cấp cấp cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê đất hoặc được Nhà nước giao đất. Đây là chứng thư pháp lý xác nhận mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ và quản lý, sử dụng đất đai. - Nhà nước quy định chế độ, thể lệ quản lý và sử dụng đất đai tuân theo các nguyên tắc của Luật đất đai. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai tránh tình trạng mâu thuẫn chồng chéo giữa các văn bản, văn bản của cơ quan cấp dưới không được trái với quy định của cơ quan cấp trên. - Việc quy định chế độ, thể lệ quản lý, sử dụng đất đai còn phụ thuộc vào tình hình thực tế, đặc điểm đất đai của từng vùng, từng địa phương để quy định một cách cụ thể và hợp lý. - Thanh tra đất đai là xem xét một cách khách quan việc quản lý sử dụng đất đai đảm bảo cho quy định đó được thực hiện và thực hiện đúng. Thanh tra là để ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, nắm được tình hình thực hiện Luật đất đai của các cấp, các ngành, phát hiện vi phạm để có biện pháp xử lý. Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai. - Việc giải quyết tranh chấp đất đai do UBND xã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội nông dân, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế ở cơ sở và công dân hoà giải các tranh chấp đất đai. 3. Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá 3.1. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất đai là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình đô thị hoá. Quá trình đô thị hoá làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế xã hội của một nhóm dân cư, một huyện thị và cả một tỉnh thành. Tất cả đều có sự thay đổi nhất định so với trước đó. Đặc biệt, đối với các khu vực đã hình thành đô thị thì sẽ được mở rộng về quy mô theo chiều sâu, điều này làm ảnh hưởng mạnh đến đất đai trong nông nghiệp hoặc đất đai tại khu vực dân cư đang sinh sống. Để thực hiện được sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng hoặc của cả nước thì sự phát triển và mở rộng đô thị là một xu hướng tất yếu. Đô thị hoá mạnh làm cho đất đai có biến động mạnh, chuyển mục đích sử dụng đất đai, đặc biệt là đất đai trong nông nghiệp. Đất đai nông nghiệp được chuyển sang sử dụng làm đất ở, đất phục vụ phát triển công nghiệp và dịch vụ, khu du lịch, khu vui chơi giải trí… Điều này đòi hỏi phải quản lý và sử dụng như thế nào để tránh tình trạng sai lầm khi chuyển đổi mà không đem lại hiệu quả hơn trước. Đó là một việc làm sai lầm mà khó có thể khắc phục. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất đai sẽ có tác dụng giám sát việc thực hiện quản lý đất đai và sử dụng đất đai tại các địa phương chặt chẽ hơn, thường xuyên kiểm kê đất đai sẽ phục vụ tốt công tác quản lý đất đai ở cấp trên. Từ xưa đến nay, đất đai vẫn là một trong những vấn đề quan trọng nhất của cách mạng nước ta, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu trong hơn 5 thập kỷ qua. Đây cũng là vấn đề phức tạp và nhạy cảm vì nó đụng đến mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và cả đến quan hệ quốc tế. Vấn đề đất đai có ý nghĩa quan trọng bởi vì nó là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được của sản xuất nông nghiệp, đảm bảo nguồn thu nhập của hơn 80% dân số nước ta, tạo ra nguồn hàng hoá thiết yếu không gì thay thế nổi của toàn xã hội với gần 80 triệu dân. Ngoài ra, còn là nơi tái tạo ra nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và hàng nông sản xuất khẩu. Trên thực tế mấy năm qua, nó đã gián tiếp đem lại kim ngạch xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới cho đất nước. Ngoài vai trò đối với sản xuất nông nghiệp, đất đai còn là nơi từ khi con người sinh ra đến khi qua đời cũng phải có chỗ để chôn cất, yên nghỉ vĩnh viễn. Đất đai còn là điều kiện tiên quyết để thành lập các doanh nghiệp, cơ quan; Là điều kiện để phát triển kết cấu hạ tầng; Là nguồn nguyên liệu để sản xuất ra các sản phẩm từ đất, cát. Ngoài ra, đất đai còn ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh thái. Do đó, vấn đề quản lý và sử dụng đất đai hợp lý, theo luật định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là một xu thế tất yếu. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế đã, đang và sẽ phát triển, đô thị hoá mạnh mẽ, dân số tăng nhanh đặc biệt là dân số tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, do đó nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích phục vụ nhu cầu của con người ngày một tăng. Đất đai là tài sản, là bất động sản có giá trị và giá trị ngày một cao, là yếu tố quan trọng của quá trình tái sản xuất mở rộng, là nguồn vốn tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì thế trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá thì việc quản lý và sử dụng đất đai đúng mục đích sẽ giúp cho chúng ta thu được nhiều thành tích trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng. Mặt khác đất đai là nguồn tài sản vô cùng khan hiếm, đặc biệt đối với đất nước ta là một nước thuần nông. Trong quá trình phát triển của đất nước, mọi thành phần đều phát triển và nhu cầu về đất đai cũng tăng theo nên sự chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang mục đích khác là việc làm hết sức cần thiết nhưng phải thận trọng để tránh tình trạng sử dụng sai mục đích và đây là vấn đề hết sức khó khăn để có thể giải quyết một cách triệt để và rất tốn kém để khắc phục. 3.2. Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất đai nhằm thực hiện được các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của một đất nước là các quy hoạch và kế hoạch phát triển được đặt ra, đất nước đó có phát triển nhanh hay không còn tuỳ thuộc vào công tác quy hoạch và kế hoạch như thế nào cho phù hợp với tình hình của đất nước đó. Một công tác quan trọng không thể thiếu trong thời kỳ nền kinh tế thị trường hiện nay vẫn là công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của một đất nước, một tỉnh, thành phố… Nhưng quy hoạch và kế hoạch lại liên quan đến nhiều yếu tố, tác động mạnh đến các yếu tố xung quanh, đặc biệt là đất đai. Đất đai là yếu tố biến động mạnh trong quá trình phát triển của một vùng, một khu vực. Sự biến động của đất đai, hay chuyển mục đích sử dụng đất đai đòi hỏi ngày càng nhiều hơn nữa công tác quản lý đất đai nhằm điều phối công tác sử dụng đất đúng mục đích của quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đặt ra. Trong quá trình đô thị hoá đang mạnh mẽ, là sự phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, phát triển ngành dịch vụ… đều làm biến động đất đai ở một khu vực nhất định, vì vậy cần phải tăng cường công tác quản lý đất đai sẽ giúp cho Chính phủ và Nhà nước có thể quản lý gián tiếp, theo dõi tiến trình thực hiện sử dụng đất đai theo quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội một cách sát sao hơn, không sử dụng đất đai vào những mục đích sai quy hoạch 3.3. Tăng cường công tác quản lý đất đai nhằm làm tăng hiệu quả sử dụng đất. Thực tiễn quản lý đất đai trong những năm qua ở nước ta cho thấy, cùng với việc chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chính sách giao đất ổn định lâu dài cho người sử dụng và người sử dụng đất được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật. Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, phát triển công nghiệp với tốc độ nhanh, thì sự chỉ đạo quản lý nhà nước còn thiếu chặt chẽ, hệ thống quản lý nhà nước về đất đai, quản lý bất động sản không bắt kịp tình hình. Luật Đất đai chậm sửa đổi, bổ sung, tăng cường đặc biệt là trong việc xác định khung giá cho các loại đất để làm cơ sở cho việc giải quyết các quan hệ đất đai. Tình trạng đó đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề cần phải được nhanh chóng bổ sung và hoàn thiện, để đáp ứng kịp thời nhiệm vụ quản lý của nhà nước. Tình trạng khiếu nại, tố cáo xảy ra khá phức tạp, các công trình xây dựng, các dự án đầu tư bị chậm tiến độ, bị mất quá nhiều thời gian và công sức cho công tác giải phóng mặt bằng. Để chấm dứt các tình trạng xảy ra như trên thì việc quản lý và sử dụng đất đai phải được tăng cường hơn nữa để có hiệu quả trong việc sử dụng đất. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai theo những quy hoạch và kế hoạch của Chính phủ sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng đất vào những việc có ích hơn trước. Tóm lại: Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá không thể thiếu của mỗi quốc gia và đặc biệt trong quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ thì vai trò của đất đai ngày càng được đẩy mạnh. Do đó, mỗi quốc gia, mỗi tỉnh, thành trong cả nước cần phải tăng cường công tá quản lý và sử dụng đất đai sao cho có hiệu quả và phát huy hơn nữa vai trò của đất đai trong thời kỳ đổi mới. Để đánh giá đúng vai trò của đất đai thì nhất thiết phải tăng cường công tác quản lý đất đai như thế nào cho có hiệu quả. Do đó, việc tìm hiểu và đánh giá một cách kỹ lưỡng về sự ảnh hưởng của phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tình hình đô thị hoá đến đất đai là một việc làm hết sức cần thiết của các cấp, các ngành trong phạm vi cả nước. Chương II Thực trạng về công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997- 2002. I- Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh ảnh hưởng đến việc quản lý đất đai. 1. Lịch sử hình thành tỉnh Bắc Ninh Dưới các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được gọi là Kinh Bắc mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá truyền thống phong phú về mặt vật thể và phi vật thể với hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các thế lực ngoại bang phương Bắc. Hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng Từ Sơn, Bắc Ninh- Thị Cầu, Dâu, Keo… và đặc biệt là hát dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc như hội Lim, Đình Bảng… Từ năm 1822, xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi là tỉnh Bắc Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xã Bắc Ninh ngày nay. Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931, thị trấn Bắc Ninh được đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh được tổ chức thành một cứ điểm trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một trung tâm chính trị, kinh tế vùng. Năm 1938, thị xã Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của xứ Bắc Kỳ sau các đô thị: Thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Nam Định, và thị xã Hải Dương. Sau khi hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã Bắc Ninh nói riêng tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế suốt quá trình xây dựng chính quyền nhân dân và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Vào năm 1963, tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc, nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế- xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội. Đến cuối năm 1996, tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày 15- 11- 1996). Đến ngày 1- 1- 1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức được tái lập và đi vào hoạt động. 2. Điều kiện tự nhiên 2.1. Vị trí địa lý và ranh giới hành chính Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, nằm gọn trong châu thổ Sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm gồm Hà nội- Hải Phòng- Quảng Ninh có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh. Phía Bắc giáp với Bắc Giang Phía Nam giáp với tỉnh Hưng Yên và một phần của Hà Nội Phía Đông giáp với Hải Dương Phía Tây giáp với Thủ đô Hà Nội Với điều kiện vị trí như vậy, Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Mặt khác, Bắc Ninh có các tuyến đường giao thông quan trọng như quốc lộ 1A cũ, mới (đường cao tốc), quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường sắt Hà Nội- Lạng Sơn và các tuyến đường thuỷ như sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình nên rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá và hành khách giao lưu với các tỉnh trong cả nước. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, sẽ có tác động trực tiếp đến hình thành cơ cấu và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh về mọi mặt, trong đó đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ du lịch. Gần thành phố Hà Nội là một thị trường rộng lớn, đồng thời cũng là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và giao lưu thuận lợi với mọi miền của đất nước. Hà Nội sẽ là thị trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của Bắc Ninh như nông- lâm- thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ... Bắc Ninh cũng là địa bàn mở rộng của Hà Nội qua xây dựng thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công các xí nghiệp công nghiệp của thủ đô trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Vị trí địa lý thuận lợi là yếu tố phát triển quan trọng và là một trong các tiềm lực to lớn cần được phát huy mộ t cách triệt để nhằm phục vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong thời gian tới. 2.2. Đặc điểm về địa chất, địa hình và thuỷ văn với việc sử dụng đất đai 2.2.1. Về địa chất Đặc điểm địa chất tỉnh Bắc Ninh mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất thuộc vùng trũng sông Hồng, bề dày trầm tích đệ tứ, chịu ảnh hưởng rõ rệt của cấu trúc mỏng. Tuy nhiên, nằm trong miền kiến tạo Đông Bắc Bắc Bộ nên cấu trúc địa chất lãnh thổ Bắc Ninh có những nét còn mang tính chất của vòng cung Đông Triều vùng Đông Bắc. ở các vùng núi do bị bóc mòn nên bề dày của chúng còn rất mỏng. 2.2.2. Về địa hình Địa hình tỉnh Bắc Ninh tương đối bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy mặt đổ về sông Đuống và sông Thái Bình. Mức độ chênh lệch địa hình không lớn, vùng đồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3-7m, địa hình trung du đồi núi có độ cao phổ biến 300- 400m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ trọng rất nhỏ (0,35%) so với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở 2 huyện Quế Võ và Tiên Du. Ngoài ra, còn một số khu vực thấp trũng ven đê thuộc các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Yên Phong. 2.2.3. Về thuỷ văn Thuỷ văn nước mặt: Nước mặt là yếu tố quan trọng chi phối toàn bộ nền sản xuất nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Đây là yếu tố quyết định đến việc bố trí, hình thành cơ cấu mùa vụ và cơ cấu cây trồng trên phạm vi toàn tỉnh. Tổng lưu lượng nước mặt ở Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m3, trong đó lượng nước chứa trong các sông là 176 tỷ m3, còn lại là nước chứa trong các ao hồ ruộng trũng... Tuy có vốn nước mặt khá dồi dào, nhưng xét về khía cạnh sử dụng đất thì tài nguyên nước mặt lại có đặc điểm riêng tác động đến sự phân bố hiện trạng sử dụng đất hiện nay. Tình trạng đất đai nông nghiệp được chuyển đổi sử dụng vào phát triển công nghiệp và các mục đích khác, do đó tài nguyên nước mặt cũng là một trong những mục tiêu thay đổi mục đích sử dụng đất. Nước ngầm: Tỉnh Bắc Ninh có trữ lượng nước ngầm khá lớn, trung bình 400.000 m3/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung bình 3- 5m và có bề dày khoảng 40m, chất lượng nước tốt, có thể khai thác phục vụ tốt cho sản xuất và sinh hoạt. 2.3. Khí hậu đối với việc sử dụng đất Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm 23,30C, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28,90C (tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,80C (tháng1). Sự chênh lệch nhiệt độ trung bình tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,10C. Trung bình lượng mưa hàng năm dao động trong khoảng 1.400- 1.600mm nhưng phân bố không đồng đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Hàng năm có 2 mùa gió chính, gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam. Gió mùa Đông Bắc bắt đầu từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, Gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi ẩm, gây mưa rào. Điều kiện khí hậu tỉnh Bắc Ninh thuận lợi cho phát triển nền sản xuất nông nghiệp đa dạng và phong phú. Mùa đông với khí hậu khô, lạnh làm cho mùa đông trở thành vụ chính có thể trồng được nhiều loại cây rau màu ngắn ngày cho giá trị cao và xuất khẩu. Yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sử dụng đất là mưa lớn tập trung theo mùa thường gây ngập úng các khu vực thấp trũng và uy hiếp hệ thống đê điều, công trình thuỷ lợi dây khó khăn cho việc thâm canh tăng vụ mở rộng diện tích. 3. Sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng đất đai Trong những năm qua, nhờ thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế Bắc Ninh đã có nhiều chuyển biến tốt, phản ánh những thắng lợi bước đầu đáng ghi nhận về sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Giai đoạn 1991- 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,06% tương đương với mức tăng trưởng bình quân cả nước (8,2%). Giai đoạn 1996- 2002 tốc độ tăng trưởng bình quân 11,2%. Trong đó, nông- lâm nghiệp tăng 6,3%; công nghiệp- xây dựng cơ bản tăng 20,6%; dịch vụ tăng 10,8%. Song song với mức tăng trưởng và khả năng chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, giai đoạn vừa qua, Bắc Ninh còn tạo được một số chuyển biến quan trọng làm cơ sở cho bước nhảy vọt tiếp theo. Đó là việc khẩn trương hình thành hai khu công nghiệp tập trung (Tiên Sơn và Quế Võ), tạo môi trường gọi vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư phát triển các cụm công nghiệp, khôi phục các ngành nghề truyền thống, quy hoạch các vùng nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp chế biến. Tất cả các chuyển biến quan trọng đó đều có ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng đất đai trong tỉnh. Thay đổi mục đích sử dụng đất, làm chuyển đổi hình thức sử dụng sao cho có hiệu quả hơn, phục vụ cho sự phát triển kinh tế của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung. Ngoài ra, tỉnh còn tiến hành một số giải pháp đồng bộ như mở rộng thị trường, tạo vốn đầu tư thông qua hoàn thiện hệ thống tín dụng ngân hàng, xây dựng các chính sách kinh tế xã hội phù hợp để khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh phát huy hiệu quả. Bảng1: Một số chỉ tiêu về phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997- 2002 Chỉ tiêu Đơn vị tính 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1. Tổng sản phẩm GDP (tính theo giá ss năm 1994) Tỷ đồng 1706.7 1840.5 2125.7 2472.6 2865.4 3249.2 - Nông- Lâm nghiệp Tỷ đồng 762.6 810.9 865.6 947.0 970.2 1031.0 - Công nghiệp – XDCB Tỷ đồng 417.3 473.9 669.5 867.9 1053.6 1298.5 - Dịch vụ Tỷ đồng 526.8 555.7 590.6 657.7 814.6 919.6 2.Cơ cấu tổng sản phẩm % - Nông- Lâm nghiệp % 44.7 44.1 40.7 38.3 34.2 31.7 - Công nghiệp – XDCB % 24.5 25.7 31.5 35.1 37.1 40.0 - Dịch vụ % 30.8 30.2 27.8 26.6 28.7 28.3 3. Bình quân lương thực/người kg 372.9 396 437.9 487.5 519.8 562.3 4. GDP bình quân đầu người USD 278.7 297.6 341.5 398 460.2 528.9 5. Tỷ lệ đói nghèo % 10.4 9.3 8.2 7.2 6.1 5.2 Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Bắc Ninh Hình 1: Cơ cấu GDP tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997- 2002 % Năm Theo đồ thị trên ta có thể thấy được, thời gian qua cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh đã chuyển đổi theo hướng tích cực như tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp trong GDP giảm từ 44,7% năm 1997 xuống 31.7% năm 2002. Tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng cơ bản có xu hướng tăng từ 24,4% năm 1997 lên 40.0% năm 2002. Ngành dịch vụ có xu hướng giảm từ 30,9% năm 1997 xuống 28.3% năm 2002. Tốc độ tăng trưởng của tỉnh tăng nhanh từ 10,2% năm 1997 lên 14,5% năm 2002. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế là tốc độ đô thị hoá đang diễn ra, năm 1995 tỷ lệ đô thị hoá của Bắc Ninh là 4,7% đến năm 2002 là 9,8% (trong đó cả nước là 23,47%, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là 35,58%). Điều đó nói lên rằng tốc độ đô thị hoá của Bắc Ninh còn nhỏ bé. Mặc dù đô thị hoá chư._.ển kinh tế thị trường hiện nay. Tuỳ theo điều kiện của mỗi làng xã, cần có quy hoạch xây dựng trung tâm kiểu mới dạng thị tứ, đó là hạt nhân chuyển tiếp văn minh đô thị đến các làng xã, là điều kiện tốt để phát triển kinh tế và văn hoá xã hội ở nông thôn. Đối với những làng lớn hoặc làng xã có nhiều điều kiện phát triển thành phần dân cư phi nông nghiệp có thể xây dựng một hoặc nhiều thị tứ như thị tứ trung tâm và thị tứ khu vực. Mô hình thị tứ làng xã là cơ sở khoa học cho công tác thiết kế quy hoạch đô thị nông thôn nói chung và khu trung tâm làng xã nói riêng. 4.2. Công tác thực thi chính sách Thị tứ làng xã và nhà ở thị tứ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Vì vậy, tỉnh cần có biện pháp kịp thời để xây dựng thị tứ, ví dụ như: Chính sách khai thác sử dụng quỹ đất trong việc quy hoạch trung tâm mới của làng xã; Chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư xây dựng nông thôn, đầu tư xây dựng phát triển ngành nghề và kinh tế nông thôn, đồng thời có chính sách thống nhất và cụ thể về khảo sát lập dự án thiết kế quy hoạch đồng bộ các làng xã, một số vùng tiêu biểu theo mô hình thị tứ làng xã để xây dựng. Để tiến hành hướng dẫn, quản lý xây dựng nông thôn theo quy hoạch, Nhà nước cấm thành lập các đơn vị quản lý xây dựng các làng xã trên cơ sở điều lệ quản lý đô thị kết hợp với điều kiện và đặc điểm ở nông thôn. Thị tứ làng xã là tiền thân của đô thị có thể được xem là một dạng đô thị chưa hoàn chỉnh. Mặc dù có quy mô nhỏ, chức năng còn mang tính quá độ đô thị nhưng với vai trò và địa bàn phát triển rộng lớn, thị tứ cần được xem xét quan tâm một cách thích đáng. 4.3. Về công tác tổ chức hành chính Một xã có thể có một hoặc nhiều thị tứ với chức năng theo tính chất của đô thị từ đó, đơn vị hành chính tương đương với làng xã có tên riêng hoặc chung với làng, quan hệ trực tiếp với xã, nhà ở có số nhà và tên phố như thị trấn. Nếu thị tứ có quy mô cả một xã thì thị tứ có quan hệ hành chính là xã, thị tứ trực thuộc huyện. Đến một giai đoạn nào đó phát triển lên cấp thị trấn. 5. Đẩy nhanh công tác đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB) 5.1. Hoàn thiện bộ máy chính sách Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng theo quy định của Nghị định 22/CP của Chính phủ cơ bản về tính giá đất được dựa vào bảng giá đất của Nhà nước và có áp dụng hệ số k. Đây chính là trở ngại và bất cập đối với chủ đầu tư. Thực tế có một khoảng cách khá lớn giữa giá đất của Nhà nước với giá chuyển nhượng thực tế (chúng ta vẫn gọi chung là giá thị trường). Vì vậy, người có đất bị thu hồi sẽ cảm thấy bị thiệt thòi, dẫn đến không thực hiện được quyết định thu hồi đất của Nhà nước. Điều này chúng ta phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: - Cần tập trung đầu tư vào nghiên cứu sửa đổi Nghị định 22/CP cho phù hợp với Luật đất đai, đáp ứng sự phát triển chung của đất nước. Điều quan trọng là xác định giá đất tại nơi định cư. Muốn vậy, cần phải thành lập cơ quan định giá và cơ quan mày có trách nhiệm định giá tính thường xuyên theo từng thời điểm, vị trí, đặc biệt phải phù hợp với giá chuyển nhượng thực tế tại địa phương (tức giá thị trường) để áp dụng. - Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mới, cần có chế độ ưu đãi về thuế, về tiền sử dụng đất, nhằm đảm bảo quỹ nhà ở đáp ứng nhu cầu tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, muốn vậy cần quản lý chặt chẽ việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quản lý tốt đất đai kết hợp với việc huy động các nguồn vốn đảm bảo yêu cầu về nhà ở ngày càng tăng. - Củng cố hệ thống tổ chức ngành, điều chỉnh từ Trung ương đến cơ sở đặc biệt là cơ quan địa chính cấp huyện. Đây chính là cấp tham mưu cho chính quyền tổ chức việc đền bù giải phóng mặt bằng. Đồng thời cơ quan địa chính cấp huyện là nơi trực tiếp quản lý hệ thống hồ sơ địa chính trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, là cơ quan theo dõi việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, là nơi thực hiện các thủ tục đất đai, là cơ quan phối hợp với các cơ quan khác công khai quy hoạch. - Nâng cao chất lượng trình độ cán bộ địa chính cấp xã, cán bộ địa chính cấp xã là đầu mối giữa nhà nước và người sử dụng đất với nhau. Do đó, Nhà nước nghiên cứu chế độ đãi ngộ cũng như trình độ cán bộ địa chính cấp xã. - Để tạo điều kiện cho việc giải phóng mặt bằng có hiệu quả, nhà nước cần miễn giảm tiền sử dụng đất cho các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh nhà ở, có như vậy mới giảm giá thành nhà ở. Tại khu vực tái định cư, trong đó đặc biệt quan tâm tới những đất đai thực hiện tại vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Kết hợp phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao với phát triển khu dân cư. Nhà nước cần có trợ cấp khó khăn đối với các đối tượng không còn nơi sản xuất. Nhà nước nghiên cứu thực hiện dự án phục hồi, tái tạo thu nhập cho những hộ nông dân ở khu vực có sử dụng đất đai nhưng bị thu hồi lớn, bằng cách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm ổn định đời sống cho nhân dân. - Cần có nguồn kinh phí cần thiết để xây dựng hạ tầng cơ sở khu vực tái định cư, xây dựng quỹ nhà ở, đất ở để chủ động trong công tác giải phóng mặt bằng tạo điều kiện cho các chủ đầu tư xác định phương hướng giải phóng mặt bằng lập dự án đầu tư. Các dự án quy hoạch chi tiết cần quan tâm tới hiện trạng sử dụng đất, hạn chế tối đa việc di dân tự do trong phạm vi dự án. Các dự án đầu tư, khu đầu tư mới, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch, dịch vụ lớn cần phải đảm bảo điều kiện cơ sở hạ tầng cho các khu dân cư cũ giáp ranh, tạo điều kiện sinh hoạt tương đương theo định hướng đô thị hoá. - Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tôn trọng và hiểu biết pháp luật, đặc biệt là luật đất đai. Cần xác định tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là chương trình hành động quốc gia, là nội dung hoạt động của quản lý Nhà nước về đất đai. - Để nâng cao vai trò và sức mạnh của người dân trên cơ sở đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất đồng thời kiên quyết thực hiện các biện pháp cưỡng chế của cơ quan với các phần tử lợi dụng chính sách giải phóng mặt bằng để phục vụ lợi ích của cá nhân. Nhà nước cần quy định cụ thể về giải quyết khiếu nại, kiến nghị của nhân dân và các quy định về trình tự, thủ tục cưỡng chế, thực hiện quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 5.2. Công tác tuyên truyền vận động Công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ủng hộ việc giải phóng mặt bằng cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của công tác này. Công tác này đặc biệt khó khăn vì việc giải phóng mặt bằng ảnh hưởng đến lợi ích của người bị di dời, nó làm thay đổi cuộc sống đang ổn định của người dân. Đồng thời trình độ làm việc cũng như sinh hoạt của số hộ dân bị di dời là khác nhau, do đó tuyên truyền phải thực hiện được một số đảm bảo sau: - Đảm bảo sự đồng tình ửng hộ của tất cả dân cư trong tỉnh để đảm bảo cho các dự án sau khi thực hiện được trôi chảy hơn. Người bị di dời sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để tăng cường lợi ích xã hội và lợi ích cộng đồng. Để thực hiện được việc này đòi hỏi sự tham gia nhiệt tình của các cấp ngành địa phương cũng như các tổ chức đoàn thể quần chúng như: Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội nông dân tập thể… mà các tổ chức này chính là nòng cốt của công tác tuyên truyền vì một mặt cấp họ là đại diện cho nhân dân tham gia vào quân chúng Nhà nước cấp cơ sở, quán triệt cơ sở đường lối phát triển tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước tới các hội viên và nhân dân, phản ánh ý kiến nguyện vọng của họ. - Mặt khác, chính trong số họ là bộ phận trong số hộ dân phải di dời . Do đó sự tham gia ủng hộ của các tổ chức này kéo theo sự ủng hộ dân phải di dời, điều này thể hiện luật mới được quán triệt tới người dân nhưng được người dân ủng hộ ngay mà sau khi được giải thích, hay các cụ cao tuổi trong làng ủng hộ thì đoàn thể người dân ủng hộ thì toàn dân sẽ làm theo điều này nói lên vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác giải phóng mặt bằng. Họ phải là những người gương mẫu đi trước đồng thời tích cực vận động hội viên khác trong hội, con cháu làm theo. 5.3. Công tác tái định cư cần được chú trọng trong quá trình đô thị hoá. Để đạt được các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội tỉnh theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai năm 2001- 2010 đã được HĐND tỉnh thông qua, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì chính quyền tỉnh Bắc Ninh phải có giải pháp để lập kế hoạch tái định cư cho nhân dân và tạo điều kiện để họ ổn định đời sống, tái tạo lại thu nhập và hoà đồng với cộng đồng dân cư trong khu vực, đặc biệt là phải có biện pháp giải quyết việc làm, tái tạo thu nhập cho hàng vạn lao động nông nghiệp dôi dư hàng năm trên địa bàn tỉnh. Cần thực hiện ngay các chính sách đánh giá kết quả, tái định cư đời sống người dân khu vực tái định cư và đời sống nhân dân khu vực bị thu hồi đất sản xuất. Thực tế cho thấy việc đánh giá thực trạng các khu tái định cư, đời sống nhân dân sống tại đó, khả năng tái tạo lại thu nhập của người bị di dời đất nông nghiệp chủ yếu được phản ánh qua chính quyền cấp cơ sở, chưa có cơ quan nào kiểm tra, đánh giá một cách nghiêm túc. Cần phải nghiên cứu toàn diện vấn đề tái định cư, ổn định đời sống cho các đối tượng di dời khi giải phóng mặt bằng. Một thách thức là mục tiêu hiện nay phải được biểu hiện bằng các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra trong khi vẫn đảm bảo quyền lợi của những người bị ảnh hưởng bởi những dự án đầu tư đô thị hoá và phát triển công nghiệp, phải nghiên cứu toàn diện vấn đề này Nhà nước mới xây dựng được chiến lược tái định cư trong nhiều năm. Kế hoạch tái định cư hàng năm, giải quyết được tình trạng hiện nay nhiều dự án đã có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng không triển khai được do không thực hiện tái định cư và tình trạng nông dân thiếu việc làm gia tăng, bị quá trình đô thị hoá dồn ép sinh ra tiêu cực, xảy ra khiếu kiện làm mất trật tự, an ninh chính trị xã hội. Chiến lược kế hoạch tái định cư, ổn định đời sống nhân dân phải giải quyết vấn đề sau: Xác định chính xác nhu cầu tái định cư nhiều năm và hàng năm nhu cầu này cần phải được cụ thể tuỳ theo từng đối tượng, cụ thể việc phân loại đánh giá đối tượng phải di chuyển giúp cho các khu tái định cư có tính khả thi; Lập quy trình, kế hoạch xây dựng các khu trung tâm phân bố trên địa bàn; Các giải pháp trong việc bố trí, xây dựng các khu tái định cư phải thích hợp để tạo điều kiện cho các hộ dân sớm ổn định đời sống, ổn định lại thu nhập. Lập kế hoạch, chiến lược chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động tại nơi bị thu hồi nhiều đất hoặc hết đất nông nghiệp; Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp- nông thôn, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá nông thôn, tạo điều kiện để người thu hồi đất được hưởng thành quả, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở chính nơi thu hồi đất. Đây là vấn đề bức xúc nhất hiện nay trong quá trình đô thị hoá, phát triển công nghiệp. Thực hiện tốt công tác này cần có sự phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các sở, ngành và chủ đầu tư. Giải quyết không tốt công tác này là nguyên nhân gây mất ổn định trật tự xã hội. Cần phải lập kế hoạch tái định cư ổn định đời sống người dân khi nghiên cứu và lập dự án đầu tư: Trách nhiệm này thuộc về chủ đầu tư và các cơ quan thẩm định phê duyệt dự án đầu tư. Từ lâu, công tác này chưa được quan tâm đúng mức hoặc xem nhẹ khi lập dự án, mặc dù mọi người đều nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Đối với dự án chưa nghiên cứu kỹ phần tái định cư thì khi triển khai việc tái định cư sẽ là gánh nặng cho chính quyền các cấp và ảnh hưởng đến quyền lợi của các đối tượng phải di dời. Qua lập kế hoạch tái định cư chủ đầu tư sẽ chủ động được trong việc lập kế hoạch tài chính. Thực tế cho thấy, phần lớn các dự án đầu tư có di dân, kế hoạch tài chính bị phá vỡ và phải phê duyệt bổ sung nhiều lần chủ yếu là do tăng phần đền bù, giải phóng mặt bằng tái định cư. Để khắc phục tình trạng bị động trong tái định cư khi thực hiện dự án đầu tư, Nhà nước (ngay từ khâu thẩm định dự án) không thông qua dự án đầu tư nếu phần tái định cư không đảm bảo tính khả thi của dự án. Phải xây dựng khu tái định cư có quy mô lớn, xây dựng đồng bộ hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, xây dựng đồng bộ các công trình mặt bằng kỹ thuật gắn liền với việc phát triển các khu đô thị mới phải chủ động được nơi tái định cư còn có ý nghĩa về mặt xã hội, nâng cao đời sống sinh hoạt cho đối tượng phải di chuyển và tạo điều kiện cho khu dân cư lân cận được hưởng kết quả của quá trình đô thị hoá. Trong khu tái định cư không chỉ quan tâm đến vấn đề nhà ở mà còn phải quan tâm đến sinh hoạt và việc làm, ổn định đời sống nhân dân. Khi di chuyển chỗ ở đời sống nhân dân bị ảnh hưởng, sinh hoạt bị thay đổi, một bộ phận nhân dân bị ảnh hưởng đến thu nhập nhất là các hộ ở mặt tiền, đang có điều kiện kinh doanh thương mại. Mục tiêu của việc xây dựng khu tái định cư mới là hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội bằng và hơn nơi ở cũ. Các khu tái định cư này phải tạo điều kiện về nơi làm việc, nơi sản xuất kinh doanh để các hộ gia đình có điều kiện tạo được việc làm và tăng thu nhập thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại, dịch vụ. III. Một số kiến nghị đối với nhà nước 1. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Luật đất đai Từ khi đổi mới nền kinh tế (năm 1986) đến nay đã có 2 bộ luật về đất đai (Luật đất đai năm 1988 và năm 1993), Luật sửa đổi bổ sung một số điều năm 2003 và rất nhiều Pháp lệnh, Nghị định liên quan đến đất đai đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và điều chỉnh các quan hệ đất đai phù hợp với cơ chế thị trường. Nhưng trong luật định cũng như trong thi hành luật vẫn còn nhiều khiếm khuyết, do đó cần phải tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện Luật đất đai cho phù hợp hơn với cơ chế thị trường để sử dụng đất đai ngày một có hiệu quả hơn. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, rất quan trọng và cũng rất phức tạp, do đó trong Hội nghị lần thứ bảy của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá IX đã giành thời gian và công sức thoả đáng để thảo luận về Nghị quyết tiếp tục sửa đổi một số điều trong chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều Luật đất đai trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và phù hợp với điều kiện thực tế về quản lý và sử dụng đất đai hiện nay là một sự lỗ lực của Nhà nước nhưng chưa thể coi là đã hoàn tất. Việc tổ chức thi hành Luật đất đai đã sửa đổi, bổ sung cần tập trung vào một số vấn đề sau: - Việc ban hành các văn bản dưới Luật có liên quan đến đất đai đều phải tôn trọng các quy định của Luật đất đai, không thể tuỳ tiện ra những quy định trái với luật. - Thống nhất quản lý Nhà nước đối với đất đai, tập trung và phân cấp rõ ràng, tránh tình trạng ngành nào, cấp nào cũng có quyền cấp đất. Đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai. - Đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà trong công tác quản lý để tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền một cách dễ dàng, cũng như đảm bảo cho việc thi hành Luật đất đai một cách đầy đủ và nghiêm minh. 2. Một số kiến nghị về chính sách phát triển nhà ở sau năm 2002. 2.1. Chính sách về đất đai xây dựng nhà ở Cần phải có quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất hàng năm, đến năm 2005 và 2010… Những kế hoạch, quy hoạch này phải được thành phố, tỉnh và Nhà nước phê chuẩn. Cần có quy định về giao đất, cho thuê đất cho phù hợp với đối tượng sử dụng đất. - Để làm nhà ở cho đối tượng ưu tiên chính sách xã hội như gia đình thương binh, liệt sĩ, có công với cách mạng, cách mạng lão thành, bà mẹ anh hùng… thì được giảm hoặc miễn tiền sử dụng đất từng loại theo mức ưu tiên. - Đất để lập dự án xây dựng nhà ở chung cư nhiều tầng để bán cho cán bộ công nhân viên và những người có thu nhập thấp hoặc để cho thuê thì Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất. - Đất để làm nhà ở để bán hoặc cho thuê ở những vị trí tốt, trung tâm thì phải nộp 100% tiền thuê đất hoặc thưo mức đấu giá tiều đất theo từng vị trí và theo giá cả thị trường. - Đất làm nhà ở di dân, giải phóng mặt bằng hoặc phá nhà cũ xây dựng nhà mới cho đúng quy hoạch để tái định cư hoặc cơi nới, nâng tầng nhà ở trên diện tích nhà cũ thì không phải nộp tiền đất. Đối với những hộ phải di chuyển ra các khu vực ngoài trung tâm hay ngoài vùng đô thị cần được miễn giảm tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất. - Giao đất để lập dự án xây dựng nhà đền bù, di dân trước khi giải phóng mặt bằng để xây dựng các công trình công cộng hay mở đường giao thông. Xoá bỏ quỹ đất do các cơ quan, doanh nghiệp nắm giữ để phân phối nội bộ về mục đích xây dựng nhà ở. Chấm dứt tình trạng giao đất cho từng cán bộ riêng lẻ, để chuyển sang cơ chế chính sách phát triển nhà ở theo dự án. 2.2. Chính sách về vốn Nhà nước đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội song song với các dự án phát triển nhà: Đầu tư hỗ trợ xây dựng nhà ở phục vụ cho các đối tượng đang hưởng chính sách ưu đãi trong xã hội có nhu cầu về nhà ở theo kế hoạch hàng năm; Duy trì quỹ nhà ở hiện có do Nhà nước quản lý; Huy động vốn của mọi cá nhân và các thành phần kinh tế trong xã hội tham gia vào công tác sau: - Cho phép các tổ chức doanh nghiệp Nhà nước được huy động vốn bằng tiền mặt vàng, ngoại tệ của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, được tính lãi xuất ngân hàng cho vay, kinh doanh, tính vào giá thành công trình. - Huy động ngân hàng cho vay đối với các dự án phát triển nhà ở với lãi xuất thấp và thời hạn cho vay dài hơn vì kinh doanh nhà ở có chu kỳ sản xuất dài, hoàn vốn chậm, tiêu thụ sản phẩm dần dần. Huy động vốn bằng liên kết, liên doanh, góp vốn cổ phần bằng tiền ứng trước của chủ mua nhà,đa dạng hoá các dự án phát triển nhà thu hút nhiều loại vốn đầu tư. Tạo điều kiện cho mỗi hộ dân để có thể tiết kiệm tiền tạo dựng cho mình một chỗ ở, tham gia vào phát triển nhà ở. 2.3. Chính sách giải phóng mặt bằng Để xây dựng các công trình công cộng như giao thông, xây dựng bảo tàng, công trình văn hoá thể thao đô thị, nhất là đối với các đô thị cần phát triển và cải tạo đều vấp phải một vấn đề lớn phức tạp là giải phóng mặt bằng. Thực tiễn cho thấy, việc mở mang đường xá và xây dựng các công trình nói chung chậm trễ là do công tác giải phóng mặt bằng đặc biệt khó khăn. Do đó trong công tác phát triển đô thị việc tạo lập ra một quỹ nhà ban đầu phục vụ cho công tác giải phóng mặt bằng là vô cùng cần thiết. Nhà nước cần có kế hoạch dành ra một quỹ đất và nguyên tắc chính cần thiết để đầu tư xây dựng quỹ nhà này và đi trước một bước so với thời điểm xây dựng. Nhà nước nên giao cho địa phương chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện căn cứ vào nhu cầu để xác lập quỹ đất, tài chính và tổ chức quản lý. Đối với dự án phát triển nhà ở của các doanh nghiệp theo phương thức kinh doanh, phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm kinh doanh phát triển nhà ở được sử dụng quỹ đất, cho phép các doanh nghiệp được chuyển nhượng quyền sử dụng những diện tích nhà cũ của dân hoặc tổ chức cơ quan đang thuê của nhà nước nhượng lại để làm quỹ nhà để di chuyển giải toả mặt bằng. Cho phép các doanh nghiệp được áp dụng thoả thuận để thương lượng mức đền bù di chuyển với dân. Cho phép họ được mua lại nhà thuộc quỹ nhà dự trữ giải toả mặt bằng của đô thị để đáp ứng yêu cầu giải toả mặt bằng với giá tính đủ chi phí, không có tiền thuế, tiền đất và lãi chỉ tính tối thiểu. Để chống tham nhũng, người dân phải được trực tiếp đến ngân hàng lĩnh tiền không qua một cơ quan trung gian phát triển nào khác. Nơi chuyển đến cũng phải có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội cần thiết nếu không dự án sẽ thất bại. Cạnh các khu công nghiệp hay nhà máy lớn nên xây dựng một khu nhà ở của công nhân, các chủ đầu tư phải bỏ tiền ra xây dựng hoặc nhờ các doanh nghiệp nhà ở xây dựng, không để cho cán bộ công nhân viên tự ý xây dựng nhà ở không theo một quy hoạch nào cả gây thiếu thẩm mỹ. 2.4. Chính sách cho các đối tượng sử dụng nhà ở Đối tượng sử dụng nhà ở khá phức tạp, nên Nhà nước cần có chính sách phù hợp và công bằng, cần phân loại các đối tượng sau: Đối với cán bộ nhân viên: Bao gồm cả người đang đi làm hoặc nghỉ hưu, cán bộ hưởng lương, các lực lượng vũ trang đang làm việc… là những đối tượng cơ bản, phục vụ cho việc gắn bó với Nhà nước, lực lượng nòng cốt phát triển và bảo vệ chế độ thì Nhà nước cần có chính sách ưu tiên, đảm bảo cho họ một phần về tài chính, giúp gia đình họ có một nơi thích hợp. Đối với các đối tượng được ưu tiên về chính sách xã hội: Đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công, cán bộ lão thành… mà có khó khăn về nhà ở thì được tặng biếu, mua trả dần hoặc cho thuê nhà với giá rẻ, phần thiếu hụt do ngân sách Nhà nước bù. Đối với những người có thu nhập cao: Xây dựng nhà cao cấp độc lập, khép kín, chất lượng xây dựng, kiến trúc, tiện nghi cao, sử dụng phù hợp và thoả mãn sức mua, thị hiếu, yêu cầu về nhà ở của họ nhằm tận dụng sức đóng góp của họ tạo điều kiện điều tiết cho người nghèo. Đối với người có thu nhập thấp: có thể cho thuê đất hay giảm tiền sử dụng đất tuỳ theo mức thu nhập cụ thể để giúp họ có khả năng xây dựng chỗ ở, có thể bán trả góp từ 15 đến 25 năm. Đối với hộ quá nghèo: loại hình này thường chiếm 10% dân số đô thị, không có công ăn việc làm ổn định, nguồn thu nhập bấp bênh, mức thu nhập chỉ bằng 1/4- 1/5 mức thu nhập trung bình. Nhu cầu của đối tượng này là việc làm và thu nhập tại nơi ở. Vì vậy, nên lập các dự án nâng cấp kỹ thuật để kêu gọi tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước. 3. Nhà nước chủ động tổ chức thị trường bất động sản, trong đó có đất đai Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta coi đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, không thừa nhận thị trường đất đai như thị trường các hàng hoá thông thường khác. Trên thực tế, trong điều kiện của kinh tế thị trường, đất đai không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có giá trị và vận động theo cơ chế thị trường, từ đó đã có những đổi mới trong cách nhìn nhận và đánh giá về cách thức quản lý và sử dụng đất đai trong tình hình mới. Nhà nước cho phép các đối tượng sử dụng đất đai theo cơ chế thị trường và theo đúng pháp luật. Nếu thừa nhận sự vận động của đất đai theo luật pháp, theo cơ chế chủ động tổ chức thị trường bất động sản, vấn đề đầu tiên là xác định giá đất theo quan hệ cung- cầu, khả năng sinh lời và phải sát với giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường. 4. Thúc đẩy nhanh việc hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài. Hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà cho các hộ nông dân ở khu vực đô thị. Đây là công việc phức tạp có nhiều khó khăn. Nhiều biện pháp rất khoa học sẽ không thực hiện được vì thiếu luận cứ, kinh phí và sẽ kéo dài hàng chục năm. Do đó, ngoài cách làm đơn giản, thông thoáng, việc trực tiếp với dân cư từng thôn, xã, phường để dân tìm cách giải quyết, ủng hộ, bàn bạc theo phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” thì có thể làm nhanh mà tương đối chính xác. 5. Nhà nước thực hiện tổng kiểm kê toàn bộ đất đai, nhà ở do khu vực kinh tế nhà nước quản lý và sử dụng. Với chính sách sử dụng đất đai tiết kiệm và có hiệu quả, tạo quỹ đất cho sản xuất kinh doanh và quy hoạch lại các khu công nghiệp và dịch vụ, khu dân cư, nên tập trung giải quyết một số vấn đề sau: - Tăng cường công tác tổ chức củng cố, xây dựng bộ máy ngành Địa Chính, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ địa chính từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, thường xuyên bổ sung biên chế để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của ngành để quản lý Nhà nước về đất đai. - Đầu tư kinh phí để thành lập bản đồ địa chính chính quy cho cấp xã, cả tỉnh. Đầu tư trang thiết bị công nghệ, tin học tiên tiến để phục vụ đo đạc, vẽ lập hệ thống bản đồ địa chính chính quy theo toạ độ cho công tác quản lý biến động, thống kê, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến các cấp từ cơ sở đến tỉnh. - Bổ sung, sửa đổi Luật cho phù hợp với điều kiện của đất nước vốn ít đất lại đông dân. Xử lý nghiêm việc lấn chiếm, tự ý chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng, thường xuyên thanh tra kiểm tra việc sử dụng đất của các địa phương từ đó có thưởng phạt nghiêm minh việc thực hiện Luật đất đai. Hiện nay, có hiện tượng nhiều nơi dân di chuyển, di cư khá nhiều. Người dân đến nơi sinh sống mới được nhận đất ở mới nhưng đất chỗ ở cũ vẫn không trả lại cho Nhà nước và địa phương. Trong những trường hợp này, cần thực hiện trưng thu, cần có điều khoản quy định việc di chuyển đất đai gắn liền với quá trình tái định cư trong Luật đất đai. - Rà soát lại quỹ đất của địa phương, qua đo đạc bản đồ chuẩn bị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhiều huyện đã dôi ra so với sổ sách hàng chục ha. Cần nghiên cứu chuyển đổi đất thành vùng tập trung dành cho khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ và khu dân cư. - Về lâu dài, có quy định về xây dựng các toà nhà cao tầng cho các khu hành chính, văn hoá, nhà ở để tiết kiệm đất. Bắc Ninh là một tỉnh mới được tái lập, trong những năm qua công tác quản lý đất đai đã và đang đi vào nề nếp. Vì vậy, tỉnh Bắc Ninh rất mong sự quan tâm của Tổng cục Địa Chính và Chính phủ để tạo điều kiện cho toàn tỉnh hoàn thành tốt công tác quản lý và sử dụng đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá và quá trình đô thị hoá đang mạnh mẽ như hiện nay./. Kết luận Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia trên thế giới, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đất đai còn là một hàng hoá đặc biệt trong đó người ta trao đổi mua bán quyền sử dụng đất, hình thành lên một thị trường bất động sản, mua bán quyền sử dụng đất với một giá cả đắt hơn rất nhiều so với giá trị thực của nó trước đó. Bắc Ninh là một tỉnh mới được tái lập, tách từ tỉnh Hà Bắc ra năm 1997. Trước đó, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh còn quá nhỏ bé, năm 1990 tỷ lệ đô thị hoá mới là 4,5%, nhưng sau khi tách tỉnh, cùng với nhiều thay đổi trong cơ cấu tổ chức và quản lý, tình hình phát triển kinh tế xã hội của Bắc Ninh có nhiều biến chuyển tích cực, song song với nó là tình hình đô thị hoá mạnh mẽ, kéo theo là sự biến động sâu sắc trong vấn đề quản lý và sử dụng đất đai trong tỉnh trong thời gian qua. Đất đai được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là mục đích phát triển công nghiệp, hệ thống giao thông đô thị, phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề, các trung tâm thương mại phục vụ cho sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế. Khi đô thị hoá diễn ra thì việc quản lý và sử dụng đất đai gặp không ít những khó khăn trong công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất như thế nào sao cho có hiệu quả, tránh tình trạng sử dụng sai mục đích và không đem lại hiệu quả cao hơn so với sử dụng trước đó. Vì vậy, với một tỉnh mới được thành lập cần chú trọng hơn nữa trong công tác quản lý việc sử dụng đất đai cho phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá đang mạnh mẽ trong tỉnh đã được Chính phủ phê duyệt. Tránh tình trạng khắc phục rất tốn kém và sẽ không còn hiệu quả, đây là một việc làm hết sức khó khăn cần được các cấp có thẩm quyền quan tâm hơn nữa./. Tài liệu tham khảo Tạp chí: - Địa chính số: 3/01; 10/01; 2/02; 3/02; 4/02; 9/02. - Xây dựng số: 6/00; 12/00; 4/01; 6/01; 8/01; 9/01; 11/01; 2/02; 5/02; 8/02. - Báo nhân dân số 17407 chủ nhật 23- 3- 2003. Sách: - Báo cáo kiểm kê đất đai 5 năm- Tỉnh Uỷ Bắc Ninh. - Báo cáo tổng kết công tác kiểm kê đất đai năm 2002- Tỉnh Uỷ Bắc Ninh. - Chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương VII (phần 2) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- Tỉnh Uỷ Bắc Ninh. - Đô thị hoá và quản lý kinh tế đô thị ở Hà Nội- Giáo sư. Tiến sĩ Nguyễn Đình Hương- Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân- Hà Nội. - Đô thị hoá và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam- NXB chính trị Quốc gia-T12- 1997. - Kinh tế và chính sách đất đai ở Việt Nam- NXB nông nghiệp- Hà Nội 2000. - Nhà ở đô thị sau năm 2000- KTS Lưu Anh Dũng- NXB Khoa học kỹ thuật. - Nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch chung thị xã Bắc Ninh đến năm 2020- Tỉnh Bắc Ninh- Bộ Xây Dựng- Viện quy hoạch đô thị nông thôn- T7- 2002. - Quy hoạch tổng thể tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010- Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh- 2001. - Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị tỉnh Bắc Ninh- 2020- UBND tỉnh Bắc Ninh- Hội quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam- Viện nghiên cứu quy hoạch phát triển đô thị nông thôn- T4- 2002. - Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2000- 2010- UBND tỉnh Bắc Ninh- 2002. - Tìm hiểu về Luật đất đai Việt Nam- NXB mũi cà mau. Mục lục Trang Lời cảm ơn Sinh viên Lê Thị Ninh Vân- Khoa Kế Hoạch và Phát Triển- Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội, sau giai đoạn thực tập tại Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Bắc Ninh có viết luận văn với đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2010”. Qua đề tài này sinh viên Ninh Vân muốn gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Tiến sĩ Ngô Thắng Lợi và Thạc sĩ Vũ Cương, cùng với Tiến sĩ Nguyễn Phương Bắc- phó giám đốc Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Bắc Ninh đã giúp đỡ sinh viên hoàn thành tốt giai đoạn thực tập và bản luận văn này. Sinh viên Lê Thị Ninh Vân- KTPT 41A lời cam đoan Bản luận văn với đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng đất đai trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Bắc Ninh” được thực hiện bởi chính sinh viên Lê Thị Ninh Vân- Lớp Kinh Tế Phát Triển 41A- Khoa Kế Hoạch và Phát Triển. Tôi xin cam đoan bài viết này do chính bản thân tôi viết, nếu có gì sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Sinh viên Lê Thị Ninh Vân- KTPT41A Danh mục bảng biểu Hình 1. Cơ cấu GDP của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997- 2002 29 Bảng 1. Một số chỉ tiêu về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 – 2002 29 Bảng 2. Tiềm năng đất đai ở tỉnh Bắc Ninh năm 2002 31 Bảng 3. Hiện trạng sử dụng đất đô thị năm 2002 43 Bảng 4. Tình hình sử dụng đất và biến động đất đai giai đoạn 1997- 2002 47 Bảng 5. Dự báo quy mô dân số đô thị và tỷ lệ đô thị hoá 54 Bảng 6. Quy hoạch sử dụng đất đai đô thị năm 2010 57 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37030.doc
Tài liệu liên quan