Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Lời mở đầu 1. Tính cấp bách của đề tài: Kể từ khi Pháp lệnh về Ngân hàng ra đời (năm 1990), hệ thống Ngân hàng thương mại Việt nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức và hoạt động. Các nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng thương mại hiện đại đã được mở rộng và phát triển nhanh chóng, trong đó có nghiệp vụ Thanh toán quốc tế. Là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng chứng tỏ vị trí và vai

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trò quan trọng của mình. Hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ đơn giản là lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp hay sử dụng một phương tiện thanh toán thông dụng nào đó. Yêu cầu đặt ra là hoạt động thanh toán quốc tế phải được thực hiện nhanh chóng, an toàn, chính xác và đạt hiệu quả đối với cả khách hàng và ngân hàng thương mại. Hoạt động thanh toán quốc tế trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, giảm thiểu rủi ro liên quan tới sự biến động tiền tệ, tới khả năng thanh toán của khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển hoạt động ngoại thương của mỗi nước. Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế phổ biến nhất. Đó là phương thức giải quyết tốt nhất việc đảm bảo quyền lợi của cả hai bên người mua và người bán, nhưng đồng thời cũng lại là phương thức xảy ra nhiều sự tranh chấp nhất do mức độ phức tạp của nó. Tại Việt Nam, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng đầu tiên thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, nhưng tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - một chi nhánh cấp 1 hàng đầu trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng vẫn không tránh khỏi nhiều hạn chế về cả số lượng và chất lượng khi áp dụng phương thức này. Một mặt do tại bản thân ngân hàng chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng phức tạp của thực tế giao dịch xuất nhập khẩu và sự phát triển của nghiệp vụ, mặt khác cũng do những nguyên nhân từ phía khách hàng và sự bất cập trong quản lý vĩ mô . Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài :“ Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” là điều cần thiết để tìm ra những nguyên nhân cũng như các giải pháp, kiến nghị khắc phục những hạn chế trên. 2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ qua các năm với những khó khăn, tồn tại riêng của Sở Giao dịch, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại. Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam từ năm 2003 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn dựa trên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, của phép biện chứng duy vật, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích thông tin kinh tế theo chỉ tiêu, phương pháp so sánh, tổng hợp,... trên cơ sở các số liệu thống kê của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam qua các năm 2003-2005 để nghiên cứu. 5. Kết cấu của luận văn. Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương. Chương 3: Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương. CHƯƠNG 1: PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ TRONG THANH TOáN QUốC Tế CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI TổNG QUAN Về HOạT ĐộNG THANH TOáN QUốC Tế CủA CáC NGÂN HàNG THƯƠNG MạI Khái quát về ngân hàng thương mại a. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp được tổ chức, thành lập và hoạt động dưới sự kiểm soát, quản lý, điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng tiền gửi đó để cho vay đầu tư và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác nhằm thu lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế, nó không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa như các doanh nghiệp thông thường khác, nhưng nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này được diễn ra một cách trôi chảy, liên tục, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thưong mại gắn với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế. Thông qua các hoạt động của mình, Ngân hàng thương mại thực hiện điều tiết vi mô đối với nền kinh tế bằng cách tiếp nhận hoặc cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế khi có nhu cầu, đảm bảo cho nền kinh tế thường xuyên có một lượng tiền cung ứng hợp lý đồng thời làm tăng khả năng thanh toán không dùng tiền mặt, giảm chi phí lưu thông. Ngày nay, hoạt động của Ngân hàng thương mại rất phong phú và đa dạng, nền kinh tế càng hiện đại thì hoạt động của Ngân hàng thương mại càng phát triển hơn. Bất cứ Ngân hàng thương mại nào cũng phải có đầy đủ ba nhóm hoạt động chính: các hoạt động huy động vốn, các hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian thanh toán. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng, các Ngân hàng thương mại còn có một số hoạt động và dịch vụ khác nữa. + Các hoạt động huy động vốn. Do kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên ngân hàng trước hết phải có vốn. Khi mới thành lập, ngân hàng phải có một lượng vốn ban đầu tối thiểu bằng vốn pháp định. Lượng vốn chủ sở hữu này hàng năm được bổ sung bằng lợi nhuận giữ lại. Tuy nhiên trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì lượng vốn này ngày càng chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Để đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình, ngân hàng phải huy động thêm từ các nguồn sau: Một là: Nhận tiền gửi. Đây là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại mà các tổ chức tài chính phi ngân hàng không được thực hiện. “Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác”. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX Hai là: Phát hành giấy tờ có giá. Các giấy tờ này có thể là các trái phiếu của ngân hàng, các giấy chứng chỉ tiền gửi với mệnh giá lớn (CDs)... Thông thường việc phát hành các trái phiếu, tín phiếu phục vụ cho một mục đích sử dụng nhất định, ví dụ như đầu tư cho một dự án hay một công trình. Ba là: Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng thương mại có thể đi vay các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình. Họ có thể vay qua thị trường liên ngân hàng hay bằng hình thức vay thương mại. Bốn là: Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước. Cũng giống như trường hợp đi vay các tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng thương mại cũng chỉ vay Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, để giải quyết những vấn đề cấp bách nảy sinh trong hoạt động ngân hàng chứ không phải đi vay để cho vay. Vì vậy có thể nói “Ngân hàng Nhà nước là cứu cánh của Ngân hàng thương mại”. Ngân hàng thương mại vay Ngân hàng Nhà nước bằng cách chiết khấu hay tái chiết khấu thương phiếu, quy mô vay bị tác động bởi lãi suất chiết khấu và lãi suất chiết khấu cao hay thấp lại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng là thắt chặt hay nới lỏng. Trên đây là các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Nếu như các hoạt động huy động vốn làm ngân hàng phải mất chi phí thì các hoạt động sử dụng vốn sau đây sẽ đem lại doanh thu cho Ngân hàng. + Các hoạt động sử dụng vốn. Ngân hàng có các hình thức sử dụng vốn sau: Một là: hoạt động ngân quỹ. Hoạt động ngân quỹ là hoạt động liên quan đến chi trả hàng ngày cho khách hàng. Ngân hàng luôn phải giữ lại một khoản tiền nhất định (gọi là tiền tại quỹ) để chi trả, và ngân hàng cũng có thể thanh toán với khách hàng bằng tiền gửi ở Ngân hàng Nhà nước là tiền dự trữ bắt buộc hay tiền gửi thanh toán. Các khoản này kém sinh lời nhất, thậm chí không sinh lời, chỉ nhằm đáp ứng tính thanh khoản mà thôi. Hai là: hoạt động tín dụng. Đây là một nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng thương mại. Hầu hết vốn của ngân hàng đều được sử dụng vào hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng ngoài hình thức cho vay còn có các hình thức khác như bảo lãnh hay chiết khấu. Ba là: hoạt động đầu tư. Trong trường hợp cho vay không hết, ngân hàng có thể chủ động tìm nơi đầu tư để thu lợi nhuận đồng thời giúp phân tán rủi ro. Ngân hàng có thể đầu tư trực tiếp vào kinh doanh như đầu tư xây dựng dự án hoặc công trình. Ngoài ra ngân hàng cũng có thể đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán bằng cách mua tín phiếu, trái phiếu hay cổ phiếu của các công ty. Trong ba hoạt động trên, hoạt động cho vay có độ rủi ro cao nhất nhưng lại là nguồn thu nhập lớn của ngân hàng, còn hoạt động ngân quỹ an toàn nhất nhưng hầu như không sinh lời. Vì vậy để vừa đảm bảo tính sinh lời lại vừa đảm bảo tính thanh khoản, ngân hàng phải kết hợp ba hoạt động sử dụng vốn trên một cách hợp lý. + Hoạt động trung gian thanh toán. Đây là nghiệp vụ đặc trưng của Ngân hàng thương mại so với các trung gian tài chính khác. Các trung gian tài chính khác như công ty tài chính, công ty bảo hiểm… vẫn có thể cho vay, đầu tư hay nhận tiền gửi có kỳ hạn trên một năm (có giới hạn về đối tượng) nhưng dịch vụ thanh toán thì chỉ có Ngân hàng thương mại mới được thực hiện. “Ngân hàng được tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép” Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX Ngân hàng thương mại làm theo lệnh của chủ tài khoản như tính tiền trên tài khoản của người mua, chuyển sang tài khoản của người bán để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ cho khách hàng. Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng một hệ thống công cụ thanh toán thuận lợi như séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… giúp cho khách hàng thuận tiện hơn rất nhiều trong thanh toán, tiết kiệm được thời gian và chi phí, đồng thời đảm bảo việc thanh toán được an toàn. Bên cạnh thanh toán trong phạm vi quốc gia, việc thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong điều kiện nền kinh tế ngày càng có xu thế mở cửa hội nhập, quá trình trao đổi lưu thông hàng hóa giữa các đối tác ở các nước khác nhau ngày càng nhiều. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, ngoài việc hỗ trợ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, ngân hàng còn đứng ra làm trung gian thanh toán cho các doanh nghiệp. Việc thanh toán giữa hai bên được thực hiện qua hệ thống ngân hàng bằng các phương thức được thỏa thuận thuận tiện nhất cho khách hàng, đảm bảo quyền lợi của cả hai bên xuất nhập khẩu, góp phần mở rộng quan hệ ngoại thương giữa các nước. Trên đây là ba hoạt động không thể thiếu của bất cứ một Ngân hàng thương mại nào. Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, Ngân hàng thương mại còn có một số hoạt động khác. + Các hoạt động khác. Hầu hết các Ngân hàng thương mại hiện nay đều thực hiện nghiệp vụ liên quan tới chứng khoán như môi giới, tư vấn đầu tư, tự doanh, bảo lãnh cam kết phát hành chứng khoán, lưu trữ, thanh toán chứng khoán… Ngoài ra, theo Luật các tổ chức tín dụng, Ngân hàng thương mại còn được thực hiện một số hoạt động như góp vốn mua cổ phần, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại hối, vàng và các giấy tờ có giá, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn, bảo quản… Các hoạt động của Ngân hàng thương mại có quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, trong đó hoạt động huy động vốn là cơ sở để thực hiện hoạt động sử dụng vốn. Hoạt động sử dụng vốn làm tăng khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại. Trên cơ sở những hoạt động sử dụng vốn (như hoạt động tín dụng), Ngân hàng thương mại có thể thực hiện được các hoạt động trung gian thanh toán và tới lượt nó, hoạt động trung gian thanh toán sẽ làm tăng nguồn vốn và mở rộng việc sử dụng vốn vì hoạt động trung gian thanh toán có thể coi vừa là hoạt động huy động vốn vừa là hoạt động sử dụng vốn. Trên đây là khái quát toàn bộ các hoạt động của một Ngân hàng thương mại. Theo đối tượng và giới hạn được nghiên cứu trong luận văn này, hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại sẽ được đi sau hơn. b. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại. Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và các yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các doanh nghiệp, các cá nhân của các quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên tài khoản tại các ngân hàng. Hay nói cách khác, thanh toán quốc tế là việc phản ánh sự vận động có tính độc lập tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển tư bản và hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau, do không cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ của các bên tại một thời điểm nhất định. Khác với thanh toán trong phạm vi một nước, thanh toán quốc tế thường gắn với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Đồng tiền nội địa với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán trong phạm vi một quốc gia sẽ không vượt ra khỏi giới hạn của nó được nếu như hai bên liên quan trong hợp đồng không có sự thoả thuận với nhau. Bởi vì khi ký kết hợp đồng thương mại, tín dụng... các bên phải đàm phán thống nhất đồng tiền nào được sử dụng để thanh toán giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người mua, tiền của nước người bán hoặc một đồng tiền của một nước nào đó được chọn để giao dịch thanh toán. Các đồng tiền được sử dụng trong thanh toán quốc tế thường là các loại ngoại tệ mạnh có khả năng tự do chuyển đổi như đồng USD, đồng EUR, đồng GBP, đồng FRF, đồng JPY, đồng DEM. Trong đó đồng USD và EUR vẫn giữ vai trò chủ đạo trong thanh toán quốc tế bởi sự nhanh chóng và tiện lợi trong việc thực hiện các giao dịch này. Thanh toán quốc tế chủ yếu là thanh toán qua chứng từ, tách rời với sự di chuyển của hàng hoá từ nước người bán đến nước người mua. Thanh toán quốc tế có quan hệ trực tiếp đến cả bên mua lẫn bên bán. Nếu công tác thanh toán quốc tế được làm tốt sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động ngoại thương. Hiện nay phần lớn việc chi trả trong thanh toán quốc tế được thực hiện thông qua hệ thống SWIFT (Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu). Theo thống kê của tổ chức này thì có tới 72% các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế hàng ngày được thực hiện qua SWIFT. Phần còn lại được thực hiện thông qua con đường điện tín, bưu điện dưới hình thức uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các ngân hàng. Tỉ lệ trả bằng tiền mặt trong thanh toán quốc tế chiếm một phần không đáng kể. Xuất phát từ nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, các doanh nghiệp luôn luôn có xu hướng mở rộng thị trường của mình ra bên ngoài, từ đó hình thành các quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước khác nhau. Mỗi nước có sự khác nhau về chế độ chính trị, môi trường pháp luật, phong tục tập quán cũng như khoảng cách địa lý, bên cạnh đó còn có những bất đồng về ngôn ngữ, tiềm lực tài chính của các đối tác và hệ thống tiền tệ khác nhau khiến cho quan hệ mua bán thanh toán giữa các nước rất phức tạp và thường xuyên xảy ra rủi ro bất trắc. Để giải quyết những vướng mắc này cần có một trung gian tài chính đứng ra đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên và Ngân hàng thương mại với hoạt động thanh toán quốc tế của mình đã đáp ứng được đòi hỏi đó. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại là một mắt xích không thể thiếu được trong toàn bộ dây chuyền thực hiện một hợp đồng ngoại thương. Thực hiện tốt vai trò trung gian thanh toán của mình trong hoạt động thanh toán quốc tế, Ngân hàng thương mại đã đóng góp rất nhiều cho khách hàng, cho nền kinh tế cũng như cho chính bản thân Ngân hàng thương mại. + Đối với khách hàng: Vai trò trung gian thanh toán trong hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa chi phí. Tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, quyền lợi của khách hàng được đảm bảo hơn, do khách hàng được ngân hàng tư vấn để lựa chọn các phương thức thanh toán, kỹ thuật thanh toán cũng như đồng tiền thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro, tạo ra sự an tâm cho khách hàng trong giao dịch mua bán với nước ngoài. Trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ cho vay để thanh toán hàng nhập bằng cách bảo lãnh mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Qua việc thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có những tư vấn cho khách hàng và những điều chỉnh về chiến lược khách hàng. + Đối với nền kinh tế. Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển, đẩy mạnh quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, tăng nhanh tốc độ chu chuyển của vốn, góp phần phát triển kinh tế. Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, giảm bớt các chi phí trung gian, đồng thời hoạt động thanh toán quốc tế đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể vào Việt Nam bằng các nghiệp vụ kiều hối, chuyển tiền đến và L/C xuất khẩu. + Đối với bản thân Ngân hàng thương mại. Thanh toán quốc tế giúp ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phát triển các nghiệp vụ liên quan như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác. Thanh toán quốc tế đem lại khoản thu phí dịch vụ quan trọng: hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng về giao dịch, từ đó tăng quy mô hoạt động và thị phần của mình trên thị trường. Thanh toán quốc tế làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng: trong quá trình thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân hàng thương mại luôn có một nguồn tiền tập trung chờ thanh toán. Nguồn tiền này tương đối ổn định và phát sinh thường xuyên, là một nguồn nâng cao khả năng thanh khoản cho ngân hàng. Thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng thương mại có thể tạo ra được vòng tròn dịch vụ khép kín, từ đó đảm bảo các nghiệp vụ ngân hàng có liên quan đến nhau như tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ được giám sát, theo dõi kỹ lưỡng bởi nhiều phòng ban khác nhau, hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý có hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách kinh tế đối ngoại mà Nhà nước đề ra. Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại: thông qua việc bảo lãnh cho khách hàng trong nước, thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương mại sẽ có quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ ngày càng rộng mở. Tóm lại, có thể khẳng định, hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động trung gian của Ngân hàng thương mại, có tác dụng mang lại thu nhập, hỗ trợ các hoạt động khác của Ngân hàng thương mại, giúp cho quá trình thanh toán của khách hàng được nhanh chóng, đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ hơn khi nghiên cứu đến các phương thức thanh toán quốc tế. Các phương thức thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại a. Phương thức chuyển tiền Phương thức chuyển tiền là một phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người trả tiền, người mua, người nhập khẩu...) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán, người xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ...) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Các bên tham gia: Người trả tiền hay người chuyển tiền (người mua, người mắc nợ, người đầu tư, người chuyển kinh phí ra ngoài nước, kiều bào chuyển tiền về nước...): Là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài. Người hưởng lợi (người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư...) hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định. Ngân hàng chuyển tiền: Là ngân hàng thực hiện lệnh của người yêu cầu chuyển tiền, thường là ngân hàng ở nước người chuyển tiền. Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền: Thường là ngân hàng ở nước người hưởng lợi. Chi phí chuyển tiền do người chuyển tiền hoặc người trả tiền thanh toán. Ngân hàng chuyển tiền được hưởng các chi phí đó. Tiền chuyển có thể là đồng tiền của nước trả tiền, hoặc người hưởng lợi, hoặc một nước thứ ba. * Trình tự tiến hành nghiệp vụ: NH đại lý NH chuyển tiền Người chuyển tiền Người hưởng lợi Giao dịch thương mại Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với ủy nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng ) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng. Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi Ưu nhược điểm của phương thức này: Ưu điểm: Thủ tục hết sức đơn giản, không có chứng từ phức tạp, rườm rà, người mua và người bán không phải tiến hành thanh toán trực tiếp với nhau. Nhược điểm: Độ an toàn trong thanh toán không cao, không đảm bảo quyền lợi cho người bán, hàng đã chuyển nhưng việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Trong trường hợp người mua chuyển tiền trước khi giao hàng mà vì một lý do nào đấy, việc giao hàng của người bán chậm trễ, hoặc không đúng theo yêu cầu thì người mua sẽ ứ đọng vốn. Vì vậy, phương thức này chủ yếu áp dụng để thanh toán phi mậu dịch, các chi phí liên quan đến trả nợ, bồi thường, còn nếu áp dụng trong thanh toán xuất nhập khẩu thì chủ yếu đối với khách hàng quen biết, có tín nhiệm cao. b. Phương thức nhờ thu Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ cho khách hàng sẽ ủy thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra. Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có: Người bán tức là người hưởng lợi (Principal) Ngân hàng bên bán là ngân hàng nhận sự uỷ thác của người bán (Remitting Bank) Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán là ngân hàng ở nước người mua. (Collecting Bank and/or Presenting Bank). Người mua tức là người trả tiền (Drawee) Có hai loại nhờ thu là nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Một là: Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collection). Nhờ thu phiếu trơn là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra còn chứng từ gửi hàng sẽ đưọc gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. Trong phương thức này, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian làm dịch vụ thu hộ tiền người mua, còn trách nhiệm trả tiền hay không là do người mua quyết định. Các bên tham gia: + Người bán, người hưởng lợi: Là người ủy nhiệm cho ngân hàng thu tiền người mua. + Người mua, người trả tiền: Là người có trách nhiệm thanh toán tiền hàng mua của người bán khi ngân hàng đến yêu cầu đòi thanh toán. + Ngân hàng nhờ thu: Là ngân hàng thu tiền từ người mua, thường là ngân hàng phục vụ bên mua đồng thời là ngân hàng đại lý của ngân hàng người bán. Trình tự tiến hành: NH đại lý NH Bên bán gửi hàng và chứng từ Người mua Người bán Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua, lập một hối phiếu đòi tiền người mua và ủy thác cho ngân hàng của mình đòi tiền hộ bằng chỉ thị nhờ thu. Ngân hàng phục vụ bên bán gửi thư ủy thác nhờ thu kèm hối phiếu cho ngân hàng đại lý của mình tại nước người mua nhờ thu tiền. Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là trả tiền ngay) hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (nếu mua chịu). Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán, nếu chỉ là chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng sẽ giữ hối phiếu hoặc gửi lại cho người bán. Khi đến hạn thanh toán thì ngân hàng sẽ đòi tiền của người mua và thực hiện việc chuyển tiền như trên. Ưu nhược điểm của phương pháp này: Phương pháp nhờ thu không kèm chứng từ tuy có ưu điểm là thanh toán tương đối nhanh, thực hiện đơn giản nhưng có nhược điểm là không đảm bảo quyền lợi cho người bán vì việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng mà không trả tiền hay trả tiền chậm. Đối với người mua áp dụng phương thức này cũng có bất lợi vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ thì người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng theo hợp đồng hay không. Như vậy, với phương pháp này, tính an toàn đối với cả người xuất khẩu và nhập khẩu đều thấp, tốc độ thanh toán chậm. Do vậy, nó ít được sự dụng trong thanh toán quốc tế, có chăng chỉ là thanh toán các chi phí vận tải, bảo hiểm, hoa hồng, lợi tức... hoặc khi hai bên mua và bán tin cậy lẫn nhau hoặc hai bên cùng nội bộ công ty với nhau (công ty mẹ và công ty con). Hai là: Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection) Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng Trong phương thức này, điểm khác biệt cơ bản với nhờ thu phiếu trơn là người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn khống chế bộ chứng từ hàng hoá đối với người nhập khẩu. Với cách khống chế chứng từ này, quyền lợi của người bán sẽ được đảm bảo hơn. Trình tự tiến hành: NH bên Mua NH bên Bán Người Mua gửi hàng Người Bán Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ cũng giống như nhờ thu phiếu trơn, chỉ khác ở khâu (1) là lập một bộ chứng từ nhờ ngân hàng thu hộ tiền. Bộ chứng từ gồm có hối phiếu và các chứng từ gửi hàng kèm theo, ở khâu (3) là ngân hàng đại lý chỉ trao chứng từ gửi hàng cho người mua nếu như người mua trả tiền hay chấp nhận trả tiền hối phiếu. Tuỳ theo thời hạn trả tiền, ta chia phương thức này thành hai loại: Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ ( Documents Against Payment - D/P): Được sử dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay. Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents Against Acceptance - D/A): áp dụng trong trường hợp nhờ thu trả sau. So với hình thức nhờ thu phiếu trơn, phương thức D/A và D/P đảm bảo hơn vì ngân hàng thay mặt người bán khống chế chứng từ. Tuy nhiên, hai phương thức này còn có những hạn chế như: Đối với D/P thì người nhập khẩu phải trả tiền khi nhận được bộ chứng từ hàng hoá mà không được kiểm tra hàng hoá trước. Vì vậy, người mua gặp rủi ro trong trường hợp hàng hoá không giao đúng như mô tả chứng từ hoặc không đúng trong hợp đồng. Còn về phía nhà xuất khẩu thì phải rất tin tưởng vào khả năng và thiện chí thanh toán của bạn hàng nước ngoài vì các ngân hàng tham gia hoàn toàn không chịu trách nhiệm thanh toán. Nếu người mua từ chối bộ chứng từ thì người xuất khẩu phải chịu hết tất cả chi phí chuyên chở hàng hoá và cả mọi rủi ro trên đường vận chuyển . Đối với D/A thì người xuất khẩu chịu rủi ro nhiều hơn so với nhờ thu D/P vì khi đến hạn trả tiền của hối phiếu, người mua có thể không trả tiền vì một lý do nào đó trong khi đã nhận hàng. Thời gian thanh toán bị kéo dài do phải phụ thuộc vào thời gian chứng từ luân chuyển từ ngân hàng bên xuất khẩu đến ngân hàng bên nhập khẩu nên người xuất khẩu phải mất khá lâu mới thu được tiền còn người nhập khẩu thì có lợi hơn. Tóm lại, với phương thức này, việc ngân hàng khống chế các chứng từ hàng hoá khiến cho quyền lợi của người xuất khẩu cũng được bảo đảm hơn phương thức nhờ thu phiếu trơn và chuyển tiền, thời gian thanh toán thì ngắn hơn và chi phí ít hơn so với phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Do vậy, phương thức này được sử dụng trong phương thức xuất nhập khẩu với những hợp đồng có giá trị nhỏ và thanh toán dịch vụ đối với các khách hàng quen và tin cậy. c. Phương thức tín dụng chứng từ (L/C) Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Một công cụ vô cùng quan trọng không thể thiếu được trong phương thức tín dụng chứng từ là thư tín dụng, nếu không mở được thư tín dụng thì phương thức thanh toán này cũng không được xác lập. Thư tín dụng (Letter of Credit – L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến cho ngân hàng ở nước ngoài (ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) một L/C cho người hưởng (người xuất khẩu), cam kết sẽ thanh toán một số tiền nhất định trong phạm vi thời hạn quy định, với điều kiện người hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội dung, điều kiện quy định như trong Thư tín dụng. Trên đây là những nội dung cơ bản về các phương thức thanh toán quốc tế hiện nay. Việc lựa chọn phương thức thanh toán nào là do hai bên xuất nhập khẩu quyết định dựa trên các điều kiện cụ thể nhằm thoả mãn quyền lợi của cả hai phía. Tuy nhiên, phương thức tín dụng chứng từ vẫn chiếm ưu thế, là một phương thức thanh toán chủ yếu. Điều này sẽ được khẳng định khi đi sâu nghiên cứu về phương thức này ở phần tiếp theo. TíN DụNG CHứNG Từ - PHƯƠNG THứC CHủ YếU TRONG THANH TOáN QUốC Tế CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI Cơ sở hình thành thư tín dụng Ngày nay, việc mở rộng nền kinh tế và đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương phát triển tại các quốc gia. Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển xóa bỏ dần hàng rào buôn bán giữa các quốc gia. Các giao dịch thương mại không chỉ diễn ra giữa những khách hàng quen biết, có tín nhiệm cao. Trong khi người bán luôn ngần n._.gại khi chuyển giao hàng hóa của họ trước khi nhận được tiền, còn người mua lại muốn nắm được hàng hóa trước khi trả tiền thì phương thức nhờ thu và chuyển tiền rõ ràng đã bộc lộ những hạn chế của nó. Vì rất khó có thể làm cho việc trao đổi tiền và hàng được tiến hành đồng thời nên trên thực tế các bên thường thỏa thuận với nhau một biện pháp thỏa hiệp: trả tiền khi giao hàng tượng trưng, tức là giao chứng từ chuyển quyền sở hữu hay quyền kiểm soát hàng hóa. Trên cơ sở đó phương thức tín dụng chứng từ ra đời và nhanh chóng trở thành phương thức được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất trong thanh toán xuất nhập khẩu. Trong phương thức này, các ngân hàng không chỉ đóng vai trò là trung gian thu hộ mà được yêu cầu tham gia bằng cách cam kết chắc chắn sẽ trả tiền cho người bán khi họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ phù hợp với nội dung của thư tín dụng. Các bên tham gia cơ bản trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có: Người xin mở thư tín dụng là người mua, người nhập khẩu hàng hoá hoặc là người mua ủy thác cho một người khác. Ngân hàng mở thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu Người hưởng lợi thư tín dụng là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định. Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng ở nước người hưởng lợi. Các hình thức thư tín dụng chủ yếu Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có ưu việt hơn hẳn những phương thức thanh toán quốc tế khác. Tuy vậy, hiệu quả của phương thức này sẽ được thể hiện đầy đủ hơn khi ta biết lựa chọn loại Thư tín dụng phù hợp với yêu cầu của từng tình huống cụ thể trong mối quan hệ thương mại quốc tế nảy sinh giữa các bên. Theo quy ước quốc tế, Thư tín dụng bao gồm nhiều loại. Có thể phân biệt chúng dưới các giác độ khác nhau dưới đây: Căn cứ vào tính chất: có các loại Thư tín dụng sau: - Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C): là thư tín dụng mà sau khi L/C được mở thì người nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự đồng ý của người hưởng lợi L/C. - Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): là loại Thư tín dụng mà sau khi được mở thì người yêu cầu mở Thư tín dụng sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó nếu không được sự đồng ý của người hưởng Thư tín dụng . Để đảm bảo được tính chất và tác dụng của Thư tín dụng , ngày nay hầu hết Thư tín dụng được mở theo hình thức không huỷ ngang. - Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Irrevocable confirmed L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ ngang được một ngân hàng thứ ba đứng ra đảm bảo thanh toán bên cạnh ngân hàng phát hành Thư tín dụng. Loại Thư tín dụng này thường được dùng khi hai bên mua-bán chưa có quan hệ tín nhiệm nhau, người bán chưa tin tưởng vào uy tín của người mua cũng như chưa tin tưởng vào uy tín của ngân hàng phát hanh. - Thư tín dụng không thể huỷ ngang có thể chuyển nhượng (irrevocable transferable L/C): là loại Thư tín dụng không huỷ ngang trong đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở Thư tín dụng hay ngân hàng chuyển nhượng Thư tín dụng do ngân hàng mở Thư tín dụng uỷ quyền chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện Thư tín dụng cho một hay nhiều người khác. Thư tín dụng chỉ được phép chuyển nhượng một lần. Thư tín dụng chuyển nhượng thường được sử dụng trong mua bán hàng hoá tay ba, khi người hưởng lợi thứ nhất là đại lý của người bán cuối cùng. Tuy nhiên loại Thư tín dụng này cũng ít được sử dụng vì chứa đựng nhiều rủi ro cho người mở Thư tín dụng cũng như người được chuyển nhượng do không có sự hiểu biết lẫn nhau. Căn cứ vào thời hạn thanh toán: - Thư tín dụng trả ngay (L/C at sight): là loại Thư tín dụng trong đó người xuất khẩu sẽ được thanh toán ngay khi xuất trình các chứng từ phù hợp với điều khoản quy định trong Thư tín dụng tại ngân hàng chỉ thị thanh toán. Trong trường hợp này người xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu trả ngay để yêu cầu thanh toán. - Thư tín dụng trả chậm (Deferred payment L/C): loại Thư tín dụng này quy định việc thanh toán sẽ được tiến hành vào một thời điểm xác định trong tương lai. Khi chỉ định một ngân hàng thanh toán trả chậm, ngân hàng phát hành cho phép ngân hàng đó thực hiện thanh toán bộ chứng từ được xuất trình phù hợp với quy định trong Thư tín dụng vào một thời điểm xác định trong tương lai đã nêu trong Thư tín dụng. Đồng thời, ngân hàng phát hành cũng cam kết bồi hoàn cho ngân hàng thanh toán đúng thời hạn. Một số hình thức Thư tín dụng đặc biệt. - Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại Thư tín dụng do người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở một Thư tín dụng khác cho người khác hưởng căn cứ vào một Thư tín dụng đã được mở trước đó làm đảm bảo. Nội dung của hai Thư tín dụng là gần giống nhau, tuy nhiên nó lại hoàn toàn độc lập với nhau. Nghiệp vụ Thư tín dụng giáp lưng rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của Thư tín dụng gốc và Thư tín dụng giáp lưng. Loại Thư tín dụng này thường được sử dụng trong mua bán hàng hoá qua trung gian, khi người bán cuối cùng hoặc người mua không chấp nhận một Thư tín dụng chuyển nhượng. - Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ ngang chỉ có hiệu lực khi có một Thư tín dụng đối ứng với nó cũng được mở. Loại Thư tín dụng thường được sử dụng khi hai bên mua bán có quan hệ mua bán hàng đổi hàng hoặc gia công hàng hoá. - Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ ngang, sau khi sử dụng xong hoặc đã hết hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị được thực hiện hoàn tất. Thư tín dụng tuần hoàn thường được sử dụng khi các bên tin cậy lẫn nhau, mua hàng thường xuyên theo định kỳ. - Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red clause L/C): là loại Thư tín dụng có điều khoản đặc biệt, trong đó người hưởng Thư tín dụng thông qua ngân hàng phát hành đồng ý ứng trước một số tiền nhất định cho người hưởng trước khi họ xuất trình đầy đủ chứng từ hợp lệ theo đúng thời gian quy định. Loại Thư tín dụng này thường được sử dụng trong quan hệ mua bán giữa công ty mẹ-con, tài trợ cho người bán để chuẩn bị hàng hoá. - Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C) là loại Thư tín dụng do ngân hàng của người xuất khẩu phát hành trong đó cam kết với người nhập khẩu là sẽ thanh toán cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo như Thư tín dụng đã quy định. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ (2) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu Người nhập khẩu Người xuất khẩu (5) (6) (4) (1) (7) (8) (3) (5) (6) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng. Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu . Khi nhận được thông báo này, ngân hàng phục vụ người xuất khẩu đóng vai trò là ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó và khi nhận được bản gốc của thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng xuất trình thông qua ngân hàng phục vụ mình (có thể là ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng khác) cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu (nếu người nhập khẩu chấp nhận thanh toán thì ngân hàng mở thư tín dụng vẫn thanh toán và trừ phí sai sót của bộ chứng từ) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền. Những chứng từ chủ yếu theo Thư tín dụng bao gồm: (1) Hối phiếu (Draft): theo công ước quốc tế về Hối phiếu (Uniform Law for Bills of Exchange – ULB) năm 1930, Hối phiếu được hiểu là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày nhất định ghi trên hối phiếu phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu. (2) Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice): là chứng từ do người bán lập để đòi tiền người mua, chứa đựng những thông tin quan trọng về chuyến hàng như tên hàng, số lượng, đơn giá, giá trị thanh toán... Đây được coi là một trong những chứng từ quan trọng nhất, không thể thiếu trong những chứng từ xuất trình. (3) Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin): là chứng từ chỉ rõ nguồn gốc, xuất xứ của hàng hoá xuất khẩu. Chứng từ này thường do Phòng Thương mại cấp trên cơ sở kê khai của người bán hoặc một bên trung gian nào đó. (4) Chứng nhận bảo hiểm (Certificate of Insurance): Chứng từ này do công ty Bảo hiểm hoặc đại lý của họ lập ra để bảo hiểm cho lô hàng xuất nhập khẩu dựa trên hợp đồng bảo hiểm và tuỳ thuộc vào điều kiện giao hàng. (5) Chứng từ vận tải: Vận đơn đường biển (Bill of Lading), vận đơn hàng không (Airway Bill) hoặc vận đơn đường sắt (Railway Bill): là chứng từ được hãng vận tải phát hành, là bằng chứng về việc giao hàng của người bán. Đối với phương thức giao hàng bằng đường biển thì vận đơn được xem là chứng từ quan trọng nhất, vừa là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở, vừa là biên lai của Người chuyên chở xác nhận đã nhận hàng, vừa là chứng từ xác thực quyền sở hữu đối với hàng hoá. Chứng từ vận tải thường có những nội dung như tên tàu, số vận đơn, ngày phát hành vận đơn... (6) Phiếu đóng gói (Packing list): nội dung của chứng từ này thường mô tả chi tiết về chuyến hàng đã giao như số Container, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, ... (7) Các chứng từ khác: như phiếu khử trùng, kiểm định thực vật, giấy chứng nhận chất lượng, số lượng... Việc lập được một bộ chứng từ hoàn hảo (sạch) theo thư tín dụng phải theo một chuẩn mực quốc tế và thực tiễn thực hành được các nước tham gia công nhận. Phòng Thương mại quốc tế (International Charmber of Commerce – ICC) đã xuất bản cuốn: “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (Uniform Customs and Practice for Documentary Credits - UCP), ấn bản đầu tiên năm 1933. Văn bản này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, nghĩa là khi áp dụng nó các bên đương sự phải thoả thuận ghi vào trong thư tín dụng, đồng thời có thể thoả thuận khác miễn là có dẫn chiếu. Đến nay, trải qua quãng thời gian dài áp dụng, những điều lệ trên đã nhiều lần được chỉnh sửa, bổ sung để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và ấn phẩm hiện đang được sử dụng rộng rãi là UCP số xuất bản 500 bản sửa đổi năm 1993, và thường được viết tắt là UCP 500. Hiện nay ấn bản này cũng lại đang được nghiên cứu sửa đổi và bản UCP600 sẽ được xuất bản trong tương lai gần. Đặc điểm của thư tín dụng và vai trò của Ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện thanh toán theo thư tín dụng a) Thư tín dụng có những đặc điểm sau: Một là: thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán, nhưng sau khi ra đời lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Người mua căn cứ vào hợp đồng để làm đơn yêu cầu mở Thư tín dụng. Người bán căn cứ vào các điều kiện của Thư tín dụng tiến hành giao hàng và nếu xuất trình được các chứng từ có phù hợp với hợp đồng hay không không phải là trách nhiệm của ngân hàng và không ảnh hưởng đến trách nhiệm thanh toán của ngân hàng. Tính độc lập của Thư tín dụng không huỷ bỏ trách nhiệm của ngân hàng phát hành khi hợp đồng mua bán đã được huỷ bỏ nhưng Thư tín dụng vẫn còn hiệu lực. Do đó người bán khi nhận được Thư tín dụng phải kiểm tra kỹ các điều khoản của Thư tín dụng, nếu có điều khoản nào chưa phù hợp phải yêu cầu người mua tiến hành sửa đổi Thư tín dụng cho phù hợp trước khi thực hiện giao hàng. Hai là: trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các ngân hàng chỉ giao dịch căn cứ vào chứng từ, chứ không liên quan đến hàng hoá. Ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng khi họ xuất trình được bộ chứng từ mà thể hiện trên bề mặt là phù hợp với các điều khoản của Thư tín dụng mà hoàn toàn không phụ thuộc vào việc người mua đã nhận được hàng hoá hay chưa, hàng hoá có đúng quy cách hay không. Do đó, quyền lợi của người bán sẽ được đảm bảo nếu họ xuất trình được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều khoản, điều kiện của thư tín dụng. b) Vai trò của ngân hàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ. Đối với nhà nhập khẩu: Khi nhà nhập khẩu chưa có uy tín với nhà xuất khẩu, nhà xuất khẩu chắc chắn không muốn giao hàng trước khi nhận được tiền. Ngược lại, nhà nhập khẩu khi chưa nhận được hàng cũng không hề muốn trả tiền trước, một mặt sẽ có rủi ro nếu nhà xuất khẩu không giao được hàng, mặt khác vốn sẽ bị chiếm dụng trong một thời gian dài, nhất là những hàng mà nhà xuất khẩu phải sản xuất rồi mới giao được hàng. Sử dụng phương thức thanh toán quốc tế là tín dụng chứng từ sẽ giải quyết được mâu thuẫn đó. Ngân hàng, bằng uy tín của mình sẽ đứng ra cam kết thanh toán. Nhà nhập khẩu sẽ được tư vấn về những điều khoản trong hợp đồng để xây dựng một Thư tín dụng chặt chẽ, có lợi cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu cũng kiểm soát được hàng hoá thông qua việc nhà xuất khẩu sẽ phải xuất trình những chứng từ chứng nhận xuất xứ, kiểm định chất lượng do những cơ quan kiểm định độc lập phát hành. Ngân hàng sẽ kiểm tra bộ chứng từ đó có phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp của từng nước hay không, việc kiểm tra này đòi hỏi kinh nghiệm và sự chuyên nghiệp cao. Ngoài ra, nếu nhà nhập khẩu đã có uy tín với ngân hàng thì thường các ngân hàng sẽ cấp một hạn mức miễn ký quỹ mở Thư tín dụng cho khách hàng. Đây là một trong những ưu việt chỉ có được khi áp dụng phương thức tín dụng chứng từ. Nhà nhập khẩu bằng việc tận dụng uy tín của ngân hàng đã tránh được việc ứ đọng vốn. Đối với nhà xuất khẩu: Chính từ đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ là ngân hàng chỉ làm việc dựa trên chứng từ, nên khi nhà xuất khẩu đã giao hàng và tập hợp được bộ chứng từ hoàn hảo, việc được thanh toán là chắc chắn. Dù trên đường hàng hoá có gặp rủi ro thì việc hai bên giải quyết với bên bảo hiểm cũng không ảnh hưởng tới việc ngân hàng phát hành phải thanh toán. Hoặc nhà nhập khẩu gặp rủi ro, mất khả năng thanh toán, nhà xuất khẩu vẫn chắc chắn nhận được tiền của ngân hàng. Như vậy tất cả chỉ phụ thuộc vào việc nhà xuất khẩu có xuất trình được bộ chứng từ có hoàn hảo hay không, điều này nhà xuất khẩu sẽ được ngân hàng phục vụ mình tư vấn. Ngoài ra, nhà xuất khẩu còn tránh được rủi ro về quản lý ngoại hối của nước người nhập khẩu, vì khi Thư tín dụng đã được mở thì người nhập khẩu đã phải có giấy phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cơ quan quản lý ngoại hối. Đối với những phương thức khác như chuyển tiền (sau khi nhận hàng) hay nhờ thu, tại thời điểm thanh toán nếu nước người nhập khẩu có sự thay đổi về quản lý ngoại hối liên quan đến ngoại tệ hai bên đã thoả thuận thì rủi ro này hoàn toàn thuộc về nhà xuất khẩu. Khi đã có được bộ chứng từ, nhà xuất khẩu còn có thể để nghị ngân hàng phục vụ mình chiết khấu (đối với bộ chứng từ trả ngay) hay bán trước hạn các hối phiếu đã được chấp nhận (đối với bộ chứng từ trả chậm), do đó có thể nhanh chóng thu hồi vốn tái đầu tư. Tóm lại, lợi ích lớn nhất của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là thông qua đó có thể đạt tới sự thoả thuận chấp nhận được giữa những lợi ích đối kháng của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu thông qua việc làm cho thời gian trả tiền phù hợp với thời hạn giao hàng. Ta cũng đã biết dịch vụ này mang lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng phải hết sức thận trọng khi thực hiện phương thức thanh toán này do có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới nó, có thể tạo thuận lợi mà cũng có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng. CáC NHÂN Tố ảNH HƯởNG ĐếN Sự PHáT TRIểN PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ Các nhân tố bên trong ngân hàng Đây là những nhân tố nội tại của mỗi ngân hàng thương mại, nó có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế. Nhân tố đầu tiên phải kể đến là mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động thanh toán quốc tế nói chung. Một hệ thống quản lý điều hành thống nhất từ trung ương đến chi nhánh theo một quy trình cụ thể, gọn nhẹ, giao quyền chủ động cho chi nhánh sẽ tiết kiện được chi phí, thời gian thanh toán nhanh chóng và an toàn, đó là tác nhân thu hut khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn vì quyền lợi của họ được đảm bảo. Nhân tố thứ hai là uy tín và tiềm lực tài chính của Ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế. Lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đặc biệt và nhạy cảm, uy tín và tiềm lực tài chính sẽ tạo được lòng tin với khách hàng, thu hút được khách hàng tới với ngân hàng, từ đó lại càng củng cố cho uy tín và tiềm lực của ngân hàng. Đặc biệt với phương thức tín dụng chứng từ, uy tín của ngân hàng càng đóng vai trò quan trọng. Thư tín dụng là một cam kết của ngân hàng phát hành cung cấp cho người hưởng, do đó uy tín của ngân hàng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện của thư tín dụng. Một thư tín dụng do một ngân hàng uy tín phát hành sẽ dễ dàng được người hưởng chấp nhận, không đòi hỏi sự xác nhận của ngân hàng thứ hai, giảm các chi phí không cần thiết cho người nhập khẩu và người xuất khẩu, gây lòng tin cho khách hang, từ đó sẽ thu hút được nhiều hơn khách hàng đến với ngân hàng, phát triển được các hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. Uy tín của ngân hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ, quy mô của nguồn vốn huy động và cho vay, khả năng đáp ứng các phương tiện thanh toán, sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới nghiệp vụ tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại. Các thư tín dụng mở ra được truyền từ ngân hàng mở đến ngân hàng thông báo đều phải thông qua mạng SWIFT và giữa hai ngân hàng phải có trao đổi mã khóa SWIFT để đảm bảo tính chân thực của thư tín dụng. Nếu giữa hai ngân hàng không có trao đổi mã khóa SWIFT thì sẽ phải thông qua ngân hàng trung gian. Như vậy rõ ràng với những ngân hàng mở thư tín dụng có hệ thống ngân hàng đại lý rộng thì thư tín dụng mở ra sẽ tới tay người hưởng nhanh hơn, giảm được chi phí trung gian. Mặt khác khi thanh toán thư tín dụng, nếu ngân hàng chiết khấu có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng sẽ đảm bảo nhận được tiền từ ngân hàng mở thư tín dụng mà không phải qua nhiều ngân hàng trung gian, vừa tiết kiệm phí chuyển tiền, vừa tiết kiệm thời gian. Thông qua quan hệ với các ngân hàng đại lý, ngân hàng có thể khai thác được các nguồn tài trợ không nhỏ, các hạn mức tín dụng, tạo vốn đáp ứng nhu cầu cho khách hàng nhập khẩu. Cũng thông qua hoạt động của các ngân hàng đại lý, ngân hàng còn có thể khai thác thông tin liên quan đến tình hình tài chính của các đối tác nước ngoài, hỗ trợ cho các khách hàng nội địa. Ngoài ra, mạng lưới ngân hàng đại lý rộng lớn sẽ củng cố uy tín của ngân hàng đó trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo lòng tin cho khách hàng khi đến với ngân hàng. Một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng lớn tới nghiệp vụ thanh toán quốc tế nói chung và nghiệp vụ tín dụng chứng từ nói riêng là công nghệ ngân hàng. Ngày nay, hoạt động ngân hàng luôn đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác, tiện lợi, vì vậy sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là hết sức quan trọng. Công nghệ ngân hàng liên quan đến toàn bộ cơ sở vật chất và mạng lưới truyền thông, thanh toán. Hệ thống mạng máy tính và các chương trình ứng dụng của nó có liên quan chặt chẽ đến chất lượng hoạt động thanh toán và phương thức tín dụng chứng từ. Hệ thống công nghệ thanh toán hiện đại sẽ giúp cho việc thanh toán qua ngân hàng được thực hiện trôi chảy và nhanh chóng, đảm bảo an toàn và tiết kiệm chi phí. Việc nối mạng thông tin cũng giúp cho ngân hàng quảng bá hoạt động và các sản phẩm dịch vụ của mình tới khách hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Nhân tố ảnh hưởng tiếp theo là chất lượng các hoạt động liên quan. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong những phương thức thanh toán quốc tế, là khâu cuối cùng của quá trình mua bán trong ngoại thương. Để khâu cuối cùng này diễn ra được suôn sẻ thì các khâu đầu phải trôi chảy. Một khách hàng muốn mở thư tín dụng nhập khẩu sẽ có thể được ngân hàng cấp tín dụng, bán ngoại tệ để ký quỹ hay thanh toán và được ngân hàng đứng ra bảo lãnh khi cần thiết. Ngược lại khách hàng xuất khẩu lại muốn được ngân hàng tài trợ thông qua việc chiết khấu bộ chứng từ hoặc cho vay ứng trước, nên một trong những khâu này ách tắc sẽ dẫn đến cả quá trình cùng ách tắc và không thể thực hiện được việc thanh toán. Do vậy sự phối kết hợp đồng bộ giữa các hoạt động liên quan là nhân tố quan trọng góp phần phát triển phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Nhân tố cuối cùng nhưng lại là nhân tố quyết định ảnh hưởng tới nghiệp vụ tín dụng chứng từ là trình độ của cán bộ ngân hàng. Trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, những kinh nghiệm thực tiễn và thái độ tiếp khách của cán bộ thanh toán quốc tế sẽ góp phần thu hút khách tới ngân hàng, nâng cao chất lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro xảy ra. So với các phương thức thanh toán quốc tế khác, phương thức tín dụng chứng từ phức tạp hơn, đòi hỏi cán bộ nghiệp vụ phải có một trình độ nhất định. Do vậy, để phát triển phương thức tín dụng chứng từ, trình độ cán bộ phải không ngừng được nâng cao về chuyên môn, ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp luật, thông lệ quốc tế để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Khi khách hàng đã được phục vụ niềm nở với trình độ chuyên môn cao, đáp ứng mọi nhu cầu phức tạp nhất, họ sẽ cảm thấy hài lòng và chọn ngân hàng làm nơi giao dịch. Ngoài việc hướng dẫn khách hàng mọi thủ tục, cách thức thanh toán, cán bộ thanh toán quốc tế còn phải làm nhiệm vụ tư vấn hướng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng có được những điều khoản có lợi cho mình, lựa chọn các hình thức thanh toán phù hợp, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất, tạo cho khách hàng thực sự tin tưởng, an tâm. Mặt khác trình độ cán bộ thanh toán quốc tế vững sẽ xử lý các kỹ thuật nghiệp vụ một cách chính xác, hạn chế rủi ro cho ngân hàng, nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng chứng từ. Trên đây là những nhân tố bên trong ngân hàng ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng thương mại. Ngoài ra, các nhân tố bên ngoài ngân hàng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đòi hỏi ngân hàng phải nắm bắt, thích nghi và vận dụng linh hoạt. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng Thứ nhất là các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Mặc dù toàn cầu hoá đang làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau hơn, nhưng giữa các quốc gia vẫn tồn tại những khác biệt. Môi trường kinh doanh trong nước gồm tất cả các yếu tố như chính trị, văn hóa, luật pháp, sự phát triển kinh tế, sự cạnh tranh... Những nhân tố này vừa có tác động tới các doanh nghiệp – khách hàng của ngân hàng và tới cả bản thân ngân hàng. Phải kể đến hàng đầu là chính sách kinh tế đối ngoại. Hoạt động thanh toán quốc tế nói chung trong đó phương thức tín dụng chứng từ nói riêng sôi động hay trầm lắng phụ thuộc nhiều vào chính sách đối ngoại của quốc gia. Việc đưa ra các định hướng mang tính chiến lược là bảo hộ mậu dịch hay tự do hoá mậu dịch có ảnh hưởng rất lớn tới hành vi của các doanh nghiệp. ở nước ta, việc đổi mới tư duy về kinh tế đối ngoại, thực hiện nền kinh tế mở đã thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những thành tựu to lớn. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lên không ngừng, khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng sang những thị trường mới như Mỹ, EU... Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp phát triển đòi hỏi sự phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng mà trong đó có phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức chủ yếu. Ngày nay không ai phủ nhận tầm quan trọng của các quan hệ quốc tế trong hoạt động kinh tế, việc sử dụng đồng tiền nước ngoài trong thanh toán quốc tế là phổ biến, rộng khắp. Nhà nước thực hiện chính sách quản lý ngoại hối thông qua việc đề ra các chính sách kiểm soát luồng vận động của ngoại hối vào ra và các quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào tình hình cụ thể và những biến động trên thị trường mà Nhà nước áp dụng chính sách quản lý ngoại hối tự do hay thắt chặt nhằm hướng sự vận động của hoạt động ngoại hối đi vào ổn định theo chủ trương của Nhà nước. Việc làm này sẽ ảnh hưởng đến cung cầu ngoại hối trên thị trường và do đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của quốc gia, trước hết là ảnh hưởng đến ngoại thương và khả năng thực hiện thanh toán quốc tế của ngân hàng. Chính nguyên nhân kinh tế cũng làm thay đổi giá trị đồng tiền của mỗi nước và là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ giá giữa các đồng tiền bị thay đổi. Trên hết là sự ảnh hưởng của tỷ giá tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì ngân hàng là trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái cao hay thấp sẽ có tác động trực tiếp đến các hoạt động xuất nhập khẩu và đến lượt mình, các hoạt động xuất nhập khẩu lại ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, các chính sách lãi suất, thuế suất (đặc biệt là thuế suất áp dụng đối với hàng hoá xuất nhập khẩu), chính sách tiền tệ, các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài hay những yếu tố thuộc về cạnh tranh cũng có những ảnh hưởng lớn lao đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong đó có hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ. Thứ hai là sự thay đổi kinh tế, chính trị của nước bạn hàng. Do liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề và đối tượng kinh tế của nhiều quốc gia khác nhau, hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và phương thức tín dụng chứng từ nói riêng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tác động của môi trường kinh tế, chính trị xã hội của các quốc gia. Một sự biến động về chế độ chính trị của nước bạn hàng như thay đổi về quy định dự trữ ngoại hối, các quy định về thuế, phí xuất nhập cảnh, sự thay đổi lãnh đạo hay quan điểm của các Đảng phái sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết đã thỏa thuận giữa các bên. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất lợi đến sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng đến quá trình thanh toán, gây thiệt hạ cho các bên tham gia trong đó có ngân hàng. Thứ ba là các yếu tố từ phía khách hàng như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, trình độ nghiệp vụ ngoại thương, hành vi đạo đức của khách hàng. Như đã phân tích, so với các phương thức thanh toán khác, phương thức tín dụng chứng từ phức tạp hơn, đòi hỏi cả khách hàng và ngân hàng phải có một trình độ nhất định về ngoại thương, về thông lệ quốc tế. Từ khi ký kết hợp đồng, kháhc hàng phải có sự hiểu biết nhất định để không đưa vào hợp đồng các điều khoản trái với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện trôi chảy quá trình thanh toán. Trong phương thức thanh toán này, cam kết thanh toán của ngân hàng được đưa ra trên cơ sở khách hàng xuất khẩu xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản của thư tín dụng mà không có sự ràng buộc nào về hàng hoá. Việc khách hàng giả mạo chứng từ đòi tiền là hoàn toàn có thể xảy ra. Do vậy yếu tố hành vi đạo đức của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của phương thức thanh toán này. Như vậy việc áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong từ trong thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Có những yếu tố thuộc về nội tại của mỗi ngân hàng như trình độ cán bộ ngân hàng, công nghệ, quy trình làm việc... thì việc khắc phục sẽ có nhiều thuận lợi. Còn các yếu tố bên ngoài như chính sách lãi suất, thuế, chế độ tỷ giá hối đoái trong nước cũng như nước ngoài thì việc khắc phục sẽ rất khó, cần phải có những tính toán để phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Do đó, việc nghiên cứu nhằm phát triển phương thức này là rất cần thiết. Trên cơ sở những lý luận cơ bản trên đây, thực trạng áp dụng phương thức này tại Sở Giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ được đề cập trong chương hai của Luận văn. CHƯƠNG 2: THựC TRạNG áP DụNG PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ TRONG THANH TOáN QUốC Tế TạI Sở GIAO DịCH NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM KHáI QUáT CHUNG Về NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM Lịch sử hình thành và phát triển Ngày 1-4-1963, ngân hàng Ngoại thương Việt nam với tên giao dịch quốc tế là Bank for foreign trade of Việt Nam, tên viết tắt là Vietcombank, chính thức đi vào hoạt động với tư cách là một pháp nhân Ngân hàng thương mại giao dịch trên thương trường quốc tế và trong nước. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện nay đã đóng một vai trò chủ lực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, được nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, đồng thời là thành viên của hiệp hội ngân hàng Việt nam và Thế giới Trong những năm qua, Ngân hàng ngoại thương không ngừng khẳng định sự lớn mạnh của mình qua việc liên tục mở rộng mạng lưới của mình ra hầu hết các tính thành phố lớn trên cả nước. Tính đến nay ngân hàng ngoại thương đã có 25 chi nhánh cấp I, 26 chi nhánh cấp hai và 35 phòng giao dịch trên toàn quốc. Ngoài mạng lưới chi nhánh trên, Ngân hàng ngoại thương còn có 1 công ty tài chính , 3 văn phòng đại diện nước ngoài, 3._.inh tế của hợp đồng, xem xét khả năng hoạt động và cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và trong tương lai.... Đây là cơ sở để đảm bảo cho việc doanh nghiệp có được vay vốn của ngân hàng hay không. Phát triển hệ thống các Ngân hàng đại lý Việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với ngân hàng các nước có ý nghĩa chiến lược trong phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế ở bất cứ ngân hàng thương mại nào. Đối với những ngân hàng có quan hệ truyền thống với Ngân hàng Ngoại thương, Sở Giao dịch cần củng cố mối quan hệ chặt chẽ, phát triển cùng có lợi thông qua việc tăng cường các cuộc tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức hội thảo chuyên đề vừa để học hỏi các kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, vừa là tạo điều kiện để các ngân hàng đại lý hiểu và đẩy mạnh hợp tác với Ngân hàng Ngoại thương. Ngân hàng Ngoại thương cũng cần rà soát lại các ngân hàng đại lý thông qua việc xây dựng tiêu thức phân loại, đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý để lựa chọn ra các ngân hàng có uy tín, phục vụ thanh toán an toàn và nhanh chóng, từ đó có chính sách đối ngoại phù hợp, đồng thời tạo cơ sở để tư vấn cho khách hàng. Ngân hàng cũng nên tổ chức mạng lưới thông tin về các ngân hàng đại lý nhanh nhạy thông suốt trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương, thường xuyên tổ chức đúc rút kinh nghiệm trong quan hệ đối ngoại để hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương cũng cần mở rộng quan hệ song phương, đa phương với các ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, áp dụng các loại hình kinh doanh mới trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế, nâng cao vai trò hoạt động của các công ty tài chính và văn phòng đại diện, xúc tiến thành lập chi nhánh ở nước ngoài, phấn đấu đưa Ngân hàng Ngoại thương lên ngang tầm một ngân hàng tiên tiến trong khu vực, tiến tới hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Khai thác tốt các nguồn ngoại tệ Để đảm bảo nguồn ngoại tệ để thanh toán, Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần đẩy mạnh huy động vốn ngoại tệ, khai thác tốt các nguồn tài trợ, nâng cao chất lượng tín dụng ngoại tệ. Để chủ động được nguồn ngoại tệ phục vụ cho thanh toán thư tín dụng trong điều kiện cung cầu ngoại tệ chưa ổn định, Sở Giao dịch cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức kinh doanh ngoại tệ với các ngân hàng thương mại khác kể cả mua bán giao ngay và mua bán kỳ hạn, tạo mối quan hệ để khi có nhu cầu cấp bách về nguồn thanh toán thư tín dụng thì có thể mua được từ những ngân hàng này. Sở Giao dịch cũng nên đẩy mạnh thu hút vốn ngoại tệ qua các kênh như kiều hối, đại lý thu đổi ngoại tệ, thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế cho các nhà thầu xây dựng các công trình có vốn tài trợ hoặc có sự tham gia của các đối tác nước ngoài vì tiềm lực ngoại tệ của các đối tác này rất lớn, đây là nguồn lực để Sở Giao dịch đảm bảo cân đối ngoại tệ. Một nguồn ngoại tệ có tính ổn định và chủ động có thể khai thác là từ hoạt động thư tín dụng xuất khẩu. Để có thể phát triển nghiệp vụ này, giảm sự mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu và tạo nguồn ngoại tệ, Sở Giao dịch cần chủ động mở rộng các hình thức cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với những đơn vị có thư tín dụng xuất khẩu thông báo qua Sở và cam kết xuất trình chứng từ qua Sở thì có thể xem xét áp dụng lãi suất ưu đãi. Sở cũng cần đẩy mạnh nghiệp vụ chiết khấu miễn truy đòi đối với những bộ chứng từ hoàn hảo và có ngân hàng phát hành là ngân hàng đáng tin cậy, có như vậy mới đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác về nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng xuất khẩu. Tăng cường thu hút khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng chỉ có thể tồn tại nếu có khách hàng giao dịch và chỉ có thể phát triển các hoạt động của mình nếu có lực lượng khách hàng vững chắc. Lượng và loại hình doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương là một trong những mặt dùng để đánh giá quy mô hoạt động của ngân hàng. Vì vậy để tăng lượng và đa dạng hoá đối tượng khách hàng thực hiện thanh toán qua Sở Giao dịch, Sở cần phải thực hiện tốt chính sách khách hàng. Đối với khách hàng thường xuyên thực hiện thanh toán Thư tín dụng qua Sở Giao dịch, Sở phải thường xuyên tiếp xúc khách hàng để tìm hiểu các yêu cầu của họ đối với ngân hàng. Việc này được tiến hành thông qua tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm, định kỳ hàng tháng, hàng quý để thu thập ý kiến của khách hàng. Hàng năm, Sở cũng cần thực hiện nghiêm túc việc đánh giá hoạt động giao dịch của khách hàng tại Sở, nội dung đánh giá bao gồm: kinh ngạch thanh toán Thư tín dụng qua Sở, mặt hàng, thị trường thanh toán, tình hình xin vay tài trợ và việc thực hiện các nghĩa vụ, các thiếu sót chủ yếu trong quá trình thanh toán. Bên cạnh đó Sở cũng có thể đánh giá thêm về tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại và hướng phát triển trong tương lai để dự đoán nhu cầu của doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán. Sở cũng nên phân loại khách hàng thành các đối tượng khác nhau. Với những khách hàng lớn là những doanh nghiệp thường xuyên thanh toán qua Sở Giao dịch với tổng kim ngạch cao cần có những ưu tiên trong việc thanh toán như coi họ là đối tượng đầu tiên để cung cấp các dịch vụ thanh toán mới (như ngân hàng điện tử, quản lý tài khoản qua mạng...), ưu tiên việc kiểm tra chứng từ, tư vấn thương mại miễn phí. Đối với những khách hàng thường xuyên thực hiện giao dịch qua Sở Giao dịch nhưng kim ngạch thấp hơn nhóm khách hàng lớn thì cần cũng có những ưu tiên nhất định trong thực hiện thanh toán. Còn với những doanh nghiệp không thường xuyên giao dịch qua Sở và kim ngạch cũng không lớn thì có thể áp dụng những chế độ ưu đãi một cách linh hoạt, phục vụ tốt nhất các yêu cầu của họ, đồng thời chỉ rõ lợi ích mà họ sẽ nhận được khi thực hiện thanh toán với Sở Giao dịch so với thực hiện ở các ngân hàng khác. Sở Giao dịch cũng có thể ban hành và đưa đến tận tay các doanh nghiệp các tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ cũng như các thủ tục cần thiết khi thực hiện giao dịch Thư tín dụng, giúp doanh nghiệp có được hiểu biết sâu hơn về hoạt động này, cung cấp cho họ thông tin về thị trường, vè ngân hàng nước ngoài và nếu có thể cả về khách hàng của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với Việt Nam. Sở cũng cần chú trọng hơn việc giúp đỡ khách hàng nhập khẩu trong việc sửa đổi hợp đồng, soạn thảo thư tín dụng, giúp đỡ khách hàng xuất khẩu trong việc kiểm tra các điều khoản của Thư tín dụng nhận được, kiểm tra và lập bộ chứng từ hoàn chỉnh trước khi gửi đi nước ngoài để đòi thanh toán. Đối với những doanh nghiệp chưa thực hiện thanh toán hoặc đã thôi không thực hiện giao dịch với Sở Giao dịch, Sở cần áp dụng các hình thức quảng cáo thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc gặp trực tiếp để giới thiệu các dịch vụ thanh toán của ngân hàng hoặc mời họ đến dự hội nghị khách hàng hàng năm. Sở có thể tìm hiểu thông tin về ngân hàng mà khách hàng cũ của Sở Giao dịch hiện đang thực hiện thanh toán Thư tín dụng, tìm hiểu các loại hình dịch vụ thanh toán mà họ cung cấp, cách thức cung cấp chế độ phí, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, tiềm lực tài chính và uy tín..., để từ đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp ngừng giao dịch với Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương. Trong khi giao dịch với khách hàng, các thanh toán viên cần giữ thái độ cởi mở, nhiệt tình, tận tình hướng dẫn, có tinh thần trách nhiệm khi phục vụ và giao tiếp với khách hàng, từ đó nâng cao hình ảnh của Sở Giao dịch trong lòng khách hàng, tạo sự trung thành của doanh nghiệp với Sở Giao dịch. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán. Trình độ của đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng chứng từ nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế trình độ của cán bộ thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động thương mại quốc tế trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Muốn thực hiện được nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ được đào tạo tốt về nghiệp vụ, sử dụng thành thạo ngoại ngữ, am hiểu luật cũng như các tập quán quốc tế. Do vậy, trước hết Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần chú trọng công tác tuyển dụng những người có trình độ chuyên môn,, ngoại ngữ, vi tính, những người có khả năng, năng động, nhiệt tình. Tuy nhiên năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán sẽ không thể được phát huy nếu không gắn kết quả đào tạo và tuyển dụng với việc bố trí, sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc, mạnh dạn phân công những vị trí lãnh đạo cho những người trẻ tuổi và có tài năng. Sở cũng cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ để bổ sung kiến thức về thương mại quốc tế như về rủi ro mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới và triển vọng của các doanh nghiệp Việt Nam, phổ biến các kỹ thuật thanh toán thư tín dụng mới áp dụng trên thế giới. Về lâu dài, Sở có thể phối hợp với các trường và các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước để gửi cán bộ đi học về chuyên môn, ngoại ngữ và các nghiệp vụ chuyên sâu khác. Sở Giao dịch nên chú trọng đổi mới nhận thức của đội ngũ cán bộ thanh toán về chính sách khách hàng, khuyến khích họ tăng cường tìm hiểu các khách hàng mà họ phục vụ về tình hình tài chính, uy tín cũng như các nhu cầu của khách hàng khi giao dịch với Sở. Một điểm quan trọng nữa là Sở Giao dịch phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt công việc được giao, có nhiều sáng tạo, tích cực xông xáo thu hút nhiều khách hàng mới về giao dịch, đồng thời có chế độ kỷ luật, chuyển công tác với những cán bộ ý thức kỷ luật kém, có hành vi vi phạm đạo đức, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, gây ra sai sót làm ảnh hưởng đến hoạt động của Sở. Những giải pháp đó sẽ góp phần động viên và phát huy hết khả năng làm việc của những cán bộ có năng lực. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ thanh toán. Cải thiện và nâng cao trình độ tự động hoá trong quy trình công nghệ ngân hàng là một trong những điều kiện tốt để quản lý vốn tập trung, tăng cường hơn nữa sự hoà nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Để đáp ứng được yêu cầu công nghệ, trước hết Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương cần tận dụng tối đa công suất của hệ thống máy móc hiện có, tiến tới giảm bớt các công việc giấy tờ bằng cách chuyển toàn bộ việc nhận, lập, phân loại, chuyển và quản lý các loại điện, thư sử dụng trong quá trình thanh toán sang thực hiện trên hệ thống máy vi tính và thông qua mạng máy tính. Sở có thể chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng chứng từ nói riêng bằng cách chuyển các chương trình thanh toán được viết bằng ngôn ngữ FOXPRO sang loại ngôn ngữ lập trình mạnh hơn như VISUAL BASIC hoặc sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu Access trong Microsoft Office. Các chương trình này tạo ra được các mẫu điện chuẩn phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và với thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước, với Hội sở chính và các ngân hàng đại lý trên thế giới, trên cơ sở đó cho phép xây dựng, chuẩn hoá và phát triển hệ thống thông tin khách hàng tập trung trong toàn hệ thống, hệ thống quản lý mối quan hệ ngân hàng – khách hàng, tạo khả năng giao diện kết nối với các thị trường tài chính trong và ngoài nước. Sở Giao dịch cũng nên đa dạng hoá các kênh phân phối dịch vụ như bổ sung các dịch vụ thanh toán trên trang Web của Ngân hàng Ngoại thương như: thông báo Thư tín dụng, báo có, gửi yêu cầu mở thư tín dụng, chấp nhận thanh toán, quản lý tài khoản của doanh nghiệp, tiến tới giao dịch với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong cả nước thông qua mạng Internet. Sở cần nâng cao khả năng quản lý rủi ro thanh toán quốc tế thông qua xây dựng các Modul quản lý rủi ro trên cơ sở phân loại các rủi ro theo thứ tự ưu tiên khác nhau như: rủi ro bất khả kháng, rủi ro quốc gia người phát hành Thư tín dụng, rủi ro về hoạt động lừa đảo, giả mạo chứng từ... Sở nên thường xuyên nâng cấp và mua mới các trang thiết bị phục vụ thực hiện công tác thanh toán (chủ yếu là máy vi tính hiện đại có tốc độ xử lý công việc nhanh), xây dựng hệ thống mạng diện rộng và mạng cục bộ, phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu, xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lý thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách chính xác, nhanh chóng. Trên đây là những giải pháp mà Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương trong chiến lược tăng trưởng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của mình phải hết sức quan tâm. Tuy nhiên, để hoàn thiện và phát triển hoạt động đó, Sở Giao dịch không thể chỉ thực hiện một số giải pháp nhất định mà phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đó, có như vậy mới đưa ngân hàng đi lên và hội nhập cùng với sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, Sở cũng cần có những đề xuất kiến nghị lên các cơ quan quản lý Nhà nước, lên Ngân hàng Nhà nước cũng như tới khách hàng để được tạo điều kiện, có được sự hỗ trợ kịp thời trong hoạt động của mình. Đề XUấT KIếN NGHị 3.3.1 Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Sự đổi mới hoạt động của ngân hàng nói chung và lĩnh vực thanh toán nói riêng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và nhà nước. Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như: luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài, luật dân sự, luật các tổ chức tín dụng... Tuy nhiên, còn nhiều lĩnh vực chưa có văn bản hoặc đã ban hành từ lâu đến nay không còn phù hợp, nhiều văn bản được bổ xung và sửa đổi nhiều lần nên việc thực thi và áp dụng rất khó, đặc biệt là chưa có văn bản pháp luật nào liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, Nhà nước cần phải: Thứ nhất: tiếp tục bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật: Chính sách ngoại hối là một công cụ đắc lực cho việc thực hiện chính sách tiền tệ. Bởi vì, thông qua các chính sách quản lý ngoại tệ, quản lý tiền bạc, tiền hối điều hành tỷ giá..... chính sách quản lý ngoại hối tác động đến chính sách huy động vốn trong nước và nước ngoài, đến hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế, vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thanh toán quốc tế. Năm 1998, Nhà nước đã ban hành điều lệ quản lý ngoại hối song đến nay còn có nhiều điểm chưa phù hợp mặc dù nó đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Đồng thời do nhiều cấp, nhiều ngành cùng quy định một lĩnh vực nên không tránh khỏi sự chồng chéo, mâu thuẫn và việc áp dụng nhiều khi phải dẫn chiếu từ nhiều nguồn. Vì vậy, việc ban hành luật ngoại hối là việc làm rất cần thiết, có như vậy mới tạo lập được môi trường pháp lý đầy đủ, làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Hiện nay, các văn bản mang tính chất thông lệ quốc tế rất nhiều như: quy tắc và thực hành thống nhất về thư tín dụng do văn phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1933, 1962, 1974, 1983...và văn bản mới nhất là bản sửa đổi ban hành năm 1993, gọi tắt là UCP500. Về lý thuyết, việc vận dụng UCP500 tại nước ta gần như tuyệt đối mà không bị bất cứ sự điều chỉnh nào, đây là nét đặc thù của Việt nam. Trong khi đó mọi quốc gia khác đều có những luật hoặc các văn bản dưới luật quy định về giao dịch tín dụng chứng từ trên cơ sở thông lệ quốc tế có tính đến đặc thù của sự phát triển kinh tế và tập quán của nước họ. Các văn bản như vậy là rất cần thiết không chỉ đối với ngành ngân hàng mà còn là cơ sở để toà án trọng tài áp dụng khi xét xử các vụ tranh chấp giữa các đối tác trong giao dịch tín dụng. Hơn nữa UCP500 còn có những hạn chế nhất định bởi vì nó không thể bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú của thực tiễn, không thể thay thế luật của một quốc gia. Chính vì thế, các ngân hàng tại Việt nam đã vận dụng tốt đẹp UCP500 và các thông lệ quốc tế khác vào giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu nhưng kết quả thực tế lại không như họ mong muốn. Vì vậy, để giải quyết những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia, tránh được những tranh chấp rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động, nhà nước ta cần nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Trong những văn bản này cần quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như quyền được nhận hàng của ngân hàng phát hành thư tín dụng khi người nhập khẩu vay vốn của ngân hàng để nhập lô hàng đó bị phá sản, quyền được miễn trừ trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành khi có dấu hiệu tranh chấp thương mại và đã được toà án hay trọng tài tuyên bố ngừng thanh toán. Điều này là cần thiết để bảo vệ ngân hàng và là điều mà các toà án nhiều nước trên thế giới thường làm. Về bản chất thư tín dụng là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thương mại và các hợp đồng khác, các hợp đồng này có thể làm cơ sở để hình thành thư tín dụng nhưng các ngân hàng bất luận trong trường hợp nào cũng không liên quan đến hoặc không hề bị ràng buộc bởi hợp đồng. Do vậy, Chính phủ cần sớm ban hành văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. Có thể là một Nghị định về thanh toán quốc tế đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương giữa người mua, người bán với giao dịch chứng từ giữa các ngân hàng. Việt Nam đã có quy chế về chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu, tín phiếu… nhưng chưa có quy định về chiết khấu hối phiếu kèm chứng từ theo thư tín dụng. Do đó trong thời gian tới cần thiết phải có những văn bản pháp luật phân định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của ngân hàng chiết khấu cũng như người hưởng lợi. Thứ hai: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thích ứng với thời cuộc. Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển cần tạo ra lợi thế so sánh bằng một trường đầu tư hấp dẫn hơn các nước khác. Đây phải là công việc thường xuyên của hoạt động quản lý nhà nước, chứ không phải chỉ là một vài sửa đổi nhất thời. Do vậy, mặc dù luật đầu tư mới sửa đổi vào năm 1996, nhưng trên cơ sở tổng kết 10 năm hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta, đồng thời tham khảo thêm những thay đổi luật của các nước xung quanh, ta nên tính đến việc sửa đổi và bổ sung luật đầu tư nước ngoài, đưa thêm các hình thức đầu tư mà ta chưa áp dụng như: cho lập công ty trước khi lập dự án, cho người nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt nam với một mức độ giới hạn, cho xí nghiệp nước ngoài được phát hành cổ phiếu..... cũng như điều chỉnh một số sắc thuế và bổ sung một số ưu đãi để khuyến khích đầu tư. Bên cạnh việc ban hành pháp luật, cần phải nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật trong kinh tế và xã hội, đặc biệt là kiện toàn hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật, xử lý nghiêm minh các hành động vi phạm vi phạm pháp luật, tạo ra bước tiến rõ rệt trong xây dựng một nhà nước pháp quyền và một nền kinh tế thị trường hoạt động theo pháp luật. Thứ ba: Thực hiện cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong thời gian qua, cán cân thương mại quốc tế ở Việt nam luôn trong tình trạng thâm thụt, mức độ thâm thụt ngày càng lớn mặc dù một phần là do đầu tư nước ngoài. Để cải thiện cán cân thương mại quốc tế thì giải pháp là đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, sản phẩm xuất khẩu của chúng ta còn nghèo nàn lại chủ yếu là sản phẩm chưa qua chế biến, muốn đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu ta phải đẩy mạnh hoạt động thương mại với những thị trường lớn như: Mỹ, Tây âu, Nhật bản, Trung quốc, ASEAN....từng bước tham gia vào tổ chức kinh tế thương mại Châu á Thái bình dương và tổ chức thương mại thế giới. Bên cạnh đó, nước ta cần khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động để cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thế giới, tăng số lượng các mặt hàng gia công chế biến, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, mở rộng thêm nhiều mặt hàng, đầu tư thích đáng vào những mặt hàng ta có ưu thế như: gạo, cao su, cà phê, dầu mỏ... Ngoài ra, ta cần chú trọng công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường của các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu phù hợp với từng thị trường cụ thể, mở rộng các hình thức gia công sản phẩm cho nước ngoài bằng nguyên liệu của chính mình và có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép hàng nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch, bằng công cụ thuế quan, tăng cường biện pháp chống buôn lậu nhằm bảo hộ lợi ích cho các nhà buôn sản xuất thực hiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Bên cạnh cải cách chính sách chế độ về xuất nhập khẩu, nhà nước cần có biện pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài và quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài. Bởi vì, với điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo, tích luỹ nội bộ trong nước thấp nên cần phải thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài mới thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song song với việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì việc quản lý nợ vay cũng cần phải được quan tâm một cách thích hợp; Một là để nâng cao hiệu quả vốn vay; Hai là, giữ được nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Vì thế, cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thu hút vốn đầu tư và sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng nhà nước nên nghiên cứu việc định tỷ giá mua bán ngoại tệ cho phù hợp với thị trường, tránh tình trạng đồng Việt nam được đánh giá cao hơn giá trị của nó; loại trừ các yếu tố đầu cơ nâng giá, ép giá làm tỷ giá biến động sai với thực tế của nó; tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng và khuyến khích việc xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi dự trữ ngoại tệ còn ít ỏi thì Ngân hàng nhà nước phải tăng cường dự trữ ngoại tệ, đảm bảo điều tiết được quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, ổn định được đồng Việt nam, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước nên mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng như Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại, những người môi giới… nhằm tạo cho thị trường hoạt động với tỉ giá chuẩn hơn, sát thực tế hơn, đồng thời phát triển các nghiệp vụ trên thị trường như vay mượn qua đêm, mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ, quyền mua, quyền bán. Chỉ khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái phát triển mới đảm bảo có được một tỉ giá linh hoạt hợp lý, góp phần kích thích kinh tế thị trường phát triển, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, góp phần mở rộng sản xuất trong nước. Để thực thi có hiệu quả quy chế hiện hành về quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước cần có những văn bản quy định trách nhiệm, kiểm tra tính pháp lý của các chứng từ trước khi chuyển tiền ra nước ngoài thanh toán cho bên xuất khẩu. Vì hiện nay trong thanh toán xuất nhập khẩu, các ngân hàng không được hướng dẫn cụ thể việc kiểm tra giấy tờ pháp lý như Quyết định thành lập doanh nghiệp, Đăng ký kinh doanh, Quyết định bố nhiệm giám đốc của khách hàng khi phát hành thư tín dụng dẫn tới việc chấp hành quy định này của các ngân hàng thương mại là khác nhau, vì vậy hậu quả tất yếu là sẽ bị khách hàng lợi dụng để sử dụng một giấy phép nhập khẩu hoặc một hợp đồng thương mại nhưng mang tới nhiều ngân hàng khác nhau mở thư tín dụng với những mục đích thiếu trung thực trong kinh doanh. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần rà soát lại các văn bản, xoá bỏ tình trạng văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không phù hợp với thực tế, nâng cao hoạt động thanh tra và công tác quản lý của ngân hàng nhà nước, kiên quyết sử lý những sai phạm, phối hợp với các ban ngành có liên quan và có giải pháp đồng bộ, đặc biệt khi luật ngân hàng ra đời rồi thì cần sớm ban hành đẩy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành luật Ngân hàng. 3.3.3 Đối với khách hàng Các doanh nghiệp cần củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán quốc tế. Doanh nghiệp nên bố trí đội ngũ cán bộ thông thạo nghiệp vụ ngoại thương, trình độ pháp lý trong thương mại quốc tế làm công tác xuất nhập khẩu. Cụ thể, phải nắm vững nội dung chủ yếu của UCP và các thông lệ quốc tế khác để hiểu rằng hợp đồng ngoại thương và Thư tín dụng, chứng từ và hàng hoá là độc lập với nhau. Việc nâng cao kỹ năng trong việc lập chứng từ và kiểm tra nội dung Thư tín dụng là hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp nên chủ động nắm bắt thời cơ, thận trọng khi đàm phán ký kết hợp đồng sao cho hợp đồng phải cụ thể, chính xác, rõ ràng, đầy đủ các điều khoản, nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên, phạm vi và đối tượng xử lý khi có tranh chấp xảy ra, tránh những từ ngữ mập mờ, khó hiểu, gây bất lợi sau này. Để làm được điều này, các doanh nghiệp nên thường xuyên cử cán bộ tham gia các lớp huấn luyện về xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế do các trường Đại học, các ngân hàng thương mại tổ chức. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp nên có một bộ phận pháp chế hoặc sử dụng tư vấn pháp lý để tránh được các bất đồng hoặc tranh chấp có thể xảy ra trong kinh doanh và trong thanh toán. Nghiên cứu tìm hiểu kỹ thị trường để lựa chọn đúng bạn hàng. Trong xu thế mở rộng giao lưu, buôn bán với nước ngoài, doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi mối quan hệ với những bạn hàng truyền thống mà phải mở rộng quan hệ ra bên ngoài. Tự bản thân doanh nghiệp không thể nắm vững được khả năng tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, thậm chí nhiều khi hợp đồng được ký kết thông qua các hoạt động quảng cáo hoặc do khách hàng khách giới thiệu nên dễ xảy ra rủi ro. Doanh nghiệp có thể thông qua Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Trung tâm thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng phục vụ mình, các tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài để nắm bắt thông tin, tìm hiểu đối tác. Các doanh nghiệp cũng cần trung thực trong các mối quan hệ làm ăn với bạn hàng và với ngân hàng, tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng. Trong quan hệ với đối tác nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ theo đúng các thông lệ quốc tế, không nên vì mối quan hệ trước mắt mà đánh mất uy tín của bản thân doanh nghiệp và của các ngân hàng Việt Nam, luôn có thái độ hợp tác với ngân hàng trong việc tìm ra các biện pháp tháo gỡ khi có rủi ro xảy ra, không nên đặt hết trách nhiệm cho ngân hàng. Từ khi ký kết hợp đồng đến khi thanh toán cần tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng để nắm bắt thông tin và có lựa chọn đúng đắn về thời gian thanh toán, tránh điều khoản bất lợi, qua đó còn tranh thủ được sự hỗ trợ về vốn của ngân hàng. Kết luận Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam, giữa ngân hàng Việt Nam và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đã tìm ra cho mình một số giải pháp, hướng đi mới để thu hút khách hàng, mở rộng các loại hình hoạt động thanh toán quốc tế, khẳng định vị thế là một chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh đứng hàng đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, trên cơ sở đó, mở rộng các loại hình nghiệp vụ liên quan như tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ.... Trong khuôn khổ của một luận văn, tác giả đã tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau: Hệ thống hoá những lý luận cơ bản như: cơ sở hình thành, đặc điểm cơ bản của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng của một ngân hàng thương mại. Đồng thời, luận văn cũng chú ý tới bối cảnh thực tiễn của nền kinh tế và những tác động tích cực, tiêu cực của nó tới hoạt động trên của ngân hàng. Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, trên cơ sở những đánh giá, phân tích, tác giả đã chỉ ra được những nguyên nhân khách quan, chủ quan giải thích cho những mặt tích cực hay những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động này. Trên cơ sở những nguyên nhân hạn chế hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương , đồng thời có xem xét đến định hướng phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại chung của Việt Nam, định hướng phát triển hoạt động kinh doanh chung của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương , tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp đối với hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ như các giải pháp về nghiệp vụ, đẩy mạnh hoạt động tài trợ thương mại, chú trọng công tác khách hàng, phát triển quan hệ ngân hàng đại lý... Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu học tập và thực tiễn công tác, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và với các khách hàng của Sở Giao dịch nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Một số những kiến nghị quan trọng nhất là hoàn thiện cơ chế chính sách đồng bộ về hoạt động ngân hàng, thường xuyên điều chỉnh kịp thời quy trình thanh toán quốc tế vì đây là nền tảng pháp lý cho hoạt động của ngân hàng. Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đã trở thành một yêu cầu khách quan, đòi hỏi từng cán bộ giao dịch cũng như ban lãnh đạo ngân hàng phải thường xuyên tìm kiếm giải pháp, nghiên cứu. Tác giả mong rằng, trong khuôn khổ nhất định của luận văn, dù thời gian nghiên cứu bị hạn chế, những suy nghĩ, giải pháp của mình sẽ góp phần đưa Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đạt được những thành tựu mới, hoạt động ngày một hiệu quả hơn, xây dựng được thương hiệu riêng trên địa bàn với những diễn biến kinh tế sôi động như thủ đô Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5556.doc
Tài liệu liên quan