Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử

Lời nói đầu Trong thời đại hiện nay, xu hướng quốc tế hóa và hội nhập nền kinh tế quốc tế đang trở nên phổ biến đối với mọi quốc gia đặc biệt với nước ta khi chuẩn bị là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), thì vấn đề tự chủ trong sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp lại càng được coi trọng. Doanh nghiệp phải tự quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? để có thể cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Là một doanh nghiệp nhà nước, Công ty Quang đ

doc119 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện - Điện tử phải không ngừng hoàn thiện công tác quản lý doanh nghiệp của mình, trong đó chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu quan trọng mà Công ty quan tâm. Tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm là động lực chính của Công ty. Các nhà quản trị muốn đưa ra được quyết định đúng đắn về việc nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí hay điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh, thì các thông tin kế toán đưa ra phải thật sự sát thực. Điều đó đòi hỏi công việc hạch toán chi phí sản xuất cần phải chính xác, giá thành sản phẩm cần được tính đúng và tính đủ. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Chuyên đề gồm ba phần chính sau: Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. Phần 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử . Phần 3: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử. Phần 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động, đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. 1.1.1. Chi phí sản xuất 1.1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất Để tiến hành sản xuất thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải bỏ ra các chi phí. Đó là các chi phí liên quan đến sản xuất sản phẩm như: chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí tiền công, tiền lương cho công nhân sản xuất, … ngoài ra doanh nghiệp còn phải bỏ ra các chi phí ngoài sản xuất như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, vậy chi phí sản xuất là gì? Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến hoạt động sản xuất – kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Chi phí sản xuất bao gồm rất nhiều loại khác nhau như chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về nhân công, chi phí về khấu hao TSCĐ… Nói một cách tổng quát, chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản hao phí vật chất mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí sản xuất có các đặc điểm: vận động, thay đổi không ngừng; mang tính đa dạng và phức tạp gắn liền với tính đa dạng, phức tạp của ngành nghề sản xuất, quy trình sản xuất. Để phân biệt rõ hơn về chi phí sản xuất cần phân biệt chi phí và chi tiêu: Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của một kỳ hạch toán những hao phí về tài sản liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp ( mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh ( chi cho sản xuất, chế tạo phẩm…) và chi cho quá trình tiêu thụ ( chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo). Như vậy, chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau ( chi mua nguyên, vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu ( chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng. Tìm hiểu khái niệm về chi phí sản xuất trong kế toán một số nước trên thế giới cho thấy có sự khác nhau về khái niệm chi phí sản xuất so với kế toán Việt Nam Tại Mỹ: Chi phí sản xuất được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau trong những tình huống khác nhau. Thuật ngữ “ chi phí” thường được sử dụng gắn liền với các loại chi phí cụ thể cho các mục đích nhất định. Riêng đối với kế toán tài chính, thuật ngữ chi phí được sử dụng để phản ánh giá trị của các nguồn lực đã hao phí để có được các hàng hoá hoặc dịch vụ. Khoản chi phí này có thể là tiền mặt chi ra, tài sản chuyển nhượng hay dịch vụ hoàn thành… được đánh giá trên căn cứ tiền mặt. Tại Pháp: Chi phí là số tiền bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh nhằm sinh lợi cho doanh nghiệp. Các chi phí bao gồm: Chi phí nguyên, vật liệu, dự trữ sản xuất khác… Chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh: Chi phí tiền điện, nước, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí nhân viên… Không tính vào chi phí những số tiền bỏ ra như mua sắm TSCĐHH, mua chứng khoán… Nhưng được tính vào chi phí những khoản doanh nghiệp không phải trả: Chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dự phòng. Nhìn chung, khái niệm về chi phí sản xuất của Việt Nam và một số nước trên thế giới có điểm giống nhau, chi phí sản xuất đều được nhìn nhận là một khoản hao phí được biểu hiện trên thước đo tiền tệ. 1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất Trong doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất gồm nhiều loại khác nhau. Nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán chi phí cần phải phân loại chi phí. Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất thành từng loại, từng nhóm theo những tiêu thức khác nhau. Có thể phân loại chi phí sản xuất theo những tiêu thức cơ bản sau: Phân theo yếu tố chi phí Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia thành 7 yếu tố sau: Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ… sử dụng vào sản xuất kinh doanh ( loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực). Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất – kinh doanh trong kỳ ( trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Phản ánh số trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên tính vào chi phí. Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh. Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Gồm các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm Theo cách phân loại này chi phí sản xuất bao gồm ba khoản mục Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toán bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tièn lương phát sinh. Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất ( trừ chi phí vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp). Phân theo cách thức kết chuyển chi phí: Theo cách thưc kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua; còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm bớt lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được phân thành: Biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên liệu, nhân công trực tiếp…nhưng các chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định Định phí: Là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh, … Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi. Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí vừa mang tính chất định phí, vừa mang tính chất biến phí. ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức độ đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Để tách chi phí hỗn hợp thành biến phí và định phí có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Thông thường theo hai phương pháp: Phương pháp cực đại - cực tiểu, phương pháp bình quân nhỏ nhất. Cách phân loại này có tác dụng to lớn trong công tác quản trị kinh doanh, nó cho phép xác định được mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa chi phí, sản lượng và lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn và các quyết định quan trọng khác trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao hiệu quả của chi phí. Theo Thông tư số 89/2002/TT – BTC ban hành ngày 9/10/2002 hướng dẫn chi tiết việc thực hiện 04 chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ - BTC ban hành ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, chi phí sản xuất chung được phân loại theo mối quan hệ với sản lượng sản phẩm sản xuất ra. Chi phí sản xuất chung cố định: là chi phí sản xuất gián tiếp không thay đổi theo sản lượng sản phẩm sản xuất ra như chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, chi phí hành chính trong phân xưởng. Chi phí sản xuất chung biến đổi: là chi phí sản xuất gián tiếp thay đổi trực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo sản lượng sản phẩm sản xuất ra. Ví dụ chi phí dịch vụ mua ngoài. Mỗi cách phân loại trên xét cả về mặt lý luận và thực tiễn đều phục vụ cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí phát sinh ở các góc độ khác nhau. Do đó tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp, các nhà quản trị phải lựa chọn cách phân loại phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp. 1.1.2. Giá thành sản phẩm 1.1.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành sản phẩm đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. So sánh khái niệm giá thành của Việt Nam với khái niệm giá thành của một số nước trên thế giới: - Theo quan điểm của kế toán Pháp: Có hai khái niệm giá thành và giá phí Giá phí: Là khái niệm được sử dụng để xác định những hao phí vật chất mà doanh nghiệp phải đầu tư để thực hiện các giai đoạn khác nhau tron quá trình sản xuất: Giai đoạn cung cấp, giai đoạn sản xuất và giai đoạn tiêu thụ. Phù hợp với các giai đoạn như vây có các loại giá phí tương ứng. Giá phí tiếp liệu: Là giá trị nguyên vật liệu mua vào ghi trên hoá đơn của người cung cấp và các chi phí phát sinh trong qua trình thu mua. Giá phí sản xuất: Bao gồm giá phí nguyên vật liệu sử dụng và sản xuất và các chi phí khác dùng cho sản xuất như chi phí nhân công, nhiên liệu, khấu hao máy móc, nhà xưởng, … Các chi phí này được theo dõi theo yếu tố. Giá phí phân phối: Gồm các chi phí phục vụ cho việc tiêu thụ sản phẩm như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí quảng cáo, tiếp thị… Giá thành sản phẩm là khái niệm được sử dụng để xác định những hao phí vật chất được dùng cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp phải bù đắp bằng doanh thu bán hàng. Giá thành sản phẩm = Giá phí sản xuất + Giá phí phân phối - Theo quan điểm của kế toán Mỹ: Khái niệm giá thành được tiếp cận thông qua khái niệm giá phí: Giá phí của doanh nghiệp khi đi vào sản xuất kinh doanh là toàn bộ các khoản chi phí để tạo ra sản lượng sản phẩm đem ra tiêu thụ trên thị trường. Từ các quan điểm của các nước cho thấy: Khái niệm giá thành ở Pháp, Mỹ có một số điểm khác biệt so với khái niệm giá thành của kế toán Việt Nam. Giá thành sản xuất sản phẩm của kế toán Việt Nam chỉ tương đương với giá phí của kế toán Pháp, Mỹ. 1.1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm Để đáp ứng các yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau.Về lý luận cũng như trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội và giá thành cá biệt còn có các khái niệm giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ, giá thành kế hoạch, giá thành định mức, giá thành thực tế… Theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành chỉ tiêu giá thành được phân thành: Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. Giá thành định mức: cũng như giá thành kê hoạch, gia thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, gia thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch ( thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. Giá thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt ( hụt) định mức chi phí trong kỳ kế hoạch. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp. Theo phạm vi phát sinh chi phí Theo phạm vị phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ. Giá thành sản xuất ( còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Giá thành tiêu thụ ( còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ của sản phẩm = Giá thành sản xuất của sản phẩm + Chi phí quản lý doanh nghiệp + Chi phí bán hàng Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh ( lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. 1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định. Nói cách khác, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn – chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào đối tượng tính giá ( sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm lao vụ đã hoàn thành. Về thực chất, chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh ( kỳ này hay kỳ trước chuyển sang) và các chi phí tính trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ. Có thể khái quát mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và gía thành sản phẩm bằng sơ đồ sau đây: Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ B D A C Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD – CD Hay: Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành = Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Khi giá trị sản phẩm dở dang ( chi phí sản xuất sản phẩm dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau, hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí phát sinh trong kỳ. 1.2. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 1.2.1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 1.2.1.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên và quan trọng của tổ chức và hạch toán quá trình sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng… và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Để xác định đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thì cần phải căn cứ vào những đặc điểm sau: Căn cứ vào quy trình công nghệ sản xuất Căn cứ vào loại hình sản xuất Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí. 1.2.1.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí, kế toán lựa chọn phương pháp hạch toán ( tập hợp ) chi phí thích ứng. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất bao gồm các phương pháp hạch toán theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm, vv… Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ ( hoặc sổ ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chỉ thích ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của các phương pháp này là biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí. Để lựa chọn phương pháp xác định chi phí, các doanh nghiệp công nghiệp cần dựa vào tính chất sản xuât của mình. Có hai loại hình sản xuất chủ yếu: Sản xuất theo đơn đặt hàng Sản xuất hàng loạt Phương pháp hạch toán chi phí theo công việc Phương pháp xác định chi phí theo công việc được sử dụng ở các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng, sản phẩm được sản xuất theo yêu cầu của khách hàng. Đối tượng tập hợp chi phí là đơn đặt hàng Phương pháp xác định chi phi theo quá trình sản xuất Phương pháp này được ứng dụng trong các doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm, sản phẩm lần lượt đi qua nhiều giai đoạn sản xuất khác nhau, sản phẩm hoàn chỉnh của bước này là đối tượng chế biên của bước sau. Đối tượng tập hợp chi phí theo phương pháp này không phải từng lô sản phẩm cụ thể, mà là các công đoạn hoặc từng bộ phận sản xuất khác nhau của doanh nghiệp, thường là các phân xưởng sản xuất. ở đây, chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp thường được xuất dùng ở ngay phân xưởng sản xuất đầu tiên, còn các phân xưởng tiếp theo phải chi các chi phí để gia công chế biến sản phẩm hoàn thành của bước trước. Phương pháp liên hợp Phương pháp liên hợp là sự kết hợp của hai phương pháp trên. Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà công tác hạch toán chi phí sản xuất được thực hiện theo một trong hai phương pháp sau: Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên ( KKTX) và hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ ( KKĐK). 1.2.2. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… được xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt ( phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ… ) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm. Để theo dõi các khoản chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621 “ Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất ( phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng…). Nội dung phản ánh như sau: Bên Nợ: Tập hợp giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Bên Có: - Giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng không hết. - Kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp TK 621 cuối kỳ không có số dư TK 151, 152, 331, 111, 112, … TK 621 TK 152 TK 154 Vật liệu xuất dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm, tiến hành lao vụ, dich vụ Vật liệu không dùng hết nhập lại kho Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 1.2.3. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, đắt đỏ, độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ…). Ngoài ra chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với tiền lương phát sinh của công nhân sản xuất. Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 “ Chi phí nhân công trực tiếp”. Tài khoản này cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi phí giống như TK 622 “ Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp ở trên”. Bên Nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh. Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp sang tài khoản tinhs giá thành Tài khoản 622 không có số dư Cho nhân công trực tiếp Lương và phụ cấp phải trả của công nhân trực tiếp Các khoản trích theo lương lương ngừng việc của công nhân trực tiếp sản xuất Trích trước tiền lương phép công trực tiếp Kết chuyển chi phí nhân TK 334 TK 622 TK 154 TK 338 TK 335 Sơ đồ 1.2: Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 1.2.4. Hạch toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627 “ Chi phí sản xuất chung”, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. Tài khoản này có kết cấu như sau: Bên Nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung - Kết chuyển ( hay phân bổ ) chi phí sản xuất chung sang tài khoản tính giá thành Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ và được chi tiết thành 6 tiểu khoản: TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng TK 6272: Chi phí vật liệu TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278: Chi phí bằng tiền khác. Lương và phụ cấp lương nhân viên phân xưởng BHYT, BHXH, KPCĐ ( phần trích vào chi phí) Công cụ, vật liệu xuất dùng phục vụ phân xưởng Chi phí dịch vụ mua ngoài Khấu hao TSCĐ dùng cho phân xưởng Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Kết chuyển chi phí sản xuất chung Phần chi phí sản xuất chung cố định không được tính vào giá thành TK 627 TK 334 TK 338 TK 154 TK 214 TK 632 TK 111, 112, 331 TK 133 Thuế GTGT đầu vào TK 152, 153, 142, 242 TK 111, 112, 138, 152 Sơ đồ 1.3: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung 1.2.5. Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất Theo phương pháp kê khai thường xuyên, các chi phí sản xuất ở trên cuối cùng phải được tổng hợp vào bên Nợ TK 154 “ Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”. TK 154 đựơc mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ… của các bộ phận sản xuất - kinh doanh chính, sản xuất – kinh doanh phụ ( kể cả vật tư, sản phẩm, hàng hoá thuê ngoài gia công chế biến). Nội dung phản ánh của TK 154 như sau: Bên Nợ: Tổng hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm - Tổng giá thành sản xuất thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang, chưa hoàn thành. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán. TK 154 TK 621 NVL trực tiếp Kết chuyển chi phí TK 622 chi phí SXC Kết chuyển ( hoặc phân bổ) nhân công trực tiếp Kết chuyển chi phí TK 627 TK 111, 112, 152, … chi phí sản xuất Các khoản ghi giảm TK 152, 155 TK 157 TK 632 Tổng giá thành thực tế sản phẩm hoàn thành Nhập kho Chờ chấp nhận Tiêu thụ thẳng Sơ đồ 1.4: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên 1.3. Kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm 1.3.1. Kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Giá thành sản phẩm có được tính đúng, đủ và chính xác hay không phụ thuộc vào việc đánh giá sản phẩm dở dang có được chính xác hay không. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang cho phù hợp. Sau đây là các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang. Các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí NVL chính Theo phương pháp này, toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy, trong sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính. Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang = Số lượng thành phẩm Số lượng SP dở dang + * Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương Dựa theo mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền công định mức. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phí nguyên, vật liệu chính phải xác định theo số thực tế đã dùng. Giá tr._.ị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang = Số lượng thành phẩm Số lượng SP dở dang không quy đổi + * Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ (không quy đổi ) Chi phí chế biến nằm trong sản phẩm dở dang (theo từng loại ) = Số lượng thành phẩm Số lượng SP dở dang quyy đổi ra thành phẩm + * Tổng chi phí chế biến từng loại Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ quy đổi ra thành phẩm Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến Để đơn giản cho việc tính toán, đối với những sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất, đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức 50% so với thành phẩm. Giá trị sản phẩm dở dang chưa hoàn thành = Giá trị NVL chính nằm trong sản phẩm dở dang + 50% chi phí chế biến Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí NVL trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp Theo phương pháp này, trong giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí trực tiếp ( nguyên, vật liệu và nhân công trực tiếp ) mà không tính đến các chi phí khác. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch Căn cứ vào định mức tiêu hao ( hoặc chi phí kế hoạch ) cho các khâu, các bước, các công việc cho quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang. Ngoài ra, trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang. 1.3.2. Tính giá thành sản phẩm 1.3.2.1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng tính có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay là sản phẩm của một giai đoạn sản xuất. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào các cơ sở sau: Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: ( Sản xuất giản đơn hay phức tạp) Với sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thêr là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất ( nếu sản xuất một thứ sản phẩm). Đối tượng tính giá thành sản phẩm ở đây là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm… Còn đối tượng tính giá thành lại là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. Loại hình sản xuất: ( đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn) Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất ( giản đơn hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… Còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm. Yêu cầu và trình độ quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau. Ngược lại, nếu trình độ thấp thì có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Đơn vị tính giá thành là căn cứ tính được thừa nhận phổ biến trong nền kinh tế quốc dân và phải phù hợp với tính chất hoá lí của sản phẩm. Đơn vị tính giá thành phải tương ứng với đơn vị tính đã ghi trong kế hoạch của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm không thể tính vào bất kỳ thời điểm nào mà phải dựa vào khả năng xác định chính xác về số lượng và cũng như việc xác định lượng chi phí sản xuất có liên quan đến kết quả đó. Xuất phát từ đặc điểm như vậy nên kì tính giá thành không thể giống nhau cho các ngành nghề sản xuất khác nhau. Tuỳ theo chu kì sản xuất dài hoặc ngắn cũng như đặc điểm sản xuất sản phẩm, tính chất sản phẩm, để xác định kì tính giá thành nhằm cung cấp số liệu về giá thành một cách kịp thời phục vụ cho công tác quản lí doanh nghiệp. Thông thường, những doanh nghiệp sản xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn thì kỳ tính giá thành thích hợp là hàng tháng. Còn đối với những doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc hoặc theo đơn đặt hàng, có chu kì sản xuất dài, sản phẩm hay nhóm sản phẩm hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất của sản phẩm hay nhóm sản phẩm đó thì kì tính giá thành là thời điểm hoàn thành. Kì tính giá thành ở đây không trùng thời điểm báo cáo. 1.3.2.2. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm chủ yếu Do sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Phương pháp tính giá thành bao gồm: Phương pháp trực tiếp. Phương pháp trực tiếp ( còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kì kinh doanh ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác ( quặng, than, gỗ…). Đối tượng hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp này là từng loại sản phẩm, dịch vụ. Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính bằng cách trực tiếp lấy tổng số chi phí sản xuất sản phẩm ( +) hoặc ( -) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang đầu kì so với cuối kì chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành. Công thức như sau: Giá thành đơn vị sản phẩm Tổng chi phí sản xuất Số lượng sản phẩm hoàn thành Chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang cuối kì so với đầu kì = Phương pháp tổng cộng chi phí áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm dược thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các bộ phận chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách công chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm: Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + … + Zn Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai thác, dệt nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc… Phương pháp hệ số Phương pháp hệ số được áp dụng trong các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó, dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và tính giá thành từng loại sản phẩm: Giá thành đơn vị sản phẩm gốc = Tổng giá thành của tất cả các loại sản phẩm Tổng số sản phẩm gốc ( kể cả quy đổi ) Giá thành đơn vị sản phẩm từng loại = Giá thành đơn vị sản phẩm gốc * Hệ số quy đổi sản phẩm từng loại Q0 = Trong đó: - Q0 : Tổng số sản phẩm gốc đã quy đổi - Qi : Số lượng sản phẩm i ( i = 1,n ) - Hi : Hệ số quy đổi sản phẩm i ( i = 1,n ) Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm = Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ + Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Phương pháp tỉ lệ chi phí Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo (dụng cụ, phụ tùng…) v.v… để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị va` tổng giá thành sản phẩm từng loại. Giá thành từng thực tế dơn vị SP từng loại = Giá thành kế hoạch ( hoặc định mức ) đơn vị sản phẩm từng loại * Tỷ lệ chi phí Tỷ lệ chi phí = Tổng giá thành thực tế của tất cả các sản phẩm Tổng giá thành kế hoạch ( hoặc định mức ) của tất cả các sản phẩm * 100 Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ Đối với các doanh nghiệp ma` trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ, để tính giá trị sản phẩm chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu… Tổng giá thành sản phẩm chính = Giá trị sản phẩm chính dở dang đầu kỳ + Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Giá trị sản phẩm phụ thu hồi ước tính - Giá trị sản phẩm chính dở dang cuối kỳ Phương pháp liên hợp Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau… Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ… 1.4. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở một số nước trên thế giới 1.4.1. Tại Pháp Theo kế toán Pháp, chi phí sản xuất được hiểu là số tiền bỏ ra để mua các yếư tố cần thiết để tạo ra sản phẩm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong phần hành kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán Pháp có nhiều đặc điểm khác biệt so với kế toán Việt Nam. Các doanh nghiệp Pháp chỉ áp dụng hạch toán HTK theo phương pháp KKTX. Xuất phát từ quan điểm giá thành sản phẩm bao gồm tất cả các khoản chi nên nội dung và phương pháp hạch toán giá thành của kế toán Pháp cũng có những đặc thù khác biệt so với kế toán Việt Nam. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được thể hiện theo bốn bước sau: Bước 1: Tính giá tiết liệu Giá phí nguyên liệu mua vào = Giá mua + Chi phí thu mua Bước 2: Tính giá phí sản xuất Bao gồm giá phí nguyên ,vật liệu đưa vào sản xuất và các chi phí như nhân công, động lực, khấu hao… Bước 3: Tính giá phí phân phối Bao gồm chi phí bỏ ra để tiêu thụ sản phẩm như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo, tiếp thị… Bước 4: Tính giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm = giá phí sản xuất + Giá phí phân phối Đối với kế toán Việt Nam, giá thành sản xuất sản phẩm được tính dựa vào chi phí sản xuất sản phẩm. Còn đối với kế toán Pháp thì: Giá thành sản xuất sản phẩm = Giá phí sản xuất + Giá phí phân phối Như vậy, giá thành sản phẩm của kế toán Pháp có thêm chỉ tiêu giá phí phân phối. Trong đó, giá phí phân phối của kế toán Pháp thực chất là chi phí bán hàng. Xuất phát từ quan điểm giá thành là toàn bộ hao phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được bụ đắp bằng doanh thu bán hàng nên nội dung cấu thành của kế toán Pháp phản ánh đày đủ lượng hao phí mà doanh nghiệp phải bù đắp. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Kế toán Pháp sử dụng phương pháp kiểm kê định kì để hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Có thể khái quát sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của kế toán Pháp như sau: TK tồn kho NVL TK chi phí phân chia cho sản xuất Xuất kho NVL TK giá phí sản xuất TK thành phẩm TK giá trị SP Giá thành SP Xuất kho bán nhập kho Giá trị SP TK SPDD Chi phí trực tiếp TK trung tâm SX TK gián tiếp Phân bổ Giá trị SPDD TK giá phí đã phân phối Chi phí phân phối trực tiếp TK trung tâm phân phối Chi phí PP gián tiếp Phân bổ chi phí phân phối gián tiếp Kết chuyển giá phí PP Sơ đồ 1.5: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của kế toán Pháp 1.4.2. Tại Mỹ Theo kế toán Mỹ, chi phí là khoản hao phí bỏ ra để thu được một số của cải, vật chất, dịch vụ. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu đo lường các khoản hao phí vật chất mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giá thành chia thành hai loại: Giá thành sản phẩm ( hay giá phí sản xuất): Là các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành ( hay giá phí) chung cho kì kế toán: Là các giá phí liên quan đến hoạt động chung cho kì kế toán. Như vây, giá thành chung bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp. Hệ thống tài khoản và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất của kế toán Mỹ khá gần với Việt Nam. Các doanh nghiệp của Mỹ cũng tuỳ vào đặc điểm của doanh nghiệp mình để lựa chọn một trong hai phương pháp hạch toán KKTX hoặc KKĐK. Tuy nhiên, có một số đặc điểm khác biệt về cách hạch toán như sau: Khi xuất dùng nguyên vật liệu, kế toán Mỹ hạch toán thẳng vào chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Nợ TK “ Sản phẩm dở dang” Có TK “ Nguyên vật liệu” Tương tự như vậy, đối với chi phí nhân công trực tiếp Nợ TK “ Sản phẩm dở dang” Có TK “ Tiền lương” Riêng đối với chi phí sản xuất chung thì không hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Sở dĩ như vậy là do nguyên vật liệu và chi phí nhân công gián tiếp phục vụ nhu cầu chung trong phân xưởng không thể tập hợp trực tiếp cho từng đơn đặt hàng trong quá trình sản xuất, nên các chi phí đó được hạch toán tương tự Việt Nam. Kế toán Mỹ và kế toán Việt Nam thường hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kì ít được sử dụng. TK nguyên vật liệu TK phải trả người bán TK khấu hao luỹ kế TK phải trả CNV TK sản phẩm dở dang Chi phí NVLTT TK chi phí SXC Chi phí NVL gián tiếp Chi phí dịch vụ mua dùng cho SX Khấu hao TSCĐ dùng cho SX Chi phí nhân công gián tiếp Chi phí nhân công trực tiếp K/ C CP SXC Giá thành sản phẩm hoàn thành TK thành phẩm TK GVHB Giá vốn thành phẩm tiêu thụ Quy trình hạch toán thể hiện theo hai sơ đồ sau: Sơ đồ 1.6: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của kế toán Mỹ TK kiểm soát SPDD TK kiểm soát NVL TK mua hàng TK lao động tiền lương TK CPSXC TK sản xuất Giá trị SPDD đầu kì Vật liệu tồn đầu kì Kết chuyển Kết chuyển Kết chuyển TK tiêu thụ Giá trị SP hoàn thành Giá trị tồn đầu kì Sơ đồ 1.7: Sơ đồ hạch toán chi phí chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp KKĐK Phần 2 Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty quang điện - điện tử 2.1. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của Công ty Quang điện - Điện tử ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Quang điện - Điện tử thành lập vào ngày 07/08/1965, thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng kinh tế – Bộ quốc phòng được xây dựng trên địa bàn thị trấn Cầu Diễn – Từ Liêm – Hà Nội, tiền thân là một phân xưởng thuộc X10, sau đổi tên là X100, qua từng thời kỳ phát triển và đã đổi tên là Z119 thuộc Tổng cục kỹ thuật Bộ Quốc Phòng, nhà máy Z119 bao gồm 2 khu vực: Khu vực Xuân Mai do Liên Xô giúp xây dựng chuyên sửa chữa trung đại tu các loại Rađa. Khu vực Cầu Diễn chuyên sửa chữa khí cụ điện, khí tài quân sự phục vụ cho quân đội. Đồng thời sản xuất thêm các đồ điện, lắp ráp các linh kiện điện tử phục vụ cho đời sống sinh hoạt của nhân dân. Sau đại hội VI của Đảng, đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sản phẩm sản xuất ra không còn mang tính bao cấp hoàn toàn nữa. Đứng trước tình hình đó, ngày 04/08/1987 Bộ quốc phòng đã quyết định tách nhà máy thành 2 nhà máy là Z119 và Z191, trong đó nhiệm vụ của nhà máy Z191 là sản xuất các mặt hàng kinh tế chủ yếu cho đến nay là: Quạt điện các loại, chấn lưu điện tử, lắp ráp các linh kiện điện tử và các dịch vụ khác phục vụ cho quốc phòng và dân sinh. Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn phát triển từ 1987 đến 1993, hoạt động của nhà máy Z191 vẫn còn mang nặng tính bao cấp, sản phẩm của nhà máy sản xuất ra chưa được thị trường chấp nhận trong khi nguồn vốn của nhà máy do ngân sách quốc phòng cấp còn hạn hẹp. Vì vậy trong suốt giai đoạn này, hoạt động của nhà máy còn gặp nhiều khó khăn. Đến ngày 26/10/1993, nhà máy Z191, theo Nghị định số 338/ CP và Quyết định số 674/QĐQP được đổi tên thành Công ty Điện - Điện tử 91 – Bộ quốc phòng( gọi tắt là điện cơ 91), nhiệm vụ của nhà máy là sản xuất, sửa chữa và kinh doanh các sản phẩm điện - điện tử. Từ đó cho đến năm 1999 Công ty không ngừng đổi mới, phát triển và thu được nhiều thành tựu trong sản xuất, luôn hoàn thành mọi chỉ tiêu kế hoạch đề ra, thị phần ngày càng được mở rộng, đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao và luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Ngày 20/10/1999, theo chủ trương chung của Chính phủ và Bộ Quốc phòng về sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước trong quân đội nói riêng: Bộ quốc phòng đã ký Quyết định số 1710/QĐ- BQP hợp nhất nhà máy Z191 với nhà máy Z123 ( đặt tại Xuân Hoà- Mê Linh- Vĩnh Phúc) thành Công ty Quang điện- Điện tử thuộc Tổng cục công nghiệp Quốc phòng- Bộ Quốc phòng( trụ sở Công ty đặt tại Cầu Diễn- Từ Liêm- Hà Nội), nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là: Sản xuất và sửa chữa các loại khí tải điện, điện tử phục cụ cho quân đội. Sản xuất các loại đồ điện, điện tử phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Sản xuất dây điện từ và xuất nhập các loại vật tư phục vụ sản xuất của Công ty. Mặc dù khi mới hợp nhất, Công ty còn gặp nhiều khó khăn như máy móc , thiết bị quy trình công nghệ chưa được đầu tư đổi mới một cách toàn diện. Việc sản xuất kinh doanh chưa thể đáp ứng hết nhu cầu thị trường, nhưng với sự năng động nhạy bén trong kinh doanh, ban lãnh đạo Công ty mạnh dạn xây dựng những kế hoạch mang tính chiến lược, vì vậy Công ty đã đạt được những thành công đáng tự hào. Sản phẩm của Công ty đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, đã được khách hàng trên mọi địa phương từ miền Trung trở ra tín nhiệm cả về chất lượng hình thức, giá cả, và trong 5 năm liên tục ( từ 1998-2002) được công nhận là hàng Việt Nam chất lượng cao ở thị trường miền Bắc. Vượt qua những khó khăn về vốn, thị trường và những cơn lốc cạnh tranh của hàng nhập khẩu, Công ty vẫn hoạt động liên tục và không ngừng phát triển. Sau đây là một số chỉ tiêu phản ánh khái quát tình hình và kết quả của Công ty trong năm qua. Đơn vị:1.000.000 VNĐ STT Nội dung Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1 Doanh thu 56.567 62.568 74.877 2 Lợi nhuận 689 1.057 1.900 3 Nộp ngân sách 2.057 2.658 3.200 4 Thu nhập BQ/ người/ tháng 0,86 0,97 1,125 2.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Quang điện- Điện tử Bộ máy của Công ty Quang điện- Điện tử được tổ chức theo mô hình trực tuyến tham mưu. Trong đó: Giám đốc Công ty: Là người có thẩm quyền cao nhất, có trách nhiệm quản lý điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, chịu trách nhiệm trước cơ quan Nhà nước về các hoạt động của Công ty. Các phó giám đốc: Công ty có 3 phó giám đốc: Một phó giám đốc kiêm giám đốc Xí nghiệp 23, một phó giám đốc kiêm giám đốc Xí nghiệp 91, một phó giám đốc kiêm kỹ thuật chung của toàn Công ty. Các phó giám đốc Công ty kiêm giám đốc Xí nghiệp 91, Xí nghiệp 23 là cán bộ thuộc quyền quản lý và điều hành của Giám đốc Công ty, giúp Giám đốc điều hành hoạt động của hai xí nghiệp thành viên theo nhiệm vụ, quyền hạn đã phân công . Phó giám đốc kỹ thuật có nhiệm vụ chỉ đạo về mặt kỹ thuật của toàn Công ty, phê duyệt các quy trình công nghệ, định mức tiêu hao vật tư, lao động cho các chi tiết và sản phẩm, chỉ đạo việc nghiên cứu, chế thử sản phẩm, ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Trong Công ty bao gồm các phòng ban sau: Văn phòng Công ty: Làm công tác hành chính nội bộ và đảm bảo khâu an ninh, an toàn trong phạm vi Công ty quản lý, làm công tác tổ chức lao động cho phù hợp quy trình sản xuất kinh doanh. Phòng Kế hoạch kinh doanh: Có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất năm, quý, tháng; theo dõi duy trì việc thực hiện kế hoạch đó. Đảm bảo cung ứng đủ vật tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức và làm tốt công tác thị trường, tiệu thụ sản phẩm. Phòng Kỹ thuật và nghiên cứu phát triển: Có nhiệm vụ xây dựng các định mức kinh tế- kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy cách từng mặt hàng. Đồng thời còn phải thiết kế các khuôn mẫu, bản vẽ, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất… Ngoài ra còn có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập kho. Phòng Tài chính - kế toán: Có nhiệm vụ quản lý tài chính theo chính sách hiện hành, thực hiện hạch toán kế toán quá trình sản xuất kinh doanh và tham mưu cho Giám đốc về tình hình tài chính của Công ty. Phòng Chính trị: Thực hiện công tác chính trị tư tưởng cho cán bộ công nhân viên, tổ chức các hoạt động sinh hoạt Đảng trong Công ty. Mối quan hệ giữa các phòng ban được thể hiện bằng sơ đồ: Mô hình tổ chức Công ty Quang điện - Điện tử: PGĐ-GĐ xí nghiệp 23 Phân xưởng A4- Tổng sắp sp điện Phân xưởng A5- Gia công QH Phân xưởng A3- Xử lý bề mặt Phân xưởngA6- Sản xuất tổng hợp Phân xưởng A1- Cơ khí Giám đốc Công ty PGĐ kỹ thuật Kế toán trưởng PGĐ-GĐ xí nghiệp 91 Ban tài vụ Phòng kế hoạch sản xuất Ban chính trị Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính- Kế toán Phòng kỹ thuật và nghiên cứu PT Văn phòng Phân xưởngA3: PX Điện Phân xưởng A4: Gia công điện Phân xưởng A5: Tổng lắp Phân xưởng A1: Cơ khí Phòng kế hoạch- Kinh doanh Phòng kỹ thuật- KCS Phòng chính trị Phân xưởng A6: Điện tử điện lạnh Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Công ty Quang điện - Điện tử 2.1.3. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty * Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm Sản phẩm của Công ty Quang điện- Điện tử bao gồm sản phẩm kinh tế và sản phẩm quốc phòng. Sản phẩm quốc phòng của Công ty bao gồm rất nhiều loại, mỗi loại có quy trình sản xuất riêng, tính chất phức tạp của quy trình công nghệ sản xuất phụ thuộc vào mức độ phức tạp của sản phẩm, hơn nữa với tính chất bảo mật trong sản xuất sản phẩm quốc phòng cho nên em xin đề cập đến quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm kinh tế của Công ty là các sản phẩm chủ yếu của Công ty. Sản phẩm quạt điện của Công ty Quang điện - Điện tử bao gồm 27 chủng loại khác nhau, trong đó nổi bật là quạt điện dân dụng hàng năm chiếm khoảng 97% sản lượng tiêu thụ cũng như doanh thu. Sản phẩm của Công ty mang nhãn hiệu là: “Điện cơ 91”, do thành phần cấu tạo không hoàn toàn giống nhau nên mỗi loại có đặc trưng riêng và do vậy được chia thành các nhóm sản phẩm như: sản phẩm quạt bàn 230, quạt bàn 300, quạt bàn 400, quạt treo tường, quạt rụt nhở,… nhiều sản phẩm khác nhau nhưng có thể được sản xuất ra trên cùng một dây truyền công nghệ nhưng có sự tách bạch về thời gian. Sau đây là quy trình công nghệ sản xuất quạt: Tôn Silic Thép CT5 Thép CT3 Thép CT45 Nhập kho thành phẩm Kiểm tra chất lượng sản phẩm Tổng lắp Bao gói Gia công các chi tiết bằng kim loaị của lồng bảo hiểm Giá hàn lồng bảo hiểm Phủ nhựa lồng bảo hiểm Lắp chụp hoàn thiện lồng bảo hiểm Pha phôi trục quạt Tiện trục Mài trục Dập, ép cụm lá thép rôto và stato Đúc cụm rôto ép trục vào cụm rôto Tiện rôto Gia công , hạn bin dây điện từ vào cụm stato Các bán thành phẩm mua ngoài thùng giấy, cụm tốc độ ép cánh, chụp lồng, thân, đế quạt Kho bán thành phẩm Hạt nhựa Dây điện từ Hạt nhựa Sơ đồ 2.2: Sơ đồ quy trình sản xuất quạt * Đặc điểm tổ chức sản xuất của Công ty Xuất phát từ chức năng ngành nghề được cấp phép kinh doanh, căn cứ vào quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm, Ban giám đốc Công ty đã đưa ra mô hình sản xuất kinh doanh như sau: Xí nghiệp 91: làm nhiệm vụ sản xuất các mặt hàng điện dân dụng như quạt điện, chấn lưu,… và một số mặt hàng phục vụ cho quốc phòng. Tổ chức sản xuất của Xí nghiệp 91 có các phân xưởng sau: Phân xưởng A1: Có nhiệm vụ chế tạo khuôn ép nhựa, dập, đúc nhôm đồng thời thực hiện các bước công nghệ đúc, ép, dập, tiện,… để tạo ra các bán thành phẩm như lồng bảo hiểm, thân, đế quạt, cụm rôto, cụm stato, cụm lá thép chấn lưu,… Phân xưởng A3: Có nhiệm vụ cuốn và hạ các bên dây điện từ của quạt và trấn lưu, và cụm lá thép stato, gá lắp, cân chỉnh tạo ra sự động cơ hoàn chỉnh của quạt. Phân xưởng A4: Có nhiệm vụ gia công một số chi tiết từ phân xưởng điện chuyển sang. Phân xưởng A5: Có nhiệm vụ tiếp nhận các bán thành phẩm từ phân xưởng điện và phân xưởng gia công để lắp ráp, hoàn chỉnh, thử nghiệm, bao gói và nhập kho thành phẩm các sản phẩm điện. Phân xưởng A6: Lắp ráp các sản phẩm điện lạnh từ các linh kiện nhập khẩu như điều hoà nhiệt độ. Xí nghiệp 23: Làm nhiệm vụ sản xuất và sửa chữa các mặt hàng quang học phục vụ cho quốc phòng, đồng thời sản xuất, lắp ráp quạt điện. Tổ sản xuất Xí nghiệp 23 có các phân xưởng sau: Phân xưởng A1: Tạo phôi, gia công cơ khí: Làm nhiệm vụ giống như A1( Xí nghiệp 91) nhưng làm cho cả các sản phẩm quốc phòng. Phân xưởng A3: Xử lý bề mặt: Làm nhiệm vụ sơn và mạ các chi tiết bán thành phẩm, quạt chấn lưu, sản phẩm quốc phòng. Phân xưởng A4: Có nhiệm vụ lắp ráp, hoàn chỉnh sản phẩm điện, như sa điện, như phân xưởng A4, A5 của Xí nghiệp 91. Phân xưởng A5: Gia công quang học: Có nhiệm vụ chủ yếu là sửa chữa và sản xuất các sản phẩm quang học phục vụ Quốc phòng như ống kính quan sát bầu trời, kính đo xa phục vụ các đơn vị pháo phòng không, trạm quan sát không phận, ống nhòm, sửa chữa các cụm kính ngắm,… Phân xưởng A6: Sản xuất tổng hợp: Có nhiệm vụ sản xuất các thấu kính quang học, các loại làm phụ tùng thay thế cho các đơn vị và đồng bộ cho các sản phẩm sửa chữa tại Phân xưởng A5 của xí nghiệp. * Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của Công ty Quang điện - Điện tử Sản phẩm chủ yếu của Công ty Quang điện - Điện tử là các sản phẩm quạt điện. Sản phẩm này được sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Trên cùng một dây truyền công nghệ có thể sản xuất ra nhiều loại sản phẩm nhưng có sự tách biệt về thời gian. Đặc điểm cơ bản về sản phẩm của Công ty là chỉ tiêu thụ được theo mùa vụ- những tháng nóng như tháng 4,5,6 là các tháng mà sản phẩm của Công ty được tiêu thụ nhiều nhất, các tháng rét sản phẩm tiêu thụ được rất ít. Tuy nhiên, không vì vậy mà sản xuất của Công ty bị gián đoạn. Công ty đã linh hoạt bố trí sản xuất như sau: Vào các tháng mùa vụ sản xuất : Công ty tiến hành sản xuất với khối lượng lớn bằng việc huy động tối đa công xuất máy móc thiết bị, huy động công nhân làm thêm giờ, có lúc cao điểm phải thuê thêm lao động ngoài Công ty để phục vụ cho sản xuất đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Vào các tháng trái vụ, Công ty thực hiện gia công, chế tạo các bán thành phẩm quạt nhập kho đồng thời vẫn thực hiện tổng lắp hoàn chỉnh sản phẩm quạt điện, nhưng với khối lượng ít. Thực tế ở Công ty cho thấy, khoảng thời gian mà sản xuất nhàn rỗi chỉ vào tháng 9,10,11, còn bắt đầu tháng 12, Công ty đã bắt đầu tăng nhịp độ sản xuất để dự trữ thành phẩm phục vụ cho nhu cầu khách hàng vào các tháng đầu năm sau. Chính vì vậy hoạt động sản xuất của Công ty vẫn đảm bảo được liên tục. Trong hơn 30 năm lớn mạnh không ngừng, Công ty Quang Điện- Điện tử đến nay đã thực sự lớn mạnh cả về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên. Sản phẩm của Công ty cũng được người tiêu dùng đón nhận nồng nhiệt, đặc biệt là khu vực thị trường từ Quảng Bình trở ra với hơn 50 % thị phần quạt điện. Công ty đang cố gắng bằng hết khả năng về kỹ thuật sản xuất cũng như nâng cao về chất lượng sản phẩm để có thể nhận được sự tín dụng của khách hàng ngày càng nhiều hơn cũng như chiếm lĩnh được phần lớn thị trường. 2.1.4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán của Công ty Xuất phát từ đặc điểm tổ chức sản xuất của Công ty, điều kiện và trình độ quản lý, bộ máy kế toán của Công ty Quang điện - Điện tử tổ chức theo hình thức tập trung. Theo đó, toàn Công ty chỉ tổ chức một phòng kế toán tập trung đặt tại Xí nghiệp 91, còn Xí nghiệp 23 không thực hiện tổ chức kế toán riêng. Tại phòng kế toán Công ty, các nhân viên kế toán thực hiện toàn bộ công tác hạch toán ở Công ty từ việc xử lý chứng từ, ghi chép sổ kế toán, lập báo cáo kế toán cho đến việc kiểm tra đôn đốc công tác kế toán ở xí nghiệp thành viên. Ngoài ra ở Xí nghiệp 23, phòng kế toán của Công ty chỉ làm nhiệm vụ hạch toán ban đầu, thu nhận kiểm tra các chứng từ ban đầu rồi chuyển về phòng kế toán Công ty. Đồng thời các nhân viên này còn có nhiệm vụ ghi chép những phần hành kế toán chi tiết phát sinh tại Xí nghiệp 23. Phòng Tài chính – Kế toán của Công ty bao gồm 7 người, cơ cấu nhiệm vụ của từng thành viên như sau: Trưởng phòng Tài chính- Kế toán ( kế toán trưởng): Chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn , kiểm tra các công việc do các nhân viên kế toán thực hiện đồng thời phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty, cấp trên và cơ quan Nhà nước về các thông tin kế toán cung cấp. Kế toán tổng hợp kiêm tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Là người trợ giúp đắc lực cho kế toán trưởng, trực tiếp tập hợp số liệu trên các sổ kế toán, lập bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo quyết toán chung của toàn Công ty. Đồng thời có nhiệm vụ tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng và tính giá thành sản phẩm. Kế toán TSCĐ, nguyên vật liệu, CCDC : Có nhiệm vụ theo dõi, ghi chép, phản ánh tình hình tăng giảm TSCĐ cho các đối tượng tập hợp chi phí. Đồng thời có nhiệm vụ hạch toán chi tiết tổng hợp nhập xuất tồn kho nguyên vật liệu, công cụ ._.tiêu phục vụ công tác quản lý, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu thoả mãn, đáp ứng được nội dung thông tin trên. Là một Công ty trong quân đội, ngoài việc sản xuất các sản phẩm phục vụ công tác quốc phòng còn sản xuất các sản phẩm phục vụ dân sinh. Công ty Quang điện - Điện tử nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức hạch toán chính xác chi phí sản xuất cũng như tính đúng và đủ giá thành. Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu là thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành những sản phẩm, công việc lao vụ phải được bù đắp bởi chính số tiền mà doanh nghiệp thu về do quyết toán những sản phẩm, công việc, lao vụ đó mới đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn. Kế toán chính xác chi phí sản xuất không chỉ là việc tổ chức ghi chép, phản ánh đầy đủ, trung thực về mặt số lượng, chi phí mà cả việc tính toán các chi phí bằng tiền theo đúng nguyên tắc và phản ánh từng loại chi phí theo đúng địa điểm phát sinh, thời điểm xảy ra, xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí. Mục đích sản xuất và nguyên tắc trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải bù đắp được các chi phí đã bỏ ra và phải đảm bảo có lãi. Giá bán của các sản phẩm lao vụ phụ thuộc rất nhiều vào quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.... Vì thế, doanh nghiệp phải dựa vào cơ sở giá thành dự toán để xác định có nên sản xuất, kinh doanh hay không. Mặt khác, việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau . Vì vậy, việc tập hợp chi phí sản xuất phải phù hợp thì mới đảm bảo cho việc tính giá thành được chính xác. Đồng thời giúp ban lãnh đạo Công ty chủ động trong sản xuất kinh doanh, phát hiện được những khoản chi không hợp lý, khoản chi lãng phí không mang lại hiệu quả. Xác định cho Công ty được mức hạ giá thành và làm tăng lợi nhuận. Cùng với những xu hướng biến động của thị trường về NVL đầu vào, giá bán sản phẩm, điều đó khiến Ban Giám đốc Công ty càng phải chú trọng hơn đến công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Cụ thể, trong những năm gần đây sản phẩm quạt trên thị trường ngày càng phong phú về chủng loại, đẹp về mẫu mã, kiểu dáng, giá thành lại vừa phải. Chính vì những lý do trên, cần phải tổ chức công tác kế toán một cách hợp lý, khoa học mới có thể tính đúng giá thành. Việc tính đúng, tính đủ giá thành giúp phản ánh đúng đắn tình hình và kết quả thực hiện giá thành của doanh nghiệp. Do đó, hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Quang điện - Điện tử là rất cần thiết. Một số nguyên tắc hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần dựa trên những nguyên tắc sau: Hoàn thiện trên cơ sở tôn trọng cơ chế tài chính, tôn trọng chế độ kế toán. Vì kế toán không chỉ là công cụ quản lý của đơn vị mà còn là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải đảm bảo đáp ứng được thông tin kịp thời, chính xác cho quản lý. Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất và kinh doanh. Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải dựa trên cơ sở tiết kiệm chi phí với mục đích hiệu quả kinh doanh cao. Để đạt được các mục đích trên trong việc hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thì cần phải nắm được những nội dung sau: Phải nắm được nội dung và bản chất kinh tế của chi phí Phải phân loại chi phí sản xuất thích hợp theo yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán Phải phân định chi phí sản xuất với giá thành và nắm rõ mối quan hệ giữa chúng Phải nắm được các cách phân loại giá thành khác nhau phục vụ cho công tác quản lý và hạch toán Xác định đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phù hợp Xác định trình tự hạch toán và tổng hợp chi phí sản xuất thích ứng 3.2. Đánh giá hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử 3.2.1. Những ưu điểm Về bộ máy kế toán Bộ máy kế toán được tổ chức gọn nhẹ, bố trí phân công công việc cụ thể, rõ ràng, đảm bảo yêu cầu về toàn bộ thông tin kế toán trong Công ty. Đội ngũ nhân viên kế toán nhiều kinh nghiệm, có trình độ, có năng lực, nhiệt tình và trung thực. Trong quá trình áp dụng chế độ kế toán mới tuy còn gặp nhiều khó khăn do phải tiếp xúc với những khái niệm, quan điểm mới, nhưng bộ máy kế toán của Công ty đã cố gắng học hỏi, tham khảo tài liệu và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả chế độ kế toán mới vào điều kiện cụ thể của Công ty. Về hệ thống sổ sách kế toán Hiện nay Công ty đang áp dụng hình thức kế toán NKCT, nó phản ánh một cách toàn diện các mặt của chi phí sản xuất, giảm bớt khối lượng ghi chép và cung cấp thông tin kịp thời. Thực tế, Công ty đã xây dựng được hệ thống sổ sách kế toán bao gồm các sổ tổng hợp cũng như các sổ chi tiết tương đối hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin kịp thời cho quản lý và cho các đối tượng quan tâm. Hệ thống chứng từ , sổ sách sử dụng theo đúng quy định của chế độ kế toán, đồng thời đảm bảo tính phù hợp với đặc thù kinh doanh của Công ty. Cách thức ghi chép cũng tương đối khoa học, hợp lý góp phần tạo nên một hệ thống sổ sách kế toán với những thông tin rõ ràng, chặt chẽ, liên hoàn. Về phần hành kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty trong thời gian qua nhìn chung có nhiều tiến bộ. Trong thời kỳ hiện nay, nhận thức được tầm quan trọng trong việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, Công ty đã ra sức tăng cường thực hiện công tác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Kế toán thực sự được coi là một trong những công cụ quản lý quan trọng trong quản lý tài chính. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty được tập hợp trực tiếp cho việc giám sát thực hiện kế hoạch chi phí giá thành được chính xác, giúp cho việc cung cấp thông tin cho cấp quản lý ra quyết định đúng đắn để điều hành sản xuất, lựa chọn cơ cấu sản phẩm thích hợp. Bên cạnh đó, việc tập hợp chi phí sản xuất theo đúng khoản mục chi phí phản ánh đầy đủ, rõ ràng các chi phí cấu thành nên sản phẩm giúp cho việc phân tích các yếu tố chi phí được chính xác để từ đó có phương hướng , biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Việc quản lý chi phí sản xuất và giá thành theo định mức là phù hợp với loại hình sản xuất cho ra nhiều loại sản phẩm với nhiều chủng loại khác nhau như ở Công ty. Nó giúp cho công tác quản lý được chặt chẽ, thường xuyên, tránh lãng phí và đánh giá được cụ thể tình hình sử dụng tiết kiệm hay lãng phí vật tư trong sản xuất sản phẩm. Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành nói chung là khá phù hợp tình hình thực tế của Công ty. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo từng sản phẩm ở từng phân xưởng làm cho việc tập hợp chi phí sản xuất được giản đơn, đồng thời tạo điều kiện cho việc đánh giá sản phẩm dở dang ở từng phân xưởng. Công ty xác định đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm và thực hiện tính giá thành theo phương pháp giản đơn là khá phù hợp. Bởi theo phương pháp này chi phí sản xuất và giá thành được quản lý chặt chẽ, chi tiết, công việc tính toán đơn giản, nhanh chóng phù hợp công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm sản phẩm, đáp ứng kịp thời về số liệu sản xuất cho công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành ở Công ty. Tuy nhiên, công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở Công ty vẫn còn một số tồn tại cần được hoàn thiện. Trên con đường phát triển của mình Công ty phải luôn cố gắng hoàn thiện mọi mặt, trong đó có công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Vì vậy, ngoài việc phát huy những mặt mạnh đã có Công ty cần phải khắc phục những tồn tại được nêu ra sau đây: 3.2.2. Những tồn tại Về tổ chức bộ máy kế toán Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo kiểu tập trung, toàn bộ công tác kế toán được thực hiện ở phòng kế toán của Công ty. ở Xí nghiệp 23 chỉ thực hiện hạch toán ban đầu, tổng hợp và phân loại chứng từ rồi định kỳ 2 – 5 ngày gửi lên phòng kế toán của Công ty . Như vậy việc chi chép phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, việc cung cấp thông tin cho quản lý không đảm bảo kịp thời, chính xác, đồng thời việc chỉ đạo hoạt động cũng bị hạn chế. Về việc sử dụng tài khoản Tại Công ty Quang điện - Điện tử, việc sử dụng tài khoản còn mang tính chủ quan, đơn giản và chưa hợp lý. Xét riêng việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thì tài khoản chưa được chi tiết mà còn tổng hợp. Cụ thể như TK 627 không được chi tiết theo từng loại chi phí: Chi phí nguyên NVL, chi phí nhân viên phân xưởng…Cách hạch toán này tuy đơn giản cho công tác kế toán nhưng lại không tách bạch được các loại chi phí khác nhau về đặc điểm, tính chất của chi phí. Về việc hạch toán chi phí CCDC Theo quy định, đối với những CCDC có giá trị lớn nhưng không đủ điều kiện ghi nhận là TSCĐ thì khi xuất dùng phải thực hiện phân bổ dần vào đối tượng sử dụng. Trên thực tế, tại Công ty, tất cả các CCDC khi xuất dùng đều phân bổ tất cả vào chi phí sản xuất không kể giá trị của chúng là nhỏ hay lớn. Điều này gây ra sự thiếu chính xác trong công tác tập hợp chi phí sản xuất cũng như tính giá thành sản phẩm, tạo nên sự sai lệch về giá thành giữa các kỳ kế toán. Về nội dung, kết cấu Bảng phân bổ số 2 – Bảng phân bổ NVL, CCDC Số liệu trong bảng phân bổ này chỉ mới là số liệu tổng hợp. Các thông tin về chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí CCDC dưới dạng tổng hợp mà không thấy được một cách đầy đủ chi tiết theo từng phân xưởng, từng sản phẩm. Vì thế mà số liệu trên Bảng kê số 4 – Tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng cũng chỉ là số liệu tổng hợp. Điều này gây khó khăn cho việc theo dõi chi phí NVL cho từng phân xưởng, từng sản phẩm. Do đó, việc ghi chép sổ sách cũng như tổng hợp chi phí cho từng sản phẩm để tính giá thành khó có thể thực hiện được một cách dễ dàng. Với cách lập bảng như hiện nay, Công ty chưa tận dụng hết chức năng của các bảng là phân bổ giá trị NVL xuất dùng cho từng đối tượng sử dụng, từ đó làm căn cứ để ghi vào bên Có TK 152, 153 ở Bảng kê số 4 theo từng sản phẩm( từng phân xưởng) và các NKCT liên quan. Về việc hạch toán các khoản trích theo lương ở Công ty Quang điện - Điện tử các khoản trích theo lương bao gồm BHXH, BHYT, KPCĐ được trích trên lương cơ bản( 19% tổng lương cơ bản). Như vậy khoản trích KPCĐ không được thực hiện theo đúng quy định là 2% lương thực tế. Về tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung Khoản mục chi phí sản xuất chung được tập hợp cho tất cả các phân xưởng ở cả hai xí nghiệp, sau đó mới tiến hành phân bổ cho từng sản phẩm theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của các sản phẩm đó, điều này là chưa hợp lý. Như ta đã biết, chi phí sản xuất chung được quy định hạch toán cho từng phân xưởng để theo dõi chi phí sản xuất phục vụ cho từng nhóm sản phẩm là bao nhiêu. Đây là khoản chi phí gián tiếp nên cần được theo dõi theo địa điểm phát sinh để biết được sử dụng chi phí đó là có hợp lý hay không?, có lãng phí hay không? nếu có thì ở chỗ nào. Đồng thời, việc tập hợp chi phí sản xuất chung theo từng phân xưởng cũng tạo điều kiện cho việc phân bổ chi phí này tới từng sản phẩm đúng đắn và phù hợp hơn. Về khấu hao TSCĐ và việc phân bổ khấu hao Chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho bộ phận sản xuất được tập hợp vào chi phí sản xuất chung của từng xí nghiệp rồi phân bổ cho từng sản phẩm mà không chi tiết cho từng phân xưởng. TSCĐ không được quản lý, theo dõi theo từng phân xưởng sản xuất. Vì vậy, sẽ không phản ánh được chính xác khoản mục chi phí này trong giá thành sản phẩm ở các phân xưởng. Về hệ thống sổ sách kế toán Công ty sử dụng hình thức ghi sổ là hình thức NKCT. Về cơ bản, Công ty đã tổ chức vận dụng hệ thống sổ sách theo đúng chế độ quy định bao gồm: Các bảng kê, các NKCT, các bảng phân bổ, sổ chi tiết…Tuy nhiên, một số sổ như Bảng kê số 4 mới chỉ thể hiện số liệu tổng hợp, chưa được chi tiết cho từng phân xưởng, từng sản phẩm. Các sổ chi tiết TK 621, TK 627 đang sử dụng cũng chưa được chi tiết như tên gọi thực tế của chi phí phát sinh. Mặt khác, việc sử dụng hệ thống sổ kế toán theo hình thức NKCT sẽ gây khó khăn cho Công ty trong việc cơ giới hoá công tác kế toán. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, khi mà việc ứng dụng máy vi tính trong hoạt động kế toán đã trở thành một xu thế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Việc ứng dụng máy vi tính cho công tác kế toán Hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, việc ứng dụng tin học trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trở nên phổ biến. Việc ứng dụng này không những tạo điều kiện cung cấp thông tin kế toán một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác mà còn góp phần gọn nhẹ bộ máy kê toán, tiết kiệm chi phí nhân công. Tuy nhiên, tại Công ty mọi công việc thống kê, kế toán đều được thực hiện một cách thủ công. 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện - Điện tử Xuất phát từ yêu cầu, chức năng cơ bản của kế toán, xuất phát từ những tồn tại trong công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Quang điện - Điện tử, cùng với sự tìm hiểu và nắm bắt thực tế, đối chiếu với lý thuyết được học tại nhà trường, em xin có một số ý kiến đề xuất với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc củng cố và hoàn thiện công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của Công ty nhằm phát huy vai trò to lớn của kế toán trong quản lý kinh tế, làm cho kế toán thực sự trở thành công cụ quản lý kinh doanh nhạy bén và có hiệu quả nhất. ý kiến 1: Về tổ chức bộ máy kế toán Hiện nay, bộ máy kế toán của Công ty Quang điện - Điện tử được tổ chức theo hình thức tập trung. Do đó, toàn Công ty chỉ tổ chức một phòng kế toán tập trung đặt tại Xí nghiệp 91, còn tại Xí nghiệp 23 không tổ chức kế toán riêng. Nhằm giúp cho công tác kế toán đạt hiệu quả cao hơn, theo em, Công ty nên tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức vừa tập trung vừa phân tán. Tức là, các nhân viên ở Xí nghiệp 23 sẽ thực hiện một số công việc kế toán phát sinh tại Xí nghiệp 23 như kế toán tiền lương, TSCĐ, tập hợp chi phí sản xuất và hạch toán đối với phần hành kế toán chi tiết, thực hiện công tác tài chính thống kê trong phạm vi xí nghiệp , đồng thời định kỳ gửi các sổ sách, báo cáo kế toán thống kê về phòng kế toán của Công ty. Tại phòng kế toán của Công ty, các nhân viên kế toán sẽ thực hiện công việc kế toán phát sinh tại Công ty và phần còn lại của Xí nghiệp 23, đồng thời có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra công tác kế toán ở Xí nghiệp 23. Thu nhận, kiểm tra các báo cáo ở Xí nghiệp này chuyển về, lập báo cáo kế toán tổng hợp và thực hiện công tác tài chính, thống kê toàn Công ty. ý kiến 2: Lập lại bảng phân bổ số 2- Bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ Số liệu trên bảng này chỉ phản ánh một cách tổng hợp trị giá vốn thực tế nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng trong kỳ. Theo em, với đối tượng tập hợp chi phí là từng sản phẩm ở từng phân xưởng, Công ty nên lập lại Bảng phân bổ số 2, như vậy, sẽ tạo điều kiện cho việc theo dõi, quản lý, ghi chép khoản mục chi phí này. Số liệu để lập lại bảng phân bổ số 2 là sổ chi tiết xuất vật tư. Bảng phân bổ số 2 có mẫu như sau: Biểu số 3.1: Bảng phân bổ số 2 Bảng phân bổ nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ. Tháng 1/2005 TT Ghi có các TK Đốitượng sd(Ghi nợ các TK) TK152 TK 153 Xí nghiệp 23 Xí nghiệp 91 Cộng Xí nghiệp 23 Xí nghiệp 91 Cộng 1 TK 621 - PX 1( SP) - PX 2 ( SP) - PX 3 ( SP) ….. 2 TK627 - PX 1 ( SP) - PX 2 ( SP) - PX 3 ( SP) …… 3 TK642 4 TK161 5 TK 641 Cộng Biểu số 3.1: Bảng phân bổ nguyên liệu, vật liệu, CCDC ( Phần kiến nghị) ý kiến 3: Thực hiện phân bổ công cụ dụng cụ Việc hạch toán công cụ dụng cụ hiện nay ở Công ty được thực hiện theo phương pháp phân bổ một lần. Hạch toán như vậy với các công cụ dụng cụ có giá trị nhỏ là hợp lý, quán triệt nguyên tắc trọng yếu của kế toán, nhưng đối với các công cụ dụng cụ có giá trị lớn và có thời gian sử dụng tương đối dài thực hiện phân bổ một lần vào chi phí là thiếu chính xác, trái với nguyên tắc phù hợp của kế toán. Do đó, để hạch toán chi phí này một cách phù hợp, theo em, Công ty nên áp dụng phương pháp phân bổ nhiều lần đối với công cụ dụng cụ có giá trị lớn như sau: Căn cứ vào phiếu xuất kho công cụ dụng cụ dùng cho các bộ phận, căn cứ vào trị giá thực tế của công cụ dụng cụ mua về sử dụng ngay không qua nhập kho, kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 142, 242 Có TK 153,111,112… Đồng thời xác định phần trị giá thực tế của công cụ dụng cụ phân bổ vào chi phí sản xuất trong kỳ: Số kỳ dự kiến phân bổ = Mức phân bổ dần từng kỳ = Tổng giá trị CCDC Rồi ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 627,641,642 Có TK 142, 242 Khi có báo hỏng, báo mất công cụ dụng cụ, kế toán xác định giá trị còn phải phân bổ theo công thức: Giá trị công cụ phân bổ nốt = Trị giá thực tế của CCDC báo hỏng, báo mất còn lại chưa phân bổ - Giá trị ước tính của phế liệu thu hồi (nếu có) - Số bắt bồi thường vật chất (nếu có) Ví dụ: Tháng 1/2005 có nghiệp vụ sau: Phiếu xuất kho Số 52 ngày 20/01/2005 xuất CCDC phục vụ cho sản xuất quạt ở PX 1(XN 91), trị giá xuất kho là: 2.545.450 (đồng), dự kiến sử dụng trong 5 kỳ ta có: Căn cứ vào trị giá vốn thực tế CCDC xuất kho, kế toán ghi: Nợ TK 142: 2.545.450 Có TK 153: 2.545.450 Kế toán thực hiện ghi sổ phần trị giá CCDC phân bổ vào chi phí sản xuất: Mức phân bổ vào chi phí sản xuất trong mỗi kỳ là: 2.545.450/ 5 = 509.090 (đồng) Nợ TK 627 ( PX1): 509.090 Có TK 142 : 509.090 ý kiến 4: Tính lại khoản trích KPCĐ Tại Công ty, khoản trích kinh phí công đoàn của toàn bộ cán bộ công nhân viên được tính trên lương cơ bản. Hạch toán như vậy không đúng với chế độ tài chính toán quy định, do đó, sẽ không phản ánh chính xác chi phí nhân công trực tiếp cũng như chi phí sản xuất chung. Vì vậy, khoản trích KPCĐ phải được tính lại bằng 2% lương thực tế. Khoản trích kinh phí công đoàn của các bộ phận trong Công ty tháng 1/2005 ( Biểu số 1.24). Sau khi tính lại chi phí nhân công trực tiếp tăng 2.866.003(đồng), chi phí sản xuất chung tăng 597.172(đồng) . ý kiến 5: Kết cấu bảng kê số 4 – Tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng Do kế toán Công ty xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng sản phẩm ở từng phân xưởng sản xuất. Chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu phát sinh đều được tập hợp trực tiếp cho các sản phẩm ở từng phân xưởng, chi phí sản xuất chung được phân bổ theo chi phí nhân công trực tiếp. Do vậy, ở Bảng kê số 4, theo em, Công ty nên tập hợp chi phí sản xuất theo từng phân xưởng, cho từng sản phẩm. Hơn nữa, nếu chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng phân xưởng thì việc phân bổ chi phí này cho từng sản phẩm tại phân xưởng càng chính xác. Mặt khác, với việc lập lại Bảng phân bổ số 2 thì số liệu trên bảng này là căn cứ để ghi vào Bảng kê số 4 chi tiết theo từng phân xưởng ở cột TK 152, TK 153. Mẫu Bảng kê số 4 có thể như sau: Biểu số 3.2: Bảng kê số 4: Tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng Tháng 1/2005 TK ghiCó TK Ghi Nợ TK152 TK153 TK 214 TK334 TK 338 TK 621 TK 622 TK 627 TK phản ánh ở các NKCT Cộng chi phí thực tế trong tháng NKCT1 NKCT5 NKCT (141) TK 154 - PX1 - PX 2 - PX 3 - …… TK 621 - PX 1 - PX 2 - PX 3 - …… TK 622 - PX 1 - PX 2 - PX 3 - … TK 627 - PX 1 - PX 2 - PX 3 - …… Cộng Biểu số 3.2: Bảng kê số 4: Tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng ý kiến 6: Về phương pháp phân bổ và theo dõi khấu hao TSCĐ Chi phí khấu hao tài sản cố định là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong chi phí sản xuất. Chính vì vậy, để chi phí sản xuất được tập hợp đúng, đủ, phản ánh vào giá thành chính xác thì khoản chi phí khấu hao tài sản cố định cần thiết phải được tính toán, phân bổ, theo dõi một cách chặt chẽ. Muốn vậy, kế toán tài sản cố định nên kết hợp sử dụng máy vi tính và nhân viên thống kê tại các phân xưởng ở các xí nghiệp để phân loại tài sản cố định theo từng phân xưởng, bộ phận sử dụng ở từng xí nghiệp. Từ đó, tính toán số khấu hao phải trích trong tháng của từng phân xưởng, bộ phận đó làm căn cứ để ghi vào Bảng phân bổ số 3 theo từng phân xưởng, bộ phận ở từng xí nghiệp. ý kiến 7: Cách tập hợp chi phí sản xuất chung Hiện nay, Công ty đang tiến hành tập hợp chi phí sản xuất chung của từng xí nghiệp rồi mới phân bổ cho từng sản phẩm theo chi phí nhân công trực tiếp là chưa hợp lý. Theo em, Công ty nên tập hợp chi phí sản xuất chung theo từng phân xưởng sản xuất để tiện cho việc tính giá thành sản phẩm ở từng phân xưởng được chính xác, đồng thời sẽ đảm bảo yêu cầu quản lý chi phí sản xuất phát sinh ở từng phân xưởng được phản ánh đúng, cho thấy được hiệu quả của chi phí bỏ ra. ý kiến 8: Về việc ghi chép trên sổ kế toán chi tiết ở Công ty căn cứ để ghi sổ chi tiết TK 621 gồm : - Số liệu từ bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ phản ánh chi phí về nguyên vật liệu xuất dùng cho sản xuất cho sản phẩm ở các xí nghiệp mà chưa được chi tiết tới từng phân xưởng, từng sản phẩm. - Số liệu từ các chứng từ gốc phản ánh các khoản chi về nguyên vật liệu mua ngoài dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm không qua nhập kho. Chứng từ gốc được sử dụng để ghi sổ chi tiết TK 621 đồng thời để ghi vào các nhật kí chứng từ và các sổ chi tiết xuất vật tư. Điều này làm cho khối lượng ghi chép nhiều, phức tạp mà tác dụng với quản lý, theo dõi khoản mục chi phí này không cao. Theo em, với điều kiện thực tế của Công ty, việc ghi chép sổ chi tiết TK 621, phần chi phí nguyên vật liệu trực tiếp mua ngoài dùng cho sản xuất sản phẩm không qua nhập kho, kế toán có thể căn cứ vào số liệu tổng hợp từ sổ chi tiết vật tư và ghi trên sổ chi tiết TK 621 cho từng sản phẩm theo từng TK đối ứng (TK 331, TK 111). Hơn nữa, số liệu trên bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ của Công ty nên chi tiết theo từng sản phẩm, từng phân xưởng theo từng xí nghiệp và dùng sổ này để ghi vào sổ chi tiết TK 621. Việc hạch toán ghi chép như vậy sẽ tạo điều kiện cho kế toán tổng hợp dễ dàng theo dõi tổng hợp chi phí sản xuất cho từng phân xưởng, từng sản phẩm phục vụ cho công tác ghi sổ kế toán liên quan (sổ chi tiết TK 154). Tương tự như vậy, đối với sổ chi tiết TK 621, phần chi phí vật liệu công cụ dụng cụ mua ngoài dùng cho sản xuất, quản lý sản xuất tại phân xưởng, kế toán Công ty nên tập hợp từ từng nhật ký chứng từ mà không cần chi tiết theo từng chứng từ gốc như hiện nay. ý kiến 9: Về việc áp dụng máy vi tính cho công tác kế toán Qua thời gian thực tập tại Công ty, em thấy, công tác kế toán ở Công ty rất được chú trọng, tuy nhiên việc ứng dụng kế toán máy phục vụ cho công tác kế toán vẫn chưa được thực hiện. Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, việc ứng dụng nó ngày càng được ưu tiên, và là một trong những điều kiện tiên quyết góp phần tăng khả năng cạnh tranh cho mỗi doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường. Cũng đã có rất nhiều phần mềm kế toán ra đời phục vụ tốt nhất công tác kế toán cho mỗi doanh nghiệp như : FAST, EFFECT, ACSOFT, MISA, AFSYS…Vì vậy, để giúp cho bộ máy kế toán của Công ty vận dụng được một cách linh hoạt, có hiệu quả, Công ty nên trang bị hệ thống máy vi tính, thiết kế phần mềm kế toán cho riêng mình, đào tạo bồi dưỡng trình độ về máy vi tính, kế toán máy cho nhân viên kế toán…Thực hiện được điều này sẽ giúp cho việc luân chuyển chứng từ, đối chiếu số liệu, cung cấp thông tin kịp thời, phục vụ tốt cho công tác quản trị doanh nghiệp. Ngoài ra, việc ứng dụng kế toán máy cũng góp phần tiết kiệm chi phí nhân công do Công ty có được đội ngũ nhân viên kế toán ít người nhưng trình độ cao góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý cũng như công tác kế toán. Kết luận Trong thời đại ngày nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn thành công trên thương trường thì phải nắm bắt cơ hội kinh doanh. Để có thể chớp thời cơ kinh doanh thì nhu cầu về thông tin kinh tế, tài chính đòi hỏi tính kịp thời càng cao. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế ngày càng phát triển, thị trường ngày càng sôi động thì vai trò của phần hành này ngày càng quan trọng. Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác, kịp thời có ý nghĩa rất lớn trong việc phân tích, đánh giá tình hình sử dụng các nguồn lực của quá trình sản xuất để đưa ra biện pháp thích hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong luận văn tốt nghiệp của mình, em đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất, thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quang điện- Điện tử, đồng thời đưa ra một số nhận xét, đánh giá cũng như kiến nghị nhỏ bé của mình nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại Công ty. Hy vọng rằng Công ty sẽ tiếp tục duy trì và phát triển những thành tích đạt được, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Dù đã có nhiều cố gắng nhưng trong luận văn tốt nghiệp này vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, sửa chữa của Thầy giáo để luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên thực hiện Phạm Thị Nhung Danh mục tài liệu tham khảo 1. Hệ thống kế toán doanh nghiệp- NXB Tài chính 1995. 2. Hướng dẫn thực hành chế độ kế toán mới. TS.Võ Văn Nhị- NXB Tài chính 2003 3. Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính. Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Văn Công- NXB Tài chính 2002. 4. Kế toán quản trị. Chủ biên: PGS. TS Nguyễn Minh Phương – NXB Lao động – Xã hội. 5. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh – Bộ môn kế toán quản trị và PTHĐKD – Trường ĐHKTQD. 6. Tạp chí kế toán, kiểm toán. 7. Quyết định số 165/ 2002/ QĐ - BTC ban hành ngày 31/12/2002. 8. Thông tư số 89/ 2002/ TT – BTC ban hành ngày 9/10/2002. 9. Thông tư số 105/ 2003/ TT – BTC ban hành ngày 4/11/2003 hướng dẫn thực hiện sáu chuẩn mực kế toán mới. 10. Các tài liệu, sổ sách, chứng từ kế toán của Công ty Quang điện- Điện tử. 11. Luận văn tốt nghiệp của các khóa trước. 12. Một số tài liệu khác. Mục lục Trang Danh mục các từ viết tắt STT Từ viết tắt Từ gốc 1 NKCT Nhật ký chứng từ 2 TSCĐ Tài sản cố định 3 GTGT Giá trị gia tăng 4 GTKT Gia tăng khấu trừ 5 SPDD Sản phẩm dở dang 6 SX Sản xuất 7 NVL Nguyên vật liệu 8 CCDC Công cụ dụng cụ 9 TK Tài khoản 10 BHXH Bảo hiểm xã hội 11 KPCĐ Kinh phí công đoàn 12 BHYT Bảo hiểm y tế 13 CPSX Chi phí sản xuất 14 NVKD Nguồn vốn kinh doanh 15 CSH Chủ sở hữu 16 XDCBDD Xây dựng cơ bản dở dang 17 CBCNV Cán bộ công nhân viên 18 HTK Hàng tồn kho 19 TGNH Tiền gửi ngân hàng 20 SPS Số phát sinh 21 SP Sản phẩm 22 KKTX Kê khai thường xuyên 23 KKĐK Kiểm kê định kỳ danh mục các sơ đồ STT Số sơ đồ Tên sơ đồ Trang 1 Sơ đồ 1.1 Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 12 2 Sơ đồ 1.2 Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 13 3 Sơ đồ 1.3 Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung 15 4 Sơ đồ 1.4 Sơ đồ hạch toán tổng hợp CPSX theo phương pháp KKTX 16 5 Sơ đồ 1.5 Sơ đồ hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm của kế toán Pháp 24 6 Sơ đồ 1.6 Sơ đồ hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm của kế toán Mỹ theo phương pháp KKTX 26 7 Sơ đồ 1.7 Sơ đồ hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm của kế toán Mỹ theo phương pháp KKĐK 27 8 Sơ đồ 2.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Công ty Quang điện- Điện tử 32 9 Sơ đồ 2.2 Sơ đồ quy trình sản xuất quạt 34 10 Sơ đồ 2.3 Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của Công ty Quang điện - Điện tử 39 11 Sơ đồ 2.4 Sơ đồ quy trình ghi sổ theo hình thức NKCT 46 12 Sơ đồ 2.5 Sơ đồ quy trình ghi sổ kế toán CPSX theo hình thức NKCT 53 danh mục các bảng biểu STT Số biểu Tên bảng biểu Trang 1 Biểu số 2.1 Phiếu xuất kho 56 2 Biểu số 2.2 Sổ chi tiết xuất vật tư 57 3 Biểu số 2.3 Sổ chi tiết TK 621 58 4 Biểu số 2.4 Bảng kê tổng hợp vật tư xuất dùng cho sản xuất 59 5 Biểu số 2.5 Bảng phân bổ vật liệu, CCDC ( Bảng phân bổ số 2) 59 6 Biểu số 2.6 Bảng kê số 4 ( Trích TK 621) 60 7 Biểu số 2.7 Sổ Cái TK 621 60 8 Biểu số 2.8 Bảng thanh toán lương sản phẩm ( PX A1) 63 9 Biểu số 2.9 Bảng phân bổ tiền lương và BHXH ( Bảng phân bổ số 1) 66 10 Biểu số 2.10 Bảng kê khối lượng sản phẩm hoàn thành 67 11 Biểu số 2.11 Bảng phân bổ chi phí NCTT cho từng loại sản phẩm 67 12 Biểu số 2.12 Sổ chi tiết TK 622 68 13 Biểu số 2.13 Bảng kê số 4 ( Trích TK 622) 69 14 Biểu số 2.14 Sổ Cái TK 622 70 15 Biểu số 2.15 Trích bảng phân bổ tiền lương và BHXH ( Trích TK 627) 73 16 Biểu số 2.16 Trích bảng phân bổ nguyên liệu, CCDC ( Trích TK 627) 74 17 Biểu số 2.17 Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ ( Bảng phân bổ số 3) 76 18 Biểu số 2.18 Sổ chi tiết TK 627 78 19 Biểu số 2.19 Bảng tổng hợp chi tiết TK 627 79 20 Biểu số 2.20 Bảng kê số 4 ( Trích TK 627) 80 21 Biểu số 2.21 Sổ Cái TK 627 81 22 Biểu số 2.22 Bảng phân bổ chi phí sản xuất chung 83 23 Biểu số 2.23 Bảng kê số 4 85 24 Biểu số 2.24 NKCT số 7 P1: Tập hợp chi phí SXKD toàn doanh nghiệp 86 25 Biểu số 2.25 NKCT số 7 P2: Tập hợp chi phí SXKD theo yếu tố 87 26 Biểu số 2.26 Sổ Cái TK 154 88 27 Biểu số 2.27 Bảng trị giá sản phẩm làm dở cuối kỳ QB 400 89 28 Biểu số 2.28 Sổ chi tiết TK 154 – Tập hợp CPSXKDDD 93 29 Biểu số 2.29 Bảng kê khối lượng sản phẩm hoàn thành 94 30 Biểu số 3.1 Bảng phân bổ vật liệu, CCDC ( Bảng phân bổ số 2) 104 31 Biểu số 3.2 Bảng kê số 4 ( Tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh theo phân xưởng) 108 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36243.doc
Tài liệu liên quan