Hoàn thiện hạch toán tiêu thụ & kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Công nghệ phẩm Hà Tây

Lời nói đầu Tại đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt nam, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội lần thứ VII, Đảng ta xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế, nền kinh tế nước ta đang được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định h

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán tiêu thụ & kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Công nghệ phẩm Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ướng XHCN. Trong những năm qua, trên lĩnh vực công tác kế toán, Nhà nước ta bước đầy đã xây dựng và vận hành một hệ thống chế độ kế toán về cơ bản phù hợp với cơ chế quản lý mới. Tuy nhiên trước yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán này vẫn còn nhiều tồn tại, các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán chưa được ban hành. Trong công cuộc đổi mới đó, tất yếu nền kinh tế phải có sự xáo trộn gây ảnh hưởng đến các công ty và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình đem lại lợi nhuận và đó cũng chính là mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh doanh trong cơ chế thị trường. Do vậy, việc tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa quan trọng, giúp doanh nghiệp bù đắp được các chi phí bỏ ra, lấy lãi và tiếp tục quá trình kinh doanh. Sự thay đổi của cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi về phương thức tiêu thụ và thay đổi về mục đích và yêu cầu của quản lý. Kế toán với tư cách là một công cụ quản lý kinh tế cũng phải được thay đổi và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Chính vì vậy, trong kỳ thực tập tại Công ty công nghệ phẩm Hà tây em nhận thấy nên chọn đề tài : >. Bố cục của chuyên đề gồm 3 phần: Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại Phần II: Thực trạng hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại công ty Công nghệ phẩm Hà tây. Phần III: Hoàn thiện hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại công ty Công nghệ phẩm Hà tây Phần thứ nhất Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại I. Đặc điểm hoạt động kinh doanh thương mại có ảnh hưởng đến hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ trong cơ chế thị trường. Xã hội loài người cho đến nay đã trải qua hai hình thức sản xuất, đó là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất càng phát triển, sự phân công lao động xã hội càng sâu sắc thì nền sản xuất hàng hóa càng phát triển và ngày nay đã phát triển đến giai đoạn cao độ là kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai, được quyết định thông qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Hoạt động kinh doanh thương mại thực hiện chức năng nối liên giữa sản xuất và tiêu dùng. Đối tượng kinh doanh của nghành thương mại là hàng hoá- đó là những sản phẩm lao động được doanh nghiệp thương mại mua về để bán ra nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu. Hàng hoá trong kinh doanh thương mại được phân theo các nghành hàng như: +Hàng vật tư- thiết bị. +Hàng công nghệ phẩm tiêu dùng. +Hàng lương thực- thực phẩm. Tổng hợp các hoạt động thuộc các quá trình mua bán, trao đổi và dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại được gọi là lưu chuyển hàng hoá. Quá trình bán hàng trong doanh nghiệp thường được thực hiện theo 2 phương thức: bán buôn và bán lẻ. Đặc trưng của bán buôn là bán số lượng lớn, khi chấm dứt quá trình mua, bán thì hàng hoá chưa đến tay người tiêu dùng mà phần lớn hàng hoá vẫn còn trong lĩnh vực lưu thông, hoặc vào lĩnh vực sản xuất để chế biến rồi trở lại lĩnh vực lưu thông. Còn đặc trưng của bán lẻ hàng hoá là bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng, kết thúc quá trình bán lẻ là hàng hoá đó đã vào lĩnh vực tiêu dùng. Trong các doanh nghiệp thương mại, vốn hàng hoá là vốn chủ yếu nhất và nghiệp vụ kinh doanh hàng hoá là nghiệp vụ phát sinh thường xuyên và chiếm 1 khối lượng công việc lớn ... và quản lý hàng hoá là nội dung quản lý quan trọng hàng đầu trong các doanh nghiệp thương mại. Vì vậy, việc tổ chức tốt công tác kế toán lưu chuyển hàng hoá có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. II. Vị trí của tiêu thụ, kết quả và nhiệm vụ hạch toán. Khái niệm, vị trí của tiêu thụ và kết quả tiêu thụ. a. Khái niệm: - Tiêu thụ: là quá trình thực hiện quan hệ trao đổi hàng hoá dịch vụ thông qua các phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Trong quá trình đó, doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng, còn khách hàng phải trả cho doanh nghiệp khoản tiền tương ứng với giá bán hàng của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đó theo giá thoả thuận hoặc chấp nhận thanh toán. Tiêu thụ là quá trình chuyển hoá vốn kinh doanh từ vốn hàng hoá sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả bán hàng. Quá trình bán hàng có thể được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn 1: Doanh nghiệp bán hàng xuất giao sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Giai đoạn này phản ánh một mặt quá trình vận động của hàng hoá. Tuy nhiên nó chưa đảm báo phản ánh được kết quả của việc bán hàng, chưa có cơ sở để đảm bảo quá trình bán hàng đã hoàn tất bởi vì hàng hoá gửi đi chưa được khẳng định là đã thu được tiền. Giai đoạn 2: Khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. Đây là giai đoạn doạnh nghiệp đã bán được và thu tiền về ( hoặc sẽ được thu tiền về ). Kết thúc giai đoạn này cũng là lúc quá trình bán hàng được hoàn tất, doanh nghiệp có thu nhập để bù đắp các chi phí đã bỏ ra trong quá trình kinh doanh và hình thành kết quả kinh doanh ( kết quả bán hàng ). Qua phân tích có thể khái quát đặc điểm chủ yếu của quá trình bán hàng như sau: Về mặt hành vi: Quá trình bán hàng diễn ra sự thoả thuận trao đổi giữa người mua và người bán, người bán đồng ý bán, người mua đồng ý mua và người xuất bán cho người mua, người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. Về mặt bản chất kinh tế: Bán hàng là quá trình thay đổi quyền sở hữu hàng hoá. Sau khi bán hàng, quyền sở hữu hàng hoá đã chuyển sang người mua, người bán không còn quyền sử dụng vể sở hữu hàng hoá đã bán. - Kết quả tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá lao vụ, dịch vụ: là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh chính và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp. Kết quả đó được tính bằng cách so sánh giữa một bên là doanh thu thuần với một bên là giá vốn hàng tiêu thụ và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và được biểu hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận ( hoặc lỗ) về tiêu thụ. b. Vị trí của tiêu thụ và kết quả tiêu thụ: Chức năng chủ yếu của doanh nghiệp thương mại là thực hiện kinh doanh lưu chuyển hàng hoá. Vì vậy, đối với bản thân các doanh nghiệp, tiêu thụ là khâu thực sự giữ vị trí quan trọng. Doanh nghiệp có tiêu thụ được hàng thì mới có doanh thu, có thu nhập để bù đắp những chi phí đã bỏ ra và hình thành kết quả kinh doanh (kết quả tiêu thụ ). Thực hiện tốt khâu tiêu thụ, doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, mới có điều kiện để quay vòng vốn, tiếp tục quá trình kinh doanh. Và ngược lại, Nếu không tiêu thụ được hàng thì hàng hoá sẽ ế đọng, ứ thừa vốn, vốn kinh doanh bỏ ra không đủ bù đắp chi phí dẫn đến doanh nghiệp có thể bị phá sản. Đối với người tiêu dùng ( khách hàng), bán hàng sẽ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và qua công việc bán hàng này thì tính sở hữu của hàng hoá mới xác định hoàn toàn về số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, sự phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng trong quá trình kinh doanh, nó là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Trước đây, thời kỳ bao cấp, tiêu thụ hàng hoá được thực hiện theo kế hoạch nhất định. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp bán cái gì, bán bao nhiêu, bán cho ai và bán như thế nào đều được quy định trong kế hoạch mà doanh nghiệp được giao . Chính vì vậy mà sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra trong thời kỳ đó hết sức đơn điệu, mẫu mã và chất lượng kém. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các đơn vị không thể ngồi trông chờ vào kế hoạch của Nhà nước cấp mà phải tự lăn lộn vào thị trường nhằm chọn ra được sản phẩm thích hợp và đầu tư nghiên cứu sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, có thể đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Do vậy việc tiêu thụ bất cứ sản phẩm hàng hoá nào trước hết là căn cứ vào nhu cầu người tiêu dùng. Lượng hàng mà doanh nghiệp bán ra là nhân tố trực tiếp làm tăng hay giảm lợi nhuận của doanh nghiệp và nó thể hiện sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, là cơ sở để xác định các chỉ tiêu kinh tế tài chính, đánh giá trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp, trình độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là cở sở để thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Mặt khác nó còn phản ánh gián tiếp việc tổ chức nghiệp vụ mua hàng, lựa chọn mặt hàng kinh doanh cũng như công tác dự trữ, bảo quản hàng hoá. Việc tiêu thụ hàng hoá là cở sở, là tiền đề cho sự tồn tại hoạt động và phát triển không chỉ đối với các doanh nghiệp thương mại mà còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào tiến hành sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà doanh nghiệp có thể tự đánh giá được hàng hoá của mình kinh doanh hay sản xuất được chấp nhận ở mức độ nào. Có thể nói bán hàng vừa là công việc hàng ngày vừa là mối quan tâm hàng đầu của nhà kinh doanh. Do đó, thực hiện tốt công tác tiêu thụ hàng hoá thực sự có ý nghĩa đối với việc phấn đấu tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Như vậy, tìm ra phương thức bán hợp lý là công việc hàng ngày, là mối quan tâm hàng đầu của nhà kinh doanh, đặc biệt trong sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Xuất phát từ vị trí quan trọng như vậy, kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ cũng là phần hành kế toán được đặc biệt quan tâm trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. Do vậy, nhận thức đúng đắn và đầy đủ vị trí của công tác tiêu thụ hàng hoá là rất cần thiết cho mỗi cán bộ kế toán trong công việc phát triển và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 2. Các phương thức tiêu thụ: Doanh ngiệp tiêu thụ sản phẩm hay nói cách khác là bán hàng có nghĩa doanh nghiệp mất quyền sở hưũ về hàng hoá đồng thời được quyền sở hữu về tiền tệ. Đó chính là hoạt động trao đổi giữa doanh nghiệp ( người bán ) với khách hàng. Có rất nhiều phương thức bán hàng khác nhau. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, việc sử dụng phương thức bán hàng nào và thanh toán tiền hàng là do thoả thuận giữa người bán và người mua sao cho cả hai bên đều cólợi. Sau đây là các hình thức bán hàng và thanh toán tiền hàng chủ yếu: Các phương thức bán hàng: a. Phương thức bán buôn: Là quá trình bán hàng cho các đơn vị sản xuất, các đơn vị thương mại để tiếp tục chuyển bán đưa vào quá trình sản xuất, chế biến tạo ra sản phẩm để bán. Hàng hoá bán buôn bao gồm chủ yếu là tư liệu sản xuất và một phần là vật phẩm tiêu dùng. Kết thúc quá trình bán hàng, hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông ( được tiếp tục đem bán hoặc gia công chế biễn để bán ra ). Bán hàng theo phương thức này thường được áp dụng với những lô hàng có khối lượng lớn. Như vậy, đối tượng bán buôn rất đa dạng, nó có thể là bán cho sản xuất, thương mại trong nước, ngoại thương... Có 2 hình thức bán buôn đó là bán buôn qua kho và bán buôn vận chuyển thẳng: - Bán buôn qua kho: Là hình thức bán hàng mà hàng hóa được đưa về kho của đơn vị bán rồi mới tiếp tục chuyển bán. Phương thức bán buôn qua kho được tiến hành dưới 2 hình thức: + Bán hàng theo phương thức gửi hàng: Theo hình thức này, công ty bán buôn căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết với người mua hàng để gửi hàng cho người mua bằng phương tiện vận chuyển tự có hoặc thuê ngoài. Hàng hoá được giao cho bên mua tại kho của bên mua hoặc tại địa điểm bên mua đã thoả thuận trước trong hợp đồng. Hàng hoá gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị bán buôn, chỉ khi nào thu được tiền bán hàng hoặc bên mua xác nhận đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì mới được coi là tiêu thụ. + Bán hàng theo hình thức trực tiếp giao hàng tại kho: Theo hình thức này, bên mua căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết, giao cho cán bộ nghiệp vụ của mình trực tiếp đến tận kho của đơn vị bán buôn để nhận hàng hoặc đến một địa điểm được quy định trong hợp đồng để lấy hàng. Cán bộ nghiệp vụ phải chịu trách nhiệm áp tải hàng đã nhận về đơn vị mình bằng phương tiện vận tải hiện có hoặc thuê ngoài. Số hàng hoá bên bán giao cho đại diện bên mua được coi là tiêu thụ khi người mua nhận hàng xong, thanh toán hoặc nhận nợ. Đối với phương thức bán buôn qua kho: Việc bán hàng được thực hiện là bên bán giao hàng cho bên mua tại kho thì người mua nhận hàng xong thanh toán tiền hoặc ký nợ thì được ghi chép là hàng bán. Nếu đưa hàng đến kho của người mua hoặc gửi hàng qua cơ quan vận chuyển thì thời điểm ghi chép là khi nhận được giấy báo có của ngân hàng hay được giấy chấp nhận thanh toán của người mua. - Bán buôn vận chuyển thẳng: Là phương thức bán hàng mà hàng hoá bán cho bên mua được giao thẳng từ kho của bên cung cấp ( đơn vị bán cho công ty bán buôn ) hoặc giao thẳng từ trên bến cảng, nhà ga chứ không qua kho của công ty bán buôn. Bán buôn vận chuyển thẳng là phương thức bán hàng hợp lý nhất, nó cho phép tiết kiệm được chi phí lưu thông đến mức tối đa đồng thời tạo điều kiện tăng nhanh sự vận động của hàng hoá. Song phương thức này chỉ được áp dụng trong điều kiện cung ứng hàng hoá có kế hoạch, khối lượng hàng hoá lớn, hàng hoá không cần qua công tác tổ chức lại như phân loại, chọn lọc, đóng gói của đơn vị bán buôn. Bán buôn vận chuyển thẳng được thực hiện bằng hai hình thức bán: Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán và bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán. Theo hình thức 1, Công ty bán buôn vừa tiến hành thanh toán với bên cung cấp về hàng mua đồng thời vừa tiến hành thanh toán với bên mua hàng về hàng bán, nghĩa là ở công ty bán buôn vừa phát sinh nghiệp vụ mua hàng vừa phát sinh nghiệp vụ bán hàng. Theo hình thức 2, Công ty bán buôn là đơn vị trung gian trong mối quan hệ giữa bên cung cấp với bên mua. Công ty bán buôn uỷ nhiệm cho bên mua trực tiếp nhận hàng và thanh toán tiền hàng với bên cung cấp số hàng thuộc hợp đồng mà Công ty đã ký với bên cung cấp. Trong trường hợp này, công ty không phát sinh nghiệp vụ mua hàng , bán hàng. Tuỳ theo điều kiện ký kết hợp đồng mà công ty được hưởng một khoản tiền hoa hồng do bên cung cấp hoặc bên mua trả. Đối với trường hợp bán buôn vận chuyển thẳng, thì thời điểm ghi chép hàng bán được xác định khi nhận được tiền của người mua hoặc người mua ký nhận nợ. b. Phương thức bán lẻ: Bán lẻ hàng hoá là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng có thể là cá nhân hoặc tập thể. Khác với bán buôn, bán lẻ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người tiêu dùng mà không mang tính chất sản xuất. Đặc trưng của phương thức bán là sau khi kết thúc quá trình bán, hàng hoá rời khỏi lĩnh vực lưu thông chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng. Khối lượng hàng hoá mỗi lần bán thường là nhỏ vì đối tượng của bán lẻ là tầng lớp dân cư, cá nhân hoặc tập thể với mục đích tiêu dùng, thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt ngay sau khi mua hàng. Trong bán lẻ hiện nay áp dụng hai hình thức chủ yếu sau: - Bán hàng thu tiền tập trung: Là phương thức bán hàng mà nghiệp vụ thu tiền và giao hàng tách rời nhau. Mỗi quầy bán hàng có nhân viên thu ngân làm nhiệm vụ viết hoá đơn và thu tiền của khách hàng. Khách hàng sẽ cầm hoá đơn đến nhận hàng ở quầy do mậu dịch viên giao và trả hoá đơn cho mậu dịch viên. Cuối ca, cuối ngày, nhân viên thu ngân kiểm tiền, làm giấy nộp tiền bán hàng còn mậu dịch viên thì căn cứ vào số hàng đã giao theo các hoá đơn và thu lại hoặc kiểm kê số hàng hoá còn lại cuối ca, cuối ngày để xác định số hàng đã giao, lập báo cáo bán hàng trong ca ( ngày). Đối chiếu với số tiền nộp theo giấy nộp tiền với doanh thu bán hàng theo báo cáo bán hàng để xác định thừa thiếu tiền và hàng. Do đó việc tách rời giữa người bán và người thu tiền như vậy sẽ tránh được những sai sót, mất mát hàng hoá hoặc nếu xảy ra trường hợp sai sót, mất mát hàng hoá có thể quy trách nhiệm chính xác cho nhân viên thu ngân. Nếu doanh thu đúng thì số chênh lệch thừa thiếu là thiếu về tiền bán hàng thuộc trách nhiệm của nhân viên thu ngân. Nếu tiền hàng nộp đủ mà kiểm kê hàng ở quầy sai lệch không phù hợp với số thực bán trong hoá đơn thì số sai lệch thừa thiếu là thừa thiếu ở quầy hàng thuộc trách nhiệm của mậu dịch viên. Việc tách rời, phân rõ trách nhiệm vật chất của nhân viên người thu ngân và mậu dịch viên tạo điều kiện cho việc quản lý tiền hàng. Ưu điểm của hình thức bán hàng này là tách rời giữa người giữ hàng với người giữ tiền do đó tránh được những nhầm lẫn sai sót, mất mát về tiền và hàng. Người bán hàng không phải chịu trách nhiệm do sự nhầm lẫn về tiền trong quá trình bán, hơn nữa họ sẽ có nhiều thời gian hơn để chuẩn bị hàng hoá phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên hình thức bán này có nhược điểm gây sự phiền hà cho khách hàng. Do vậy nó ít được áp dụng và chỉ được áp dụng trong việc bán những mặt hàng có giá trị cao. - Bán hàng thu tiền trực tiếp: Đây là phương thức được áp dụng rộng rãi trong các cửa hàng, siêu thị hiện nay. Theo phương thức này, người mua sẽ được toàn quyền lựa chọn hàng hoá mà mình cần trong các cửa hàng, siêu thị. Tức là trong các cửa hàng, siêu thị không còn các nhân viên bán hàng giao hàng cho khách mà chỉ có các nhân viên thu ngân có nhiệm vụ lập hoá đơn bán hàng giao cho khách và thu tiền của khách. Nhưng bán hàng theo hình thức này, việc quản lý phải thật chặt chẽ vì dễ xảy ra mất mát nếu quầy thu ngân quá đông khách do nhân viên thu ngân vừa thu tiền vừa giao hàng do vậy họ sẽ không có thời gian chuẩn bị hàng phục vụ người mua. Đó là nhược điểm của hình thức này. Phương thức bán này đòi hỏi nhân viên là người có nghiệp vụ chuyên môn giỏi. Như vậy, đối với phương thức bán lẻ thì thời điểm hàng được coi là bán khi người mua nhận hàng và trả tiền, ở nghiệp vụ này thường không cần lập chứng từ cho từng nghiệp vụ bán hàng và cuối ca, cuối ngày tiến hành lập một chứng từ chung đó là báo cáo bán hàng. Trường hợp doanh nghiệp có lập hoá đơn bán lẻ hàng như phương thức tự phục vụ thì cuối mỗi ca, mỗi ngày nhân viên bán hàng sẽ lập bảng kê hoá đơn bán hàng và lập báo cáo bán hàng còn tiền hàng ghi theo giấy nộp tiền hàng. Đối chiếu doanh thu trên báo cáo với số tiền thực nộp sẽ xác định được số tiền thừa ( thiếu ) khi bán hàng. c. Gửi hàng đại lý bán và nhận bán hàng đại lý: Gửi hàng đại lý là hình thức mà đơn vị bỏ vốn ra mua hàng hoá và gửi đi tiêu thụ mà đơn vị không trực tiếp tham gia tiêu thụ hàng hoá đó. Nhận bán hàng đại lý, ký gửi là hình thức mà đơn vị bán không phải dùng vốn kinh doanh của mình mà chỉ làm nhiệm vụ tiêu thụ hộ đơn vị đại lý và nhận tiền hoa hồng do việc bán đại lý đó. Việc thanh toán tiền hàng có thể được áp dụng theo hình thức: bán hàng xong, giao tiền cho đơn vị giữ đại lý và được hưởng tỷ lệ hoa hồng theo thoả thuận, giá cả hàng hoá bán ra do bên gửi đại lý quy định. Đơn vị nhận đại lý không có quyền sở hữu về hàng hoá, nhưng lại có quyền sử dụng hàng hoá. Ngược lại đơn vị gửi đại lý có quyền sở hữu hàng hoá nhưng không có quyền sử dụng. 3. Yêu cầu và nhiệm vụ tiêu thụ và kết quả tiêu thụ. Như trên đã khẳng định, tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ cũng là phần hành kế toán giữ vai trò hết sức quan trọng vì nó là công cụ không thể thiếu để thu nhận, xử lý cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý nói chung và công tác quản lý tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ nói trên của doanh nghiệp. Quản lý tiêu thụ là quản lý kế hoạch bán hàng và việc thực hiện kế hoạch đối với từng thời kỳ, từng khách hàng, từng hợp đồng kinh tế. Yêu cầu đối với việc quản lý là phải giám sát chặt chẽ thường xuyên hàng hoá bán ra trên tất cả các phương diện: Số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã.. Tránh hiện tượng mất mát hư hỏng hoặc tham ô, lãng phí. Giám sát chặt chẽ chi phi lưu thông, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của các khoản chi phí đồng thời phân bổ cho hàng tiêu thụ để xác định chính xác kết quả bán hàng. Phải quản lý chặt chẽ tình hình thanh toán của khách hàng, lựa chọn hình thức bán hàng cho hợp lý với từng khách hàng, từng thời kỳ trên thị trường. Để đáp ứng kịp thời những yêu cầu đó hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: Thứ nhất: Ghi chép phản ảnh đúng, chính xác, đầy đủ kịp thời sự vận động của hàng hoá, khối lượng hàng hoá bán ra, đã giao cho cửa hàng tiêu thụ đối với các mặt hàng đó. Và xác định chính xác, đầy đủ doanh thu bán hàng thu đủ và kịp thời tiền bán hàng. Tổ chức tốt công tác kế toán chi tiết hàng hoá ở khâu bán, đảm bảo phản ánh hàng cả về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá trị. Thứ hai: Cung cấp thông tin kịp thời về tình hình tiêu thụ phục vụ cho việc điều hành hoạt động kinh doanh thương mại cụ thể: Phải báo cáo thường xuyên kịp thời tình hình tiêu thụ, tình hình thanh toán với khách hàng theo từng loại hàng, từng loại hợp đồng kinh tế. Thứ ba: Phản ánh, kiểm tra tiến độ tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, kỷ luật thanh toán và quản lý chặt chẽ tiền bán hàng, kỷ luật thu nộp ngân sách về thuế doanh thu. Kế toán phải ghi chép, phản ảnh kịp thời và đầy đủ kết hợp với việc kiểm tra thường xuyên các chi tiết kế hoạch đó. Thứ tư: Xác định chính xác trị giá vốn của hàng bán ra nhằm xác định đúng kết quả tiêu thụ, cung cấp thông tin cho việc lập quyết toán đầy đủ, kịp thời , đúng chế độ. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau: - Phải xác định đúng đắn thời điểm hàng được coi là tiêu thụ, việc xác định đúng đắn thời điểm hàng được coi là tiêu thụ thì sẽ xác định được thời điểm kết thúc quản lý chung, tạo điều kiện cho công tác kế toán sử dụng đúng đắn tài khoản kế toán và phản ánh chính xác doanh thu thu của quá trình tiêu thụ. Trên cơ sở đó phản ánh chính xác thuế doanh thu và kết quả tiêu thụ trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. - Tổ chức hệ thống chứng từ ghi chép ban đầu và trình tự luân chuyển chứng từ hợp lý nhằm phản ánh được các số liệu phục vụ cho công tác quản lý kinh doanh, tránh ghi chép trùng lặp, nâng cao hiệu quả công tác kế toán của doanh nghiệp. - Báo cáo kịp thời tình hình bán hàng. - Xác định chính xác chi phí lưu thông và phân bổ hợp lý chi phí lưu thông cho hàng còn lại và hàng bán ra, xác định đúng đắn trị giá vốn của hàng bán ra, từ đó sẽ xác định đúng đắn kết quả bán hàng. III. Hạch toán tổng hợp tiêu thụ theo phương pháp kê khai thường xuyên. 1. Khái niệm và tài khoản sử dụng: - Phương pháp kê khai thường xuyên: là phương pháp theo dõi thường tình hình hiện có và phản ánh một cách thường xuyên và liên tục tình hình nhập xuất- tồn kho của từng loại vật liệu, sản phẩm hàng hoá trên sổ kế toán sau mỗi lần phát sinh nghiệp vụ mua bán hoặc nhập xuất xảy ra. - Để phản ánh tình hình tiêu thụ kế toán sử dụng một số tài khoản sau: +Tài khoản 156 “ Hàng hóa”: Tài khoản này phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động tăng, giảm của các loại hàng hoá của doanh nghiệp thương mại bao gồm hàng hoá tại kho hàng, quầy hàng của doanh nghiệp, chi tiết từng kho, từng quầy, từng nhóm hàng hoá... Kết cấu của tài khoản 156: Bên Nợ: - Trị giá mua của hàng hoá tăng - Chi phí thu mua hàng hoá Bên Có: - Trị giá mua của hàng hoá của hàng hoá giảm - Chi phí thu mua phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ trong kỳ Dư Nợ: Phản ánh trị giá mua hàng tồn kho và chi phí thu mua phân bổ cho hàng chưa tiêu thụ. TK 156 có 2 tiểu khoản cấp 2: TK 1561: Giá mua hàng hoá TK 1562: Chi phí thu mua hàng hoá + Tài khoản 157( hàng gửi bán ): dùng để phán ánh giá trị sản phẩm hàng hoá đã gửi bán theo kế hoạch hợp đồng, gửi bán cho đại lý nhưng chưa được người mua chấp nhận thanh toán, kế toán phải theo dõi chi tiết từng lần gửi hàng và từng loại hàng gửi bán cho đến khi xác nhận là tiêu thụ. Kết cấu của tài khoản 157: Bên nợ : Giá thực tế hàng gửi bán chưa thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Bên có: - Giá thực tế của sản phẩm hàng hoá gửi đi đã được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. - Phản ánh trị giá hàng hoá gửi đi bị khách hàng từ chối, trả lại. Dư Nợ: Giá hạch toán chưa được chấp nhận. + Tài khoản 632 “Giá vốn hàng bán”: dùng để theo dõi giá thành thực tế của hàng hoá dịch vụ xuất bán trong kỳ. Kết cấu của tài khoản 632: Bên nợ: - Phản ánh giá vốn của hàng tiêu thụ trong kỳ Bên có:- Phản ánh giá vốn của hàng hoá bị trả lại trong kỳ. - Kết chuyển giá vốn của hàng hoá đã tiêu thụ để xác định kết quả bán hàng. Cuối kỳ tài khoản này không có số dư. 2. Phương pháp hạch toán tiêu thụ theo phương pháp KKTX: 2.1. Phương pháp hạch toán nghiệp vụ bán buôn qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp. -Khi xuất hàng hoá giao cho bên mua, đại diện bên mua ký nhận đủ hàng và đã thanh toán tiền mua hàng hoặc chấp nhận nợ, kế toán ghi: + Doanh thu bán hàng: Nợ TK111, 112, 131: Tổng giá thanh toán. Có TK 511: Doanh thu bán hàng + Phản ánh trị giá mua thực tế( trị giá vốn) của hàng xuất bán. Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán Có TK 156(1561): Hàng hoá 2.2. Phương pháp hạch toán nghiệp vụ bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng. - Khi xuất kho hàng hoá chuyển hàng đến cho bên mua: Nợ TK 157: Hàng gửi đi bán Có TK 156(1561): Hàng hoá - Khi hàng hoá được xác định là tiêu thụ( nhận được tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo có của bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán). + Phản ánh doanh thu bán hàng, kế toán ghi: Nợ TK 111,112: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng Nợ TK 131: Phải thu của khách hàng Có TK 511: Doanh thu bán hàng + Kết chuyển trị giá mua thực tế của hàng đã tiêu thụ Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán Có TK 157: Hàng gửi đi bán - Trường hợp có bao bì tính giá riêng, chi phí vận chuyển, bốc dỡ doanh nghiệp thương mại chi hộ bên mua: Nợ TK 138(1388): Phải thu khác Có TK 153: Công cụ- dụng cụ(1532) Có TK 111,112: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng Có TK 141: Tạm ứng - Khi nhận được tiền của bên mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền bao bì, chi phí vận chuyển bốc dỡ: Nợ TK 111,112: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng Nợ TK 131: Phải thu của khách hàng Có TK 138: Phải thu khác( 1388) 2.3 Phương pháp kế toán nghiệp vụ bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng. * Nếu bên bán có tham gia thanh toán: -Khi hàng về và chuyển thẳng đến cho bên mua kế toán ghi: Nợ TK 157: Hàng gửi đi bán Có TK 111,112,331: Tổng giá thanh toán - Khi hàng chuyển bán thẳng được xác định là tiêu thụ( khi thu được tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo có của bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán) + Phản ánh doanh thu bán hàng Nợ TK 111,112,131: Tổng giá thanh toán Có TK 511: Doanh thu bán hàng * Trường hợp bán hàng vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán: - Nếu không tham gia thanh toán, kế toán chỉ theo dõi số hoa hồng được hưởng từ nghiệp vụ môi giới hàng cho nhà cung cấp, hoặc cho khách hàng. Nợ TK 111, 112, 131 Có TK 511 - Nếu có phát sinh chi phí môi giới: Nợ TK 641 Có TK 111, 112, 141.. 2.4 Phương pháp hạch toán nghiệp vụ bán lẻ hàng hoá: Căn cứ vào hoá đơn bán hàng và giấy nộp tiền của nhân viên bán hàng kế toán ghi: Nợ TK 111: Tiền mặt Nợ TK 113: Tiền đang chuyển Nợ TK 112: Tiền gửi ngân hàng Có TK 511: Doanh thu bán hàng (5111) 2.5 Phương pháp hạch toán nghiệp vụ bán hàng theo phương thức bán hàng đại lý: - Khi xuất kho gửi bán đại lý kế toán ghi: Nợ TK 157 Có TK 156 - Trường hợp mua hàng gửi bán đại lý ghi: Nợ TK157 Có TK 111, 112, 331... - Khi hàng gửi đại lý được xác định là đã tiêu thụ: + Doanh thu hàng gửi bán đại lý: Nợ TK 111, 112, 131 Nợ TK 641: Hoa hồng cho bên nhận đại lý Nợ TK 138(8): Số tiền thuế nhờ nộp hộ (nếu có) Có TK 511: Doanh thu + Kết chuyển trị giá vốn: Nợ TK 632 Có TK 157 IV. Đặc điểm hạch toán theo phương pháp kiểm kê định kỳ 1. Khái niệm và tài khoản hạch toán - Phương pháp kiểm kê định kỳ: là phương pháp hạch toán căn cứ vào kết quả kiểm kê thực tế để phản ánh giá trị tồn kho cuối kỳ của hàng hoá trên sổ kế toán tổng hợp và từ đó tính giá trị của hàng hoá, vật tư đã xuất bán trong kỳ . - Để phản ánh tình hình tiêu thụ kế toán sử dụng tài khoản sau: + TK 611(6112)- Mua hàng: Được sử dụng để theo dõi giá trị hàng hoá mua vào bao gồm giá mua ghi trên hoá đơn và các chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình mua hàng. Kết cấu và nội dung phản ánh của TK 611(6112) Bên Nợ: - Trị giá hàng hóa còn lại đầu kỳ( tồn kho, tồn quầy, đang đi trên đường, đang gửi bán) - Trị giá hàng hoá phát sinh trong kỳ Bên Có: - Chiết khấu mua hàng, giảm giá hàng mua - Trị giá hàng hoá tăng thêm trong kỳ - Trị giá hàng còn lại cuối kỳ( tồn kho, quầy, hàng mua đang đi trên đường, hàng gửi bán) - Trị giá thực tế hàng hoá tiêu thụ trong kỳ 2. Phương pháp hạch toán: - Đầu kỳ: + Kết chuyển trị giá hàng hoá tồn kho đầu kỳ: Nợ TK 6112 Có TK 156(1561) + Kết chuyển trị giá hàng đi đường đầu kỳ: Nợ TK 6112(61121) Có TK 151 + Kết chuyển trị giá mua hàng xuất kho gửi bán chưa xác định tiêu thụ đầu kỳ: Nợ TK 6112 Có TK 157 + Kết chuyển chi phí thu mua liên quan đến kỳ tồn kho và gửi bán chưa xác định tiêu thụ đầu kỳ: Nợ TK 6112 Có TK 1562 - Trong kỳ kế toán căn cứ vào hoá đơn và các chứng từ mua hàng ghi: + Khi mua hàng: Nợ TK 611 Có TK 111, 112, 331... - Cuối kỳ, kiểm kê số lượng hàng hoá tồn kho thực tế, xác định giá trị hàng hoá tồn kho cuối kỳ, trị giá hàng tiêu thụ. + Căn cứ vào kết quả xác định được cửa hàng hiện còn cuối kỳ để kết chuyển giá trị hàng hoá tồn kho cuối kỳ sang TK 156(1561) Nợ TK 156(1561) Có TK 6112 + Kết chuyển giá trị hàng hoá gửi bán chưa xác định tiêu thụ cuối kỳ: Nợ TK 157 Có TK 6112 + Tính trị giá mua hàng hoá xuất bán đã xác định tiêu thụ trong kỳ: Nợ TK 632 Có Tk 6112 * Kế toán bán buôn qua kho theo hình thức nhận hàng: Trong kỳ khi tiêu thụ hàng hoá kế toán chỉ phản ánh bút toán doanh thu bán hàng: Nợ TK 111, 112, 131 Có TK 511 Bút toán kết chuyển trị giá vốn không được thực hiện đồng thời như phương pháp kê khai thường xuyên mà nó chỉ được phản ánh một lần vào cuối kỳ sau khi đã xác định tổng trị giá vốn của hàng đã bán: Nợ TK 632: Kết chuyển giá vốn Có TK 611(ghi một lần vào cuối kỳ) * Kế toán nghiệp vụ bán buôn qua kho theo hình thức gửi hàng: Đầu kỳ kết chuyển trị giá hàng gửi bán chưa tiêu thụ lúc đầu kỳ: Nợ TK 611 Có TK 157 Trong kỳ khi xuất kho hàng gửi bán kế toán không ghi sổ mà chỉ lưu bộ chứng từ và._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0423.doc
Tài liệu liên quan