Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE

LỜI NÓI ĐẦU Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng. Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên cũng sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ xem xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh tế. Công tác định giá ở nước ta mặc dù đã diễn ra từ rất lâu (đầu những năm 90) nhưng gần đây mới thu hút được sự quan tâm của mọi người, nhất là trong thời điểm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dù chúng ta có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện công tác định giá thông qua hàng loạt những thay đổi từ phía Nhà nước nhưng thực tế cho thấy công tác này vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Cơ chế tổ chức định giá chưa chặt chẽ, giá trị của doanh nghiệp được xác định chưa mang tính khách quan, thiếu chính xác và tốn thời gian, chi phí. Do vậy mà công tác định giá trong thời gian qua được đánh giá là chưa hiệu quả. Định giá doanh nghiệp có một tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế và do vậy cần có những giải pháp hoàn chỉnh và khoa học nhất để làm sao nâng cao được hiệu quả của công tác này sẽ giúp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi là một thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO. Ngay từ khi mới tham gia vào hoạt động định giá, công ty Cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam, nay là công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã luôn chú trọng đến việc mở rộng và hoàn thiện chất lượng công tác định giá của mình nhằm bắt nhịp và đáp ứng tốt nhất nhu cầu định giá trong bối cảnh hội nhập. Do đó, công ty đã trở thành một trong những tổ chức định giá hàng đầu và có uy tín nhất tại Việt Nam hiện nay. Vì vậy, sau khi thực tập tại đây, với mục đích tìm hiểu thực tế về hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty và những tồn tại của nó nhằm tìm ra giải pháp khắc phục, thúc đẩy hơn nữa hoạt động này, tôi đã chọn để tài “Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiẹm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE” để làm đề tài cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu về thực trạng hoạt động định giá tại VAE , trước hết tôi muốn đi sâu nghiên cứu những lý luận chung nhất về định giá, tiếp đến là phân tích thực trạng công tác định giá hiện nay và thứ ba là trong giới hạn hiểu biết của mình tôi đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là những doanh nghiệp được định giá bởi công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam trong những năm từ 2005 trở lại đây. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như: tập hợp, nghiên cứu tài liệu sau đó chọn lọc, phân tích, đánh giá thông tin dữ liệu trên cơ sở các số liệu thống kê thu thập được từ Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam. Bố cục của đề tài: Đề tài này gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH Kiểm tóan và Định giá Việt Nam. Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ cùng toàn thể các anh, chị nhân viên phòng Nghiệp vụ I, công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành báo cáo thực tập của mình. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP 1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp Doanh nghiệp là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ. Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó. Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (theo luật doanh nghiệp 2005). 1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế và cần được coi là một loại hàng hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau. Giá trị doanh nghiệp cần được xác định một cách hợp lý để đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia trong các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp. Trước khi xem xét đến giá trị doanh nghiệp, chúng ta cũng cần làm rõ những đặc điểm của doanh nghiệp như sau: a) Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn được đặt trong mối quan hệ chung với các phần tử khác của nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ được quyết định bởi các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài như: khách hàng, nhà cung cấp, tổ chức tài chính, pháp luật…Sự hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự thích ứng của nó với môi trường hoạt động. Do vậy khi nhìn nhận doanh nghiệp cần thấy được vị trí của nó trong nền kinh tế và quan trọng hơn là phải đánh giá được nó về mặt tổ chức cũng như sự thích ứng của nó với môi trường. b) Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoặt động chứ không phải là các tài sản rời rạc được tập hợp vào với nhau Doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp không đơn giản là tập hợp của những tài sản vô tri vô giác, giá trị sử dụng của chúng bị giảm dần theo thời gian. Khi hoạt động, các tài sản trong doanh nghiệp gắn kết lại với nhau để tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho doanh nghiệp. Chỉ khi doanh nghiệp bị giải thể hay phá sản, những tài sản ấy mới được coi là những tài sản đơn lẻ, rời rạc, người ta có thể đem bán nó như một loại hàng hóa thông thường với mức giá thấp hơn rất nhiều giá trị thực của nó. Do vậy, giá trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được dùng cho những doanh nghiệp đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động. c) Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng để bán, tuy vậy giống như các hàng hoá thông thường khác, doanh nghiệp cũng là đối tượng của các giao dịch: mua bán, hợp nhất, chia nhỏ,… Quá trình hình thành giá cả và giá trị đối với loại hàng hoá này cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Nhưng doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cầu thành, ngoài việc được tạo nên bởi các tài sản hữu hình còn có các tài sản vô hình như: lợi thế thương mại, thương hiệu…Hơn nữa, bản thân các yếu tố tạo nên giá trị của doanh nghiệp luôn có sự thay đổi, luôn só sự tăng lên hay giảm đi, có sự ra đời hay biến mất, chính vì vậy giá trị của một doanh nghiệp cũng thay đổi theo thời gian và giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động. d) Việc thành lập hay mua bán lại doanh nghiệp thực chất là nhằm tìm kiếm thu nhập từ quyền sở hữu đối với doanh nghiệp đó Con người muốn sở hữu doanh nghiệp là vì lợi nhuận. Việc sở hữu các tài sản cố định tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh doanh, chỉ là cách thức, là phương tiện để đạt mục tiêu lợi nhuận mà thôi. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai. 1.2 Định giá doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp Giá trị (value) là một khái niệm kinh tế có liên quan đến giá cả, chủ yếu do người mua và người bán xác định. Giá trị là mức giá dự tính sẽ phải trả đối với hàng hoá hoặc dịch vụ tại một thời điểm nhất định. Giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khỏan thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đẩu tư trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để xác định được giá trị doanh nghiệp, có thể tiếp cận theo hai cách: Tiếp cận trực tiếp: Trực tiếp đánh giá các tài sản của doanh nghiệp, bao gồm cả tài sản hữu hình, tài sản vô hình và định lượng giá trị các yếu tố về tổ chức, danh tiếng, thị phần của doanh nghiệp. Tiếp cận gián tiếp: Đánh giá doanh nghiệp thông qua việc lượng hóa các khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong suốt thời gian hoạt động còn lại của doanh nghiệp. Với hai cách tiếp cận như vậy, trên thế giới hiện nay có nhiều phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau (sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau). Tuy nhiên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thường có sự chênh lệch lớn thậm chí ngay cả khi sử dụng cùng một phương pháp vì kết quả đó phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của các tham số tính toán. Do vậy mỗi phương pháp đưa ra đều có những thích ứng đối với từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi doanh nghiệp và tẩm nhìn của nhà đầu tư. Không thể có một phương pháp chung phù hợp cho mọi doanh nghiệp nên việc lựa chọn phương pháp nào đó để áp dụng thống nhất cho mọi doanh nghiệp là điều khó thực hiện và sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Định giá là một môn khoa học có tính nghệ thuật ước lượng cao chứ không hẳn là một khoa học chính xác. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của nhà thẩm định, điều quan trọng là quá trình định giá phải thực hiện một cách thống nhất và kết quả định giá sẽ được sử dụng một cách hữu ích nhất. 1.2.2 Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường. Giá trị thị trường. Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường: + “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị trường... ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên thị trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả mãn những điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá. + “vào thời điểm thẩm định giá...” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến hành thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức mua trên thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản. + “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua...” là người đang có khả năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường. + “và một bên là người bán sẵn sàng bán...” là người bán đang có quyền sở hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường. + “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu tác động của thiên tai, địch họa; nền kinh tế không bị suy thoái hoặc phát triển quá nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai trên thị trường. Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số lượng hạn chế người mua, người bán. Giá trị thị trường thể hiện mức giá ước tính mà trên cơ sở đó, bên bán và bên mua thoả thuận tại một thời điểm sau khi cả hai bên đã khảo sát, cân nhắc đầy đủ các cơ hội và lựa chọn tốt nhất cho mình từ các thông tin trên thị trường trước khi đưa ra quyết định mua hoặc quyết định bán một cách hoàn toàn tự nguyện, không nhiệt tình mua hoặc nhiệt tình bán quá mức. Giá trị phi thị trường Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể mua bán tài sản trên thị trường. Cơ sở của việc đưa ra khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát trực tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích mà tài sản mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định. Sau đây một số khái niệm giá trị phi thị trường thường dùng: - Giá trị còn lại (salvage value): là giá trị của tài sản (bao gồm cả đất đai) không còn được tiếp tục sửa chữa hay sử dụng nữa. Giá trị này có thể coi như giá trị ròng của chi phí dỡ bỏ. Trong mọi trường hợp, khi định giá tài sản cần xác định rõ những bộ phận dỡ bỏ và những bộ phận còn lại của tài sản. - Giá trị tài sản bắt buộc phải bán (forcedsale value): là tổng số tiền hợp lý có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với thời gian trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại một số nước, giá trị tài sản bắt buộc phải bán có thể liên quan đến tình huống người bán tài sản chưa sẵn sàng bán và người mua tài sản biết rõ việc chưa sẵn sàng bán đó. - Giá trị đặc biệt (special value): là khái niệm có liên quan đến những yếu tố đặc biệt có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá giá trị thị trường. Giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền với một tài sản khác về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu hút mối quan tâm đặc biệt của một số ít khách hàng mà không thu hút sự quan tâm của nhiều người. Các yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi xem xét yếu tố của giá trị tài sản đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư. Thẩm định viên phải phân biệt rõ ràng những thông số và nguyên nhân để vận dụng các khái niệm giá trị thị trường nói trên thay vì sử dụng khái niệm giá trị thị trường. - Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy định trong hợp đồng bảo hiểm. - Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật pháp liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số văn bản pháp quy trích - Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với một số nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên quan đến những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên nhầm lẫn giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị thị trường có thể phản ánh một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư có liên quan đến giá trị đặc biệt - Giá trị đang sử dụng (Value in use): là giá trị các tài sản khi nói đang được một người cụ thể sử dụng cho một mục đích nhất định. Vì vậy, tài sản đó không liên quan đến thị trường. Loại giá trị này đóng góp vào một doanh nghiệp với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp, không tính đến giá trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số tiền mà tài sản đó mang lại khi nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế toán, giá trị đang sử dụng là giá trị hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có thể mang lại trong tương lai kể từ khi bắt đầu sử dụng tài sản đến khi thanh lý tài sản. Giá trị doanh nghiệp đang hoạt động (going concern): là giá trị toàn bộ của một doanh nghiệp. Khái niệm này liên quan đến định giá tài sản một doanh nghiệp đang hoạt động mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp đó không thể tách rời và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị thị trường. 1.2.3 Các nhân tố tác động tới giá trị doanh nghiệp Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh a) Môi trường kinh doanh tổng quát: - Môi trường kinh tế: Bối cảnh kinh tế được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ giá ngoại tệ, tỷ suất đầu tư,…Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự tác động trực tiếp, mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Ví dụ: Chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi xuất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc. - Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị nhất định. Chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, sự lộng hành của Mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội chứ không riêng gì với sản xuất kinh doanh. Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ như: + Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống pháp luật. + Quan điểm của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh được thể hiện thông qua các văn bản pháp quy như: luật cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,… - Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức. Thể hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ” quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng. Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ, ….. - Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật - công nghệ đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, hàm lượng tri thức có khuynh hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm. Sự nhảy vọt của nền văn minh nhân loại không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về doanh nghiệp phải chỉ ra được mức độ tác động của môi trường này đến sản xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước phát triển mới của khoa học- công nghệ. b) Môi trường đặc thù - Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường đối với doanh nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, thông thường khách hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp khách hàng lại bị lệ thuộc vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng và đặc biệt là thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu đó qua các chu kỳ kinh doanh. - Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp thường phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật liệu, các dịch vụ điện, nước,… Tính ổn định đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo đúng chỉ tiêu đã đề ra. Để đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho sản xuất kinh doanh có thể ổn định phải xem xét đến: Sự phong phú của các nguồn cung cấp, số lượng, chủng loại các nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả năng đáp ứng lâu dài, tính kịp thời, chất lượng và giá cả. - Các hãng cạnh tranh: Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh giá năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét 3 tiêu chuẩn: Giá cả, chất lượng sản phẩm và dịch vụ hậu thương mại còn phải xác định được số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, năng lực thự sự và thế mạnh của họ là gì. - Các cơ quan Nhà nước: Sự hoạt động của doanh nghiệp luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, các tổ chức công đoàn…Các tổ chức này có bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp không vượt ra khỏi những quy ước xã hội thể hiện trong luật thuế, luật môi trường,… Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là những doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với xã hội, như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động,… Đó cũng là biểu hiện của những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh. Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng của doanh nghiệp với các tổ chức đó. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp - Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp: Khi xác định giá trị doanh nghiệp, bao giờ người ta cũng quan tâm ngay đến hiện trạng tài sản của doanh nghiệp, vì 2 lý do chủ yếu: Thứ nhất: Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loạ tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Thứ hai: Giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó. Chính vì vậy, người ta thường đánh giá cao các phương pháp có liên quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp. - Vị trí kinh doanh: Được đặc trưng bởi các yếu tố như: địa điểm, diện tích của doanh nghiệp và các chi nhánh thuộc doanh nghiệp, yếu tố địa hình, thời tiết…. Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh. Ví dụ: Những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, được đặt gần đô thị, các nơi đông dân cư, các trung tâm buôn bán lớn và các đầu mối giao thông quan trọng có thể đem lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp như: Chi phí vận chuyển, bảo quản, chi phí lưu kho, … Đồng thời doanh nghiệp có những thuận lợi lớn để tiếp cận và nắm bắt nhanh chóng nhu cầu, thị hiếu của thị trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu thương mại… Tuy nhiên, với vị trí đó cũng có thể kéo theo sự gia tăng một số khoản chi phí như thuê văn phòng giao dịch thuê lao động… Vì vậy vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá giá trị doanh nghiệp. - Uy tín kinh doanh: Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong doanh nghiệp, như: Do chất lượng sản phẩm cao, do trình độ quản lý kinh doanh giỏi, … Khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá cao trong con mắt của khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản thực, chúng có giá và người ta gọi đó là giá trị của nhãn mác. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán quyền dán nhãn mác sản phẩm, quyền dán nhãn mác nhiều khi được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của doanh nghiệp được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị doanh nghiệp. - Trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động: Đây là một yếu tố có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh do việc sử dụng hợp lý nguyên liệu… trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp. Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động không chỉ xem ở bằng cấp, bậc thợ mà điều quan trọng là hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy đây cũng được coi là một yếu tố nội tại quyết định đến giá trị của doanh nghiệp. - Năng lực quản trị kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh đủ mạnh giúp để có thể sự dụng tốt nhất các nguồn lực cho quá trình sản xuất, biết tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó một cách linh hoạt với những biến động của môi trường. Vì lý do đó, năng lực quản trị kinh doanh luôn được nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan trọng tác động tới giá trị doanh nghiệp. Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là định lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới tác động của môi trường. Ngoài ra năng lực quản trị kinh doanh tổng hợp còn được thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Do đó, thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần với thời điểm định giá cũng có thể cho phép rút ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác động của nó đến giá trị doanh nghiệp. 1.2.4. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị doanh nghiệp là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng như hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh nghiệp được đánh giá. Sự cần thiết của định giá trị doanh nghiệp được xuất phát từ các yêu cầu quản lý và các giao dịch: a) Đối với bản thân doanh nghiệp được định giá - Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 90 và đã cho những kết quả tương đối tốt, không ít các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đã đi vào làm ăn hiệu quả, kinh doanh có lãi, vai trò của người lao động được nâng lên, quy mô sản xuất được mở rộng. Tính hiệu quả của hoạt động này đã phát huy rất rõ và tiến trình đẩy nhanh cổ phần hóa ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, vấn đề xác định giá trị phần vốn góp nhà nước tại doanh nghiệp hiện vẫn đang còn nhiều tranh cãi và là bước cản lớn nhất trong cả tiến trình, do đó, việc nâng cao chất lượng công tác định giá sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động cổ phần hóa diễn ra được nhanh chóng hơn. - Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ các doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó giá trị doanh nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong tiến trình giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ doanh nghiệp. - Định giá doanh nghiệp để vay ngân hàng: Nhu cầu mở rộng đầu tư,mua sắm mới các trang thiết bị và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay là rất lớn. Để có được nguồn vốn tài trợ cho các nhu cầu đó, doanh nghiệp thường tìm đến các ngân hàng, các tổ chức tín dụng để vay. Tuy nhiên một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền cho vay cần được đảm bảo bởi chính tài sản của doanh nghiệp. Từ đó nảy sinh nhu cầu định giá tài sản, định giá giá trị doanh nghiệp để làm cơ sỏ cho việc vay vốn của ngân hàng. b) Đối với các nhà quản trị Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị phân tích, đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài chính doanh nghiệp, xét cho cùng là phải tăng giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là sự phản ánh năng lực tổng hợp, phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà quản trị kinh doanh có thể thấy được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Theo đó, giá trị doanh nghiệp là một căn cứ thích hợp, là cơ sở để đưa ra các quyết định về kinh doanh, về tài chính… một cách đúng đắn. c) Đối với các nhà đầu tư Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, của người cung cấp, thông tin về giá trị doanh nghiệp cho người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh doanh, về khả năng tài chính và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp nữa hay không. d) Đối với nền kinh tế nói chung Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô: Giá cả của các loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của doanh nghiệp có chứng khoán được trao đổi, mua bán trên thị trường. Vì vậy, trên phương diện quản lý nền kinh tế vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp … để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều tiết thị trường một các phù hợp. Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông thường trong cơ chế thị trường đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp. Chúng là mối quan tâm của 3 loại chủ thể, đó là: Nhà nước, nhà đầu tư và nhà quản trị doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp vì vậy là một đòi hỏi tất yếu đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Đối với Việt Nam, nền kinh tế mới được chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, những nỗ lực cải cách nền kinh tế đã được thế giới công nhận và đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp như thế nào càng trở nên cấp thiết vì trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan trọng để các quốc gia tiến hành cải cách d._.oanh nghiệp Nhà nước, như: cổ phần hoá, sát nhập, hợp nhất hay giao, bán, khoán và cho thuê nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này để đủ sức đứng vững và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang hội nhập một cách mạnh mẽ, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn. 1.2.5 Chất lượng công tác định giá và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá. a) Chất lượng công tác định giá Chất lượng là một khái niệm mang tính trừu tượng và chủ quan của người đánh giá nhất là đối tượng của việc đánh giá lại là một công việc, một hoạt động cụ thểlại càng khó hơn. Tuy nhiên do tầm quan trọng của công tác định giá mà người ta cần phải đánh giá được chất lượng của công tác này. Công tác định giá doanh nghiệp được coi là có chất lượng khi mà giá xác định luôn bám sát với giá thị trường, thực hiện theo đúng quy trình, dựa trên một phương pháp định giá khoa học và đảm bảo được đúng mục tiêu, yêu cầu của các chủ thể tham gia với thời gian,chi phí thấp nhất. b) Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá. Công tác định giá phải đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu và yêu cầu của các chủ thể tham gia. Như đã trình bày ở trên, công tác định giá luôn thu hút sự quan tâm của 3 loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và Nhà quản trị. Mục tiêu của mỗi chủ thể tham gia không giống nhau, thậm chí có những sự đối lập. Nhà quản trị luôn mong muốn được định giá cao trong khi các nhà đầu tư lại mong muốn định giá càng thấp càng tốt. Mâu thuẫn này cần được dung hòa để đi đến thống nhất chung, tổ chức định giá phải là người trung gian đứng ra làm trọng tài. Vì thế giá trị doanh nghiệp sẽ được định giá một cách khách quan và thống nhất các mục đích riêng của các chủ thể tham gia. Công tác định giá được thực hiện theo đúng quy trình Công tác định giá là một công việc hết sức phức tạp và nhiều công đoạn, mỗi công đoạn lại đòi hỏi nhiều kỹ thuật xử lý thông tin rất cao. Do vậy để đảm bảo chất lượng của công tác này việc thực hiện theo đúng quy trình là một yêu cầu tất yếu. Các bước công việc cần được thực hiện tuần tự và phải tuân thủ theo nguyên tắc chung đặt ra như vậy công việc định giá sẽ được thực hiện nhanh chóng, tránh thiếu sót và bám sát với kế hoạch đã định. Công tác định giá dựa trên phương pháp định giá linh hoạt và khoa học Đối với bất cứ hoạt động nào, nếu không có một phương pháp khoa học thì hiệu quả của công việc sẽ không đạt được như ý muốn thậm chí còn gây thiệt hại. Đối với công tác định giá cũng vậy, định giá doanh nghiệp bằng các phương pháp khác nhau sẽ cho các kết quả khác nhau. Vì vậy, việc áp dụng phương pháp nào cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn. Đó chính là tính khoa học của phương pháp định giá được áp dụng. Công tác định giá phải bám sát với giá thị trường Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng, định giá doanh nghiệp là hoạt động khoa học có tính tổng hợp và khả năng dự đoán cao vì quá trình định giá doanh nghiệp không chỉ căn cứ vào các thông tin hiện có của doanh nghiệp, cung cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp, giá trị các tài sản tương đương với tài sản của doanh nghiệp, nhu cầu mua, bán về loại hình doanh nghiệp đang định giá…Gía trị doanh nghiệp không thể tự xác định được nếu không gắn nó với thị trường, chỉ có thông qua thị trường, giá trị các tài sản của doanh nghiệp mới phản ánh một cách chính xác và khách quan. Chính vì vậy đòi hỏi các chuyên gia định giá phải phải nắm vững kỹ thuật và đặc biệt là phải luôn gắn yếu tố thị trường vào khi định giá. Công tác định giá phải đảm bảo tốn ít thời gian và chi phí nhất. Chất lượng của công tác định giá doanh nghiệp không thể coi là tốt khi mà tiêu chí về thời gian và chi phí không được đảm bảo. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tham gia luôn có sự cạnh tranh, các cơ hội kinh doanh xuất hiện bất thường, nếu hoạt động định giá diễn ra trong thời gian quá dài sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động, bản thân các yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp luôn có sự thay đổi theo biến động của thị trường, giá trị của chúng luôn có sự tăng lên hoặc giảm đi và có sự ra đời hoặc mất đi của một vài yếu tố nào đó. Vì vậy khi công tác định giá kéo dài thí các yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp cũng sẽ bị biến động, điều này dẫn đến giá trị doanh nghiệp có nguy cơ bị đánh giá sai. Xét về mặt chi phí, chúng ta khẳng định được rằng chất lượng của công tác định giá không thể xem là cao khi mà chi phí bỏ ra để thực hiện quá cao. Chi phí định giá dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng là khoản phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu vì vậy nếu công tác định giá đảm bảo được ở mức thấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp sau cuộc định giá. 1.2.6 Các phương pháp định giá và phạm vi ứng dụng của các phương pháp đó. a) Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF). * Cơ sở lý luận: “Đầu tư” là khái niệm được dùng để chỉ hoạt đông bỏ vốn nhằm đạt đến khả năng có thể thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nói cách khác, đó là hoạt động bỏ vốn đầu tư có tính chất đa số, chẳng hạn như mua một số lượng chứng khoán nào đó nhằm trông đợi vào khoản thu nhập do sự tăng giá chứng khoán và lợi tức cổ phần. Thu nhập đưa lại cho “ nhà đầu tư thiểu số” có tính thụ động. Phương pháp hiện tại hoá dòng tiền thuần là một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên quan điểm đánh giá của nhà đầu tư đa số. Trong cách nhìn nhận của những người này thì quan niệm về giá trị doanh nghiệp có những điểm khác căn bản so với các phương pháp khác, vì: - Đối với nhà đầu tư đa số, việc bỏ tiền ra mua doanh nghiệp không phải nhằm để trông đợi một cách thụ động có tính chất may rủi về những khoản lợi tức cổ phần mà doanh nghiệp “ có thể” sẽ trả trong tương lai. Theo quan điểm của nhà đầu tư đa số, mua doanh nghiệp giống như việc đổi lấy một dự án đang được triển khai, giống như việc đổi lấy một cơ hội, để theo đó nhà đầu tư sau khi nắm quyền kiểm soát còn có thể điều khiển dự án- doanh nghiệp, hoạt động theo những dự định, những ý tưởng và sự tính toán của riêng mình. - Đối với nhà đầu tư, quá trình SXKD là một quá trình phát sinh các dòng tiền vào và các dòng tiền ra ( xem sơ đồ 1.1): +A -A -A +A -A +A +A +A (+A) Dòng tiền vào (-A) Dòng tiền ra Sơ đồ 1.1: Biểu diễn các dòng tiền của dự án đầu tư. Nhà đầu tư luôn đánh giá mọi việc trên cơ sở các dòng tiền. Họ chỉ quyết định mua doanh nghiệp trên cơ sở xem xét và đánh giá doanh nghiệp theo tiêu chuẩn hiệu quả của dự án đầu tư. Tức là, người ta còn phải xem xét, cân nhắc đến số lượng vốn phải tiếp tục bỏ ra trong tương lai, độ lớn của các khoản thu nhập có thể đạt được. Và đặc biệt, trên quan điểm thời giá của tiền tệ và đầu tư là hoạt động bỏ vốn với số lượng lớn, trong một khoảng thời gian dài, cho nên, yếu tố mà người ta không thể bỏ qua là thời điểm phát sinh các dòng tiền đó. Do vậy, giá trị hiện tại của dòng tiền thuần mà việc đầu tư vào doanh nghiệp cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho đầu tư là tiêu chuẩn thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp. * Phương pháp xác định: Dòng tiền ra - Dòng tiền vào Dòng tiền thuần của dự án đầu tư Phương pháp chiết khấu dòng tiền thuần cũng được xây dựng dựa trên công thức tổng quát (1.2). Nhưng điểm khác biệt căn bản đối với các phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần và phương pháp hiện tại hoá lợi tức cổ phần là ở chỗ: Các phương khoản thu nhập trong tương lai được thay thế bằng dòng tiền thuần của dự án đầu tư vào doanh nghiệp: = Trong đó: “ Dòng tiền vào” là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại dưới hình thức: Trích khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận thuần hàng năm và các khoản vốn doanh nghiệp thu được khi dự án đầu tư kết thúc. “ Dòng tiền ra” là những khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm các khoản vốn đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên trong tương lai đối với doanh nghiệp. Để dễ dàng phân biệt các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp, người ta xây dựng công thức tổng quát (1.3) như sau: Trong đó: + Vo: Giá trị doanh nghiệp. + CFt: thu nhập thuần năm thứ t + Vn: Giá trị doanh nghiệp ở cuối kỳ đầu tư ( năm thứ n) + i: Tỷ suất hiện tại hoá. Việc xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này thường được chia ra thành các bước cơ bản sau: - Bước 1: Thực hiện dự báo dài hạn về dòng tiền vào và dòng tiền ra có thể phát sinh trong tương lai, bao gồm: + Dự báo về doanh thu, chi phí vận hành, các khoản vốn đầu tư bổ sung và các khoản vốn rút ra khỏi quá trình luân chuyển trong từng năm. + Dự báo chu kỳ đầu tư ( n) và giá trị doanh nghiệp ở thời điểm cuối của chu kỳ đó (Vn). Thông thường thời điểm cuối của chu kỳ đầu tư được xác định khi mà các số liệu dự báo trong tương lai xa không còn đủ độ tin cậy ở mức độ cần thiết. - Bước 2: Xác định tỷ suất chiết khấu dòng tiền. Tỷ suất chiết khấu được lựa chọn trên nguyên tắc vừa thể hiện được yếu tố thời giá của tiền tệ vừa tính đến yếu tố rủi ro. Đối với phương pháp này, thường người ta tìm cách dự tính chi phí sử dụng vốn bình quân- phản ánh chi phí cơ hội đầu tư vốn vào doanh nghiệp. - Bước 3: Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền thuần theo tỷ suất chiết khấu nói trên để tìm ra giá trị doanh nghiệp. * Ưu điểm: - Doanh nghiệp coi như một dự án đầu tư đang triển khai, mỗi nhà đầu tư nhìn nhận tương lai của dư án này khác nhau. - Giá trị doanh nghiệp là mức giá cao nhất nhà đầu tư có thể bỏ thầu. - Quan niệm về dòng tiền tránh được việc điều chỉnh số liệu kế toán sao cho có thể phản ánh đúng thời điểm phát sinh các khoản tiền. * Nhược điểm: - Khó khăn trong khi dự báo các tham số : i, n… - Đối với các doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh hoặc có chiến lược kinh doanh không rõ ràng khó áp dụng phương pháp này. - Đòi hỏi phải có một lượng thông tin lớn. b) Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức (DDM) - Giá trị doanh nghiệp (đối với chủ sở hữu) bằng tổng giá trị các loại cổ phiếu mà doanh nghiệp đã phát hành. - Giá trị doanh nghiệp (tổng thể) bằng tổng giá trị các loại cổ phiếu cộng giá trị của các trái phiếu mà doanh nghiệp đang lưu hành và giá trị các khoản nợ khác. * Phương pháp xác định: Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán như sau: Trong đó: + Vo: Giá trị doanh nghiệp; + Rt: Thu nhập từ chứng khoán năm t; + i: Tỷ suất hiện tại hoá; + n: Số năm nhận được thu nhập. - Xác định giá trị thực của trái phiếu: Nếu lợi tức trái phiếu giữ ổn định hàng năm và bằng R, ta được: t n Trong đó: + Pn: Mệnh giá trái phiếu phải trả vào năm thứ n. - Xác định giá trị thực của cổ phiếu + Giả định 1: Doanh nghiệp có thể chi trả lưọi tức cổ phần một cách ổn định hàng năm. Tức là mức lợi tức trong tương lai luôn là một hằng số D và Cho t ® + ¥, ta có: Trong đó: + Dt: Cổ tức năm t; + D: Cổ tức trung bình một năm. + Giả định 2: Cổ tức chi trả hàng năm tăng một cách đều đặn theo một tỷ lệ ổn định là g ( với g < i), ta có: Xác định g: - Lấy của quá khứ - Dự đoán: g = ROE x tỷ lệ lợi nhuận sau thuế tái đầu tư + Giả định 3: lợi tức cổ phiếu chi trả hàng năm khác nhau cho tới thời điểm n, từ n+1 trở đi giả thiết tăng đều với tốc độ là g (với g < r): Với Trong đó: + Vn: Giá trị doanh nghiệp năm n * Ưu điểm: - Đây là mô hình đầu tiên tiếp cận trực tiếp các khoản thu dưới hình thức lợi tức cổ phần để xác định giá trị cổ phiếu. - Phương pháp này đặc biệt phù hợp với quan điểm nhìn nhận và đánh giá giá trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư thiểu số. - Thích hợp với doanh nghiệp có chứng khoán giao dịch trên thị trường, xác định giá trị doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản thuần gặp nhiều khó khăn và có giá trị tài sản vô hình được đánh giá là rất cao. * Nhược điểm: - Việc dự báo lợi tức cổ phần không phải là dễ dàng. - Phụ thuộc vào chính sách phân chia lợi tức cổ phần trong tương lai. - Việc xác định các tham số có tính thuyết phục không cao (t, n, i, g…) c) Phương pháp tài sản thuần * Cơ sở lý luận: Phương pháp này còn gọi là phương pháp giá trị nội tại hay mô hình định giá tài sản, được xây dựng dựa trên các nhận định: - Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại hàng hoá thông thường. - Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành trên cơ sở một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể về sự tồn tại của doanh nghiệp, chúng cấu thành thực thể của doanh nghiệp. - Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà đầu tư ngay khi thành lập doanh nghiệp và còn có thể được bổ sung trong quá trình SXKD. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với tài sản đó. Chính vì vậy, giá trị của doanh nghiệp được tính bằng tổng gía trị thị trường của số tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào SXKD. * Phương pháp xác định: Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp thường không chỉ thuộc về người chủ sở hữu doanh nghiệp mà chúng còn được hình thành trên các trái quyền khác, như: các trái chủ cho doanh nghiệp vay vốn, tiền lương chưa đến kỳ hạn trả, thuế chưa đến kỳ hạn nộp, các khoản ứng trước của khách hàng, các khoản bán chịu của nhà cung cấp, các tài sản đi thuê…Do vậy, mặc dù giá trị doanh nghiệp được coi là tổng giá trị các tài sản cấu thành, nhưng để thực hiện một giao dịch mua bán doanh nghiệp, người ta phải xác định giá trị tài sản thuần- thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp. Theo đó, công thức tổng quát được xây dựng như sau: V0 = Vt - VN (1.1) Trong đó: + V0: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp. + Vt: Tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào SXKD. + VN: Giá trị các khoản nợ. Dựa theo công thức (1.1), người ta suy diễn ra hai cách tính cụ thể về giá trị tài sản thuần( V0) như sau: - Cách thứ nhất: Dựa vào số liệu về tài sản và cơ cấu nguồn vốn phản ánh trên bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá để xác định bằng cách: lấy tổng giá trị tài sản trừ đi các khoản nợ phải trả bên nguồn vốn. + Đây là một cách tính toán đơn giản, dễ dàng. Nếu như việc ghi chép phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định của chế độ kế toán thì giá trị tài sản thuần tính toán được sẽ là số liệu có độ tin cậy về số vốn theo sổ sách của chủ sở hữu đang được huy động vào SXKD. Nó chỉ ra mức độ độc lập về mặt tài chính, khả năng tự chủ trong việc điều hành SXKD của chủ doanh nghiệp, là căn cứ thích hợp để các nhà tài trợ đánh giá khả năng toàn của đồng vốn đầu tư, đánh giá vị thế tín dụng của doanh nghiệp. + Mặc dù người ta có thể đánh giá giá trị doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau. Song, theo cách này nó cũng minh chứng cho các bên liên quan thấy được rằng đầu tư vào doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản hiện có trong doanh nghiệp, chứ không phải bằng cái “có thể” như nhiều phương pháp khác. Tuy nhiên, giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp này cũng chủ là những thông tin, số liệu mang tính lịch sử có tính chất tham khảo trong quá trình vận dụng các phương pháp khác nhằm định ra giá trị doanh nghiệp một cách sát đúng hơn. - Cách thứ hai: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường. Ngay cả khi doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán do Nhà nước quy định thì thì số liệu trên bảng cân đối kế toán được lập vào thời điểm nào đó cũng không phản ánh đúng giá trị thị trường của toàn bộ tài sản trong doanh nghiệp vì các lý do sau: + Toàn bộ giá trị của các tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán là những số liệu được tập hợp từ các sổ kế toán, các bảng kê…Các số liệu này phản ánh trung thực các chi phí phát sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ kinh tế trong quá khứ của niên độ kế toán. Đó là những chi phí mang tính lịch sử, không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không có lạm phát. + Giá trị còn lại của tài sản cố định phản ánh trên sổ sách kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào, phụ thuộc vào thời điểm mà doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định. Vì vậy, giá trị tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. + Trị giá hàng hoá vật tư, công cụ lao động…tồn kho hoặc đang dùng trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào cách sử dụng giá hạch toán là giá mua đầu kỳ, cuối kỳ hay giá thực tế bình quân. Mặt khác, còn phụ thuộc vào sự lựa chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hoá dự trữ. Do vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó cũng không được coi là không có đủ độ tin cậy ở thời điểm đánh giá doanh nghiệp. Đó là một số lý do cơ bản, nhưng cũng đủ để giải thích: Vì sao trị giá tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán chỉ được coi là tài kiệu tham khảo trong quá trình đánh giá toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra khỏi danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể, như sau: + Đối với tài sản cố định và tài sản lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị trường hiện đang có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế, thường không tồn tại thị trường tài sản cố định cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Khi đó, người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ snả xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một tài sản cố định mới. Đối với tài sản cố định không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với nhưng tài sản cố định khác loại nhưng có tính năng tương đương. + Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm đánh giá. Vàng, bạc, kim khí, đá quý…cũng được tính toán như vậy. + Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ của các khoản này có thể ở nhiều mức độ khác nhau. Vì vậy, bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phảI thu nhằm loại ra những khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi được là quá mong manh. + Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: Về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các doanh nghiệp hiện đang sử dụng các khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ nhất đã đề cập ở trên. + Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: tính theo phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai. + Các tài sản vô hình: Theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến các lợi thế thương mại của doanh nghiệp. Sau cùng giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của tài sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. * Ưu điểm của phương pháp xác định giá trị tài sản thuần: - Nó chứng minh được: Giá trị DN là một lượng tài sản có thật - Nó chỉ ra được giá trị tối thiểu của doanh nghiệp - Thích hợp với những doanh nghiệp nhỏ, ít tài sản vô hình. * Nhược điểm của phương pháp xác định giá trị tài sản thuần: - Đánh giá giá trị doanh nghiệp trong trạng thái tĩnh. - Không xây dựng được những cơ sở thông tin đánh giá về triển vọng sinh lời của doanh nghiệp. - Trong nhiều trường hợp, kỹ thuật đánh giá quá phức tạp, chi phí tốn kém, thời gian kéo dài. d) Phương pháp hệ số P/E * Cơ sở phương pháp luận: - Giá cả chứng khoán chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, giá cả chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị của DN đã phát hành. - Nếu thị trường chứng khoán hoàn hảo, tức là thoả mãn 5 điều kiện: + Có vô số người mua và ngời bán. + Các loại chứng khoán có thể thay thế được cho nhau. + Chứng khoán và thông tin được lưu thông tự do. + Người ta có thể mua bán chúng vào bất kỳ lúc nào và nơi nào. + Mọi thành viên tham gia thị trường đều nắm được các điều kiện giao dịch mua bán chứng khoán. Khi đó, giá cả chứng khoán chỉ phản ánh cung cầu thuần tuý, thì có thể được sử dụng để ước lượng giá trị DN. * Phương pháp xác định: Tỷ số PER được gọi là tỷ số giá/thu nhập, cho biết thị trường sẵn sàng trả giá bao nhiêu cho một đồng thu nhập được tạo ra của DN Giá trị DN = Lợi nhuận dự kiến đạt được ´ PER (quá khứ) Trong đó: + P : Giá mua bán cổ phần trên thị trường; + EPS: Thu nhập dự kiến của mỗi cổ phần, và bằng lợi nhuận thuần dự kiến chia cho số lượng cổ phần đang lưu hành. * Ưu điểm: - Cho kết quả nhanh chóng để ra quyết định kịp thời. - Phương pháp PER dựa trên cơ sở giá trị thị trường bằng cách so sánh trực tiếp. * Nhược điểm: - Mang nặng tính kinh nghiệm. - Dựa vào tỷ số PER không thể giải thích được vì sao cũng là một đồng lợi nhuận, nhưng ở DN này PER= 20, tức là được trả với giá gấp 20 lần, trong khi với DN khác, thị trường lại sẵn sàng trả tới 30 lần hoặc hơn nữa. - Phương pháp PER cũng không đa ra được những cơ sở để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá về khả năng tăng trưởng và rủi ro tác động tới giá trị DN. Kết luận: Xác định giá trị doanh nghiệp là một việc làm đặc biệt phức tạp. Có rất nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để xác định giá trị doanh nghiệp. Nhưng các phương pháp đã nêu ở trên là những phương pháp cơ bản, có cơ sở lý luận rõ ràng, vững chắc và có tính khả thi cao trong thực tế. Mỗi một phương pháp đã đưa ra đều thích ứng với những hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và tầm nhìn nhận của từng nhà đầu tư. Không có một phương pháp nào phù hợp trong mọi hoàn cảnh. Kết quả xác định về giá trị doanh nghiệp có thể có sự chênh lệch rất lớn khi sử dụng các phương pháp khác nhau, và thậm chí ngay cả khi vận dụng cùng một phương pháp. Vì, kết quả tính toán được không chỉ phụ thuộc vào khả năng ước lượng với độ chính xác cao và các tham số đưa ra khảo sát, tức là phụ thuộc vào mặt kỹ thuật của bản thân từng phương pháp, mà còn phụ thuộc vào quan điểm đánh giá về mặt lợi ích của doanh nghiệp đối với từng nhà đầu tư và dự định riêng của họ đối với tương lai của doanh nghiệp. Một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp được coi là tốt nhất nếu nó chỉ ra được những lợi ích thực sự mà doanh nghiệp sẽ mang lại cho nhà đầu tư, đồng thời nó cho phép người ta có cơ sở thực tiễn để lượng hoá những lợi ích đó. Có nghĩa là, nó được cả người mua và người bán cùng sử dụng như một cơ sở duy nhất để đàm phán về giá cả giữa đôi bên. 1.2.7 Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến công tác định giá doanh nghiệp. a) Sự nhận thức của các chủ thể về định giá doanh nghiệp Trước hết cần hiểu các chủ thể được đề cập đến ở đây chính là các nhà quản trị, các nhà đầu tư, các cơ quan Nhà nước… Việc nhận thức của họ có ảnh hưởng rất lớn đến công tác định giá. Mỗi chủ thể, đứng ở các vị trí khác nhau thường có những cái nhìn khác nhau về giá trị của doanh nghiệp. Nhìn chung có hai cách nhìn nhận chính ở đây, cách thứ nhất, xác định giá trị doanh nghiệp là giá bán doanh nghiệp. Do vậy công tác định giá doanh nghiệp cũng chính là công tác định giá bán. Phải khẳng định ngay rằng nhận thức này là sai bởi nó đi ngược lại với quy luật giá trị, “giá cả là hình thức biểu hiện của giá trị và biến động xung quanh giá trị đó”. Cách thứ hai, xác định giá trị doanh nghiệp là xác định giá gắn với giá thị trường và căn cứ vào giá trị thực tế của các yếu tố cấu thành. Khi một yếu tố thay đổi về số lượng hay chất lượng thì lập tức giá trị doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi luôn theo. Tuy nhiên sự thay đổi giá trị doanh nghiệp ít hay nhiều còn phụ thuộc vào tỷ trọng giá trị của các yếu tố cấu thành trong giá trị doanh nghiệp. b) Loại hình và quy mô doanh nghiệp. Nhân tố này trực tiếp tác động tới phương pháp định giá được áp dụng bởi không phải loại hình và quy mô doanh nghiệp nào cũng sử dụng một phương pháp định giá giống nhau. Thường thì các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với các đặc trưng tài sản chiếm phần nhiều là tài sản hữu hình do đó công tác định giá thường sử dụng phương pháp tài sản ròng. Còn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng thì tài sản hữu hình lại chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ so với tài sản vô hình (lợi thế thương mại, giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu…) do vậy thường sử dụng phương pháp định giá theo khả năng sinh lời. Cũng giống như vậy, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường là các doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường và đã khẳng định được uy tín, chỗ đứng của mình vì vậy việc định giá thường sử dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu. Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì sử dụng phương pháp tài sản ròng lại dễ dàng và cho hiệu quả cao hơn. Việc lựa chọn phương pháp định giá thích hợp có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tính toán được. Lựa chọn phương pháp càng phù hợp thì kết quả càng cao và ngược lại. c)Tính chất đặc thù của các loại tài sản định giá. Tài sản thường gắn với loại hình hoạt động của mỗi doanh nghiệp, ví dụ doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực chế tạo khuôn máy, ép nhựa sẽ có các loại máy riêng, doanh nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm lại sử dụng các loại máy riêng trong khi đó ở các doanh nghiệp kinh doanh thương mại lại thưởng có rất ít tài sản cố định. Mỗi loại tài sản này có những tính chất, xuất xứ rất khác nhau và rất khó đánh giá, nhất là những tài sản được nhập khẩu từ nước ngòai vào và tại thời điểm định giá không còn bán trên thị trường, trong trường hợp đó, thẩm định viên rất khó để xác định được giá trị chính xác của tài sản trên. Để có thể đưa ra được kết quả đánh giá có tính thuyết phục thì thẩm định viên cần tham khảo thêm ý kiến của các chuyên gia. d) Môi trường kinh tế pháp lý. Đây là một nhân tố tương đối quan trọng. Nó có ảnh hưởng lớn đến các nhân tố trên và do vậy tác động tới công tác định giá doanh nghiệp. Môi trường pháp lý ở đây chính là hệ thống các văn bản, các quy định, điều chỉnh trực tiếp hoạt động định giá. Hệ thống pháp lý càng đầy đủ, thống nhất thì càng làm cơ sở đảm bảo cho công tác định giá. Tính thống nhất thể hiện ở nội dung, quy định của từng văn bản và giữa các văn bản với nhau. Bên cạnh đó, ngoài những văn bản định hướng như Nghị định cần có những thông tư hướng dẫn cụ thể các vấn đề về tổ chức thực hiện. Vấn đề thông tin trong nền kinh tế cũng rất quan trọng, thông tin càng hoàn hảo thì công tác định giá càng đạt được độ chính xác cao và tiến trình thực hiện càng diễn ra nhanh chóng, doanh nghiệp được định giá cũng như các nhà thẩm định sẽ tránh được các rủi ro có thể gặp phải. e) Trình độ của cán bộ định giá. Con người luôn là nhân tố quan trọng và có tính chất quyết định đến chất lượng của mỗi hoạt động trong đời sống. Công tác định giá vốn là một công việc hết sức phức tạp và mang tính nghệ thuật vì vậy giá trị doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào trình độ cũng như tính chuyên nghiệp của cán bộ định giá. Cán bộ định giá có chuyên môn sâu và thâm niên cao sẽ có kinh nghiệm và tính nhạy bén trong xử lý những tác động bất thường đến công tác định giá. Họ cũng sẽ có được sự phán đoán dự trên những xu hướng biến động tài sản, thị trường một cách linh hoạt. Mặt khác, khi trình độ của các cán bộ định giá ở mức cao, họ sẽ có sự lựa chọn các phương pháp định giá thích hợp, giá trị của doanh nghiệp nhờ đó mà được xác định chính xác hơn, đảm bảo khách quan hơn. Các tổ chức định giá cần đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ những cán bọ của mình để họ có điều kiện nâng cao trình độ từ đó đạt tới sự chính xác cao hơn trong công tác định giá doanh nghiệp. 1.3 Nội dung công tác định giá doanh nghiệp. Do sự phụ thuộc của giá trị vào nhiều yếu tố do vậy mà việc xác định giá trị doanh nghiệp đòi hỏi phải trải qua một quá trình phân tích, tính toán và ra quyết định. Quá trình định giá gồm một số giai đoạn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau vừa là kết quả, vừa là sự kiểm chứng cho hoạt động của giai đoạn trước. Cụ thể: 1.3.1 Xác định nhiệm vụ. Xác định mục tiêu của việc định giá. Việc lựa chọn mục tiêu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nội dung các công việc cần tiến hành, quá trình và biện pháp thực hiện và do đó ảnh hưởng đến kết quả của định giá. Trước hết cần khẳng định kết quả của định giá sẽ phục vụ cho công việc nào: Cổ phần hóa, cho thuê hay bán doanh nghiệp,..để phục vụ cho việc lập kế hoạch. Đồng thời cần thấy rằng, mục tiêu của định giá phải thỏa mãn mối quan tâm và quyền lợi của một bên hữu quan cụ thể bởi lẽ giá trị doanh nghiệp là mức độn hữu ích của nó đối với riêng họ mà thôi. 1.3.2 Thiết lập cơ sở và lên kế hoạch cho việc định giá. Giai đoạn này bao gồm các công việc sau: Lựa chọn phương pháp định giá. Mỗi phương pháp định giá cho ta một loại thông tin riêng về giá trị của doanh nghiệp. Phương pháp định giá được chọn tùy thuộc vào mục tiêu định giá và các đặc điểm của doanh nghiệp, của ngành và một số yếu tố vi mô khác. Ngoài ra tình trạng sẵn có và đặc điểm của thông tin cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp, thiết lập thông số kỹ thuật làm cơ sở cho việc tính toán. Lập kế hoạch để thực hiện việc định giá. Để đảm bảo được kết quả tốt quá trình định giá phải được tiến hành theo một kế hoạch. Tất nhiên kế hoạch này có thể được điều chỉnh, bổ sung trên cơ sở các phản hồi trong quá trình thực hiện. 1.3.3 Phân tích bên trong. Phân tích bên trong nhằm nhận định chuỗi giá trị của doanh nghiệp, năng lực khác biệt của nó từ đó phát hiện các điềm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Chuỗi giá trị là một khái niệm được nhắc đến rất nhiều trong định giá, nó được chia làm hai nhóm._.đơn vị tại thời điểm 31/12/2007. 9. Đối với giá trị lợi thế kinh doanh: Giá trị lợi thế kinh doanh của Công ty được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của Công ty bình quân trong ba năm: 2005, 2006 và 2007 so với lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 15 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị vốn chủ sở hữu tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 15 năm là: 8,47% được lấy theo thông báo số 382/TTGDHCM-NY ngày 24/05/2006 về việc niêm yết Trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 15 năm của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, tính theo trái phiếu trả trước; Lợi nhuận sau thuế năm 2005, 2006 và năm 2007 để làm căn cứ xác định giá trị lợi thế kinh doanh của Công ty là tổng lợi nhuận trước thuế trừ (-) thuế thu nhập doanh nghiệp; Vốn chủ sở hữu bình quân trong 3 năm 2005, 2006 và năm 2007 được lấy theo vốn chủ sở hữu ghi sổ kế toán và Báo cáo tài chính của Công ty năm 2005, 2006 và năm 2007 (không bao gồm quỹ khen thưởng phúc lợi) Ngoài ra, đến thời điểm định giá Công ty còn có các công trình nghiên cứu thiết kế kết cấu, dây chuyền công nghệ sản xuất các cấu kiện xây dựng và sản xuất thực nghiệm đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền. Do vậy, ngoài giá trị lợi thế kinh doanh có thể có được sau thời gian hoạt động thực tế thì Công ty còn đang có lợi thế khai thác các công trình nghiên cứu nêu trên, giá trị của lợi thế này trong tương lai được ước tính dựa trên kế hoạch phát triển sản xuất công ty và lợi nhuận sau thuế ước tính của công ty trong 4 năm là 2008, 2009, 2010 và 2011 so với lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh cùng ngành (Tỷ suất lợi nhuận ngành là 15% Giá trị tài sản đưa vào kinh doanh)- Phương pháp tính được trình bày ở phần dưới III. NGUYÊN NHÂN TĂNG GIẢM: 1. Giá trị còn lại TSCĐ của Công ty Cổ phần Hoàng Hà I tăng 24.515.433 đồng do: Giá trị thực tế của Phương tiện vận tải tăng 208.862.198 đồng Nguyên nhân tăng chủ yếu: Phương tiện vận tải của Công ty tăng chủ yếu là do nguyên giá và giá trị còn lại đánh giá lại của tài sản trên thực tế biến động cao hơn so với số liệu trên sổ kế toán. (Số liệu chi tiết được trình bày tại Phụ lục số 02 đính kèm) Giá trị thực tế của Máy móc, thiết bị giảm 184.346.765 đồng Nguyên nhân giảm chủ yếu: Máy móc thiết bị của công ty giảm chủ yếu là do nguyên giá của tài sản tại thời điểm định giá biến động giảm hơn so với trên sổ kế toán. (Số liệu chi tiết được trình bày tại Phụ lục số 02 đính kèm) 2. Lợi thế kinh doanh của Doanh nghiệp: 2.1 Lợi thế kinh doanh thực tế của Công ty được xác định: Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp = Giá trị phần vốn chủ sở hữu tại doanh nghiệp X Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân trong 3 năm trước khi xác định giá trị doanh nghiệp - Lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 15 năm tại thời điểm gần nhất Trong đó: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân trong 3 năm trước khi định giá = Lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm liền kề trước khi chuyển đổi (Đã trừ thuế TNDN) x 100% Vốn chủ sở hữu theo sổ kế toán bình quân 3 năm liền kề trước khi định giá x 100% (16.708.697+35.017.408+89.212.015) / 3 (năm) (9.175.272.904+8.410.290.312+9.299.502.327) / 3 (năm) = x 100% 46.979.373 8.961.688.514 = = 0,25 % Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân 3 năm trước khi định giá = 0,25% nhỏ hơn 8,47% là lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 15 năm nên Công ty không có giá trị lợi thế kinh doanh. 2.2 Lợi thế của Công ty đối với phát minh sáng chế được Cục sở hữu trí tuệ cấp a) Cơ sở xác định: Giá trị tài sản vô hình (Lợi thế kinh doanh) của doanh nghiệp được tính bằng giá trị hiện tại của các khoản thu nhập do tài sản vô hình tạo ra. Tức là bằng giá trị hiện tại của các khoản lợi nhuận siêu ngạch. Phần lợi thế kinh doanh của công ty là nhãn hiệu độc quyền của hai sản phẩm phát minh là “Công trình xây dựng từ các tấm Panen và phương pháp xây dựng công trình này” (Tấm Panen) do Cục Sở Hữu Trí Tuệ cấp bằng độc quyền sáng chế số: 5203 theo quyết định số: 8321/QĐ-SHTT, ngày: 26/09/2005, và phát minh “ Kết cấu sàn mái kim loại” đã được Cục Sở Hữu Trí Tuệ cấp bằng độc quyền sáng chế số 6325 theo quyết định số: 9425/QĐ-SHTT, ngày: 14/09/2006. Do vậy, ngoài giá trị lợi thế kinh doanh có thể có được sau thời gian hoạt động thực tế thì Công ty còn đang có lợi thế khác từ quyền được khai thác các phát minh sáng chế nêu trên (Phương pháp được trình bày phần dưới). Về giá trị hiệu quả kinh doanh của “Công trình xây dựng từ các tấm Panen và phương pháp xây dựng công trình này” (Tấm Panen) và “Kết cấu sàn mái kim loại”: Dựa trên kế hoạch phát triển sản xuất công ty từ đó công ty đưa ra giá trị sản lượng và lợi nhuận sau thuế ước tính của công ty lập lên trong 4 năm là 2008, 2009, 2010, 2011 so với lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh cùng ngành (Tỷ suất lợi nhuận ngành là 15% Giá trị tài sản đưa vào kinh doanh) Lợi nhuận thuần trên một đơn vị sản phẩm (Tấm Panen và Kết cấu sàn mái kim loại): Được xác định dựa trên các hợp đồng đã thực hiện (Sổ kế toán của Công ty Cổ phần Hoàng Hà I). b) Kết quả xác định: Công thức xác định lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp: Trong đó GW: Lợi thế kinh doanh của công ty Bt: Lợi nhuận thuần năm t At: Giá trị tài sản thuần được đánh giá lại năm t r : Tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh lấy là 15% đối với đặc thù ngành xây lắp i : Tỷ suất hiện tại hoá lấy bằng lãi suất chính phủ kỳ hạn 15 năm là 8,47%/ năm Bt – r x At: Lợi nhuận siêu ngạch năm t Bảng trích kế hoạch thực hiện của Công ty cổ phần Hoàng Hà I Năm Tấm Panen Kết cấu sàn mái kim loại Khối lượng (m2) Lợi nhuận thuần trên (m2) Lợi nhuận (LN1) Khối lượng (m2) Lợi nhuận thuần trên (m2) Lợi nhuận (LN2) 2008 15.000 25.102 376.530.000 25.000 103.753 2.593.825.000 2009 12.000 25.102 301.224.000 35.000 103.753 3.631.355.000 2010 10.000 25.102 251.020.000 45.000 103.753 4.668.885.000 2011 10.000 25.102 251.020.000 55.000 103.753 5.706.415.000 Năm 2008: + Tổng tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh (A1) dự kiến tăng 10% so với năm 2007 là: A1 = 15.962.634.621 x (1+0,1) = 17.558.898.083 đồng + Tỷ suất lợi nhuận ngành trên tổng vốn kinh doanh (r) là 15% + Lợi nhuận thuần của công ty (B1) bằng lợi nhuận thuần của các sản phẩm là tấm Panen và kết cấu sàn mái kim loại Lợi nhuận thuần của tấm Panen = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 15.000 x 25.102 = 376.530.000 đồng Lợi nhuận thuần của sàn mái kim loại = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 25.000 x 103.573 = 2.593.825.000 đồng Lợi nhuận thuần của công ty(B1) là: B1 = Lợi nhuận tấm Panen + Lợi nhuận sàn mái kim loại = 376.530.000 + 2.593.825.000 = 2.970.355.000 đồng + Hệ số hiện tại hoá (1 + i) năm 2008 được lấy dựa trên lãi suất chính phủ kỳ hạn 15 năm là i = 8,47%/năm là. 1 + i = 1 + 0,0847 = 1,0847 Giá trị lợi thế kinh doanh của công ty năm 2008 quy về hiện tại (GW1) = 2.970.355.000 – 0,15x17.558.898.083 1,0847 = 310.242.728 đồng Năm 2009: + Tổng tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh (A2) dự kiến tăng 10% so với năm 2008 là: A2 = 17.558.898.083 x (1+ 0,1) = 19.314.787.891 đồng + Tỷ suất lợi nhuận ngành trên tổng vốn kinh doanh (r) là 15% + Lợi nhuận thuần của công ty (B2) bằng lợi nhuận thuần của các sản phẩm là tấm Panen và kết cấu sàn mái kim loại Lợi nhuận thuần của tấm Panen = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 12.000 x 25.102 = 301.224.000 đồng Lợi nhuận thuần của sàn mái kim loại = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 35.000 x 103.573 = 3.631.355.000 đồng Lợi nhuận thuần của công ty(B2) là: B2 = Lợi nhuận tấm Panen + Lợi nhuận sàn mái kim loại = 301.224.000+ 3.631.355.000 = 3.932.579.000 đồng + Hệ số hiện tại hoá (1 + i)2 năm 2009 được lấy dựa trên lãi suất chính phủ kỳ hạn 15 năm là i = 8,47%/năm là. (1 + i)2 = (1 + 0,0847)2 = 1,1766 Giá trị lợi thế kinh doanh của công ty năm 2009 quy về hiện tại (GW2) = 3.932.579.000– 0,15x19.314.787.891 1,1766 = 879.979.276 đồng Năm 2010: + Tổng tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh (A3) dự kiến tăng 10% so với năm 2009 là: A3 = 19.314.787.891 x (1+ 0,1) = 21.246.266.681 đồng + Tỷ suất lợi nhuận ngành trên tổng vốn kinh doanh (r) là 15% + Lợi nhuận thuần của công ty (B3) bằng lợi nhuận thuần của các sản phẩm là tấm Panen và kết cấu sàn mái kim loại. Lợi nhuận thuần của tấm Panen = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 10.000 x 25.102 = 251.020.000 đồng Lợi nhuận thuần của sàn mái kim loại = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 45.000 x 103.573 = 4.668.885.000 đồng Lợi nhuận thuần của công ty(B3) là: B3 = Lợi nhuận tấm Panen + Lợi nhuận sàn mái kim loại = 251.020.000+ 4.668.885.000 = 4.919.905.000 đồng + Hệ số hiện tại hoá (1 + i)3 năm 2010 được lấy dựa trên lãi suất chính phủ kỳ hạn 15 năm là i = 8,47%/năm là. (1 + i)3 = (1 + 0,0847)3 = 1,2762 Giá trị lợi thế kinh doanh của công ty năm 2010 quy về hiện tại (GW3) = 4.919.905.000– 0,15 x 21.246.266.681 1,2762 = 1.357.878.370 đồng Năm 2011: + Tổng tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh (A4) dự kiến tăng 10% so với năm 2010 là: A4 = 21.246.266.681x (1+ 0,1) = 23.370.893.349đồng + Tỷ suất lợi nhuận ngành trên tổng vốn kinh doanh (r) là 15% + Lợi nhuận thuần của công ty (B4) bằng lợi nhuận thuần của các sản phẩm là tấm Panen và kết cấu sàn mái kim loại. Lợi nhuận thuần của tấm Panen = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 10.000 x 25.102 = 251.020.000đồng Lợi nhuận thuần của sàn mái kim loại = Khối lượng x lợi nhuận thuần trên m2 = 55.000 x 103.573 = 5.706.415.000 đồng Lợi nhuận thuần của công ty(B4) là: B4 = Lợi nhuận tấm Panen + Lợi nhuận sàn mái kim loại = 251.020.000+ 5.706.415.000 = 5.957.435.000đồng + Hệ số hiện tại hoá (1 + i)4 năm 2011 được lấy dựa trên lãi suất chính phủ kỳ hạn 15 năm là i = 8,47%/năm là. (1 + i)4 = (1 + 0,0847)4 = 1,3843 Giá trị lợi thế kinh doanh của công ty năm 2011 quy về hiện tại (GW4) = 5.957.435.000– 0,15 x 23.370.893.349 1,3843 = 1.771.114.574 đồng Tổng giá trị phần lợi thế kinh doanh (GW) của công ty là: GW = GW1 + GW2 + GW3 + GW4 = 310.242.728+879.979.276+1.357.878.370+ 1.771.114.574 = 4.319.214.949 đồng Như vậy Lợi thế kinh doanh theo giá trị lợi nhuận ước tính của doanh nghiệp là: 4.319.214.949 đồng. D. KẾT LUẬN Giá trị thực tế của Công ty Cổ phần Hoàng Hà I tại thời điểm 31/12/2007 là 21.901.315.003 đồng (Bằng chữ : Hai mốt tỷ, chín trăm linh một triệu, ba trăm mười lăm nghìn, không trăm linh ba đồng) Giá trị thực tế của phần vốn chủ sở hữu (Sau khi đã trừ hết phần nợ phải trả và phần quỹ khen thưởng, phúc lợi) là 21.198.182.703 đồng (Bằng chữ : Hai mốt tỷ, một trăm chín mươi tám triệu, một trăm tám mươi hai nghìn, bảy trăm linh ba đồng) Tại thời điểm xác định giá doanh nghiệp, Công ty Cổ phần Hoàng Hà I chưa có Biên bản thanh tra quyết toán thuế đến 31/12/2007, chưa thu thập đầy đủ thư đối chiếu công nợ. Do đó, khi cơ quan thuế tiến hành thanh tra quyết toán thuế và thu thập được đầy đủ thư xác nhận, nếu có chênh lệch thì sẽ ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp. Công ty Cổ phần Hoàng Hà I chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của số liệu Báo cáo tài chính, Báo cáo kiểm kê thực tế tài sản và bảng giá trị lợi nhuận ước tính để tính giá trị lơi thế kinh doanh tại thời điểm 31/12/2007. Báo cáo được thông qua, ngoài ý kiến nêu trên thì các bên thống nhất các số liệu trong biên bản xác định giá trị doanh nghiệp này. Báo cáo được lập thành 4 bản có giá trị như nhau, Công ty Cổ phần Hoàng Hà I giữ 03 bản, Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam giữ 01 bản. ĐẠI DIỆN DOANH NGHIỆP ĐẠI DIỆN CƠ QUAN ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN HOÀNG HÀ I CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM GIÁM ĐỐC HOÀNG ĐỨC HIỂN THẨM ĐỊNH VIÊN BÙI TRẦN VIỆT Chứng chỉ Thẩm định viên số III06140 TỔNG GIÁM ĐỐC TRẦN QUỐC TUẤN Chứng chỉ Thẩm định viên số III06137 2.4. Đánh giá chung về công tác xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty Kiểm toán và Định giá Việt nam a) Ưu điểm - Vận dụng tốt chính sách chế độ các văn bản Nhà nước đã ban hành để xác định giá trị doanh nghiệp. - Công ty có phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp và kế hoạch định giá rất khoa học, rõ ràng và dễ hiểu. - Phương pháp công ty đã xây dựng phương pháp giá trị tài sản thuần theo giá thị trường, có tính đến giá trị của lợi thế kinh doanh dựa trên các tiêu chuẩn thẩm định giá và các văn bản pháp luật khác liên quan. Đây là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp hợp lý và được mọi người chấp nhận. + Nó xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường mà giá trị này chứng minh được giá trị doanh nghiệp là một lượng tài sản có thật và chỉ ra được giá trị tối thiểu của doanh nghiệp, chính những cơ sở kinh tế rõ ràng này có sức thuyết phục cao nhất đối với đa số mọi người. + Nó tính đến giá trị của lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Phần đánh giá giá trị lợi thế kinh doanh này thể hiện đầy đủ hơn giá trị của doanh nghiệp, đánh giá cả yếu tố phi vật chất nhưng có giá trị thực sự, cung cấp và xây dựng những cơ sở thông tin cần thiết để các bên có liên quan đánh giá về triển vọng sinh lời của doanh nghiệp. Phù hợp với một tầm nhìn chiến lược về doanh nghiệp do động cơ của người mua doanh nghiệp là nhằm sở hữu các khoản thu nhập trong tương lai. Nguyên nhân có ưu điểm trên - Thứ nhất: Hội đồng thành viên của công ty là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và nhiều kinh nghiệm, có khả năng lãnh đạo và phân tích sự phát triển của thị trường. -Thứ hai: Hội đồng thành viên công ty xây dựng được cơ chế quản lý theo hướng mới, kích thích sự phấn đấu trong học tập, hoàn thiện chuyên môn và nâng cao khả năng hiểu biết tổng hợp do ở mỗi phòng nghiệp vụ đều có nhân viên bên tài chính và nhân viên bên xây dựng - Thứ ba: Công ty xây dựng được môi trường làm việc dân chủ, điều này đã kích thích sự sáng tạo và trình bầy ý kiến của nhân viên đối với lãnh đạo. b) Nhược điểm - Về xác định giá trị tài sản thuộc phần máy móc thiết bị: Thông tin về một số máy móc thiết bị của doanh nghiệp được định giá nhiều khi không có trên thị trường nên khi xác định nguyên giá và giá trị còn lại của các máy móc thiết bị loại này thường theo nguyên giá ghi trong sổ kế toán và phần xác định giá trị còn lại được đánh giá theo chủ quan của thẩm định viên - Về phần xác định lợi thế thương mại: Khi đánh giá về hiệu quả của các dự án đầu tư, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp cần định giá (thẩm định các dự án đầu tư, các kế hoạch phát triển) để làm cơ sở cho việc xác định phần lợi thế thương mại nhiều khi còn mang nhiều tính chủ quan. Nguyên nhân có nhược điểm trên. - Thứ nhất: Do thông tin thị trường nói chung ở Việt Nam có mức độ minh bạch thấp - Thứ hai: Do các máy móc thiết bị mà các doanh nghiệp cần định giá nhiều khi quá cũ thậm chí các thông số kỹ thuật trên máy cũng đã bong mất và hiện nay trên thị trường không còn sản xuất nữa. - Thứ ba: Do Nhà nước chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể thẩm định các dự án đầu tư ở các lĩnh vực cụ thể do vậy các thẩm định viên phải vận dụng các văn bản pháp luật để đánh giá về hiệu quả của các dự án đầu tư hay kế hoạch phát triển của các doanh nghiệp cần xác định giá trị DN. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM 3.1. Đánh giá của cá nhân về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp của VAE Trong thời gian thực tập tại VAE và nghiên cứu về các phương pháp định giá của công ty, tôi thấy rằng về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phần tài sản thuần, công ty đã xây dựng được cách thức xác định giá trị là hợp lý, riêng phần xác định lợi thế thương mại của doanh nghiệp cần định giá có phần bị tính trùng, cụ thể: Khi xác định lợi thế thương mại của doanh nghiệp, VAE đã vừa vận dụng Nghị định 187 và Thông tư 126 hướng dẫn CPH các doanh nghiệp Nhà nước vào để xác định lợi thế thương mại của doanh nghiệp (xác định giá trị lợi thế thương mại dựa vào kết quả hoạt động của 3 năm liền kề) - Lợi thế thương mại (1), sau đó VAE lại tính tiếp phần lợi thế thương mại của doanh nghiệp khi doanh nghiệp có các bằng sáng chế độc quyền được Cục sở hữu trí tuệ cấp hoặc có các đặc quyền như quyền khai thác mỏ, khai thác các khu du lịch.... - Lợi thế thương mại (2) sau đó lấy tổng (1+2) và xác định lợi thế thương mại của doanh nghiệp. Cách tính này có phần bị tính trùng khi doanh nghiệp có được lợi thế thương mại (1) là do doanh nghiệp có các bằng phát minh sáng chế độc quyền do Cục sở hữu trí tuệ cấp hoặc có các đặc quyền khai thác mỏ, khai thác các khu du lịch...Việc sử dụng cách tính này có thể làm cho giá trị của doanh nghiệp được định giá tăng lên, nhưng một số doanh nghiệp thuê VAE định giá có phần giá trị lợi thế thương mại (1) rất thấp do các năm liền kề việc kinh doanh không hiệu quả vì doanh nghiệp tập trung vào nghiên cứu các ứng dụng mới... Việc xác định lợi thế thương mại (2) sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp cần định giá lên do các dữ liệu dùng để tính đều dựa vào kế hoạch, dự án phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Việc thẩm định các dự án này nhiều khi rất khó khăn do các doanh nghiệp thuê định giá hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau, để thẩm định được thì thẩm định viên phải có kiến thức về lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp cần định giá và nhiều khi kết quả thẩm định còn phụ thuộc vào ý kiến của khách hàng. Để xử lý việc tính trùng này hiện nay không có cách nào có thể phân tách được rõ ràng nhưng tuỳ từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp cần định giá mà ta có cách xử lý cụ thể phù hợp hạn chế bớt phần lợi thế thương mại bị tính trùng: - Đối với doanh nghiệp đã sử dụng lợi thế thương mại là các bằng sáng chế độc quyền được Cục sở hữu trí tuệ cấp hoặc các đặc quyền như quyền khai thác mỏ, khai thác các khu du lịch.... trong ba năm liền kề thì nên xác định giá trị lợi thế thương mại theo lợi thế thương mại (1) và không xác định thêm phần lợi thế thương mại (2). Nếu trong ba năm liền kề mà doanh nghiệp không tận dụng được lợi thế về các bằng sáng chế độc quyền được Cục sở hữu trí tuệ cấp hoặc các đặc quyền như là quyền khai thác mỏ, khai thác các khu du lịch.... do trình độ quản lý còn yếu của ban lãnh đạo nhưng doanh nghiệp đã có sự đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động tại thời điểm định giá thì nên xác định giá trị lợi thế thương mại của doanh nghiệp theo lợi thế thương mại (2) mà không tính đến phần giá trị lợi thế thương mại (1) - Đối với doanh nghiệp chưa sử dụng hoặc vừa mới sử dụng (cùng năm với năm định giá) đến các bằng sáng chế độc quyền được Cục sở hữu trí tuệ cấp hoặc các đặc quyền như quyền khai thác mỏ, khai thác các khu du lịch....thì ta xác định giá trị phần lợi thế thương mại theo đúng phương pháp mà VAE đã xây dựng. Theo cách này sẽ hạn chế bớt phần giá trị lợi thế thương mại bị tính trùng. 3.2. Một số giải pháp khắc phục nhược điểm và hoàn thiện phương pháp định giá tại Công ty Kiểm tóan và Định giá Việt Nam. Các hạn chế đã nêu ở trên có liên quan tới thị trường nói chung nên để có thể khắc phục được nhược điểm này cần có các chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Trong khả năng của VAE, để khắc phục những hạn chế đó, có thể thực hiện một số biện pháp sau: 3.2.1 Nâng cao chất lượng nhân viên Công ty cần tuyển chọn, xây dựng đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp tham gia tư vấn cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn đấu giá... có trình độ chuyên môn tốt để đảm bảo cung cấp dịch vụ có chất lượng cao. Ngoài ra, công ty cần tổ chức đào tạo nhân viên thường xuyên nhằm cập nhật những kiến thức mới nhất về cổ phần hóa, trao đổi những vấn đề phát sinh ngay trong nội bộ công ty, đúc rút kinh nghiệm và kiến nghị các cơ quan Nhà nước hỗ trợ. Bên cạnh đó, để có thể phát triển một cách bền vững, công ty cần tôn trọng và tự giác tuân thủ các chuẩn mực hoạt động và đạo đức nghề nghiệp đã được đặt ra. 3.2.2 Kết hợp các phương pháp định giá. Phương pháp định giá theo giá trị tài sản ròng mới chỉ thể hiện được phần giá trị tài sản của doanh nghiệp mà chưa thể hiện hết được giá trị thực sự của doanh nghiệp. Trong khi đó, áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu sẽ giải quyết được hầu hết các vướng mắc trong việc xác định lợi thế thương mại và tiềm năng trong tương lai của doanh nghiệp. Do vậy, để có thể xác định được chính xác hơn giá trị thực tế của doanh nghiệp cần áp dụng đồng thời cả hai phương pháp, ngoài ra cũng cần tham khảo thêm giá trị tính được từ các phương pháp còn lại để có thể đưa ra kết quả chính xác nhất về giá trị của doanh nghiệp. 3.2.3 Mở rộng cơ hội tham gia định giá với các công ty nước ngoài. Kết hợp với các tổ chức định giá uy tín lớn trên thế giới là cách nhanh nhất để rút ngắn khoảng cách về trình độ với các công ty nước ngoài. Điều này cũng sẽ giúp công ty có thể tiếp cận với các phương pháp định giá tiên tiến trên thế giới, học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm về cách thức xác định và xây dựng các thông số liên quan. Từ đó làm nâng cao uy tín của công ty và phát triển thêm hoạt động nghiệp vụ. 3.2.4 Xây dựng cơ sở dữ liệu làm căn cứ định giá. Thiết lập hệ thống báo cáo bắt buộc và lưu trữ cơ sở dữ liệu về báo cáo và phương pháp định giá áp dụng cho các công ty. Sau mỗi một hợp đồng cần đúc rút lại kinh nghiệm, tìm ra những điểm còn chưa tốt và ghi chép lại những sai sót đó. Các cơ sở dữ liệu này là tài liệu vô cùng quý giá trong việc tổng hợp và phân tích để đưa ra phương hướng, giải pháp cho các công tác diễn ra tiếp theo. 3.3. Các kiến nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hỗ trợ công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam hoặc bất kỳ một tổ chức định giá nào khác trong hoạt động tư vấn định giá là một việc làm đem lại lợi ích cho quốc gia vì điều đó sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng và xây dựng được một mô hình định giá chuyên nghiệp theo khung của Thế giới. Chính vì vậy, Nhà nước nên có một số tác động đến vấn đề này: Thứ nhất là hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể đến từng bộ phận doanh nghiệp, từng loại hình công ty và phù hợp với mục đích, nhu cầu của hoạt động định giá. Các văn bản này cần có một sự thống nhất chung, đảm bảo cho hoạt động định giá diễn ra nhanh chóng vì trên thực tế, do các văn bản chưa có được tính thống nhất mà một số doanh nghiệp khi tiến hành định giá vẫn “loay hoay” không biết theo lối nào, giữa tổ chức định giá và doanh nghiệp định giá không tìm được tiếng nói chung, không đi đến được thống nhất, làm cản trở tiến độ công việc, mất đi tính độc lập của thẩm định viên. Thứ hai là tăng cường hoạt động quản lý, thanh tra các hoạt động định giá đang diễn ra để đảm bảo cho chất lượng định giá được đảm bảo. Thực tế cho thấy, nhiều tổ chức tư vấn định giá có chất lượng chuyên môn kém đã cạnh tranh với các doanh nghiệp khác bằng việc giảm phí, không tuân thủ theo thông tư 126/2004/QĐ-BTC làm ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả xác định được. Thứ ba là quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng các thẩm định viên có chuyên môn cao, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về thẩm định có tính chất quốc gia để cập nhật kiến thức và sát hạch lại kiến thức của cá thẩm định viên để làm sao rút ngắn khỏang cách về trình độ giữa các thẩm định viên trong nước với các thẩm định viên quốc tế. Thứ tư là đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, vừa là tạo điều kiện cho các tổ chức định giá hoạt động vừa để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp được cổ phần theo đúng tiêu chí phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước. Thứ năm, hoàn thiện thông tin thị trường để làm cơ sở xác định giá cho các loại tài sản cụ thể để thu được kết quả định giá chính xác nhất. Thứ sáu là xây dựng tiêu chuẩn đánh giá về năng lực của các tổ chức định giá nhằm đảm bảo công ty tư vấn có chất lượng, tạo lòng tin đối với doanh nghiệp và đảm bảo tính an toàn của thị trường. KẾT LUẬN Đối với mọi nền kinh tế, doanh nghiệp luôn được coi là lực lượng chủ công; do vậy, việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Đối với nước ta đang trong quá trình đổi mới và phát triển, gia nhập WTO, nhiệm vụ này lại càng có ý nghĩa cấp bách, quyết định thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn cho thấy số lượng doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thường tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong phạm vi cả nước cũng như trong từng địa phương; nơi nào có nhiều doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, kinh tế nơi đó chắc chắn phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Chúng ta đã đề ra chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp, nhằm đến năm 2010 cả nước có 50 vạn doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có nhiều doanh nghiệp đạt đến tầm cỡ thế giới. Tuy vậy, điểm yếu nhất của các doanh nghiệp nước ta lúc này là quy mô còn nhỏ, trình độ công nghệ thấp, vốn liếng ít, kinh nghiệm thương trường chưa nhiều, kỹ năng quản trị kinh doanh còn yếu và còn thiếu hiểu biết về luật pháp quốc tế. Một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp Nhà nước - vốn là nòng cốt của nền kinh tế lại thường có tâm lý thụ động, ỷ lại vào sự ưu ái từ phía Nhà nước. Tinh thần liên kết, liên doanh, hợp tác trong kinh doanh còn yếu. Cạnh tranh chưa lành mạnh. Gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, doanh nghiệp nước ta đứng trước những thời cơ mới rất quan trọng, nhưng cũng không ít thách thức không thể xem thường, điều đó đòi hỏi Nhà nước cần có sự thay đổi trong cơ chế quản lý các doanh nghiệp, trong đó, tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp cho phù hợp là nhiệm vụ hàng đầu. Từ tính chất đó, việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ là bước đầu tiên quan trọng để tiến hành cải cách doanh nghiệp, tạo sự đổi mới trong hoạt động kinh tế, tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Để làm được như vậy, Nhà nước cần tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách và các văn bản có liên quan đến hoạt động định giá doanh nghiệp để tạo điều kiện tốt nhất và nhanh nhất cho các doanh nghiệp tham gia vào sân chơi chung của nền kinh tế thế giới. Qua việc phân tích đánh giá hoạt động định giá tại công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cho các vấn đề mà công ty đang gặp phải từ đó, tôi mong muốn những ý kiến đó sẽ góp phần cải thiện và mở rộng quy mô hoạt động của công ty trong tương lai. Do trình độ còn nhiều hạn chế nên chuyên đề của tôi không tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ phê bình của thầy cô và các bạn. Hà Nội, ngày 05 tháng 04 năm 2008 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS Lưu Thị Hương (1998), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục. TS. Ngô Văn Quế (2001), Công ty cổ phần và Thị trường tài chính, NXB Lao động. Đoàn Văn Trường (2007), Tuyển tập các phương pháp thẩm định giá trị tài sản, NXB Khoa học Kỹ thuật. Đoàn Văn Trường (2005), Các phương pháp thẩm định giá trị máy móc, thiết bị, NXB Khoa học Kỹ thuật. Đoàn Văn Trường (2005), Các phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình, NXB Khoa học Kỹ thuật. Ban vật giá chính phủ (2002), Những tiêu chuẩn thẩm định giá năm 2000, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Các website: www.hafi.com.vn www.taichinhviet.com www.vacpa.com.vn www.vnexpress.vn www.vnep.org.vn MỤC LỤC Danh mục các chữ viết tắt LỜI NÓI ĐẦU Trang CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ DN 4 1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp 4 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp 4 1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp 4 1.2 Định giá doanh nghiệp 6 1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp 6 1.2.2 Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp 7 1.2.3 Các nhân tố tác động tới giá trị doanh nghiệp 10 1.2.4. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp 15 1.2.5 Chất lượng công tác định giá và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá. 19 1.2.6 Các phương pháp định giá và phạm vi ứng dụng của các phương pháp đó. 21 1.2.7 Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến công tác định giá DN 34 1.3 Nội dung công tác định giá doanh nghiệp. 37 1.3.1 Xác định nhiệm vụ. 37 1.3.2 Thiết lập cơ sở và lên kế hoạch cho việc định giá. 37 1.3.3 Phân tích bên trong. 38 1.3.4 Phân tích bên ngoài. 38 1.3.5 Nhận định khái quát. 38 1.3.6 Nhận định chuyên sâu. 39 1.3.7 Dự báo viễn cảnh. 39 1.3.8 Hoàn tất công việc định giá. 40 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM. 41 2.1 Giới thiệu chung về công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam. 41 2.1.1 Giới thiệu chung về công ty. 41 2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển. 43 2.1.3 Tổ chức bộ máy quản lý và chức năng của các Phòng, Ban trong công ty 48 2.1.4 Dịch vụ tư vấn định giá 51 2.2 Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam. 51 2.2.1 Cơ sở pháp lý để xác định giá trị doanh nghiệp 51 2.2.2 Trình tự tiến hành 52 2.3. Ví dụ thực tiễn 82 2.4. Đánh giá chung về công tác xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty Kiểm toán và Định giá Việt nam 102 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM 104 3.1. Đánh giá của cá nhân về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp của VAE 104 3.2. Một số giải pháp khắc phục nhược điểm và hoàn thiện phương pháp định giá tại Công ty Kiểm tóan và Định giá Việt Nam. 106 3.2.1 Nâng cao chất lượng nhân viên 106 3.2.2 Kết hợp các phương pháp định giá. 106 3.2.3 Mở rộng cơ hội tham gia định giá với các công ty nước ngoài. 107 3.2.4 Xây dựng cơ sở dữ liệu làm căn cứ định giá. 107 3.3. Các kiến nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 107 KẾT LUẬN Phụ lục Danh mục các tài liệu tham khảo DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DN …………………………………………. Doanh nghiệp ĐG …………………………………………. Định giá GTGT………………………………………. Giá trị gia tăng GW …………………………………………Goodwill KTV…………………………………………Kiểm toán viên TNDN ………………………………………Thu nhập doanh nghiệp TSCĐ ……………………………………….Tài sản cố định TNHH ………………………………………Trách nhiệm hữu hạn SXKD ……………………………………….Sản xuất kinh doanh XDCB………………………………………..Xây dựng cơ bản ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNh-131.doc
  • xlsNh-131(BANG TINH).xls
  • xlsNh-131.xls
Tài liệu liên quan