Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc nâng cao hiệu quả quản lý chi phí sản xuất tại Công ty xây dựng số 20 - LICOGI

Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải đứng trước sự cạnh tranh rất gay gắt khốc liệt. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp buộc phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao. Muốn vậy thì trước tiên các doanh nghiệp phải quản lý tốt chi phí để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng, được người tiêu dùng chấp nhận và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác

doc142 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc nâng cao hiệu quả quản lý chi phí sản xuất tại Công ty xây dựng số 20 - LICOGI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạch toán chi phí sản xuất (CPSX) và tính giá thành sản phẩm để cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho quản lý. Vì vậy hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm có một vai trò rất quan trọng trong quản lý doanh nghiệp. Đối với ngành xây dựng cơ bản (XDCB) - một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, thì điều đó càng đặc biệt có ý nghĩa. XDCB là ngành sản xuất tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Các sản phẩm của ngành phục vụ cho mọi lĩnh vực của đời sống và xã hội, thể hiện tính hiện đại, thẩm mỹ và bản sắc của dân tộc nên có ý nghĩa quan trọng cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Trong những năm gần đây, đất nước ta đang chuyển mình, hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội đều phát triển không ngừng, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh ... điều đó đòi hỏi một sự đầu tư thích đáng vào cơ sở hạ tầng. Chính vì thế vốn đầu tư vào XDCB đã tăng mạnh với một khối lượng xây dựng rất lớn. Điều này đặt ra một nhu cầu cấp bách là phải quản lý sao cho có hiệu quả nguồn vốn đầu tư này, tránh những lãng phí, thất thoát vốn trong XDCB. Trong điều kiện đó, công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm nói riêng đã khẳng định vai trò thiết yếu của mình. Đứng về mặt vi mô, việc hạch toán CPSX và tính giá thành một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời sẽ cung cấp những thông tin cần thiết cho quản lý, để các nhà quản lý đưa ra những quyết định tối ưu trong sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. CPSX và giá thành sản phẩm sẽ là thước đo trình độ công nghệ, trình độ quản lý cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, xét về mặt vĩ mô, việc hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sẽ là cơ sở để Nhà nước kiểm tra hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư, cũng như xác định quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước. Chính vì vậy, hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm luôn luôn là một phần hành quan trọng của công tác kế toán và quản lý trong các doanh nghiệp nói chung và trong doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Nhận thức được điều đó, trong thời gian thực tập tại Công ty xây dựng số 20 trực thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng - Bộ xây dựng (LICOGI ) em đã chọn đề tài: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc nâng cao hiệu quả quản lý chi phí sản xuất tại Công ty xây dựng số 20 – LICOGI cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mục đích của đề tài này là nhằm vận dụng những kiến thức đã học vào việc hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm tại Công ty. Trên cơ sở kết hợp lý luận và thực tiễn để phân tích làm rõ những ưu điểm, những thay đổi phù hợp so với chế độ kế toán đã ban hành, đồng thời phát hiện những tồn tại, những yếu điểm trong công tác kế toán để có những biện pháp xử lý thích hợp, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý chi phí và giá thành của doanh nghiệp. Nội dung của luận văn gồm 3 phần: - Phần một: Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. - Phần hai: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 20 - LICOGI. - Phần ba: Phương hướng hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 20 - LICOGI. Sau một thời gian thực tập tại Công ty, được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo TS. Nguyễn Minh Phương và sự chỉ bảo giúp đỡ của các cô chú trong phòng kế toán Công ty và phòng kế toán Xí nghiệp 201, em đã hoàn thành luận văn này. Do trình độ kiến thức có hạn và thời gian thực tập chưa lâu nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Phần một Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp I. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp có ảnh hưởng tới hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất độc lập và đặc biệt có khả năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Đây là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho toàn bộ xã hội, tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân và tăng cường cả về tiềm lực kinh tế lẫn quốc phòng. Quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp và sản phẩm xây lắp có những đặc điểm khác biệt so với các ngành khác. Những đặc điểm đó đã chi phối đến việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp, dẫn đến những khác biệt nhất định. I.1. Đặc điểm hoạt động xây lắp Trong các doanh nghiệp xây lắp, quy trình hoạt động thường trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn đấu thầu; Giai đoạn nhận thầu và thi công công trình; Giai đoạn bàn giao công trình. Trong quy trình trên, một bước công việc rất quan trọng và không thể thiếu là lập dự toán thi công. Căn cứ vào thiết kế thi công công trình, định mức tiêu hao và đơn giá các yếu tố đầu vào (như nguyên vật liệu, nhân công) để tính ra giá trị dự toán công trình. Xuất phát từ các quy định về lập dự toán công trình xây dựng cơ bản cũng như xuất phát từ các đặc điểm tại đơn vị nhận thầu, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có những đặc điểm sau: Một là, dự toán công trình xây dựng cơ bản được lập theo từng khoản mục chi phí do đó kế toán chi phí nhất thiết phải được phân tích theo từng phoản mục chi phí, từng hạng mục công trình cụ thể nhằm thường xuyên so sánh, kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí. Qua đó xem xét nguyên nhân vượt kế hoạch, hụt dự toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh. Hai là, đối tượng hạch toán chi phí có thể là toàn bộ công trình, hạng mục công trình, các đơn đặt hàng, các giai đoạn kỹ thuật quy ước nên phải lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng hạng mục hay giai đoạn hoàn thành của hạng mục. Ba là, giá thành của công trình không bao gồm giá trị thiết bị do chủ đầu tư đưa vào để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do đơn vị xây lắp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bởi vậy khi nhận thiết bị do đơn vị chủ đầu tư bàn giao để lắp đặt, giá trị thiết bị được ghi vào bên Nợ tài khoản 002 - Vật tư hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công. Bốn là, giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật tư kết cấu và các giá trị thiết bị kèm theo như các thiết bị vệ sinh, thông gió, thiết bị sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ, thiết bị truyền dẫn ... Bên cạnh đó việc hạch toán trong các doanh nghiệp xây lắp còn chịu ảnh hưởng bởi các đặc điểm của sản phẩm xây lắp. I.2. Đặc điểm sản phẩm xây lắp Do tính chất đặc thù của ngành xây dựng cơ bản nên sản phẩm xây lắp có những tính chất khác biệt so với các sản phẩm hàng hoá thông thường. Sản phẩm của ngành xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Đặc điểm này đòi hỏi doanh nghiệp tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải lập dự toán thiết kế và thi công. Dự toán này phải được những cá nhân cơ quan có thẩm quyền xét duyệt và sẽ là cơ sở cho những khoản chi khi đang tiến hành xây lắp. Trong quá trình xây lắp, doanh nghiệp luôn luôn phải theo dõi, so sánh chi phí sản xuất thực tế và dự toán phần việc tương ứng. Sản phẩm xây lắp được cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện khác phục vụ cho thi công công trình như vật tư, máy móc thiết bị, nhân công ... đều phải di chuyển theo địa điểm thi công. Đồng thời công tác xây lắp phải tiến hành ngoài trời nên chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết khí hậu, dễ gây tình trạng mất mát, hao hụt, lãng phí vật tư tài sản, làm tăng thiệt hại trong tổng chi phí sản xuất. Điều này thường gây khó khăn về công tác quản lý doanh nghiệp, nhất là đối với các công trình nằm xa trụ sở doanh nghiệp, xa trung tâm, khu dân cư, và vì thế nó làm tăng chi phí sản xuất chung. Sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, nghĩa là không bao giờ có hai sản phẩm xây lắp hoàn toàn giống hệt nhau. Đặc điểm này gây khó khăn cho quản lý giá thành, thực hiện so sánh mức hạ giá thành sản phẩm của kỳ trước và kỳ này, của các doanh nghiệp cùng ngành. Ngoài ra thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp thường kéo dài. Tuỳ theo quy mô của sản phẩm, khả năng thanh toán và yêu cầu tiến độ thi công của chủ đầu tư, thời gian thi công có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm. Để có thể so sánh giá thành kế hoạch, giá thành định mức một cách kịp thời đòi hỏi kế toán phải biết bóc tách dự toán công trình thành những phần riêng biệt tương ứng kịp thời hạch toán chi phí sản xuất. Sản phẩm xây lắp hoàn thành không nhập kho mà được tiêu thụ ngay theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư từ trước theo hợp đồng được ký kết giữa bên A và bên B. Vì vậy tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp thể hiện không rõ. Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp thường kéo dài từ vài chục đến vài trăm năm nên bên bán sản phẩm xây lắp phải có thời gian bảo hành từ một đến hai năm. Do đó doanh nghiệp phải thực hiện công tác quản lý chặt chẽ tới từng công trình. Như vậy, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong các doanh nghiệp xây lắp chịu ảnh hưởng rõ nét của các tính chất đặc thù của hoạt động xây lắp cũng như của sản phẩm xây lắp. Điều này đòi hỏi công tác kế toán vừa phải đáp ứng được yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây lắp, từ đó để có thể cung cấp số liệu kịp thời, chính xác, phục vụ cho công tác quản lý sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Trước khi tìm hiểu cụ thể về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp, chúng ta tìm hiểu qua về các khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp, để có thể nắm bắt một cách đầy đủ các vấn đề hạch toán sau này. II. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp II.1. Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp II.1.1. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất xây lắp Quá trình sản xuất kinh doanh xây lắp là quá trình biến đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào thành các công trình, lao vụ nhất định. Các yếu tố về tư liệu lao động, đối tượng lao động (biểu hiện là các hao phí về lao động vật hoá) dưới sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu hiện là hao phí về lao động sống) qua quá trình biến đổi sẽ tạo nên sản phẩm. Nhằm mục đích đo lường các hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong từng kỳ nhằm tổng hợp, xác định kết quả kinh doanh phục vụ yêu cầu quản lý thì mọi hao phí cuối cùng đều được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ và được gọi là chi phí sản xuất kinh doanh. Như vậy, chi phí sản xuất xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất xây lắp trong một thời kỳ nhất định. Trong đó, chi phí về lao động sống bao gồm chi phí nhân công và các khoản trích theo lương (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn). Còn chi phí về lao động vật hoá bao gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, chi phí khấu hao máy móc, chi phí khác bằng tiền ... Trong doanh nghiệp xây lắp, ngoài hoạt động sản xuất xây lắp tạo ra các sản phẩm xây lắp còn có các hoạt động khác. Do đó chỉ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất xây lắp nhằm tạo ra sản phẩm xây lắp mới được coi là chi phí sản xuất xây lắp. Thực chất của chi phí là sự chuyển dịch vốn, chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào đối tượng tính giá thành(công trình, hạng mục công trình). Khái niệm chi tiêu và chi phí tuy có quan hệ mật thiết với nhau nhưng lại là hai khái niệm khác nhau. Chi phí của kỳ hạch toán là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ, còn chi tiêu lại là sự giảm đi của các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể là nó được dùng vào mục đích gì.Vì vậy, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng không được tính vào chi phí trong kỳ như chi mua nguyên vật liệu nhập kho chưa xuất dùng, hay có những khoản chi phí phát sinh kỳ này nhưng thực tế chưa chi ra như các khoản trích trước chi phí ... Sở dĩ có sự khác biệt này là do đặc điểm, tính chất và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản trong quá trình sản xuất và do yêu cầu của kỹ thuật hạch toán. Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp bao gồm nhiều loại có nội dung, công dụng và đặc tính khác nhau nên yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Vì vậy cần thiết phải phân loại chi phí sản xuất xây lắp. II.1.2. Phân loại chi phí sản xuất xây lắp Phân loại chi phí sản xuất là việc căn cứ vào các tiêu thức khác nhau để phân chia chi phí sản xuất thành các loại khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý và hạch toán. Có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất, song mỗi cách phân loại phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Tạo điều kiện sử dụng thông tin kinh tế nhanh nhất cho công tác quản lý chi phí sản xuất , phục vụ tốt cho việc kiểm tra, giám sát chi phí sản xuất của doanh nghiệp. - Đáp ứng đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc tính toán hiệu quả các phương án sản xuất nhưng lại cho phép tiết kiệm chi phí hạch toán và thuận lợi sử dụng thông tin hạch toán kế toán. Về cơ bản thì chi phí sản xuất xây lắp được phân loại theo các tiêu thức sau: a. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố Theo cách phân loại này các chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế sẽ được xếp chung vào một yếu tố, không kể chi phí phát sinh ở đâu hay dùng vào mục đích như thế nào trong quá trình sản xuất. Theo chế độ quản lý chi phí hiện hành, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được chia làm các yếu tố như sau: Chi phí nguyên vật liệu: là toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí nhân công: là toàn bộ tiền công, tiền lương phải trả, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân sản xuất trong doanh nghiệp. Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định sử dụng vào hoạt động xây lắp của doanh nghiệp trong kỳ. Chi phí dịch vụ mua ngoài: là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải trả về các loại dịch vụ mua bên ngoài sử dụng vào qúa trình sản xuất xây lắp của doanh nghiệp như tiền điện, tiền nước,tiền điện thoại ... Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất xây lắp của doanh nghiệp ngoài các yếu tố trên và được thanh toán bằng tiền. Việc phân loại chi phí theo nội dung kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý chi phí sản xuất. Nó chỉ rõ quá trình sản xuất xây lắp của doanh nghiệp phải bỏ ra các loại chi phí gì, là cơ sở để kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo yếu tố phục vụ việc lập bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Nó cho biết kết cấu tỷ trọng từng yếu tố chi phí trong tổng chi phí sản xuất để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, đồng thời cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, kế hoạch về vốn ... b. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí Theo cách phân loại này chi phí sản xuất xây lắp được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu chi phí, như chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công... Những chi phí này được kế toán căn cứ vào chứng từ gốc để tập hợp cho từng đối tượng chịu chi phí. Chi phí gián tiếp: là chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí, thường phát sinh ở bộ phận quản lý. Kế toán tập hợp chi phí rồi tiến hành phân bổ theo một tiêu thức thích hợp. Cách phân loại chi phí sản xuất này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách chính xác và hợp lý. c. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất Nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu lập kế hoạch kiểm soát, chủ động điều tiết chi phí của các nhà quản trị doanh nghiệp, chi phí được phân loại theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất hay còn gọi là phân loại theo cách ứng xử của chi phí. Theo cách này chi phí sản xuất xây lắp được chia thành ba loại: Chi phí bất biến (định phí): là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. Tuy nhiên, định phí chỉ giữ nguyên trong mức độ phù hợp của doanh nghiệp, và định phí tính trên một đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi. Trong các yếu tố của chi phí sản xuất, chỉ có một số yếu tố của chi phí sản xuất chung là được xếp vào loại định phí, như chi phí khấu hao tài sản cố định của bộ phận quản lý, lương nhân viên quản lý, chi phí dịch vụ mua ngoài ... Chi phí khả biến (biến phí): là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động, khi tính cho một đơn vị sản phẩm thì nó ổn định, không thay đổi. Biến phí thường gồm các khoản chi phí như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí hoa hồng ... Chi phí hỗn hợp: là những khoản chi phí mà bản thân nó bao gồm cả các yếu tố định phí lẫn biến phí. ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó thì nó lại thể hiện các đặc tính của biến phí. Trong chi phí sản xuất chỉ có khoản mục chi phí sản xuất chung mới có đặc điểm hỗn hợp. Để lập kế hoạch chi phí hỗn hợp, cần thiết phải tách chi phí hỗn hợp thành hai bộ phận: bộ phận định phí và bộ phận biến phí. Có thể áp dụng một trong các phương pháp sau để phân tích các chi phí hỗn hợp thành các yếu tố khả biến và bất biến: - Phương pháp cực đại - cực tiểu: Chi phí khả biến = Biến động của chi phí Biến động của hoạt động Chi phí bất biến = Tổng chi phí - Chi phí khả biến - Phương pháp bình phương bé nhất: Giải hệ phương trình: Sxy = aSx + bSx2 Sy = na + bSx Trong đó: y: là chi phí hỗn hợp a: là chi phí bất biến b: là tỷ lệ khả biến x: là mức độ hoạt động n: là số đơn vị quan sát Phân loại chi phí theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý của doanh nghiệp. Nó cho phép người quản lý thấy trước được sự biến đổi của chi phí khi có sự biến động về mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó sẽ đáp ứng được nhu cầu lập kế hoạch kiểm soát và lập kế hoạch chủ động điều tiết chi phí. Đồng thời nó phục vụ cho việc phân tích điểm hoà vốn, và ra các quyết định cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh. d. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành Nội dung của phương pháp này là căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sản xuất để phân chia thành các khoản mục chi phí khác nhau. Trong các doanh nghiệp xây lắp, chi phí sản xuất được phân chia thành các khoản mục sau: Chi phí vật liệu trực tiếp: là chi phí về các loại vật liệu chính, vật liệu phụ, vật kết cấu, vật liệu luân chuyển cần thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp, không bao gồm chi phí vật liệu đã tính vào chi phí chung và chi phí máy thi công. Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí về tiền công, tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương của công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xây lắp. Khoản mục này không bao gồm các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính trên lương của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm xây lắp và chi phí tiền lương của nhân viên quản lý đội, nhân viên điều khiển máy thi công. Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí sử dụng xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất xây lắp công trình. Khoản mục chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính trên tiền lương của nhân viên điều khiển máy. Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí trực tiếp khác ngoài các khoản chi phí trên phát sinh ở đội, công trường xây dựng bao gồm: lương nhân viên quản lý đội; các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính trên tiền lương của nhân viên quản lý đội, nhân viên điều khiển máy thi công, công nhân trực tiếp sản xuất; khấu hao tài sản cố định dùng chung cho tổ, đội; và các khoản chi phí khác liên quan đến hoạt động của tổ đội. Phân loại chi phí sản xuất theo tiêu thức này chỉ rõ chi phí doanh nghiệp bỏ ra cho từng lĩnh vực hoạt động, từng địa điểm phát sinh chi phí, làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm xây lắp theo khoản mục, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành ... từ đó để có hướng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Ngoài các cách phân loại chi phí sản xuất trên, tuỳ thuộc vào yêu cầu công tác quản lý chi phí sản xuất xây lắp còn có thể phân loại theo các tiêu chí khác như: - Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với quy trình công nghệ - Phân loại theo thẩm quyền ra quyết định... II.2. Giá thành sản phẩm xây lắp II.2.1. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm xây lắp Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất gồm hai mặt hao phí sản xuất và kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Kết quả sản xuất doanh nghiệp thu được là những sản phẩm, công việc xây lắp nhất định đã hoàn thành. Những sản phẩm, công việc xây lắp hoàn thành này cần phải tính được giá thành thực tế tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng. Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ những chi phí về lao động sống và lao động vật hoá biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình theo quy định. Hay nói cách khác giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của những yếu tố chi phí vào sản phẩm công việc đã hoàn thành. Sản phẩm xây lắp có thể là khối lượng công việc hoặc giai đoạn công việc có dự toán riêng, có thể là công trình, hạng mục công trình hoàn thành toàn bộ. Khác với các doanh nghiệp sản xuất khác, giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt, mỗi hạng mục công trình, công trình hay khối lượng xây lắp khi đã hoàn thành đều có giá thành riêng. Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung tính cho một công trình, hạng mục công trình, hay khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Giá thành là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất , phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí tiết kiệm nhất và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Giá thành còn là căn cứ để xác định hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. II.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp Để thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa giá thành sản phẩm cũng như để có thể quản lý tốt tình hình thực hiện giá thành trong sản xuất của doanh nghiệp, cần thiết phải nắm được các loại giá thành khác nhau. Về cơ bản giá thành được phân chia thành các loại sau: Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình. Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế, kỹ thuật và đơn giá của Nhà nước. Theo đơn giá xây dựng cơ bản ban hành kèm theo quyết định 1736/ QĐ - UB ngày 23/8/1997 của ủy ban nhân dân thành phố Hà nội thì hiện nay giá dự toán được lập cho từng khoản mục như sau: STT Khoản mục chi phí Ký hiệu Diễn giải 1 Chi phí vật liệu A Tính theo đơn giá x Hệ số riêng + Chênh lệch vật liệu 2 Chi phí nhân công B Tính theo đơn giá x Hệ số nhân công các nhóm 2, 3 nếu công nhân công trình thuộc nhóm này 3 Chi phí sử dụng máy C Tính theo đơn giá Cộng chi phí trực tiếp CPTT CPTT = A + B + C 4 Chi phí sản xuất chung D D = B x Tỷ lệ theo quy định tại thông tư số 03/ BXD - VKT Giá thành dự toán G G = A + B + C + D 5 Lãi định mức H H = G x Tỷ lệ theo quy định tại thông tư số 18/TC Giá trị dự toán Gtt Gtt = G + H Như vậy: Giá thành dự toán = Giá trị dự toán - Lãi định mức Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán giá thành kế hoạch của doanh nghiệp được thực hiện trước khi bắt đầu quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp và là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành và hiệu quả của các biện pháp hạ giá thành của doanh nghiệp. Giá thành định mức: là giá thành được xác định trên cơ sở các định mức chi phí đã đạt được trong doanh nghiệp ở thời điểm bắt đầu thi công công trình. Giá thành định mức phản ánh mức độ chi phí đã đạt được nên khi các định mức thay đổi thì giá thành định mức cũng thay đổi và được tính toán lại cho phù hợp với định mức chi phí đạt được cho từng thời gian. Đây là thước đo chính xác để xác định kết quả kinh doanh và đánh giá các giải pháp mà doanh nghiệp áp dụng trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí. Giá thành thực tế: là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các chi phí thực tế để hoàn thành khối lượng xây lắp, bao gồm chi phí định mức, vượt định mức và không định mức (như các khoản bội chi, lãng phí về vật tư, lao động trong quá trình sản xuất xây lắp của đơn vị được phép tính vào giá thành). Giá thành thực tế được tính trên cơ sở số liệu kế toán về chi phí sản xuất xây lắp của khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ, là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật để thực hiện sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra trong các doanh nghiệp xây lắp, do quá trình thi công thường kéo dài, khối lượng sản phẩm xây lắp lớn nên để tiện theo dõi những chi phí phát sinh, giá thành sản phẩm xây lắp còn được phân chia thành: giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh và giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước. Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh: là giá thành của những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành đảm bảo đúng kỹ thuật, chất lượng, thiết kế được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá chính xác, toàn diện hiệu quả sản xuất thi công một công trình, hạng mục công trình. Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước: là giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành đến một giai đoạn nhất định, thỏa mãn các điều kiện: phải nằm trong thiết kế, đảm bảo chất lượng và phải đạt điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Nó cho phép kiểm kê chi phí phát sinh, phát hiện những nguyên nhân gây tăng, giảm chi phí để kịp thời điều chỉnh ở những giai đoạn sau. II.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Đó là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình, giá thành biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất còn chi phí biểu hiện sự hao phí sản xuất, bởi vậy chúng giống nhau về chất. Giá thành và chi phí sản xuất đều bao gồm các loại chi phí về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí khác mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại có sự khác nhau về lượng. Chi phí sản xuất thể hiện những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một kỳ (tháng, quý, năm) không tính đến chi phí đó có liên quan đến sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Còn giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối lượng công việc xây lắp hoàn thành theo quy định. Ta có thể minh họa điều đó trên sơ đồ sau: CPSX dở dang đầu kỳ CPSX phát sinh trong kỳ A B Tổng Z sản phẩm hoàn thành C D CPSX dở dang cuối kỳ Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD - CD Hay: Tổng giá thành sản phẩm xây lắp = Chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp còn có thể bao gồm cả chi phí sản xuất từ kỳ trước chuyển sang của khối lượng sản phẩm dở dang đầu kỳ nhưng không bao gồm chi phí sản xuất của khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ được chuyển sang kỳ sau. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp là hai mặt của cùng một quá trình sản xuất, nó là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Vì vậy kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có một vai trò hết sức quan trọng. II.4. Vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp Trong công tác quản lý thông qua các thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, những nhà quản lý nắm được chi phí sản xuất và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công trình. Từ đó để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật, các dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành để đưa ra các quyết định đúng đắn nhằm quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Để thực hiện tốt vai trò cung cấp thông tin cho các nhà quản lý, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ sau: - Căn cứ vào đặc điểm tổ chức quản lý và quy trình công nghệ để xác định chính xác đối tượng tập hợp chi phí và phương pháp kế toán chi phí thích hợp. - Ghi chép, tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chính xác cho từng đối tượng tập hợp chi phí, trên cơ sở đó kiểm tra tình hình thực hiện định mức chi phí và dự toán chi phí, kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của chi phí phát sinh. Tính toán chính xác chi phí sản phẩm. - Xác định đối tượng tính giá thành, lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp. Tính toán chính xác giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình, kiểm tra tình hình thực hiện giá thành của doanh nghiệp. Trên cơ sở nắm bắt được những khái niệm chung về chi._. phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp như đã trình bày ở trên, chúng ta đi sâu tìm hiểu cụ thể về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. III. Hạch toán chi phí sản xuất trong xây lắp Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán các khoản mục chi phí vào giá thành cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục tính giá thành. Việc tập hợp chi phí vào giá thành phải được thực hiện theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành chính xác và kịp thời. Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng, trình tự tập hợp chi phí sản xuất bao gồm các bước sau: Bước 1: Tập hợp các chi phí sản xuất có liên quan đến từng đối tượng sử dụng. Bước 2: Tính toán, phân bổ lao vụ của ngành sản xuất có liên quan cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ phục vụ. Bước 3: Tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng liên quan theo tiêu thức phù hợp. Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Bước 5: Tính giá thành theo đối tượng tính giá. Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và trong doanh nghiệp xây lắp nói riêng, kế toán chi phí sản xuất là khâu quan trọng trong công tác kế toán của doanh nghiệp. Để phục vụ công tác kế toán chi phí sản xuất, công việc đầu tiên có tính chất định hướng là xác định đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất. III.1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất III.1.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là một giới hạn nhất định về thời gian và địa điểm phát sinh mà các chi phí được tập hợp theo đó, nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành. Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành ở nhiều địa điểm, nhiều tổ đội sản xuất khác nhau. ở từng địa điểm sản xuất lại có thể sản xuất xây lắp nhiều công trình, hạng mục công trình khác nhau. Do đó chi phí sản xuất của doanh nghiệp cũng phát sinh ở nhiều địa điểm khác nhau, liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình và khối lượng công việc xây lắp khác nhau. Vì vậy, để xác định đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cần căn cứ vào các yếu tố sau: - Căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm: đơn giản hay phức tạp, quy trình công nghệ liên tục hay song song. - Căn cứ vào loại hình sản xuất: sản xuất đơn chiếc hay sản xuất hàng loạt. - Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp: tổ chức sản xuất theo xí nghiệp, phân xưởng hay tổ, đội sản xuất. - Căn cứ vào yêu cầu, khả năng và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp xây lắp, hoạt động sản xuất mang đặc trưng của ngành xây dựng là có quy trình công nghệ phức tạp; loại hình sản xuất đơn chiếc, sản phẩm được sản xuất theo đơn đặt hàng với thời gian thi công dài; việc tổ chức sản xuất được phân chia thành nhiều công trường, khu vực thi công; mỗi hạng mục cấu thành bởi các vật chất khác nhau và đều có thiết kế riêng, giá dự toán riêng. Chính vì vậy mà tùy thuộc vào công việc cụ thể, tùy thuộc vào trình độ quản lý của doanh nghiệp mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là công trình, hạng mục công trình, hay từng đơn đặt hàng, từng giai đoạn công việc. Việc xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất, phù hợp với tình hình hoạt động, đặc điểm quy trình công nghệ và đáp ứng được yêu cầu quản lý chi phí của doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện để tổ chức tốt công việc kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu đến vận dụng tài khoản, vào sổ chi tiết, tổng hợp đều phải theo đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất đã xác định. III.1.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay một hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại chi phí sản xuất theo đối tượng hạch toán chi phí. Thông thường thì trong các doanh nghiệp xây lắp sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình hay hạng mục công trình: hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến công trình hay hạng mục công trình nào thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng: chi phí sản xuất phát sinh hàng tháng sẽ được tập hợp và phân loại theo đơn đặt hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành, thì tổng chi phí phát sinh từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo đơn vị thi công (công trường, đội thi công): các chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công, trong từng đơn vị đó lại được tập hợp theo mỗi đối tượng chịu chi phí như hạng mục công trình, nhóm hạng mục công trình ... Cuối tháng tổng hợp chi phí phát sinh ở từng đơn vị thi công, so sánh với dự toán cấp phát để xác định kết quả hạch toán kinh doanh nội bộ. Vào thời điểm công trình, hạng mục công trình hoàn thành phải tính giá thành riêng cho từng công trình, hạng mục công trình đó. Các phương pháp trên có thể quy về hai phương pháp cơ bản là phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Phương pháp trực tiếp: theo phương pháp này, các chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến đối tượng hạch toán chi phí nào thì tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó. Phương pháp này đảm bảo tập hợp chi phí sản xuất cho từng đối tượng một cách chính xác, cung cấp số liệu chính xác cho việc tính giá thành của từng công trình, hạng mục công trình và có tác dụng tăng cường kiểm tra giám sát chi phí sản xuất theo các đối tượng. Phương pháp gián tiếp: theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng hạch toán chi phí sản xuất, hạch toán ban đầu không thể ghi chép riêng cho từng đối tượng thì phải lựa chọn phương pháp phân bổ chi phí sản xuất đó cho từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Phương pháp hạch toán chi phí gián tiếp được tiến hành theo các bước sau: - Tập hợp riêng chi phí liên quan đến nhiều đối tượng. - Xác định hệ số phân bổ trên cơ sở tiêu chuẩn phân bổ hợp lý, theo công thức: Hệ số phân bổ = Tổng chi phí cần phân bổ Tổng tiêu chuẩn phân bổ của các đối tượng Tuỳ theo từng khoản mục chi phí cũng như tuỳ theo đặc điểm của từng doanh nghiệp mà kế toán lựa chọn những tiêu thức phân bổ khác nhau. Tuy nhiên, kế toán thường sử dụng những tiêu thức như khối lượng công việc hoàn thành, tổng chi phí dự toán, tổng chi phí nhân công trực tiếp, số ca máy hoạt động ... - Xác định chi phí sản xuất của từng đối tượng: Chi phí sản xuất của đối tượng hạch toán n = Tổng tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng hạch toán n x Hệ số phân bổ áp dụng phương pháp này tính chính xác tùy thuộc vào việc lựa chọn tiêu chuẩn phân bổ, do đó kế toán phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất, trình độ yêu cầu quản lý và đặc điểm chi phí để lựa chọn. Sau khi xác định được đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất một cách phù hợp, kế toán tiến hành hạch toán chi phí sản xuất theo từng khoản mục chi phí phát sinh. III.2. Nội dung hạch toán chi phí sản xuất xây lắp III.2.1. Hạch toán khoản mục “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp của doanh nghiệp, bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính (như gạch, cát, vôi, xi măng ...) , vật liệu phụ (như sơn, ve tường ... ) được sử dụng trực tiếp cho việc sản xuất sản phẩm xây lắp. Nhưng khoản mục chi phí này không bao gồm giá trị thiết bị của bên giao thầu, giá trị nhiên liệu sử dụng cho máy móc, phương tiện thi công, và những vật liệu sử dụng cho công tác quản lý đội công trình. Chi phí nguyên vật liệu được tính theo giá thực tế khi xuất dùng. Giá thực tế của nguyên vật liệu được xác định tùy theo từng nguồn nhập. Giá thực tế của nguyên vật liệu mua ngoài dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) theo phương pháp khấu trừ là giá không có thuế GTGT bao gồm: giá mua ghi theo hóa đơn (gồm cả thuế nhập khẩu nếu có) cộng với các chi phí thu mua thực tế (chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản ... ). Trường hợp vật liệu mua dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì giá thực tế của nguyên vật liệu là tổng giá thanh toán (bao gồm cả thuế GTGT). Trong xây dựng cơ bản, giá trị nguyên vật liệu xuất dùng được tính theo công thức sau: CPVL = TQj x Djvl + CLvl Trong đó: - TQj: khối lượng công tác xây lắp - Djvl: định mức chi phí vật liệu cho từng công việc xây lắp - CLvl: Chênh lệch vật liệu (nếu có) Trong kỳ nguyên vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào thì phải tính trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó, trên cơ sở các chứng từ gốc theo giá trị thực tế và số lượng thực tế đã xuất dùng. Cuối kỳ hạch toán hoặc khi công trình đã hoàn thành, tiến hành kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào các tài khoản liên quan phục vụ cho việc tính giá thành thực tế của công trình xây lắp trong kỳ kế toán. Trong điều kiện sản xuất thực tế không cho phép tính trực tiếp chi phí nguyên vật liệu cho từng công trình, hạng mục công trình thì tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất thi công, đến cuối kỳ hạch toán tiến hành phân bổ theo tiêu thức hợp lý rồi kết chuyển sang tài khoản liên quan để tính giá thành. Tài khoản sử dụng Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán căn cứ vào các chứng từ gốc như Phiếu xuất kho, Hóa đơn kiêm phiếu xuất kho, Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, để phản ánh lên TK 621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp - mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình. Kết cấu của TK này như sau: - Bên Nợ: Giá trị thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm xây lắp trong kỳ hạch toán. - Bên Có: + Trị giá nguyên vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho + Kết chuyển, phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. TK này không có số dư. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ cụ thể như sau: * Khi xuất kho nguyên vật liệu sử dụng cho hoạt động xây lắp, kế toán ghi: Nợ TK 621 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí NVL trực tiếp Có TK 152: Nguyên vật liệu xuất kho * Trường hợp mua nguyên vật liệu về xuất dùng ngay cho hoạt động xây lắp, không qua kho, kế toán ghi: Nợ TK 621 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí NVLTT(giá chưa thuế) Nợ TK 133(1331): Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111, 112, 331: vật liệu mua ngoài (giá thanh toán) * Trường hợp tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán nội bộ (đơn vị nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng), khi bản quyết toán tạm ứng về giá trị xây lắp đã hoàn thành bàn giao được duyệt, kế toán ghi nhận chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Nợ TK 621 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí NVL trực tiếp Có TK 141(1413): Tạm ứng nguyên vật liệu * Giá trị vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho, giá trị phế liệu thu hồi theo quy định được ghi giảm chi phí sản xuất trong kỳ: Nợ TK 152: Nguyên vật liệu nhập lại kho Có TK 621 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí NVL trực tiếp * Cuối kỳ, căn cứ vào bảng phân bổ nguyên vật liệu tính cho từng đối tượng sử dụng nguyên vật liệu (công trình, hạng mục công trình), kế toán kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cho từng đối tượng: Nợ TK 154 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí SXKD dở dang Có TK 621 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí NVL trực tiếp Thông qua kết quả hạch toán chi phí nguyên vật liệu tiêu hao thực tế theo từng nơi phát sinh cho từng đối tượng chịu phí, thường xuyên kiểm tra đối chiếu với định mức và dự toán để phát hiện kịp thời những mất mát, lãng phí hoặc khả năng tiết kiệm vật liệu, xác định nguyên nhân, người chịu trách nhiệm để kịp thời xử lý, khen thưởng nhằm tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm. Sơ đồ: Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK 152 TK 621 TK 152 Xuất kho NVL cho xây lắp NVL sử dụng không hết nhập lại kho TK 141 Tạm ứng chi phí khoán TK 111,112,331 Mua NVL sử dụng ngay không qua kho TK154 Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp TK 133 Thuế GTGT được khấu trừ III.2.2. Hạch toán khoản mục “Chi phí nhân công trực tiếp” Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp xây lắp phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm xây lắp (bao gồm cả công nhân trong danh sách và lao động thuê ngoài) như tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp. Trong các doanh nghiệp xây lắp, chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm: - Tiền lương và các khoản phụ cấp cho nhân viên quản lý đội, nhân viên văn phòng ở bộ máy quản lý doanh nghiệp, nhân viên điều khiển máy thi công. - Các khoản trích lập bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất. Trong các doanh nghiệp xây lắp áp dụng hai hình thức tính lương chủ yếu là tính lương theo thời gian và tính lương theo công việc giao khoán. Tính lương theo thời gian: việc tính thời gian lao động phải dựa trên Bảng chấm công và Phiếu làm thêm giờ. Hàng ngày căn cứ vào tình hình thực tế, người có trách nhiệm sẽ chấm công cho từng người. Cuối tháng, người chấm công và phụ trách bộ phận sẽ ký duyệt rồi chuyển bảng chấm công cùng các chứng từ khác có liên quan lên phòng kế toán để kế toán kiểm tra, tính toán tiền lương cho công nhân và lập bảng thanh toán lương rồi hạch toán vào đối tượng chịu phí. Tiền lương của cán bộ công nhân viên được tính theo công thức sau: Mức lương ngày = Mức lương tháng theo cấp bậc x Hệ số các loại phụ cấp (nếu có) Số ngày làm việc trong tháng theo chế độ (26 ngày) Tiền lương phải trả trong tháng = Mức lương một ngày x Số ngày làm việc trong tháng Tính lương theo công việc giao khoán: khối lượng công việc được quy định rõ trên Hợp đồng giao khoán được ký theo từng phần công việc, giai đoạn công việc, hoặc công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Trong quá trình thực hiện, ngoài việc theo dõi tình hình thực hiện khối lượng giao khoán, thời gian thực hiện hợp đồng, còn phải theo dõi ngày công lao động của công nhân thông qua Bảng chấm công để làm căn cứ chia lương. Khi công việc hoàn thành, người phụ trách cùng với cán bộ kỹ thuật nghiệm thu khối lượng công việc giao khoán, lập Bản thanh toán hợp đồng, rồi chuyển các chứng từ liên quan lên phòng kế toán để kế toán tính lương và hạch toán chi phí. Tùy theo từng hợp đồng mà tiền lương trả gọn trong một hay nhiều kỳ. Tiền lương được tính theo công thức sau: Tiền lương phải trả = Khối lượng công việc giao khoán hoàn thành x Đơn giá tiền lương Tiền lương tính theo công việc giao khoán có thể được tính cho từng công nhân hoặc tính chung cho một nhóm công nhân, khi đó tiền lương của từng công nhân được phân chia theo công thức sau: Tiền lương của từng công nhân = Tiền lương của cả nhóm x Số công của từng công nhân Tổng số công của cả nhóm Tài khoản sử dụng Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán căn cứ vào Bảng thanh toán lương để phản ánh lên TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp - mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình. Kết cấu TK này như sau: - Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp phát sinh trong kỳ - Bên Có: Kết chuyển, phân bổ chi phí nhân công trực tiếp vào TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. TK này không có số dư. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ cụ thể như sau: * Phản ánh số tiền lương, tiền công phải trả cho lao động thuộc danh sách do doanh nghiệp quản lý, kế toán ghi: Nợ TK 622 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí nhân công trực tiếp Có TK 334(3341): phải trả cho công nhân thuộc danh sách Có TK 111,112,334(3342): trả cho lao động thuê ngoài * Trường hợp tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán nội bộ (bộ phận nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng), khi quyết toán tạm ứng về khối lượng xây lắp nội bộ đã hoàn thành bàn giao được duyệt, kế toán ghi nhận chi phí: Nợ TK 622 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí nhân công trực tiếp Có TK141(1413): tạm ứng lương * Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp cho từng đối tượng: Nợ TK 154 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí SXKD dở dang Có TK 622 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí nhân công trực tiếp Sơ đồ: Hạch toán chi phí Nhân công trực tiếp TK 111,112,334 TK 622 TK 154 Phải trả công nhân trong Kết chuyển chi phí doanh ngiệp hoặc thuê ngoài nhân công trực tiếp TK 141 Tạm ứng chi phí khoán III.2.3. Hạch toán khoản mục “Chi phí sử dụng máy thi công” Máy móc thi công là những loại máy móc trực tiếp phục vụ cho thi công như cần cẩu, máy trộn bê tông, máy vận thăng ... Tuy nhiên để có đầy đủ khối lượng máy móc phục vụ cho thi công thì cần lượng vốn rất lớn mà nhiều khi không sử dụng hết công suất hoạt động của máy, vì vậy các doanh nghiệp chỉ mua một số máy móc nhất định đảm bảo hoạt động có hiệu quả, số còn lại doanh nghiệp sẽ thuê ở các doanh nghiệp khác hoặc ở các tổ chức chuyên cho thuê máy móc thiết bị để tiết kiệm vốn. Chi phí máy thi công là các chi phí sử dụng xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình, bao gồm chi phí vật liệu, nhiên liệu động lực cho máy hoạt động, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp cho công nhân điều khiển máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công ... Do đặc điểm hoạt động của máy thi công trong xây dựng cơ bản mà chi phí máy thi công chia ra làm hai loại: Chi phí tạm thời: là những chi phí có liên quan đến việc lắp đặt, chạy thử, vận chuyển ... máy thi công. Chi phí thường xuyên: là những chi phí hàng ngày cần thiết cho việc sử dụng máy móc thi công, bao gồm khấu hao máy móc thi công, tiền thuê máy, tiền lương cho công nhân điều khiển và phục vụ máy, nhiên liệu động lực dùng cho chạy máy, phí tổn sửa chữa thường xuyên và các chi phí khác. Không hạch toán vào chi phí máy thi công các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương phải trả cho công nhân điều khiển máy. Chi phí máy thi công được hạch toán trực tiếp cho từng đối tượng chịu phí, trường hợp một máy thi công sử dụng cho nhiều công trình trong kỳ hạch toán thì dùng các tiêu thức thích hợp để phân bổ chi phí máy thi công cho từng công trình. Theo chế độ quy định hiện nay thường sử dụng ba tiêu thức phân bổ sau: Tiêu thức khối lượng công việc hoàn thành của máy: Chi phí máy thi công phân bổ cho công trình A = Tổng chi phí máy thi công cần phân bổ x Khối lượng công việc máy thi công hoàn thành tại công trình A Tổng khối lượng công việc hoàn thành của máy thi công Tiêu thức này thường dùng với những máy móc có chức năng chuyên dụng và tính được khối lượng hoàn thành như máy trộn bê tông, máy ủi, máy xúc ... Tiêu thức ca máy làm việc: Chi phí máy thi công phân bổ cho công trình A = Tổng chi phí máy thi công cần phân bổ x Số ca máy làm việc tại công trình A Tổng ca máy làm việc của máy thi công Sử dụng tiêu thức này luôn phải theo dõi chính xác số ca máy cho từng công trình. Tiêu thức dự toán chi phí sử dụng máy thi công: Chi phí máy thi công phân bổ cho công trình A = Tổng chi phí máy thi công cần phân bổ x Dự toán chi phí máy thi công công trình A Tổng dự toán chi phí máy thi công các công trình Tài khoản sử dụng Để theo dõi khoản mục chi phí sử dụng máy thi công, kế toán căn cứ vào các chứng từ gốc như Bảng theo dõi giờ công, Bảng phân bổ khấu hao, Bảng phân bổ vật liệu, Phiếu thanh toán và các chứng từ liên quan khác để phản ánh lên TK 623 - Chi phí sử dụng máy thi công. Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn bằng máy thì không sử dụng TK 623 mà phản ánh trực tiếp vào các tài khoản: TK 621, TK 622, TK 627. TK 623 có kết cấu như sau: - Bên Nợ: Tập hợp chi phí sử dụng máy thi công phát sinh - Bên Có: Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Tài khoản này không có số dư và được chi tiết thành 6 TK cấp 2 là: - TK 6231: Chi phí nhân công - TK 6232: Chi phí vật liệu - TK 6233: Chi phí dụng cụ sản xuất - TK 6234: Chi phí khấu hao máy thi công - TK 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài - TK 6238: Chi phí khác bằng tiền Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ cụ thể như sau: Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phụ thuộc vào hình thức sử dụng máy thi công: tổ chức đội máy thi công riêng biệt chuyên thực hiện các khối lượng thi công bằng máy hoặc giao máy thi công cho các đội hoặc đơn vị đi thuê máy. a. Trường hợp doanh nghiệp có tổ chức đội máy thi công riêng Trong trường hợp này, chi phí phát sinh của đội máy thi công được tập hợp theo 3 khoản mục NVLTT, NCTT, CPSXC, sau đó kết chuyển về TK 154 để tính giá thành của một giờ máy, ca máy. * Tập hợp các chi phí liên quan đến hoạt động của đội máy thi công, kế toán ghi: Nợ TK 621, 622, 627 - chi tiết đội máy Có các TK liên quan * Cuối kỳ kết chuyển chi phí về TK 154 để tính giá thành: Nợ TK 154 - Chi tiết đội máy Có TK 621, 622, 627 - chi tiết đội máy Tùy theo phương thức tổ chức công tác hạch toán và mối quan hệ giữa đội máy thi công với đơn vị xây lắp công trình, kế toán phản ánh chi phí sử dụng máy thi công cho các đối tượng chịu phí như sau: * Trường hợp đội máy thi công không hạch toán kết quả: Căn cứ vào giá thành một giờ máy, ca máy và số giờ máy, ca máy mà đội máy thi công phục vụ cho từng công trình, kế toán phân bổ chi phí của đội máy thi công cho từng công trình: Nợ TK 623 - chi tiết cho từng đối tượng: Giá trị của đội máy thi công phục vụ cho các đối tượng Có TK 154 - chi tiết đội máy: Giá thành dịch vụ của đội máy thi công phục vụ cho các đối tượng Sơ đồ: Hạch toán chi phí máy thi công TK liên quan TK 621, 622, 627 TK 154 - MTC TK 623 - A Tập hợp chi phí đội máy Kết chuyển chi phí Phân bổ CPMTC cho công trình A TK 623 - B Phân bổ CPMTC cho công trình B * Trường hợp đội máy thi công hạch toán kết quả riêng: Căn cứ vào giá giao khoán của một giờ máy, ca máy cho một máy thi công và số giờ máy, ca máy mà đội máy thi công phục vụ cho từng công trình, kế toán xác định chi phí máy thi công cho từng công trình: Nợ TK 623 - chi tiết cho từng đối tượng: Giá bán nội bộ Nợ TK 133(1331): Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có) Có TK 512: Doanh thu tiêu thụ nội bộ Có TK 333(3331): Thuế GTGT phải nộp (nếu có) Sơ đồ: Hạch toán chi phí máy thi công TK liên quan TK 621,622,627 TK 154 - MTC TK 632 TK 911 TK 512 TK 623 Tổng hợp chi Kết chuyển Kết chuyển K/c K/c P/b CPMTC phí đội máy chi phí giá thành giá vốn d thu (Giá nội bộ) * Cuối kỳ, kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào TK 154: Nợ TK 154 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí SXKD dở dang Có TK 623 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí máy thi công b. Trường hợp đội thi công có máy thi công riêng Trường hợp này các chi phí liên quan đến máy thi công được tập hợp riêng, cuối kỳ kết chuyển hoặc phân bổ theo từng đối tượng chịu phí (công trình, hạng mục công trình). * Tập hợp chi phí vật liệu: Nợ TK 623(6232) Có TK liên quan (111, 112, 152 ... ) * Tập hợp chi phí tiền lương, tiền công của công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công: Nợ TK 623(6231) Có TK liên quan (3341, 3342, 111 ... ) * Các chi phí khác liên quan đến bộ phận máy thi công trong từng đội (chi phí khấu hao, chi phí sửa chữa, điện, nước, chi phí bằng tiền khác ... ): Nợ TK 623(Chi tiết tiểu khoản) Nợ TK 133(1331): Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có) Có TK liên quan (111, 112, 214, 331 ... ) * Trường hợp tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ, khi quyết toán tạm ứng về khối lượng xây lắp đã hoàn thành bàn giao được duyệt, kế toán ghi nhận chi phí: Nợ TK 623 Có TK 141(1413): Tạm ứng chi phí máy thi công * Cuối kỳ, kết chuyển, phân bổ chi phí máy thi công cho từng đối tượng chịu phí (công trình, hạng mục công trình): Nợ TK 154 - chi tiết cho từng đối tượng: Chi phí SXKD dở dang Có TK 623 - chi tiết máy thi công: Phân bổ chi phí sử dụng MTC Sơ đồ: Hạch toán chi phí máy thi công TK 111,112,334 TK 623 TK 154 Tiền lương công nhân Kết chuyển , phân bổ CPMTC điều khiển máy cho từng đối tượng TK 141 Tạm ứng chi phí khoán TK 152,153,111... Xuất mua VL cho máy thi công TK 111,214,331 Chi phí khác cho máy thi công TK 133 Thuế GTGT được khấu trừ c. Trường hợp máy thi công thuê ngoài * Toàn bộ chi phí thuê máy thi công được tập hợp vào TK 623: Nợ TK 623(6237): Giá thuê chưa thuế Nợ TK 133(1331): Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111,112,331: Tổng giá thuê ngoài * Cuối kỳ, kết chuyển vào TK 154 theo từng đối tượng: Nợ TK 154 - chi tiết cho từng đối tượng Có TK 623(6237)- chi tiết máy thi công III.2.4. Hạch toán khoản mục “Chi phí sản xuất chung” Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí phát sinh ở các đội sản xuất, bao gồm: chi phí tiền lương nhân viên quản lý đội; các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân điều khiển máy, nhân viên quản lý đội; chi phí vật liệu sử dụng cho đội; chi phí công cụ dụng cụ; chi phí khấu hao TSCĐ; chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác. Chi phí sản xuất chung thường được hạch toán riêng cho từng điểm phát sinh chi phí, sau đó tiến hành phân bổ cho từng đối tượng có liên quan. Khoản chi phí nào chỉ liên quan đến một công trình, hạng mục công trình thì tập hợp trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó. Trường hợp cần phải phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng, kế toán lựa chọn một tiêu thức thích hợp rồi tiến hành phân bổ theo công thức sau: Chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng đối tượng = Tổng chi phí sản xuất chung cần phân bổ x Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng Thông thường kế toán sử dụng những tiêu thức phân bổ như tổng chi phí nhân công trực tiếp, khối lượng công việc xây lắp hoàn thành ... Tài khoản sử dụng Để tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627 - Chi phí sản xuất chung. Kết cấu TK này như sau: - Bên Nợ: Các chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ - Bên Có: + Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung + Kết chuyển chi phí sản xuất chung sang TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang TK này không có số dư và được chi tiết thành 6 TK cấp 2 là: - TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng - TK 6272: Chi phí vật liệu - TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất - TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ - TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài - TK 6278: Chi phí bằng tiền khác Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ cụ thể như sau: * Phản ánh các khoản tiền công, tiền lương, phụ cấp phải trả cho nhân viên quản lý đội, tiền ăn ca của toàn bộ công nhân viên trong đội, kế toán ghi: Nợ TK 627(6271) Có TK 334 *Trích BHXH, BHYT, KPCĐ trên tổng số tiền lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên trong từng đội: Nợ TK 627(6271) Có TK 338(3382, 3383, 3384) * Tập hợp chi phí vật liệu, dụng cụ xuất dùng cho từng đội: Nợ TK 627(6272, 6273) Có TK 152, 153 * Trích khấu hao máy móc, thiết bị sử dụng cho từng đội: Nợ TK 627(6274) Có TK 214 * Các chi phí theo dự toán tính vào chi phí sản xuất chung của đội kỳ này: Nợ TK 627(chi tiết tiểu khoản) Có TK 142: Phân bổ dần chi phí trả trước Có TK 335: trích trước chi phí phải trả * Các khoản chi phí sản xuất chung khác phát sinh, kế toán ghi: Nợ TK 627(6277, 6278): Tập hợp chi phí Nợ TK 133(1331): thuế GTGT được khấu trừ (nếu có) Có TK liên quan (111, 112, 331): Tổng giá thanh toán * Các khoản thu hồi ghi giảm chi phí sản xuất chung: Nợ TK liên quan (111, 112, 152 ... ) Có TK 627 * Trường hợp tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán nội bộ (bộ phận nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng), khi quyết toán tạm ứng về khối lượng xây lắp nội bộ đã hoàn thành bàn giao được duyệt, kế toán ghi: Nợ TK 627 Có TK 141(1413): tạm ứng chi phí sản xuất chung * Cuối kỳ kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng đối tượng: Nợ TK 154 - chi tiết cho từng đối tượng Có TK 627 - chi tiết bộ phận, đội Sơ đồ: Hạch toán chi phí sản xuất chung TK 334,338 TK 627 TK 154 Chi phí nhân viên đội Kết chuyển , phân bổ CPSXC và các khoản trích theo lương cho từng đối tượng TK 152,153 VL,CCDC xuất dùng cho đội TK 214 Khấu hao TSCĐ dùng cho đội TK 111,112,331 Chi phí khác cho đội TK 111,112,152 TK 133 Các khoản thu hồi Thuế GTGT được khấu trừ TK 141 Tạm ứng chi phí khoán III.2.5. Hạch toán thiệt hại trong xây lắp Trong xây dựng cơ bản, quá trình sản xuất luôn phát sinh những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, do vậy các doanh nghiệp xây lắp không thể tránh khỏi những thiệt hại trong sản xuất. Việc hạch toán chính xác những khoản thiệt hại này sẽ giúp doanh ngiệp đánh giá đúng tình trạng sản xuất của mình đồng thời có những biện pháp kịp thời để ngăn ngừa và xử lý, qua đó nhằm giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể phát sinh. Thiệt hại trong xây lắp thường gặp chủ yếu ở hai dạng: - Thiệt hại do phá đi làm lại: thường do các cấu kiện xây lắp làm sai thiết kế, không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, không được bên giao thầu nghiệm thu, hoặc do chủ đầu tư thay đổi thiết kế ... - Thiệt hại do ngừng sản xuất: thường do việc đình chỉ thi công trong một thời gian nhất định vì mưa bão, lũ lụt, không cung ứng đủ vật tư, hay do bên chủ đầu tư chậm giải phóng mặt bằng ... Toàn bộ các khoản thiệt hại sẽ được tập hợp và xử lý trên TK 1381: * Phản ánh các khoản thiệt hại phát sinh: Nợ TK 1381: Giá trị thiệt hại chờ xử lý Có TK liên quan (152, 111, 331...) * Nếu thiệt hại do đơn vị xây lắp gây ra: Nợ TK 111,152: Giá trị phế liệu thu hồi Nợ TK 821: Giá trị tính vào chi phí bất thường Nợ TK 1388, 334: Giá trị cá nhân phải bồi thường Nợ TK 415: Thiệt hại tính vào dự phòng Có TK 1381: Giá trị thiệt hại xử lý * Nếu thiệt hại do phía chủ đầu tư yêu cầu và chịu bồi thường: Nợ TK 111,152: Giá trị phế liệu thu hồi Nợ TK 131: Giá trị chủ đầu tư đồng ý bồi thường Có TK 1381: Giá trị thiệt ._.iếm việc làm, tạo điều kiện cho người lao động luôn có đủ việc làm, tăng thu nhập. Công ty đặc biệt chú trọng quan tâm đến công tác đấu thầu, để có thể ký được những hợp đồng lớn, đem lại lợi nhuận cao và làm tăng uy tín của Công ty trong ngành xây dựng cơ bản. Tuỳ theo quy mô và tính chất của từng công trình mà công ty có thể đấu thầu toàn bộ công trình hoặc từng hạng mục công trình, sao cho phù hợp với tiềm lực của công ty và làm tăng tối đa khả năng thắng thầu. Đối với mỗi dự án, Công ty luôn đưa ra được kế hoạch, biện pháp thi công hợp lý, theo dõi giám sát quá trình thực hiện nhằm tiết kiệm các chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho Công ty. Có thể nói, Công ty đã ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong ngành xây dựng, tạo được uy tín với các bạn hàng, mở rộng phạm vi hoạt động khắp các tỉnh thành trong cả nước. Để có được thành tựu ấy, phải kể đến bộ máy quản lý của Công ty và sự đóng góp rất lớn của các phòng ban chức năng trong đó có phòng kế toán. * Về bộ máy quản lý: Công ty đã xây dựng được một bộ máy quản lý gọn nhẹ, phù hợp với cơ chế thị trường. Các cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng quản lý và kinh nghiệm lâu năm trong ngành xây dựng, năng động nhạy bén, nên luôn kịp thời xử lý mọi tình huống trong sản xuất. Mô hình quản lý trực tuyến với sự lãnh đạo cao nhất của Giám đốc công ty đã đem lại sự nhất quán, nhịp nhàng trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. * Về tổ chức sản xuất: Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được chia làm hai mảng xây dựng và cơ giới. Mỗi mảng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của các giám đốc chuyên môn, đồng thời chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty. Bên cạnh đó, hệ thống các phòng ban chức năng của Công ty được tổ chức hoạt động chặt chẽ, phân công trách nhiệm rõ ràng, phối hợp nhịp nhàng trong sản xuất đã cố vấn một cách có hiệu quả cho cấp quản lý cao nhất về các mặt sản xuất kinh doanh và tạo hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất. Một điều đáng chú ý là Công ty đã áp dụng hình thức khoán gọn tới từng công trình. Tuỳ theo quy mô tính chất của công việc, Công ty lập hợp đồng khoán gọn với các đội phù hợp với khả năng của từng đội. Theo đó Công ty chỉ chịu trách nhiệm cấp vốn, còn các đội tự trang trải các khoản chi phí trong phạm vi chi phí được giao khoán và có trách nhiệm bàn giao công trình đúng thời hạn và với chất lượng đúng quy định. Giám đốc xí ngiệp và các đội trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp trước giám đốc Công ty về chất lượng và tiến độ thi công. Định kỳ, các đội tập hợp chứng từ gửi lên phòng kế toán xí nghiệp và phòng kế toán Công ty để kế toán kiểm tra, theo dõi và ghi nhận các khoản chi phí thực tế phát sinh. Điều này đã tạo ra sự chủ động trong sản xuất và khuyến khích tinh thần trách nhiệm và năng động trong thi công của các đội. * Về bộ máy kế toán: Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức tương đối hoàn chỉnh, chặt chẽ với đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ, có năng lực, nhiệt tình trong công việc, lại được bố trí hợp lý phù hợp với năng lực của từng người đã tạo điều kiện nâng cao tinh thần trách nhiệm và tạo ra sự phối hợp một cách có hiệu quả giữa các phần hành kế toán. Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức thành 3 cấp: Kế toán Công ty- Kế toán xí nghiệp- Kế toán đội. Trong quá trình làm việc, phòng kế toán công ty luôn kiểm tra, giám sát và có sự chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ một cách kịp thời để đảm bảo hiệu quả của công tác kế toán ở các cấp dưới. Điều này đã tạo ra sự quản lý một cách chặt chẽ về mặt kế toán đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ở mọi cấp quản lý. Trong quá trình áp dụng chế độ kế toán mới, tuy còn gặp rất nhiều khó khăn do phải tiếp cận với những khái niệm mới, cơ chế mới, nhưng các nhân viên kế toán trong công ty đã không ngừng học hỏi, cập nhật thông tin, để vận dụng một cách linh hoạt chế độ kế toán mới vào điều kiện cụ thể của Công ty. * Về tổ chức công tác kế toán: Hệ thống chứng từ ban đầu được tổ chức hợp pháp, hợp lệ, đầy đủ theo đúng chế độ kế toán ban hành. Ngoài ra còn có một số chứng từ khác theo quy định của Công ty. Các chứng từ của công ty được đánh số thứ tự theo từng loại và số hiệu chứng từ được dùng làm căn cứ để ghi sổ nhật ký chung, sổ chi tiết và sổ cái các tài khoản được đánh theo từng bộ chứng từ. Sau mỗi bộ chứng từ đều có bảng tổng hợp, ghi các định khoản ban đầu để vào sổ kế toán. Vì vậy tránh được những nhầm lẫn, thiếu sót khi vào sổ. Hệ thống tài khoản áp dụng đúng chế độ, và được mở chi tiết đến cấp 2, cấp 3 cho từng công trình, hạng mục công trình, đảm bảo phản ánh đúng nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Hệ thống sổ sách bao gồm đầy đủ hai hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp, đảm bảo theo dõi một cách chi tiết tới từng công trình và tổng hợp cho tất cả các công trình. Bên cạnh đó công ty áp dụng hình thức sổ nhật ký chung (kết hợp giữa kế toán thủ công và kế toán máy). Hình thức này tương đối đơn giản và thuận tiện cho việc áp dụng kế toán máy. * Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành Công ty đã lựa chọn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là từng công trình, hạng mục công trình. Hàng tháng chi phí phát sinh sẽ được kế toán tập hợp theo từng khoản mục. Cuối tháng kết chuyển phân bổ chi phí sang TK 154 – chi tiết cho từng công trình. Theo đó các chi phí phát sinh liên quan đến đối tượng nào thì được hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó, trường hợp chi phí liên quan đến nhiều đối tượng thì tập hợp chung rồi phân bổ cho từng đối tượng. Cuối tháng tổng hợp các khoản mục chi phí phát sinh của từng công trình, kế toán lập Bảng tổng hợp chi phí công trình. Cuối quý căn cứ vào Bảng tổng hợp chi phí công trình hàng tháng này, kế toán tổng hợp chi phí cả quý cho từng công trình, thực hiện kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang, rồi lập Bảng tính giá thành. Khi đó giá thành sản phẩm được tính theo phương pháp trực tiếp (= chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ + chi phí phát sinh trong kỳ – chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ). Như vậy công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được thực hiện tương đối dễ dàng và chính xác, đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời hiệu quả cho bộ phận quản lý. Về vật tư: Công ty giao quyền chủ động cho các đội tự lập kế hoạch mua sắm vật tư theo tiến độ thi công và nhu cầu sử dụng vật tư. Do đó vật tư mua về được chuyển thẳng tới chân công trình và sử dụng ngay, giảm được chi phí vận chuyển, tránh bị tồn đọng vật tư gây ứ đọng vốn. Về nhân công: Công ty áp dụng hình thức khoán sản phẩm và tính lương cho người lao động căn cứ vào bảng chấm công và khối lượng công việc giao khoán hoàn thành. Vì vậy việc hạch toán chi phí nhân công ở Công ty tương đối rõ ràng, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Đồng thời việc kết hợp hình thức trả lương khoán sản phẩm với hình thức trả lương theo thời gian đã gắn liền với lợi ích vật chất của người lao động và tiến độ thi công. Về chi phí máy: Công ty quy định nếu các đội và xí nghiệp trực thuộc có nhu cầu sử dụng máy móc của công ty thì lập hợp đồng thuê và trừ vào chi phí khoán. Quy định này khiến cho việc hạch toán chi phí sử dụng máy thi công ở cấp đội và xí nghiệp rất thuận tiện và đơn giản. Máy thi công phục vụ công trình nào thì hạch toán chi phí máy thi công trực tiếp cho công trình đó. Về chi phí chung: kế toán hạch toán dựa trên cơ sở các chứng từ gốc phát sinh, và các bảng kê chi phí do kế toán đội gửi lên. Đồng thời theo dõi chi tiết theo từng địa điểm phát sinh (các đội, bộ phận gián tiếp xí nghiệp). Vì vậy đã phản ánh đúng chi phí thực tế của từng bộ phận, từng công trình. Có được những thành quả trên đây là nhờ sự nỗ lực của toàn thể CBCNV trong Công ty và sự năng động, nhiệt tình,sáng suốt trong quản lý của ban giám đốc công ty cùng với sự hỗ trợ tích cực của các phòng ban chức năng mà đặc biệt là phòng kế toán, đã thực hiện tốt vai trò cung cấp thông tin cho các nhà quản lý. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đó công ty không tránh khỏi những tồn tại cần khắc phục. Trong thời gian thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ tận tình của các cô chú trong phòng kế toán công ty và phòng kế toán xí nghiệp, em đã được tìm hiểu về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty. Qua đó em xin được đưa ra một số ý kiến về những vấn đề mà em cho là công ty cần phải khắc phục và em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện. III. Những tồn tại trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty và những giải pháp hoàn thiện Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi phí sản xuất. Hiện nay hầu hết các công ty xây dựng đều áp dụng hình thức khoán gọn xuống các tổ, đội thi công. Tuỳ theo quy mô và tính chất của công trình mà thực hiện khoán toàn bộ công trình, khoán từng hạng mục công trình, hay khoán từng phần việc cụ thể. Đây là phương thức quản lý thích hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng cơ bản. Nó gắn liền với lợi ích vật chất của người lao động, tổ, đội sản xuất, với khối lượng, chất lượng cũng như tiến độ thi công công trình. Đồng thời mở rộng quyền tự chủ về hạch toán kinh doanh, lựa chọn phương thức tổ chức lao động, tổ chức thi công, phát huy khả năng của mỗi bộ phận sản xuất. Một công trình có thể có nhiều hợp đồng khoán gọn, một đội xây dựng có thể tham gia vào nhiều hợp đồng khoán gọn của nhiều công trình. Vì vậy Công ty cần đôn đốc nhắc nhở các xí nghiệp, tổ, đội sản xuất thực hiện nghiêm chỉnh những quy định về giao khoán nội bộ, về chế độ thanh toán, về trách nhiệm vật chất, về luân chuyển chứng từ, về kiểm tra giám sát ... Có như vậy công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mới đạt hiệu quả như mong muốn. III.1. Hoàn thiện việc luân chuyển chứng từ Công ty xây dựng số 20 có địa bàn hoạt động rất rộng. Công ty thực hiện thi công các công trình ở khắp các tỉnh thành trong phạm vi toàn quốc. Hơn nữa số lượng công trình thi công trong cùng một thời gian rất nhiều, rải rác và phân tán. Vì vậy việc luân chuyển chứng từ gốc lên phòng kế toán không tránh khỏi sự chậm trễ. Bên cạnh đó, các đội trưởng cố ý không giao nộp chứng từ để cuối kỳ cân đối các khoản thu, chi của đội cho thích hợp. Những điều này đã dẫn đến tình trạng chứng từ thường được dồn vào cuối quý hoặc cuối năm, mặc dù Công ty đã quy định hàng tháng các đội phải nộp chứng từ lên phòng kế toán xí nghiệp và phòng kế toán công ty để làm thủ tục hoàn ứng. Vì thế đã có tình trạng chi phí phát sinh tháng này đến tháng sau hoặc thậm chí kỳ sau mới được hạch toán, gây ra sự thiếu chính xác trong thông tin chi phí của kế toán. Và kéo theo đó, một số chứng từ không làm được thủ tục hoàn thuế GTGT đầu vào do quá hạn, gây lãng phí rất lớn. Mặt khác, đến cuối kỳ chứng từ dồn về với số lượng lớn, khiến công tác kế toán rất vất vả và dễ dẫn đến những sai sót không đáng có. Do đó, để khắc phục tình trạng này phòng tài vụ cần quy định cụ thể về thời hạn giao nộp chứng từ và có những biện pháp cứng rắn để yêu cầu các đội tuân thủ như phạt hành chính, không làm thủ tục cho vay tiền khi chưa thanh toán hết số vay lần trước. Đối với các công trình ở xa, phòng tài vụ có thể cử nhân viên tới tận công trình để thu thập chứng từ, cập nhật sổ sách chi tiết, đảm bảo phản ánh kịp thời các chi phí phát sinh. III.2. Hoàn thiện chế độ giao khoán. Tại công ty áp dụng hình thức khoán gọn xuống các đội xây dựng. Các đội được giao cho một lượng chi phí khoán nhất định và Công ty chỉ chấp nhận thanh toán trong phạm vi số chi phí đã giao khoán. Điều này theo em là rất cứng nhắc và không hợp lý. Bởi lẽ có những khoản chi phí thật sự cần thiết mà đội phải chi thêm ngoài dự toán, nhưng nếu công ty không chấp nhận thanh toán thì sẽ gây khó khăn rất lớn cho các đội trưởng và khiến cho các đội không dám thực hiện. Ngược lại có những khoản chi phí không cần thiết nhưng Công ty lại không nắm được do có đủ chứng từ minh chứng. Như vậy, hình thức khoán này dễ tạo ra những tiêu cực trong thanh toán. Các đội sẽ lo đủ chứng từ để thanh toán hoàn ứng sao cho số thanh toán đúng bằng giá giao khoán của Công ty. Điều này gây ra sự lãng phí rất lớn, mà công ty lại không nắm được thực tế tình hình chi phí phát sinh va do vậy những chỉ tiêu định mức, kế hoạch, và những phân tích về tình hình hạ giá thành sẽ không có ý nghĩa và không chính xác. Vì vậy theo em Công ty nên linh hoạt hơn trong cơ chế khoán nội bộ. Nếu chi phí thực tế lớn hơn chi phí giao khoán thì đội phải giải trình được với Giám đốc công ty, nếu hợp lý thì chấp nhận thanh toán cho đội. Như thế sẽ tạo điều kiện cho các đội thực hiện tốt công việc của mình và nâng cao chất lượng công việc. Nếu chi phí thực tế nhỏ hơn chi phí giao khoán thì đội vẫn được thanh toán theo phần chi phí giao khoán, số tiết kiệm được sẽ đưa vào quỹ của xí nghiệp hoặc quỹ của các đội để phân chia cho người lao động. Như thế vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động, vừa đảm bảo cung cấp những thông tin chính xác về chi phí và giá thành của các công trình, hạng mục công trình. III.3. Hoàn thiện việc phân cấp trong bộ máy kế toán. Tại công ty xây dựng số 20, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được thực hiện tại hai bộ phận: Phòng kế toán công ty và phòng kế toán xí nghiệp. Phòng kế toán xí nghiệp được phân cấp hạch toán chi phí và tính giá thành đối với những công trình do các đội của xí nghiệp thi công, được phép lưu giữ các chứng từ gốc và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lệ, đầy đủ của các chứng từ. Công ty chịu trách nhiệm cấp vốn cho xí nghiệp như một đơn vị độc lập. Tuy nhiên, kế toán công ty lại sử dụng TK 141 để phản ánh quan hệ giữa công ty và xí nghiệp. Điều này không phản ánh đúng bản chất quan hệ cấp vốn và sự phân cấp hạch toán giữa công ty và xí nghiệp. Mặt khác, hiện nay việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại phòng kế toán công ty và phòng kế toán xí nghiệp bị trùng lắp nhau. Những thông tin chi phí đã được kế toán xí nghiệp tập hợp, ghi nhận lại được phòng kế toán công ty ghi nhận lần nữa. Điều này gây lãng phí rất lớn về nhân lực cũng như vật lực. Vì vậy theo em, kế toán công ty nên sử dụng tài khoản 136- Phải thu nội bộ để phản ánh quan hệ cấp vốn với xí nghiệp. Theo đó: * Khi tạm ứng tiền cho Xí nghiệp, ghi: Nợ TK 136 Có TK 111,112 * Khi nhận khối lượng xây lắp do Xí nghiệp bàn giao: Nợ TK 154, 632: theo giá không thuế Có TK 136 III.4. Hoàn thiện hạch toán chi phí nguyên vật liệu + Chi phí nguyên vật liệu là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành sản phẩm nên Công ty cần phải quan tâm nhiều hơn nữa. Do áp dụng phương thức khoán gọn, nên Công ty giao cho các đội chủ động tổ chức cung ứng vật tư. Công ty chỉ quản lý thông qua các hoá đơn thanh toán với nhà cung cấp. Như vậy có thể thấy, Công ty hầu như không có sự kiểm soát đối với việc sử dụng vật liệu thực tế tại các công trình. Tất nhiên, việc Công ty thanh toán cho các đội theo giá trị khoán đã buộc các đội có ý thức hơn trong việc kiểm soát chi phí. Song điều này dễ xảy ra tiêu cực trong việc sử dụng các hoá đơn, chứng từ khai tăng chi phí về vật liệu. Do đó để tăng cường tính kiểm tra, Công ty cần bố trí thêm nhân viên thường xuyên theo dõi chi phí vật tư tại các đội công trình. Công ty cần tăng cường kiểm tra giám sát việc ghi chép các chứng từ ban đầu của nhân viên, có biện pháp xử lý thích hợp với những trường hợp vi phạm. + Chứng từ về vật tư mới chỉ có hợp đồng, hoá đơn mua bán vật tư, không phản ánh được những thiếu hụt trong quá trình vận chuyển, giao nhận. Do đó vật tư mua về, ngoài hoá đơn mua hàng cần phải có biên bản giao nhận vật tư giữa người cung cấp và người mua. Biên bản giao nhận có thể được lập theo mẫu sau: Biên bản giao nhận vật tư Ngày tháng năm Ông (bà): người cung ứng Địa chỉ: Ông (bà): người nhận Địa chỉ: Tiến hành bàn giao lượng vật tư như sau: STT Tên, quy cách , chủng loại vật tư Đơn vị tính Số lượng Ghi chú Tổng cộng Đại diện bên cung ứng Đại diện bên nhận + Ngoài ra khi hạch toán nguyên vật liệu xuất dùng, kế toán đã không hạch toán chi phí thu mua vào TK 621 mà lại hạch toán vào TK 6237 và TK 6277, điều này gây ra sự thiếu chính xác trong tính giá vật tư và do đó phản ánh không chính xác chi phí nguyên vật liệu. Do đó khi hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán phải tính cả giá mua và chi phí thu mua, vận chuyển nguyên vật liệu. Trị giá nguyên vật liệu sử dụng thi công = Giá mua nguyên vật liệu + Chi phí thu mua vận chuyển III.5. Hoàn thiện hạch toán chi phí nhân công + Việc thanh toán lương của Công ty được căn cứ vào hợp đồng làm khoán và bảng chấm công. Song qua bảng tính lương ta thấy Công ty không khuyến khích được công nhân có tay nghề bậc cao vì tiền lương tính cho công nhân tay nghề bậc cao cũng như công nhân tay nghề bậc thấp, đều lấy tổng số tiền theo hợp đồng chia cho tổng số ngày công và nhân với số công của từng người. Để giải quyết vấn đề này cần điều chỉnh như sau: + Trước hết căn cứ vào bậc thợ để tính ra số công quy đổi: Số công quy đổi = Số công thực tế x Bậc thợ + Tính ra số tiền lương một công nhân: Tiền lương phải trả = Tổng số tiền theo hợp đồng khoán x Số công quy đổi của một công nhân Tổng số công quy đổi + Bên cạnh đó trong khoản mục chi phí nhân công trực tiếp, theo chế độ quy định chỉ bao gồm lương công nhân trực tiếp sản xuất. Nhưng tại Công ty, lương nhân viên quản lý đội cũng được hạch toán vào khoản mục này. Điều này gây ra sự thiếu chính xác trong thông tin chi phí, làm tăng chi phí nhân công trực tiếp và làm giảm chi phí sản xuất chung. Vì vậy đối với lương nhân viên quản lý đội, kế toán cần tách riêng và hạch toán vào TK 6271- chi phí nhân viên quản lý đội: Nợ TK 6271 Có TK 3341, 3342 III.6. Hoàn thiện hạch toán chi phí máy thi công Chi phí máy thi công được hạch toán dựa trên các bảng kê chi phí thuê máy mà đội gửi lên. Tuy nhiên chứng từ gốc chỉ bao gồm hợp đồng thuê máy. Điều này dễ dẫn đến tình trạng gian lận, làm giả chứng từ. Vì vậy theo em, tại các công trình, kế toán đội nên lập phiếu theo dõi hoạt động máy thi công. Phiếu này có thể lập theo mẫu sau: Phiếu theo dõi hoạt động máy thi công Tháng năm Công trình: Máy: Thời gian Người điều khiển Địa điểm công trình Số lượng dự tính Số lượng thực hiện Xác nhận Tổng cộng III.7. Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất chung + Tại công ty, hạch toán vào khoản mục chi phí sản xuất chung ngoài phần chi phí quản lý đội còn có các chi phí phát sinh ở bộ phận quản lý xí nghiệp. Điều này dễ gây ra sự nhầm lẫn trong công tác hạch toán đồng thời không phản ánh đúng nội dung của các khoản mục chi phí. Vì vậy theo em, các chi phí phát sinh trong bộ phận quản lý xí nghiệp không hạch toán vào TK 627, mà chuyển sang TK 642- Chi phí quản lý doanh nghiệp. TK này cũng được chi tiết thành 8 TK cấp 2: - TK 6421- Chi phí nhân viên quản lý - TK 6422- Chi phí vật liệu quản lý - TK 6423- Chi phí đồ dùng văn phòng - TK 6424- Chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho quản lý - TK 6425- Thuế, phí và lệ phí - TK 6426- Chi phí dự phòng - TK 6427- Chi phí dịch vụ mua ngoài cho hoạt động quản lý - TK 6428- Chi phí bằng tiền khác + Bên cạnh đó, việc phân bổ chi phí của bộ máy quản lý Xí nghiệp vào giá thành công trình không được thực hiện theo một tiêu thức phân bổ nào. Hàng tháng kế toán phân bổ đều cho tất cả các công trình, cuối kỳ tập hợp lại. Nếu số đã phân bổ lớn hơn phần chi phí mà doanh nghiệp được phép chi (= giá giao khoán của Công ty - giá giao khoán của Xí nghiệp), thì lập bút toán điều chỉnh ghi âm. Điều này là do cơ chế khoán của Công ty, Xí nghiệp chỉ được phép chi trong phạm vi phần giao khoán, do vậy dù phân bổ thế nào cũng phải đảm bảo bằng đúng phần chi phí khoán. Hơn nữa, do chứng từ nộp về chậm nên kế toán không có số liệu về chi phí trực tiếp trong tháng để phân bổ. Công tác xác định khối lượng xây lắp cũng không được thực hiện tốt, vì thế kế toán cũng không thể phân bổ theo tiêu thức này. Tuy nhiên nếu làm như Xí nghiệp hiện nay thì việc phân bổ đều chi phí không phản ánh đúng số chi phí phát sinh thực tế hàng tháng của công trình. Mặt khác việc lập bút toán điều chỉnh vào tháng cuối cùng đã dẫn đến tình trạng chi phí phân bổ cho tháng đó là âm, điều này rất bất hợp lý. Vì vậy theo em để khắc phục tình trạng này, trước mắt hàng tháng kế toán có thể phân bổ đều chi phí cho các công trình, nhưng đến cuối kỳ kế toán phải tính ra tỷ lệ điều chỉnh để điều chỉnh chi phí tất cả các tháng, không để tập trung vào tháng cuối cùng. + Việc phân bổ chi phí chung được tiến hành theo từng khoản mục (6271, 6272, 6273 …). Theo em việc này không đem lại hiệu quả vì thông tin cung cấp của kế toán rất vụn vặt. Do đó theo em, kế toán chỉ cần lập Bảng tổng hợp chi phí sản xuất chung theo từng khoản mục, sau đấy lấy số liệu tổng hợp để vào sổ TK 627 và phân bổ cho các đối tượng. Như vậy vừa đáp ứng được nhu cầu thông tin chi tiết về từng khoản mục chi phí vừa đảm bảo phân bổ chính xác chi phí cho các công trình. Bảng tổng hợp chi phí sản xuất chung Nội dung chi phí TK đối ứng Tổng số Trong đó 6271 … 6278 ... Tổng III.8. Hoàn thiện công tác tính giá sản phẩm dở dang Trong các xí nghiệp xây dựng, khối lượng SPDD chiếm một tỷ lệ cao. Nó sẽ tác động đến sản lượng, năng suất lao động và đến lỗ lãi. Nó có một vai trò to lớn trong việc xác định nhu cầu kinh phí để chi cho TSLĐ. Sai sót trong việc xác định khối lượng SPDD có thể dẫn đến giảm sản lượng, giảm NSLĐ và lãi, cũng như đánh giá sai kết quả sản xuất và do đó các phân tích kinh tế sẽ dẫn đến kết luận sai. Đồng thời nó có thể dẫn đến thừa hoặc thiếu kinh phí cho xí nghiệp. Vì vậy việc xác định giá trị SPDD có một vai trò quan trọng. Tuy nhiên ở Công ty, việc tính giá sản phẩm dở dang không được chú ý đúng mức. Hầu hết các công trình khi thanh toán, đặc biệt là thời điểm cuối năm, đều để số dư = 0 trên TK 154. Điều này gây ra khó khăn rất lớn trong thanh toán với bên A do không được chấp nhận khối lượng hoàn thành, mặt khác lại không xác định đúng giá thành sản phẩm. Do vậy theo em Công ty nên yêu cầu các cán bộ phòng kỹ thuật thực hiện nghiêm túc việc tính giá sản phẩm dở dang trong mỗi kỳ tính giá thành. III.9. Hoàn thiện hạch toán chi phí thiệt hại trong xây lắp Do những đặc trưng của ngành xây dựng cơ bản, nên trong qúa trình thi công không tránh khỏi những thiệt hại do phá đi làm lại, do ngừng sản xuất. Nhưng trong các nội dung hạch toán của Công ty không thấy nội dung này. Như vậy, Công ty đã hạch toán thẳng vào giá thành công trình, điều này hoàn toàn trái với quy định, và làm tăng giá thành sản phẩm. Vì vậy theo em Công ty nên hạch toán nội dung này như sau: - Phản ánh khoản thiệt hại phát sinh trong quá trình xây lắp, kế toán ghi: Nợ TK 1381 Có TK 152,153,334,338... - Phản ánh các khoản thu hồi được như tiền bồi thường của chủ đầu tư, giá trị phế liệu thu hồi, kế toán ghi: Nợ TK 152,111,131... Có TK 1381 III.10. Hoàn thiện chứng từ kế toán Hiện nay tại Công ty, để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ kế toán sử dụng Bảng phân bổ chi phí sản xuất chung, Bảng phân bổ các khoản mục chi phí vào giá thành và Bảng tổng hợp chi phí công trình. Tuy nhiên nếu xem xét tổng chi phí sản xuất chung trên hai bảng phân bổ này ta có thể thấy, tổng chi phí SXC trên Bảng phân bổ chi phí SXC của bộ phận gián tiếp xí nghiệp không bao gồm khoản mục trích theo lương của nhân viên đội. Trong khi tổng chi phí sản xuất chung của đội trên Bảng phân bổ các khoản mục chi phí vào giá thành lại bao gồm khoản mục trích theo lương của nhân viên đội. Mà theo quy định của Công ty thì khoản mục này lại thuộc chi phí SXC của bộ phận gián tiếp xí nghiệp. Vì thế để dễ dàng so sánh với tổng chi phí chung trên bảng chi phí khoán và để kiểm soát được giá thành sản xuất tại đội và xí nghiệp, theo em xí nghiệp nên sử dụng bảng tổng hợp sau: Bảng tổng hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm STT Tên công trình CPSXDD đầu kỳ Chi phí phát sinh trong kỳ CPSXDD cuối kỳ Tổng giá thành 621 622 623 627 Tổng Đội XN Đội XN Đội XN III.11. Tăng cường công tác quản trị Hiện nay ở Công ty các thông tin kế toán đặc biệt là kế toán chi phí chủ yếu phục vụ cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Đối với các nhà quản trị, việc đánh giá và phân tích các thông tin chi phí còn chưa được coi trọng. Để quản lý chặt chẽ hơn nữa, hàng năm công ty nên tiến hành phân tích giá thành. Việc phân tích giá thành được thông qua phân tích các khoản mục chi phí cấu thành trong giá thành. Qua phân tích sẽ biết được tỷ trọng của từng loại chi phí, cũng như sự biến động của từng khoản mục chi phí, từ đó xác định được nguyên nhân của sự biến động và đưa ra các quyết định quản lý để phát huy và hạn chế những ảnh hưởng của từng nhân tố nhằm đạt được lợi ích tốt nhất cho Công ty trong kỳ tiếp theo. Thực hiện tốt chức năng này các nhà quản trị doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, sử dụng hiệu quả nhất các yếu tố sản xuất, cân đối các khoản chi phí, và do đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển ổn định trên thị trường. Bên cạnh đó, Công ty có thể triển khai hệ thống kế toán quản trị được kết hợp với kế toán tài chính trên cùng một hệ thống. Hiện nay, công ty đã có được một số cơ sở thuận lợi như kế toán chi phí đã được thực hiện theo từng khoản mục, các tài khoản chi phí được mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình, hệ thống sổ sách cũng được mở chi tiết cho từng khoản mục và cho từng đối tượng. Trên cơ sở đó, để đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp, công ty có thể áp dụng phương pháp kế toán chi phí định mức. Theo phương pháp này, toàn bộ các yếu tố chi phí đầu vào khi phát sinh được tính toán, tập hợp cho các đối tượng theo chi phí định mức. Đồng thời kế toán tách riêng chênh lệch CPSX thực tế so với chi phí định mức do biến động về lượng và biến động về giá của từng khoản mục chi phí. Điều đó giúp nhà quản lý phát hiện chênh lệch do thay đổi định mức, chênh lệch do vượt định mức, từ đó kiểm tra, kiểm soát chi phí. Mặt khác đảm bảo cung cấp thông tin nhanh về giá thành sản phẩm sát với thực tế. Khoản chênh lệch giữa chi phí định mức và chi phí thực tế cuối kỳ được xử lý để xác định giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành. áp dụng phương pháp này, để phản ánh chênh lệch chi phí thực tế với chi phí định mức do biến động về lượng và biến động về giá của các khoản mục chi phí, trong hệ thống tài khoản cần bổ sung thêm các tài khoản: TK Biến động chi phí NVLTT, TK Biến động chi phí NCTT, TK Biến động chi phí sử dụng MTC, TK Biến động chi phí SXC. Đồng thời, các nhà quản trị có thể nghiên cứu, phân tích chi phí theo cách ứng xử của chi phí. Theo đó, các chi phí thay đổi theo mức độ hoạt động như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp được xếp vào chi phí khả biến. Những chi phí không thay đổi theo mức độ hoạt động như một số khoản mục trong chi phí của bộ phận quản lý như chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí lương nhân viên quản lý … sẽ được xếp vào chi phí bất biến. Đối với một số chi phí mang tính chất hỗn hợp không thể tách riêng thành chi phí khả biến và chi phí bất biến ngay từ đầu thì kế toán quản trị có thể sử dụng một trong hai phương pháp cơ bản để tách là phương pháp bình phương bé nhất và phương pháp cực đại cực tiểu. Trên cơ sơ các chi phí tập hợp được kế toán thực hiện phân tích chi phí, xác định lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn, xác định mức độ thay đổi của chi phí khi mức độ hoạt động thay đổi, lập kế hoạch vốn, kế hoạch chi phí … Tuy nhiên để thực hiện được điều này đòi hỏi Công ty phải thiết lập được hệ thống kế toán quản trị, tổ chức nhân viên kế toán quản trị, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính. Kết luận Trong quá trình thực tập tại Công ty xây dựng số 20, được sự hướng dẫn, chỉ bảo của cô giáo, sự giúp đỡ tận tình của Ban giám đốc và đặc biệt là của các cô chú trong phòng kế toán công ty và phòng kế toán xí nghiệp xây dựng 201, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc nâng cao hiệu quả quản lý chi phí sản xuất tại Công ty xây dựng số 20 – LICOGI. Trên cơ sở những kiến thức đã học được ở nhà trường, qua quá trình thực tập em đã có điều kiện vận dụng những vấn đề lý luận vào thực tiễn. Cũng qua quá trình thực tập, em đã nhìn nhận một cách đầy đủ về vai trò và vị trí quan trọng của công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng trong công tác quản trị doanh nghiệp. Qua đó em xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến nhận xét và những phương hướng để khắc phục những mặt còn hạn chế, với hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của Công ty. Do trình độ kiến thức có hạn, và thời gian thực tập chưa lâu nên trong luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô để em có thể hoàn thiện tốt luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS Nguyễn Minh Phương và các cô chú trong phòng kế toán Công ty xây dựng số 20 và phòng kế toán Xí nghiệp xây dựng 201 đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2002 Tài liệu tham khảo 1. Sách: Hệ thống kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp Nhà xuất bản Tài chính - 1999. 2. Sách: Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính - Chủ biên TS. Nguyễn Văn Công, Trường đại học kinh tế quốc dân Nhà xuất bản Tài chính - 2000. 3. Giáo trình kế toán quản trị - Chủ biên TS. Nguyễn Minh Phương, Trường đại học kinh tế quốc dân Nhà xuất bản Giáo dục - 1998 4. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh - Khoa kế toán, Trường Đại học kinh tế quốc dân Nhà xuất bản Thống kê - 2001 5. Sách: Kế toán xây dựng cơ bản - Chủ biên ThS. Đỗ Minh Thành, Trường đại học Thương mại Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà nội - 2000 6. Tạp chí kế toán, kiểm toán 7. Một số tài liệu quản lý và tài liệu kế toán của Công ty xây dựng số 20 và Xí nghiệp xây dựng 201. Mục lục Nhận xét của giáo viên hướng dẫn Nhận xét của giáo viên Phản biện Nhận xét của cơ sở thực tập ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34270.doc
Tài liệu liên quan