Hoàn thiện công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu

MỞ ĐẦU Sau hai mươi năm thực hiện cơ chế chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, kể từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đã được cải thiện vượt bậc, tạo cho Việt Nam một bộ mặt với những thay đổi to lớn về diện mạo kinh tế mới trong mắt bạn bè quốc tế. Cùng với sự thay đổi về cơ chế chính sách như vậy, nền kinh tế nước nhà đã liên tục tăng trưởng qua các năm một cách ổn định và bền vững, tạo nguồn lực tài chính để thúc đẩy sự phát triển lâu dài. Từ những th

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành tựu đã đạt được Nhà nước ta đã không ngừng cải cách, đổi mới hệ thống Ngân sách Nhà nước cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững an ninh tài chính quốc gia, thúc đẩy hội nhập kinh tế, quốc tế. Song song với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ quan trọng với tính chất là nội lực cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và phát triển của một Nhà nước luôn luôn cần thiết phải có nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động chi tiêu thường xuyên của những tổ chức, cơ quan đơn vị thuộc bộ máy quản lý Nhà nước. Để đáp ứng nguồn kinh phí để đảm bảo cho các hoạt động như; Các cơ quan quản lý Nhà nước, quân đội, cảnh sát, sự ngiệp văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, đầu tư phát triển kinh tế đất nước thì Nhà nước phải tạo ra các nguồn thu để bảo đảm, đó là nguồn thu từ các loại thuế và các nguồn khác. Tất cả quá trình thu nộp và sử dụng nguồn kinh phí đó của Nhà nước đều phải được phản ánh qua Ngân sách Nhà nước. Ngân sách huyện với tư cách là một bộ phận hữu cơ của Ngân sách Nhà nước cùng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại phát triển của hệ thống ngân sách Nhà nước. Nó có chức năng trung gian giữa cấp ngân sách Trung ương, ngân sách cấp Tỉnh, thành phố và ngân sách cấp xã phường, thị trấn. Quản lý và phân phối lại nguồn tài chính của địa phương nhận từ ngân sách cấp trên hoặc từ nguồn thu được điều tiết theo quy định phát sinh trên địa bàn cho hoạt động của bộ máy quản lý cấp huyện và bổ sung cân đối cho hoạt động của cấp xã, phường, thị trấn. Ngân sách Nhà nước ta đã ra đời từ lâu, tuy nhiên nó chỉ được thể chế thành Luật năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ năm 1997. Trong quá trình thực hiện đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, luật ngân sách Nhà nước đã được hoàn thiện. Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI của Quốc hội nước ta, Luật ngân sách Nhà nước đã được sửa đổi nhằm để quản lý thống nhất nền Tài chính Quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tải sản của Nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội Sau một thời gian nghiên cứu thực tập, thu thập các thông tin, kiến thức thực tế để bổ sung cho kiến thức đã học tại nhà trường, em đã nhận thấy rằng trước những đòi hỏi bức xúc về quản lý điều hành ngân sách Nhà nước nói chung và quản lý điều hành ngân sách cấp quận, huyện nói riêng, em xin mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề thực tập với nội dung “Hoàn thiện công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu” Qua thực tiễn tại đơn vị phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên, em đã nhận thấy rõ được kiến thức về công tác quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước nói chung và ngân sách cấp huyện nói riêng. Em mong rằng một số ý kiến đề xuất của cá nhân em sẽ đóng góp phần nào nhỏ bé vào công tác quản lý điều hành ngân sách tại địa phương và luật Ngân sách Nhà nước. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Cô giáo Nguyễn Thị Minh Huệ cùng tập thể các đồng chí trong phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Mong rằng các bạn đọc đóng góp ý kiến tham gia những khiếm khuyết và thiếu xót trong đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1: Lý luận chung về công tác quản lý thu, chi ngân sách. 1.1 Những quy định chung về ngân sách nhà nước 1.1.1 Khái niệm về Ngân sách Nhà nước. - Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. 1.1.2 Vai trò, chức năng của Ngân sách Nhà nước. 1.1.2.1 Vai trò của ngân sách nhà nước. - Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Ngân sách Nhà nước là đảm bảo nguồn tài chính để thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương. Ngân sách Nhà nước là công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển về kinh tế, tạo đà tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường, thực hiện tiến trình công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. - Ngân sách Nhà nước đầu tư cho sự phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng ổn định và điều khiển nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Ngoài việc đảm bảo ngân sách cho chi thường xuyên. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế bằng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn hoặc kế hoạch dài hạn. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo cho Nhà nước chủ động thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc thắt chặt, thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Ngân sách Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên cho sự hoạt động của bộ máy hành chính, đảm bảo công bằng xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường sinh thái, giữ gìn an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền đất nước và trật tự xã hội. - Ngân sách Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên cho sự hoạt động của bộ máy hành chính, đảm bảo công bằng xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường sinh thái, giữ gìn an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền đất nước và trật tự xã hội. - Hiện nay trong nền kinh tế năng động, thời kỳ kinh tế Việt Nam hội nhập với các nền kinh tế trên toàn cầu, việc sử dụng Ngân sách Nhà nước để tác động vào nền kinh tế là hết sức quan trọng. Tuy nhiên luật ngân sách ngày càng phải được sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện để đáp ứng đúng yêu cầu là vài trò thúc đẩy sự phát triển và ổn định cho một nền kinh tế năng động của nước ta hiện nay. 1.1.2.2 Chức năng của Ngân sách Nhà nước. - Ngân sách Nhà nước có những chức năng cơ bản là. Thứ nhất là chức năng đôn đốc; kiểm tra, giám sát, chức năng này cụ thể là các nghiệm vụ như kiểm tra việc chấp hành ngân sách Nhà nước, kế toán, kiểm toán và quyết toán ngân sách Nhà nước một cách thường xuyên liên tục. Thực hiện tốt chức năng này sẽ đem lại những thông tin trung thực cho việc quản lý các hoạt động của Ngân sách Nhà nước, giúp cho Nhà nước phát hiện những thiếu sót, kịp thời chỉnh sửa, phát huy những kết quả tốt đã đạt được góp phần thúc đẩy hoàn thiện luật Ngân sách Nhà nước, tiến tới các mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định. Thứ hai là chức năng phân phối giữa các cấp ngân sách; thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách và bổ sung cân đối ngân sách cho cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng. 1.1.3 Nguyên tắc của Ngân sách Nhà nước. - Về thu ngân sách Nhà nước, phải được thực hiện theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. - Về chi ngân sách chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây: + Đã có trong dự toán Ngân sách được giao. Trừ trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định theo quy định thì lập lại dự toán ngân sách Nhà nước. Trường hợp dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ Ngân sách Trung ương chưa được Quốc hội quyết định, Chính phủ lập lại dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương trình Quốc hội vào thời gian do Quốc hội quy định. Trường hợp dự toán Ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình chưa được Hội đồng nhân dân quyết định, Uỷ ban nhân dân lập lại dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình, trình Hội đồng nhân dân vào thời gian do Hội đồng nhân dân quyết định, tuy nhiên không được chậm hơn thời hạn do Chính phủ quy định. Trong quá trình chấp hành ngân sách Nhà nước, nếu có sự thay đổi về thu, chi thì thực hiện như sau: Thứ nhất: Số tăng thu và tiết kiệm chi so với dự toán được giao được sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Chính phủ dự kiến phương án sử dụng đối với từng nhiệm vụ chi, báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi thực hiện; Uỷ ban nhân dân dự kiến phương án đối với từng nhiệm vụ chi, thống nhất ý kiến với thường trực Hội đồng nhân dân trước khi thực hiện; đối với cấp xã, Uỷ ban nhân dân thống nhất ý kiến với chủ tịch và phó chủ tịch Hội đồng nhân dân trước khi thực hiện. Thứ hai: Trường hợp số thu không đạt dự toán được Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định, Chính phủ báo cáo với Uỷ ban thường vụ quốc hội, Uỷ ban nhân dân báo cáo với thường trực Hội đồng nhân dân, đối với cấp xã, Uỷ ban nhân dân thống nhất ý kiến với Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân điều chỉnh giảm một số khoản chi tương ứng. Thứ ba trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể ttrì hoãn được mà dự phòng ngân sách không thể đáp ứng được, Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải xắp xếp lại các khoản chi trong dự toán được giao hoặc sử dụng các nguồn dự trữ để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất. Thứ tư trường hợp biến động lớn về ngân sách so với dự toán đã được phân bổ cần phải điều chỉnh tổng thể, Chính phủ lập dự toán điều chỉnh ngân sách Nhà nước trình quốc hội, Uỷ ban nhân dân lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân theo quy trình lập, quyết định theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước hiện hành. Ngoài ra còn một số trường hợp khác cần phải điều chỉnh dự toán nêu trong luật Ngân sách Nhà nước năm 2002. + Chi ngân sách Nhà nước phải đúng tiêu chuẩn, đúng chế độ và định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. + Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền quyết định chi. + Các cấp, các ngành, các đơn vị không được đặt ra các khoản thu, chi trái với quy định của pháp luật. + Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng ngân sách Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống thất thoát, tham nhũng. - Các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước phải được hạch toán kế toán, quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ. 1.1.4 Nội dung của Ngân sách Nhà nước. - Nội dung của Ngân sách Nhà nước gồm các khoản thu và chi. + Các khoản thu bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. + Các khoản chi bao gồm chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm Quốc phòng - An ninh; chi bảo đảm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. - Ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Hệ thống ngân sách Nhà nước bao gồm ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương, Ngân sách địa phương bao gồm Ngân sách sách của các đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. - Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây: + Ngân sách Trung ương và Ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; + NSNN đảm bảo cân đối kinh phí hoạt động của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội phải được thực hiện theo một nguyên tắc nhất định. + Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách. + Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện những nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Gọi chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách giữa các cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. + Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo, việc ban hành và thực hiện các chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp đảm bảo nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp. + Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. + Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3 đến 5 năm. Số bổ sung từ ngân sách cấp trên là nguồn thu của ngân sách cấp dưới. + Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa NSNN đóng vai trò quan trọng, các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu hàng năm mà ngân sách địa phương được hưởng để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối ngân sách, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên. 1.1.5 Hệ thống ngân sách nhà nước Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện thu, chi của mỗi câp ngân sách. Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền, nghĩa là để có một cấp ngân sách thì trước hết phải có một cấp chính quyền với những nhiệm vụ phát triển toàn diện đồng thời phải có khả năng nhất định về nguồn thu trên lãnh thổ đó. Nguyên tắc tổ chức hệ thống ngân sách ở mỗi nước có sự khác nhau, song chúng đều có những nét chung là: Tính tập trung,thống nhất Tính tự chủ chịu trách nhiệm của mỗi cấp ngân sách Hiện nay trên thế giới việc tổ chức hệ thống ngân sách thực hiện theo hai mô hình: mô hình hệ thống ngân sách theo nhà nước liên bang và mô hình tổ chức hệ thống ngân sách theo nhà nước không liên bang. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước ta là tổ chức hệ thống ngân sách theo mô hình nhà nước không liên bang. Các cấp ngân sách trong hệ thống tổ chức đó đều có mối liện hệ hữu cơ gắn bó với nhau thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thu chi. Cũng như các nước, ở nước ta, việc tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước cũng gắn bó với việc tổ chức bộ máy nhà nước và vai trò,vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có thể hình dung hệ thống NSNN ta từ sau Đại Hội Đảng lần thứ IV bằng sơ đồ đơn giản sau đây: Hệ thống ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay Ngân sách đặc khu trực thuộc TW Ngân sách nhà nước Ngân sách địa phương Ngân sách Trung ương Ngân sách thành phố trực thuộc TW Ngân sách xã phường Ngân sách Huyện Ngân sách tỉnh Ngân sách Quận Ngân sách thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh 1.1.6 Hệ thống mục lục ngân sách nhà nước 1.1.6.1 Khái niệm Hệ thống mục lục NSNN là bảng phân loại các khoản thu, chi NSNN theo theo hệ thống tổ chức NN, ngành nghề kinh tà các mục đích kinh tế xã hội do NN thực hiện, nhằm phục vụ cho công tác lập, chấp hành kế toán, quyết toán NSNN và phân tích các hoạt động kinh tế, tài chính thuộc khu vực NN. 1.1.6.2 Nội dung của mục lục NSNN Bộ Tài Chính đã ban hành hệ thống mục lục NSNN theo quyết định số 33/2008/QĐ-BTC ngày 2/6/2008, có hiệu lực thi hành năm NS 2009 ( bao gồm cả phần kinh phí cuối năm NS 2008 được chuyển sang năm NS 2009) và thay thế hệ thống mục lục NSNN ban hành theo quyết định số 280/TC/QĐ/NSNN ngày 15/4/1997 của Bộ Trưởng BTC và các văn bản sửa đổi, bổ sung,hướng dẫn thực hiện quyết định số 280/TC/QĐ/NSNN của Bộ Tài Chính. Tạo điều kiện cho đơn vị dự toán cấp dưới, đối tượng nộp thuế và các cơ quan tài chính, KBNN, cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý, thu nộp NSNN các cấp thống nhất thực hiện trong công tác lập dự toán, chấp hành dự toán và kế toán, quyết toán – thu chi NN. Bộ tài chính hướng dẫn một số điểm về thực hiện mục lục NSNN như sau: - Chương và cấp quản lý phân loại theo chương và cấp quản lý (viết tắt là chương) là phân loại dự trên cơ sở hệ thống các tổ chức của các cơ quan tổ chức trực thuộc một cấp chính quyền (gọi chung là cơ quan chủ quản) được tổ chức quản lý ngân sách riêng nhằm xách định trách nhiệm quản lý của cơ quan tổ chức đối với NSNN. Trong các chương có một số chương đặc biệt dùng để phản ánh nhóm tổ chức, cá nhân có cùng tính chất nhưng không thuộc cơ quan chủ quản. + Nội dung phân loại được mã số hoá 3 kí tự và chia làm 4 khoản ứng với 4 cấp quản lý: Cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. + Căn cứ vào các khoản thu ngân sách của đơn vị có trách nhiệm, nộp NSNN thuộc cơ quan chủ quản, để xác định mã số chương: Khi hoạch toán thu chi NSNN chỉ cần hoạch toán mã số chương. - Về ngành nghề kinh doanh (loại, khoản) là dựa vào tính chất hoạt động kinh tế (nghành kinh tế quốc dân) để hoạch toán thu chi NSNN các nội dung phân loại được mã hoá 3 kí tự mỗi loại cách nhau 30 giá trị. + Căn cứ vào tính chất hoạt động phát sinh nguồn thu ngân sách hoặc khoản chi nhân sách cho hoạt động có tính chất gì, để xác định mã số laọi khoản. + Khi hoạch toán thu chi NSNN chỉ hoạch toán mã khoản. Từ đó dựa theo nghuyên tắc sẽ xác định khoản thu, khoản chi thuộc loại khoản nào. - Về nội dung kinh tế (mục, tiểu mục) là dựa vào nội dung kinh tế của khoản thu, chi NSNN để phân loại vào các mục, tiểu mục, nhóm, tiểu nhóm. 1.1.7 Phân cấp ngân sách Nhà nước 1.1.7.1 Nguyên tắc phân cấp ngân sách Nhằm đảm bảo tính chủ động trong việc quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước của từng cấp, phù hợp với thực tế, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp gắn liền với trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cấp. 1.1.7.2 Nội dung của phân cấp ngân sách - Giải quyết các quan hệ về chế đô chính sách nhằm khắc phục tình trangj về dối loạn trong quản lý điều hành NSNN. - Về quan hệ phân phối là quan hệ chia nhiệm vụ chi và nguồn thu trong cân đối ngân sách của các cấp chính quyền NN. Để giải quyết được quan hệ này là cả một vấn đề hết sức phức tạp trong quá trình xây dựng và triển khai các đề án phân cấp ngân sách đồng thời đây cũng là nội dung quan trọng nhất của phân cấp NSNN. + Về chế độ phân cấp NSNN hiện nay được quy định tại các điều khoản trong chương III của luật NSNN mỗi ấp điều có các khoản thu được hưởng trọn vẹn 100% và các khoản thu chia theo tỷ lệ % nhất định. Riêng ngân sách của địa phương còn đươc các khoản trợ cấp từ ngân sách cấp trên. + Vê chi tiêu, mỗi cấp điều có các khoản chi tường xuyên và chi đầu tư tuỳ thuộc vào các chức năng và nhiệm vụ của các cấp chính quyền nhà nước theo luật định. - Quan hệ về chu trinh ngân sách là quan hệ về quản lý trong chu trình vận động của NSNNtừ khâu lập đên khâu chấp hành và khâu quyết toán ngân sách. 1.2 Hoàn thiện công tác quản lý thu, chi ngân sách cấp huyện 1.2.1 Sự tồn tại khách quan của ngân sách cấp huyện Trong tiến trình lịch sử, ngân sách Nhà nước đã xuất hiện và tồn tại từ lâu. Với chức năng là công cụ tài chính rất quan trọng của Nhà nước, Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai tiền đề khách quan là Nhà nước và kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước tất yếu kéo theo yêu cầu tập trung nguồn lực tài chính vào tay Nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải, đáp ứng cho các chi phí nuôi sống bộ máy thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Là những điều kiện cần và đủ cho sự phát minh, tồn tại và phát triển của Ngân sách Nhà nước, hai tiền đề xuất hiện rất sớm trong lịch sử, nhưng thuật ngữ “Ngân sách Nhà nước” lại xuất hiện muộn hơn vào buổi bình minh của phương thức tư bản chủ nghĩa. NSNN ta đã có từ lâu, song nó được thể chế thành Luật năm 1996, có hiệu lực từ năm 1997, sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, Luật ngân sách Nhà nước đã được hoàn thiện. Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI của Quốc hội nước ta, luật Ngân sách Nhà nước đã được sửa đổi nhằm: Quản lý ngày càng tốt hơn nền Tài chính Quốc gia, nâng cao tính chất chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tải sản của Nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngân sách huyện là một bộ phận hữu cơ của Ngân sách Nhà nước, cũng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại phát triển của hệ thống ngân sách Nhà nước. Từ đó Ngân sách huyện đã trở thành một cấp ngân sách đã làm cho bộ mặt NSNN mang một diện mạo, sắc thái mới nền tài chính quốc gia trở nên mạnh hơn đảm bảo chức năng, nhiệm vụ được uỷ quyền từ ngân sách Trung ương. 1.2.2 Vai trò của Ngân sách huyện Ngân sách huyện là một bộ phận hữu cơ của ngân sách địa phương. Là phương tiện vật chất để chính quyền các cấp huyện thực hiẹn các chức năng. nhiệm vụ theo luật định. Sự phân cấp về quản lý NSNN ở nước ta diễn ra trên phạm vi rộng lớn với cơ sở vững chắc là Nghị quyết số: 138/HĐBT ngày 19/11/1983 của Hội đồng Bộ Trưởng có hiệu lực thi hành. Kể từ đó đến năm 2003, hệ thống ngân sách Nhà nước được thiết lập gồm 4 cấp: Ngân sách TW, Ngân sách tỉnh, Ngân sách huyện, Ngân sách xã. Bắt đầu từ năm 2004, khi luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi bổ sung được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 2 khoá XI ( từ 12/11-16/12/2002 ) có hiệu lực thi hành.Trong hệ thông nguồn Ngân sách Nhà nước có nguồn ngân sách TW và ngân sách địa phương, ngân sách địa phương bao gồm ngân sách ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có HĐND và UBND. Như vậy thì ngân sách cấp huyện là một ngân sách địa phương. Trải qua chặng đường hình thành và phát triển, cùng với sự vận động, biến đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội, đã làm thay đổi của ngân sách cấp huyện cả về lượng và chất mà một thực tế không thể phủ nhận được. Vị trí, vai trò của Ngân sách huyện được thể hiện rõ trong Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 2 khoá XI. Ngân huyện là một cấp ngân sách quan trọng, đóng vai trò là cầu nối giữa các đơn vị cơ sở với các cơ quan quản lý cấp trên. Mọi chủ chương, chính sách của Nhà nước, hiệu lực quản lý Nhà nước đều có sự tham gia của cấp ngân sách này, giúp cho công tác quản lý điều hành đạt hiệu quả tốt hơn. Đồng thời cũng phản ánh chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, chế độ đó khi triển khai thực hiện tại cơ sở. Trong thời gian qua cùng với sự thay đổi của đât nước, sự năng động của Chính quyền các câp cơ sở, giúp kinh tế nhiều địa phương vươn lên mạnh mẽ có sự giúp đỡ không nhỏ của ngân sách cấp huyện, nguồn thu không ngừng tăng lên, các khoản chi được quản lý ngày một chặt chẽ càng khẳng định vai trò của ngân sách huyện. Ngân sách cấp huyện là một cấp chính quyền cơ sở cũng tổ chức cho mình một bộ máy quản lý với hệ thống các cơ quan, đoàn thể, hành chính nhằm tổ chức thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa rằng để cho các cơ quan, đoàn thể, tổ chức đó hoạt động được thì cần phải có một quỹ tài chính tập trung, đó chính là Ngân sách huyện. Mặc dù không thực hiện các nhiệm vụ quan trọng và các mục tiêu chiến lược như ngân sách Trung ương nhưng Ngân sách huyện cũng tạo cho mình một vị trí nhất định, nhằm chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước tại ở địa phương tuỳ theo địa giới hành chính, tình hình kinh tế xã hội của từng huyện mà nhu cầu đảm bảo này sẽ khác nhau. Trong thời gian qua, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế và thay đổi của đất nước, sự năng động của Chính quyền các cấp cơ sở đã giúp cho kinh tế nhiều địa phương phát triển mạnh mẽ, đó chính là đóng góp không nhỏ của ngân sách huyện, nguồn thu không ngừng tăng lên, các khoản chi được quản lý ngày một chặt chẽ, điều này khẳng định vai trò của ngân sách huyện. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vai trò ngân sách huyện cũng có vai trò hết sức quan trọng ngoài việc tăng cường nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước, ngân sách huyện còn phải hướng cho các mục tiêu phát triển kinh tế, cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển đúng đắn, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả những tiềm năng thế mạnh của địa phương, giải quyết các nhu cầu cấp thiết về vấn đề phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, phát triển cơ sở hạ tầng. Đặc biệt là vấn đề xoá đói giảm nghèo tại các huyện vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới của tổ quốc, đảm bảo sự công bằng giữa các vùng miền, giữ vững quốc phòng, an ninh xã hội, tạo ra một xã hội công bằng dân chủ văn minh,để sánh vai với các cường quốc năm châu. Có thể nói công tác triển khai thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước, ngân sách huyện ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí của mình nhằm thúc đẩy nền kinh tế - xã hội địa phương tạo bước phát triển đáng kể góp phần thay đổi diện mạo về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương, tạo đà cho đất nước vững bước trong thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến tới công bằng dân chủ văn minh. 1.2.3 Nhiệm vụ của ngân sách huyện Là một cấp Ngân sách địa phương, ngân sách huyện các nội dung thu và nhiệm vụ chi cụ thể gắn với việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của cấp: 1.2.3.1 Về chi ngân sách Chi Ngân sách luôn gắn liền với các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong từng thời kỳ. Đặc điểm này có thể nhìn ra từ vai trò của Ngân sách và bản chất Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước mang bản chất chính trị, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ổn định phát triển kinh tế, đảm bảo xã hội ổn định, phát triển. Do vậy nhiệm vụ chi ngân sách huyện bao gồm: a/ Chi thường xuyên - Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các sự nghiệp khác do địa phương quản lý: + Sự nghiệp kinh tế bao gồm; Sự nghiệp giao thông: Duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa cầu, đường và các công trình giao thông khác; lập biểu báo và các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến đường. Sự nghiệp nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp: Duy tu, bảo dưỡng các tuyến kênh mương, các công trình thuỷ lợi, các trạm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; công tác khuyến nông, khuyến ngư; chi chăn nuôi, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Sự nghiệp kiến thiết thị chính: Đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính và các sự nghiệp thị chính khác. Sự nghiệp kinh tế khác gồm: Các hoạt động sự nghiệp về môi trường, phục vụ công cộng . . . + Sự nghiệp Giáo dục bao gồm: Nhà trẻ mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, Phổ thông trung học, bổ túc văn hoá, giáo dục thường xuyên và các hoạt động khác. + Sự nghiệp y tế bao gồm hoạt động trung tâm y tế quận huyện, các trạm xá xã, thị trấn. + Công tác đảm bảo xã hội, cứu tế xã hội, cứu đói, phòng chống các tệ nạn xã hội, thiên tai hoả hoạn và các hoạt động xã hội khác. + Về văn hoá thông tin; tuyên truyền cổ động, văn hoá văn nghệ quần chúng, xây dựng bản làng văn hoá và các hoạt động văn hoá xã hội khác. + Thể dục thể thao Bồi dưỡng, huấn luyện các vận động viên các đội tuyển cấp huyện; các giải thi đấu cấp huyện; quản lý các cơ sở thi đấu thể dục, thể thao và các hoạt động thể dục thể thao khác. + Các sự nghiệp khác do địa phương khác quản lý. - Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội do ngân sách huyện đảm bảo theo quy định của chính phủ và các văn bản hướng dẫn thực hiện. - Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương. - Hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở huyện theo quy định pháp luật. - Thực hiện chính sách xã hội với các đối tượng do huyện quản lý. - Chương trình quốc gia do chính phủ giao cho địa phương quản lý . - Trợ giá theo chính sách Nhà nước. - Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. b/ Chi đầu tư phát triển: - Đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do địa phương quản lý. - Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu quốc gia do các địa phương thực hiện. - Chi đầu tư để lại theo Nghị quyết Quốc hội. - Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật. 1.2.3.2 Về thu ngân sách Nguồn thu Ngân sách cấp huyện bao gồm: a/ Các nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng 100%: + Thuế Nhà đất. + Thuế môn bài. + Thuế chuyển quyền sử dụng đất. + Thuế sử dụng đất nông nghiệp. + Tiền sử dụng đất. + Tiền cho thuê hoặc bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước. + Lệ phí trước bạ. + Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết. + Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ quỹ đóng góp của địa phương. + Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân nước ngoài trực tiếp cho địa phương. + Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách Nhà nước của địa phương theo quy định của pháp luật. + Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác. + Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. + Đóng góp của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài nước theo luật định. + Thu kết dư ngân sách địa phương. + Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. b/ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ %: + Thuế giá trị gia tăng (Không kể hàng hoá nhập khẩu) loại thuế này chủ yếu đánh vào các doanh nghiệp, hộ gia đình kinh doanh cá thể, chiếm trên 50% tổng thu của ngân sách trên toan huyện. + Thuế thu nhập doanh nghiệp. 1.2.4 Nội dung quản lý Ngân sách Huyện. Quản lý Ngân sách huyện là quá trình quản._. lý hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân bổ và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp huyện; quản lý các khoản thu, chi của huyện đã dự toán bởi Uỷ ban Nhân dân huyện giao và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cấp trên giao và Hội đồng nhân dân huyện đề ra. - Lập dự toán Ngân sách huyện. - Chấp hành Ngân sách huyện. - Kế toán và quyết toán Ngân sách huyện. 1.2.4.1 Lập đự toán Ngân sách huyện Hàng năm căn cứ vào quyết định của chính phủ thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính về việc lập dự toán ngân sách, để đáp ứng nhu cầu thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương, hướng dẫn UBND tỉnh về lập dự toán ngân sách của địa phương, chính quyền huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là chính quyền huyện)tổ chức lập dự toán ngân sách của mình. Để quản lý chi ngân sách được tốt trong khâu lập dự toán thi dự toán chi phải được chú ý đăc biệt chú ý. - Căn cứ lập dự toán: + Đối với chi thường xuyên, với việc lập dự toán phải tuân theo các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định trong đó. Dựa trên cơ sở những quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, phân cấp quản lý Ngân sách. + Đối với chi đầu tư phát triển, việc lập dự toán phải căn cứ vào các dự án phù hợp với quy hoạch được duyệt, những dự án có đủ điều kiện bố trí vốn theo quy định của quy chế quản lý vốn đầu tư xây dựng và phù hợp với khả năng bố trí ngân sách hàng năm, kế hoạch tài chính 5 năm; đồng thời ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. + Đối với các đơn vị sử dụng ngân sách, phải lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, gửi cơ quan cấp trên trực tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (thường không phải là đơn vị dự toán cấp I) xem xét, tổng hợp do đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I. + Đối với các cơ quan hành chính thực hiện chế độ khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính và các đơn vị sự nghiệp có thu, việc lập dự toán thực hiện theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. + Đối với chi trả nợ, đảm bảo bố trí trả đủ các khoản nợ đến hạn (kể cả gốc và lãi) theo đúng nghĩa vụ trả. + Đối với vay bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, việc lập dự toán phải căn cứ vào cân đối ngân sách, khả năng từng nguồn vay, khả năng trả nợ và mức bội chi ngân sách theo quy định của cấp có thẩm quyền. Sau khi Hội đồng Nhân dân huyện ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách, các đơn vị, tổ chức tiến hành lập dự toán chi của đơn vị mình. Việc lập dự toán thu chi, ngân sách phải căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao, căn cứ vào các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền ban hành. - Thời hạn lập dự toán: Các đơn vị dự toán và các tổ chức được NSNN trợ cấp có trách nhiệm lập dự toán ngân sách của đơn vị mình theo mục lục NSNN và biểu mẫu do Nhà nước quy định gửi cho Phòng Tài Chính - Kế hoạch huyện: Phòng Tài Chính - Kế hoạch có trách nhiệm tổng hợp dự toán các dơn vị trên toàn huyện trình UBND huyện. Khoảng 15/7, UBND huyện tổ chức đánh giá thực hiện 9 tháng, ước cả năm để làm cơ sở lập dự toán năm sau. Sau khi được quyết định nhiệm vụ thu, chi của UBND tỉnh, UBND huyện trình HĐND quyết định dự toán thu, chi ngân sách và phương án phân bổ dự toán ngân sách huyện chậm nhất là 10 ngày kể từ HĐND tỉnh quyết định dự toán và phân bổ ngân sách. Sau khi dự toán được HĐND huyện phê chuẩn phương án phân bổ dự toán ngân sách huyện phải được giao và phân bổ cho các xã va các đơn vị dự toán trước ngày 31/12 năm trước. Chậm nhất 5 ngay từ khi HĐND huyện quyết định dự toán ngân sách điều chỉnh, UBND huyện có trách nhiêm báo cáo UBND tỉnh và Sở tài Chính. Trường hợp ngân sách huyện chưa được HĐND huyện quyết định, UBNDhuyện lập lại dự toán ngân sách trình HĐND quyết định châm nhất không qua 20/11 năm sau. 1.2.4.2 Chấp hành Ngân sách huyện Căn cứ dự toán ngân sách cả năm đã được HĐND huyện quyết định,UBND huyện tiến hành giao dự toán ngân sách cho các đơn vị. Sau khi phương án phân bổ ngân sách được Phòng Tài Chính - Kế hoạch huyện thống nhất, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách quyết định giao dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; đồng thời gửi Phòng Tài Chính - Kế hoạch, KBNN để phối hợp thực hiện. Dự toán chi thường xuyên giao cho đơn vị sử dụng ngân sách được phân bổ theo tưng loại của mục lục NSNN theo các nhóm: - Chi mua sắm, sửa chữa. - Chi nghiệp vụ chuyên môn. - Chi thanh toán cá nhân. - Chi các khoản khác. Đối với các nhiệm vụ chi cho các chuương trình mục tiêu quốc gia; chi mua sắm, sửa chữa lớn, chi sự nghiệp kinh tế, dự toán năm cho các đơn vị sử dụng còn được phân theo tiến độ của tưng quý. Dự toán chi đầu tư XDCB được phân bổ theo chi tiết theo từng loại và các mục của mục luc NSNN phân theo tiến độ của từng quý. Khi phân bổ dự toán ngân sách được giao, cơ quan, đơn vị phân bổ dự toán chi đảm bảo bố trí đủ vốn, kinh phí cho các dự toán, nhiệm vụ đã được chi ứng truớc dự toán đồng thời phải phân bổ hết dự toán được giao. Theo luật NSNN năm 2002, nguyên tắc chi trả, thanh toán các khoản chi của NSNN là: Phải căn cứ vào dự toán NSNN được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi theo đúng tiến đô, theo chỉ tiêu, theo định mức. Phòng Tài Chính - Kế hoạch KBNN huyên thực hiên chi trả thanh toán các khoản chi NSNN theo nguyên tắc thanh toán trực tiếp từ kho bạc cho người hưởng lương, người cung cấp hàng hoá, người nhận thầu. Việc chi trả thanh toán đối với một số khoản chi NSNN được áp dụng theo mô hình khác như: Lệnh chi tiền, kinh phí uỷ quyền, chi bằng hiện vật... - Chi trả, thanh toán bằng hình thức lệnh chi tiền. Các hình thức được chi trả thanh toán theo hình thức lệnh chi tiền bao gồm: Chi cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội không có quan hệ thường xuyên với ngân sách, chi trả nợ, viện trợ, chi bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới và một số khoản chi khác. Căn cứ vào luật NSNN được giao và yêu cầu nhiệm vụ chi, cơ quan tai chính xem xét và kiêm tra tưng yêu cầu, nêu đủ chi thì lệnh chi sẽ được thanh toán lệnh chi trả cho các tổ chức, cá nhân hương theo ngân sách hưởng theo ngân sách. KBNN thực hiện xuất quỹ ngân sách, chuyển khoản hoặc cấp tiền mặt cho các tổ chức cá nhân được hưởng ngân sách. Trong quá trình chấp hành ngân sách, khi phát sinh công việc đột xuất như: Khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và các nhiệm vụ chi cấp thiết chưa được bố trí hoặc bố trí chưa đủ trong dự toán được giao mà sau khi sắp xếp các khoản chi, đơn vị chưa đáp ứng được nhu cầu cần báo cáo phòng Tài chính - Kế hoạch và UBNN huyện xem xét và xử lý. - Chi trả, thanh toán theo dự toán từ KBNN huyện. Đối tượng chi trả, thanh toán từ KBNN huyện gồm các khoản chi thường xuyên trong dự toán được giao của các cơ quan, đơn vị sau: + Cơ quan hành chính nhà nước. + Các đơn vị sự nghiệp. + Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp thường xuyên được NSNN hỗ trợ kinh phí. + Các công ty nhà nước được hỗ trợ thực hiện một số nhiệm vụ thường xuyên theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào nhu cầu chi quý đã gửi kho bạc huyện và theo yêu cầu nhiệm vụ chi, thủ trưởng đơn vị lập ngân sách lập giấy rút dự toán ngân sách kèm theo hồ sơ dự toán gửi kho bạc huyện. KBNN huyện sẽ kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ thanh toán, các điều kiện chi và giấy rút dự toán nếu đầy đủ thì thực hiện thanh toán, chưa đầy đủ các điều kiện thủ tục ở các khoản thì sẽ được phép cấp tạm ứng đối với một số khoản chi nhất định. Sau khi hoàn thành công việc và có đầy đủ chứng từ thanh toán thì chuyển tạm ứng sang thực chi. Quá trình thực hiện khâu chấp hành dự toán ngân sách huyện cần có sự giám sát của nhân dân, HĐNN huyện, các cơ quan tài chính cấp trên, nhất là sở Tài chính tỉnh thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn công tác quản lý tài chính. 1.2.4.3 Quyết toán Ngân sách Hết kỳ kế toán các đơn vị dự toán và ngân sách cấp huyện phải thực hiện công tác khoá sổ kế toán. Đối với các đơn vị dự toán phải theo dõi chặt chẽ dụ toán còn lại chưa chi, số dư tài khoản tiền gửi của đơn vị tại KBNN và tồn quỹ tiền mặt tại đơn vị để chủ động chi tiêu trong đơn vị cuối năm. Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện có trách nhiệm chỉ đạo công tác kế toán, lập quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện; tổng hợp, lập báo cáo thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện và quyết toán thu, chi ngân sách của huyện bao gồm quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện và quyết toán thu chi ngân sách cấp xã trình Uỷ ban nhân dân huyện xem xét, gửi Sở Tài chính tỉnh, đồng thời trình Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn. Trong trường hợp báo cáo quyết toán năm của huyện do Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do Uỷ ban nhân dân huyện đã gửi Sở Tài chính thì Uỷ ban nhân dân huyện báo cáo bổ sung, gửi Sở Tài chính. Sau khi Hội đồng nhân dân phê chuẩn, trong thời gian 5 ngày, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện gửi báo cáo quyết toán đến các cơ quan sau: - 01 bản gửi Hội đồng Nhân dân huyện. - 01 bản gửi Uỷ ban Nhân dân huyện. - 01 bản gửi Sở Tài chính. - 01 bản lưu tại Phòng Tài chính - KH huyện. Đồng thời, gửi Kho bạc Nhà nước huyện Nghị quyết phê chuẩn quyết toán của Hội đồng huyện. Tất cả các đơn vị dự toán và ngân sách huyện phải thực hiện nghiêm túc về công tác kế toán và quyết toán, phải lập quyết toán ngân sách đúng biểu mẫu và thời hạn qui định nếu đơn vị nộp chậm ngoài việc sử phạt hành chính trong lĩnh vực kế toán, thống kê theo quy đinh, cơ quan tài chính tạm đình chỉ cấp kinh phí cho đến khi đơn vị nộp báo cáo quyết toán năm, trừ một số khoản chi cấp thiết như: Lương và các khoản phụ cấp theo lương, trợ cấp, học bổng học sinh sinh viên. 1.2.5 Hoàn thiện công tác Quản lý Ngân sách cấp huyện Hoàn thiện là một khái niệm rộng bao gồm cả hoàn thiện thu và hoàn thiện chi để biét đươc trong năm quyết toán được Ngân sách là bao nhiêu, để lập bảng cân đối kế toán sau đó lập bảng quyết toán Ngân sách để trình lên cấp cao phê duyệt. Dung bảng quyết toán Ngân sách để đánh giá xem thu NS và chi NS có phù hợp với kế hoạch không. Từ đó so sánh thu, chi của năm đang thực hiện với năm cơ sở để đưa ra các phương hướng cũng như các biện pháp trong năm tới hoàn thiện với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, làm cho đất nước thêm phồn vinh hạnh phúc, đời sống của nhân dân tăng lên. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thu chi ngân sách cấp huyện 1.3.1 Nhân tố chủ quan Công việc quản lý tài chính chưa được coi trọng là một nghề, thay vào đó, lãnh đạo một số cơ quan, chính quyền địa phương lại coi là một công cụ thuần tuý, ai làm cũng được, vì vậy sự ổn định vị trí cho những người làm công tác quản lý tài chính chưa được quan tâm đúng mức, họ thường thay đổi sau mỗi kỳ bầu cử đại biểu HĐND. Chính vì vậy, những tích luỹ kinh nghiệm mà thời gian công tác không được sử dụng trong những năm tiếp theo. Do đó việc quản lý ngân sách huyện nói chung và quản lý chi ngân sách ở huyện nói riêng cũng gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách về quản lý tài chính ở các cấp, ngành, địa phương chưa được tăng cường đúng mức về chất lượng và số lượng theo yêu cầu công việc. Điều này gây khó khăn trong tổ chức kế toán, giám sát, kiểm tra và tổng hợp, phân tích đánh giá về chi ngân sách Nhà nước ở huyện đến chất lượng quản lý công tác chi ngân sách Nhà nước. Một bộ phận trong cán bộ và nhân dân ở cơ sở chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ công khai ở cơ sở mà trước hết là quy chế công khai tài chính nên chưa tích cực giám sát quá trình thực hiện quy chế này trong công tác quản lý tài chính xã. 1.3.2.Nhân tố khách quan Phần lớn, xuất phát điểm kinh tế ở các huyện còn thấp, sản xuất chủ yếu là nông nghiệp thuần nông, số hộ đói nghèo và tỷ lệ hộ nghèo còn cao, trình độ dân trí thấp, khó khăn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển kinh doanh cho thu ngân sách. Thu ngân sách trên đại bàn huyện mặc dù tăng qua các năm nhưng việc nuôi dưỡng nguồn thu chưa được mở rộng, mới chỉ dừng lại ở một số khoản nhất định. Một nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thu chi ngân sáchlà tình trạng lạm phát xảy ra trên cả nước vào cuối 2005, đầu năm 2008 dẫn đến các mặt hàng phục vụ trực tiếp cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân tăng đột biến, gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp cũng như người tiêu dung trên địa bàn huyện đã làm giảm nguồn thu cho ngân sách huyện. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu. 2.1 Tổng quan về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy quản lý ngân sách huyện Than Uyên 2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện Than Uyên Than Uyên, là một huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Lai Châu, huyện cách trung tâm tỉnh lỵ trên 90 km. Phía đông Đông Bắc giáp huyện Sa Pa và huyện Văn Bàn của tỉnh Lào Cai, phía Đông Nam giáp với huyện Quỳnh Nhai của tỉnh Sơn La, phía Đông giáp với huyện Mù Cang Chải của tỉnh Yên Bái; phía Tây Bắc giáp huyện Tam Đường và Sìn Hồ tỉnh Lai Châu. Tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện 169.095,731 ha, trong đó: đất nông nghiệp chiếm 22,33%; đất lâm nghiệp chiếm 18,7%; đất bố trí dân cư chiếm: 0,95%; đất khác chưa sử dụng chiếm 58,02% diện tích (phần lớn là đất đồi núi đá, sông, suối...). Than Uyên có hai tuyến Giao thông trọng yếu là hai quốc lộ chạy qua, quốc lộ 32 và quốc lộ 279; quốc lộ 32 được nối liền từ huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai chạy qua xã Bình Lư huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu và qua địa phận các xã của huyện Than Uyên 75 km là (xã Mường Khoa, trị trấn Nông Trường, xã Thân Thuộc, xã Pắc Ta, Mường Than, thị trấn huyện Than Uyên, xã Nà Cang, xã Mường Kim) sang huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái. Quốc lộ 279 được nối liền từ huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai chạy qua địa phận của huyện Than Uyên là các xã; (xã Mường Than, thị Than Uyên, xã Nà Cang, Tà Hừa) dài trên 40 km sang huyện Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La. Than Uyên có hệ thống sông suối dày đặc bắt nguồn từ những cánh rừng già nguyên sinh. Đặc biệt có con sông Nậm Mu được nối liền từ huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu chảy qua các địa phận của huyện Than Uyên gồm các xã: xã Mường Khoa, xã Nậm Cần, xã Tà Mít, xã Pha Mu, xã Tà Hừa, xã Nà Cang, xã Mường Kim, xã Ta Gia, xã Khoen On, chiều dài gần 200 km xuyên sang huyện Mường La tỉnh Sơn La, Với hệ thống sông suối như vậy Than Uyên có một tiềm năng phát triển kinh tế về thuỷ điện nhỏ và nuôi trồng thuỷ sản là rất lớn. Về tài nguyên, khoáng sản huyện Than Uyên còn có mỏ Than nằm ở địa phận tiếp giáp giữa xã Mường Than và xã Mường Mít. Qua thăm dò ban đầu cho thấy đây là mỏ than có trữ lượng tương đối lớn, hiện nay tỉnh và huyện đang mở đường vào để tổ chức khai thác. Huyện Than Uyên có tổng số dân là 94.750 người gồm 10 dân tộc anh em cùng chung sống là; Dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Dao, dân tộc Lự, dân tộc Giáy, dân tộc Khơ Mú, dân tộc Cao Lan, dân tộc Mường. Trong đó dân tộc Thái chiếm đa số tới 70%. Bố trí ở 17 xã và 2 thị trấn là xã Mường Khoa, xã Nậm Cần, xã Tà Mít, xã Pha Mu, xã Tà Hừa, xã Nà Cang, xã Mường Kim, xã Ta Gia, xã Khoen On, thị trấn Than Uyên, thị trấn Nông Trường, xã Nậm Cần, xã Nậm Sỏ, xã Hố Mít, xã Pắc Ta, xã Mường Mít, xã Mường Than, với sự đa dạng về dân tộc do vậy sự đa dạng về bản sắc văn hoá dân tộc của huyện Than Uyên cũng là một tiềm năng để phát triển về du lịch văn hoá. Với điều kiện tự nhiên và xã hội như đã đề cập, thực hiện Nghị quyết số: 22/2003/QH11 của Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 từ ngày 21/10 đến ngày 26/11/2003, về việc chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính tách huyện Than Uyên từ tỉnh Lào Cai về tỉnh Lai Châu quản lý. Huyện Than Uyên được chính thức bàn giao về Lai Châu từ ngày 11/01/2004, huyện được tỉnh Lai Châu đánh giá là huyện có nhiều tiềm năng và thế mạnh nhất trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, sau khi được tỉnh Lai Châu quản lý cũng còn gặp không ít những khó khăn nhất định, đặc biệt là do cơ chế chính sách có nhiều điểm chưa đồng nhất, công tác tổ chức cán bộ trong hệ thống chính trị phải thực hiện điều chuyển, luân chuyển, gây ảnh hưởng không ít tới tư tưởng, tâm lý của đội ngũ cán bộ trong toàn huyện. Song với sự quyết tâm của toàn Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Than Uyên đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tiếp cận và bắt nhịp nhanh các cơ chế, chính sách của tỉnh Lai Châu. Huyện Than Uyên cũng như các địa phương khác trên cả nước nói chung, và tỉnh Lai Châu nói riêng, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã đầu tư các Chương trình, dự án cho đồng bào các dân tộc đặc biệt khó khăn sớm thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu như: Chương trình 135, Chương trình WB, chương trình 186, các chương trình mục tiêu quốc gia. Thực hiện Nghị quyết số 05 của Tỉnh uỷ Lai Châu, đã tạo đà thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển qua 5 năm. Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện khoá XIV nhiệm kỳ 2000 - 2005, thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện khoá XV nhiệm kỳ 2006 – 2010 Đảng bộ huyện Than Uyên luôn đoàn kết, thống nhất, tập trung trí tuệ, phát huy nội lực, khơi dậy mọi tiềm năng thế mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương liên tục tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng GDP hàng năm đều đạt trên 10%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến tích cực; tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp giảm dần; các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ ngày càng tăng. 2.1.2 Khái quát tổ chức bộ máy Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên chịu sự quản lý của Uỷ ban nhân dân huyện Than Uyên và sự quản lý về chuyên môn của Sở tài chính tỉnh Lai Châu, là cơ quan chuyên môn, tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân huyện quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tài chính ngân sách, giúp Uỷ ban nhân dân huyện xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh hằng năm, 5 năm, 10 năm. . . Hiện nay Phòng có 13 cán bộ, trong đó có 12 biên chế chính thức, 1 cán bộ hợp đồng được bố trí theo các bộ phận sau: TRƯỞNG PHÒNG Phó Trưởng Phòng Phó Trưởng Phòng Bộ phận ngân sách xã Bộ phận hành chính đơn vị Bộ phận XDCB GP MB Bộ phận ngân sách huyện Bộ phận kế hoạch kinh tế xã hội Sơ đồ bộ máy tổ chức Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên ngoài chức năng tổng hợp xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương còn có chức năng chủ yếu sau: Trình Uỷ ban nhân dân huyện ban hành các văn bản triển khai thực hiện các chính sách, chế độ và pháp luật về lĩnh vực tài chính ngân sách; hướng dẫn các cơ quan, đơn vị dự toán ngân sách thuộc địa phương, Uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn. lập phương án phân bổ ngân sách báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện, xây dựng dự toán ngân sách hàng năm. Trong quá trình thực hiện, bên cạnh những mặt thuận lợi, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên còn gặp không ít những khó khăn, nguyên nhân chính vì huyện Than Uyên là một trong những huyện thuộc tỉnh Lai Châu, tỉnh nghèo nhất quốc gia, sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, phương thức sản xuất còn lạc hậu, mang đậm nét sản xuất truyền thống của các đồng bào dân tộc, việc chính quyền cố gắng đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Từ những đặc thù của một huyện vùng sâu vùng xa dân đến nguồn thu ngân sách trên địa bàn còn rất hạn hẹp, thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của địa phương đạt ở mức độ thấp do hàng hoá của huyện sản xuất ra chủ yếu là tự cung, tự cấp 2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân sách huyện Than Uyên Sở Tài chính Lai Châu và sự phối hợp cộng tác của các phòng ban, đơn vị có liên quan, các cán bộ Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên phát huy ngày càng tốt công tác quản lý ngân sách Nhà nước nói chung và công tác quản lý ngân sách huyện nói riêng; kịp thời điều chỉnh, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, sai sót giúp cho các xã, các đơn vị dự toán của huyện làm tốt công tác lập, chấp hành và quyết toán ngân sách theo đúng quy định của luật ngân sách Nhà nước, phù hợp với điều kiện của địa phương. 2.2.1 Lập dự toán chi ngân sách huyện Để việc chấp hành và quyết toán ngân sách huyện được thực hiện theo đúng quy định của Luật NSNN và các văn bản, thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính, hầu hết các tổ chức thụ hưởng ngân sách và các đơn vị dự toán của huyện Than Uyên đã ý thức được tầm quan trọng của công tác lập dự toán ngân sách hàng năm, trong đó đặc biệt là dự toán chi, vì huyện Than Uyên vẫn còn là huyện chưa tự cân đối được ngân sách, chủ yếu nhận trợ cấp bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên. Từ năm 2002 thực hiện Luật NSNN mới, huyện đã thực hiện việc cụ thể giao dự toán đến tận các đơn vị cơ sở đã làm tăng số đơn vị dự to án. Cụ thể, toàn huyện có 17 xã, 2 thị trấn, 25 đơn vị dự toán, là các cơ quan hành chính sự nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên, trong đó có 18 trường tiểu học, 23 trường THCS. Do vậy, công tác lập dự toán nói chung và việc quản lý chi ngân sách trong khâu lập dự toán nói riêng gặp không ít khó khăn. Ban đầu, việc dự toán chi ngân sách năm chi tiết, đầy đủ theo mục lục NSNN đối với các tổ chức và các đơn vị dự toán (đặc biệt là các đơn vị mới) đã không khỏi lúng túng khi xây dựng dự toán chi. Nhưng đến nay công tác lập dự toán của các tổ chức và các đơn vị dự toán trên địa bàn huyện cơ bản đã tiến hành tốt, cùng với sự hướng dẫn chỉ đạo của các cơ quan Tài chính cấp trên và sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ làm công tác tài chính ở các đơn vị đã từng bước lập dự toán một cách khoa học và hợp lý. Trên cơ sở đó, việc lập dự toán chi ngân sách huyện thuận lợi hơn. Hàng năm, căn cứ quyết định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc lập dự toán ngân sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, địa phương; hướng dẫn của UBND tỉnh về lập dự toán ngân sách, định mức phân bổ chi ngân sách địa phương do UBND tỉnh quy định, HĐND huyện quyết định định mức phân bổ chi ngân sách cho các cơ quan đơn vị trực thuộc huyện và cấp dưới, các tổ chức thụ hưởng ngân sách và các đơn vị dự toán có trách nhiệm lập dự toán theo mục lục NSNN và biểu mẫu do Bộ tài chính quy định, báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện và gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện vào khoảng 20 tháng 7 hàng năm. Để quản lý chi ngân sách huyện được tốt thì công tác lập dự toán chi tại các tổ chức được ngân sách hỗ trợ và các đơn vị dự toán phải được quan tâm đúng mức. Ở các đơn vị này, việc chi tiêu thường khá phức tạp, vì vậy các đơn vị lập dự toán thường là xây dựng trên cơ sở bám sát thực tế, đảm bảo hợp lý, tiết kiệm và có sự ưu tiên cho chi sự nghiệp giáo dục – đào tạo, chi cho khoa học công nghệ môi trường, chi cải tạo giống cây, con; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chi cho công tác xóa đói giảm nghèo… triệt để tiết kiệm chi hành chính, hạn chế mua sắm, sửa chữa trang thiết bị khi chưa cần thiết. Hiện nay, tại các đơn vị dự toán huyện, trong khâu lập dự toán đều đề ra khoản tiết kiệm 10% chi thường xuyên ( không kể lương và các khoản có tính chất lương) để làm nguồn tăng lương. Ngoài ra, còn đề ra khoản tiết kiệm 3% chi thường xuyên (không kể lương và các khoản có tính chất lương) nhằm tạo nguồn để đổi mới trang thiết bị. Đây là một chủ trương đúng đắn và đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn, bởi trong tổng chi ngân sách huyện thì chi thường xuyên luôn là khoản chi lớn nhất chiếm khoảng 70%. Để thực hiện việc tiết kiệm 13% chi thường xuyên ( không kể lương và các khoản có tính chất lương), tức là giảm các khoản chi khác như: chi quản lý(chi vật tư văn phòng, hội nghị, tiền thưởng, chi khác ngân sách…) đòi hỏi các đơn vị phải thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tuy nhiên, một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN đó là việc triển khai thực hiện Nghị định số: 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước và Thông tư số: 03/2006/TTLT-BTC-BNV, ngày 17/01/2006 của Liên Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP của Chính phủ. Huyện Than Uyên đã chủ động xây dựng và giao dự toán ngân sách Nhà nước năm 2005, tổ chức thực hiện theo nội dung hướng dẫn của Thông tư số 03, giúp cho các đơn vị dự toán thực hiện chế độ tự chủ tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước. Đây là một trong những công việc ưu tiên thực hiện ngay, bới có gắn quyền lợi và trách nhiệm với nhau thì chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí mới có thể thực hiện có hiệu quả. Do địa phương quản lý rộng, thêm vào đó trình độ cán bộ kế toán ngân sách xã và cán bộ kế toán tại các đơn vị dự toán không đồng đều, có nơi kiêm nhiệm, có nhiều cán bộ kế toán mới chỉ được bồi dưỡng kiến thức qua những đợt tập huấn ngắn ngày, một số cán bộ còn đang đi học các lớp trung cấp kế toán, đại học tại chức, một số đơn vị chưa lập được dự toán theo đúng mục lục NSNN và các văn bản hướng dẫn. Mặt khác, cũng từ vấn đề con người, vấn đề trình độ mà thời gian lập và gửi dự toán để xét duyệt của tổ chức và các đơn vị dự toán thường bị chậm so với thời gian giao dự toán cho các đơn vị, thậm chí có năm đến khoảng 15 tháng 01 năm ngân sách dự toán mới được giao, làm cho việc triển khai công việc những tháng đầu năm còn gặp khó khăn. Như vậy còn một số tổ chức, một số đơn vị dự toán của huyện chưa chú trọng tới công tác lập dự toán ngân sách của đơn vị mình mà chỉ làm hình thức, đối phó. Nhưng phần lớn các tổ chức, các đơn vị đều nhận thức được việc quản lý chi của đơn vị mình phải được tổ chức quản lý từ khâu lập dự toán trở đi. Bởi thông qua việc lập dự toán ngân sách của các đơn vị được tốt thì khâu chấp hành và quyết toán mới có thể thực hiện tốt, giúp cho các đơn vị thực hiện thu đúng, thu đủ, đúng chế độ, nhiệm vụ đã có trong dự toán. Đồng thời, góp phần giảm bớt việc chi sai chế độ, gây lãng phí tiền của Nhà nước. Việc quản lý chi ngân sách trong khâu lập dự toán chặt chẽ ngay tại các đơn vị sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chi ngân sách huyện. 2.2.2 Chấp hành dự toán ngân sách huyện Hàng năm, huyện phải tổ chức chấp hành dự toán ngân sách huyện theo đúng quy định của các điều khoản về Luật NSNN và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính. Có thể nói việc chấp hành dự toán ngân sách huyện là việc tổ chức thực hiện theo đúng dự toán ngân sách huyện đã xây dựng. Trong đó việc tổ chức thu và thực hiện chi ngân sách huyện ở khâu chấp hành dự toán là việc vô cùng quan trọng. Để có thể chi đúng, chi đủ, kịp thời thì công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước ở huyện phải được coi trọng và quan tâm đúng mức. Chi đúng chính sách, chế độ, định mức, đúng dự toán đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị, phải có những biện pháp cụ thể trong việc kiểm tra, giám sát. Đồng thời để chi đủ, kịp thời thì nhất thiết phải thực hiện đúng theo dự toán đã được cấp có thẩm quyền duyệt, phải chủ động khai thác tối đa nguồn thu trên địa bàn và phân phối các nguồn thu đó sao cho hiệu quả và hợp lý. Quá trình thực hiện Luật NSNN nói chung và giai đoạn chuyển từ việc thực hiện Luật NSNN cũ sang Luật NSNN mới nói riêng, việc chấp hành dự toán ngân sách huyện đã gặp không ít khó khăn vướng mắc. Trong khâu lập dự toán, dự toán các xã và các đơn vị dự toán được chia ra quý, do đó trong khâu chấp hành dự toán, dự toán ngân sách huyện có chia ra quý và tiến hành thông báo đáp ứng nguồn kinh phí cho các xã và các đơn vị dự toán theo quý. Khái quát quá trình tổ chức quản lý chi ngân sách huyện trong khâu chấp hành dự toán ngân sách huyện trong 4 năm qua (2005 – 2008) như sau: Than Uyên là một huyện nông nghiệp, nguồn thu ngân sách trên địa bàn rất hạn hẹp, kinh phí đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chi của huyện chủ yếu là nguồn trợ cấp bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên. Được thể hiện qua bảng tổng hợp số liệu báo cáo quyết toán như sau: Bảng 2.1: Tổng hợp thu – chi ngân sách huyện Than Uyên qua 4 năm Đơn vị tính: Triệu đồng Nội dung Năm Thu Chi Dự toán TH TH/DT (%) Dự toán TH TH/DT (%) 2005 67.218,0 67.862,0 101 66.061,0 67.863,0 102,7 2006 83.520,0 84.660,0 101,4 83.526,0 84.762,0 101,5 2007 102.005,620 101.748,169 99,7 100.067,7 101.192,288 101,1 2008 132.276,881 159.852,148 120,8 133.838,0 153.169,283 114,4 So sánh(%) 2005/2006 124,2 124,8 126,4 124,9 So sánh(%) 2007/2008 129,6 157,1 133,7 151.4 Nguồn: Báo cáo quyết toán ngân sách huyện hàng năm Nếu so sánh giữa 2 năm thì tốc độ tăng chi luôn lớn hơn so với tốc độ tăng thu, tốc độ tăng thu cả dự toán và thực hiện đều tăng cao so với năm trước. Trong tổng chi ngân sách huyện, ngoài khoản chi cân đối cần một khoản chi khác cần quan tâm đó là khoản chi có nguồn từ sự đóng góp của nhân dân, từ tiền viện phí, học phí… do đó các khoản chi này có sự giám sát của nhân dân, sự lãng phí được hạn chế cao Về công tác thu Ngân sách Dựa trên điều kiện kinh tế xã hội kết hợp với nghị quyết của Huyện uỷ HĐND huyện về quản lý Ngân sách, UBND huyên Than Uyên đã tập trung chỉ đạo, điều hành mọi mạt công tác quản lý Ngân sách nhằm đảm đúng chính sách. Cơ cấu thu Ngân sách trên địa bàn huyện Than Uyên Bảng 2.2: Cơ cấu thu cân đối ngân sách huyện Than Uyên qua 4 năm Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 số tiền TT (%) số tiền TT(%) số tiền TT(%) số tiền TT(%) Tông thu 67.862 100 83.520 100 101.748,169 100 159.852,148 100 Tổng thu cân 66.087 99,7 83.520 100 101.493,889 97,5 116.472,362 99,75 Tổng thu không cân 1131 0,3 0 0 254,405 2,5 43379,786 0,25 Nguồn: Phòng tài chính - kế hoạch huyện Than Uyên * Năm 2005 Tổng thu Ngân sách là 67.862 triệu đồng trong đó - Thu không cân đối là 210,1 triệu đồng chiếm 0,3% - Thu cân đối là 67.651,9 triệu đồng đạt 99,7%, bao gồm các khoản thu : + Thu ngoài quốc doanh + Thu từ lệ phí trước bạ + Thuế nhà đất + Thu từ phí lệ phí + Thu từ tiền sử dụng đất + Thu khác ngâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21829.doc
Tài liệu liên quan