Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty Tiên Du

Lời nói đầu Trong điều kiện kinh tế hiện nay, với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dù là doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay liên doanh thì lợi nhuận luôn là một chỉ tiêu quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên muốn đạt được lợi nhuận, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có những quyết định sáng suốt trong sản xuất kinh doanh. Khi có nền kinh tế sản xuất hàng hoá ra đời cùng với sự xuất hiện các quy luật trong đó quy luật cung - cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. Chính vì vậy mỗ

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty Tiên Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i doanh nghiệp khi bước vào sản xuất kinh doanh đều phải tự mình tìm ra những đáp án trả lời một cách hữu hiệu nhất, đó là: Sản xuất - kinh doanh là gì? Sản xuất - kinh doanh cho ai? Sản xuất - kinh doanh như thế nào? Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết và quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp có điều kiện để phát triển, trong đó hạch toán kế toán là một công cụ quản lý của quá trình sản xuất kinh doanh từ các yếu tố chi phí đầu vào đến kết quả đầu ra. đồng thời là nơi cung cấp những thông tin kịp thời chính xác cho nhà quản lý. Cũng như doanh nghiệp khác tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay, công ty Tiên Du cũng là đơn vị sản xuất kinh doanh, do vậy cũng phải hạch toán kinh tế lấy thu bù đắp chi phí sao cho có lãi. Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy với sự phát triển của vấn đề kinh tế thị trường và sự cạnh tranh gay gắt, bên cạnh những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, có không ít những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thu nhập không đủ bù đắp chi phí và có nguy cơ đứng trước sự phá sản, giải thể. Mọi doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng khác nhau thì cũng đều quan tâm đến đầu ra của sản phẩm, hàng hoá làm sao cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, tạo ra kết quả thu về là cao nhất, đó mới là mục đích cuối cùng của doanh nghiệp. Nhưng vấn đề là làm thế nào để đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Qua mỗi giai đoạn vận động vốn biến động cả về hình thái biểu hiện lẫn quy mô tiêu thụ sản phẩm hàng hoá từ đó đánh giá được năng lực kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đồng thời là cơ sở để tích luỹ tái tạo sản xuất kinh doanh, mở rộng tăng tốc độ luân chuyển vốn biểu thị kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất phát từ sự cần thiết và tầm quan trọng cũng như yêu cầu đặt ra với kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty Tiên Du. Được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo khoa kế toán và đặc biệt của cô giáo Kiều Thị Thu Hiền em đã đi vào nghiên cứu đề tài“Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty Tiên Du”. Nội dung của đề tài ngoài lời nói đầu và kết luận gồm 3 phần: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ trong doanh nghiệp thương mại. Chương 2: Thực trạng kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty Tiên Du. Chương 3: Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty Tiên Du. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ trong các doanh nghiệp thương mại. 1.1: Những vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ trong các doanh nghiệp thương mại. Hoạt động thương mại hay kinh doanh hàng hoá là quá trình trao đổi hàng hoá thông qua mua bán trên thị trường. Xét thực chất đó là quá trình trao đổi hàng hoá của nền kinh tế xã hội. Sự hình thành hoạt động kinh doanh hàng hoá là tất yếu do quá trình phân công lao động xã hội và lợi thế so sánh giữa các vùng, các doanh nghiệp, các quốc gia với nhau. Phân công lao động là sự định ra sự cần thiết nhằm vừa làm thoả mãn nhu cầu lẫn nhau, vừa khai thác lợi thế so sánh lẫn tái đầu tư, tái sản suất (sức lao động và các sản phẩm khác). Thương mại có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thể hiện ở chỗ: - Trước hết nó là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu thương mại để hoặc tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. ở vị trí cấu thành của tái sản xuất xã hội thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu bảo đảm tính liên tục của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn đến sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. - Thương mại là một phần của sản xuất hàng hoá, sản phẩm hàng hoá có mục đích là thoả mãn nhu cầu của người khác để trao đổi, mua bán,. hoạt động thương mại gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá. Thương mại là lĩnh vực kinh doanh cũng thu hút trí lực và tiền của nhà đầu tư đưa lại lợi nhuận. Kinh doanh thương mại có những đặc thù của nó: Đó là quy luật hàng hoá vận động từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá trị cao, quy luật mua rẻ bán đắt, quy luật của người có hàng hoá bán cho người cần (quy luật cung-cầu). Bỏ tiền mua hàng hoá, sau đó bán lại cũng có thu được lợi nhuận thậm chí siêu lợi nhuận. Vì vậy kinh doanh thương mại cũng trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai. ở tầm vĩ mô thương mại là điều kiện tiền đề để thúc đẩy sản xuất hàng hoá cùng các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích những người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động, tổ chức lại sản xuất, hình thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất các hàng hoá lớn. Thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, người sản xuất sẽ tìm đủ mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học và công nghệ mới, giảm thiểu chi phí để thu được lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, chuyên môn hoá và tính toán, thực chất hoạt động kinh doanh tiết kiệm các nguồn lực và nâng cao năng suất đem lại lợi nhuận cao nhất. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Thương mại luôn kích thích nhu cầu và tạo ta nhu cầu mới. Thương mại một mặt làm cho nhu cầu trên thị trường sát thực với nhu cầu thực tế hơn, mặt khác nó còn làm bộ lộ tính đa dạng phong phú của nhu cầu trong kinh doanh thương mại. Từ đó đã buộc các nhà sản xuất phải sản xuất đa dạng về loại hình sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Điều này đã tác động ngược lại người tiêu dùng làm nổi bật những nhu cầu tiềm tàng trong thương mại. Tóm lại thương mại làm tăng trưởng nhu cầu và đó là gốc rễ của sự phát triển sản xuất kinh doanh. Thông qua phát triển của hoạt động thương mại làm cho nền kinh tế trong nước gắn liền với kinh tế thế giới thực hiện chính sách kinh tế mở, góp phần mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với nét đặc trưng nổi bật là từ sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm hoàn toàn do nhà nước quyết định, các doanh nghiệp không cần quan tâm tới sản phẩm của mính có được thị trường chấp nhận tiêu dùng hay không mà chỉ quan tâm tới việc sản xuất cái sẵn có. Theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao cho, doanh nghiệp không quan tâm tới hiệu quả sản xuất kinh doanh được hay mất lỗ hay lãi đã có nhà nước chịu. Chính vì cơ chế quản lý như vậy nên các doanh nghiệp thường ỷ lại trông chờ vào nhà nước làm mất đi tính tự chủ nhạy bén trong việc sản xuất cung cấp sản phẩm-hàng hóa ra thị trường. đối với các doanh nghiệp thương mại thì họ thực hiện nhiệm vụ mua bán lưu thông hàng hoá theo yêu cầu của nhà nước. Nhà nước độc quyền trong việc phân phối hàng hoá thông qua các doanh nghiệp thương mại do nhà nước làm chủ, điều này đã gây nên sự hạn chế, mất cân đối giữa cung và cầu trên thị trường dẫn đến nền kinh tế bị trì trệ, kìm hãm lún sâu vào sự khủng hoảngs. Chính sách kinh tế mới của nhà nước đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi song cũng chứa đầy những khó khăn thử thách đòi hỏi những doanh nghiệp thương mại phải có cái nhìn toàn diện trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp phải hoạt động với phương châm hạch toán kinh doanh được ăn lỗ chịu và tự chịu trách nhiệm trước nhà nước và pháp luật về hoạt động của mình. Vì vậy mỗi doanh nghiệp đều phải năng động nhạy bén thích nghi với môi trường kinh doanh mới với mục tiêu hướng tới là thị trường, thị trường là sản xuất và phát triển, là đích để các doanh nghiệp chinh phục và khai thác. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp phải làm tốt công tác bán hàng, tiếp cận thị trường để tiêu thụ sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp thương mại thì hoạt động bán hàng cực kỳ quan trọng. Trong doanh nghiệp thương mại bán hàng là hoạt động chủ yếu cuối cùng và quan trọng nhất, nó giúp cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhanh chóng chuyển từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ và là cơ sở để xác định kết quả kinh doanh sau này. Đối với bản thân các doanh nghiệp: thực hiện tốt công tác bán hàng giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh làm cho tốc độ chu chuyển vốn lưu động nhanh làm cho doanh nghiệp bớt số vốn huy động từ bên ngoài từ đó giảm được chi phí về vốn. Doanh nghiệp có tiêu thụ được hàng hoá thì mới có doanh thu để bù đắp các chi phí, thực hiện được nghĩa với nhà nước và các đối tượng các có liên quan, cao hơn nưa là thực hiện nghĩa vụ thặng dư, từ đó giúp các nhà quản trị lãnh đạo biết được tinh hình hoạt động của doanh nghiệp mình và đưa ra các quyết định phù hợp. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp đóng vai trò là một đơn vị kinh tế cơ sở, sự lớn mạnh của doanh nghiệp góp phần ổn định và phát triển của toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu chung của quốc gia. Hàng hoá của doanh nghiệp thương mại được lưu thông trên thị trường đồng nghĩa với việc xã hội thừa nhận kết quả lao động của doanh nghiệp và hơn thế nữa doanh nghiệp đã khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường. Mặt khác thực hiện được tốt quá trình bán hàng đã góp phần điều hoà quá trình sản xuất tiêu dùng, giữa tiền hàng, giữa cung và cầu, là điều kiện đảm bảo sự phát triển cân đối trong ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 1.2: Các phương thức bán hàng. 1.2.1: Phương thức bán buôn. Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị thương mại, sản xuất để tiếp tục các quá trình sản xuất hay chuyển bán. Như vậy đối tượng bán buôn là rất đa dạng. Có thể là sản xuất, có thể là thương mại, có thể là trong nước hay nước ngoài. Đặc trưng của buôn bán là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, bán hàng theo phương thức này thường bán với khối lượng lớn và có nhiều hình thức để thanh toán. 1.2.2:Phương thức bán lẻ Bán lẻ là giai đoạn cuối cùng của sự vận động hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, hàng hoá bán lẻ chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng, khi đó giá trị hàng hoá đã được thực hiện, bán lẻ là giai đoạn cuối cùng. 1.2.3: Giao hàng cho các đại lý ký gửi hàng hoá Giao hàng gửi đại lý chính thức là phương thức biến tướng của phương thức bán buôn, chuyển hàng. Hàng ký gửi được coi là hàng “gửi bán” và vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp đến khi tiêu thụ. Căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, cán bộ phòng kinh doanh lập phiếu xuất kho hay biên bản bàn giao hàng cho đại lý bán sẽ lập quyết toán và gửi cho doanh nghiệp về số hàng đã bán, số tiền bán hàn trừ hoa hồng đại lý. Khi đó hàng đã được coi là tiêu thụ và kết toán căn cứ vào biên bản giao hàng cho đại lý, quyết toán đã lập để ghi sổ kế toán. Phương thức bán hàng này giúp doanh nghiệp tiế cận và khoai thác thị trường tốt, mở rộng phạm vi kinh doanh mà không phải đầu tư thêm vốn. 1.2.4: Bán hàng trả góp Bán hàng trả góp là một biến tướng của phát triển bán hàng trả chậm khi giao hàng cho người mua thì hàng được coi là tiêu thụ ngay và doanh nghiệp bị mất quyền sở hữu hàng hoá đó. Doanh nghiệp lập hoá đơn bán hàng và hợp đồng thanh toán để căn cứ giao hàng và nhận tiền lần đầu. Phần còn lại người mua chấp nhận trả tiền ở kỳ tiếp theo nhưng không phải chịu mức lãi suất nhất định. Phần lãi suất thu trên tiền hàng trả dần dùng để bù đắp chi phí tăng trong phần thanh toán và dự phòng rủi ro có thể xảy ra. Thông thường số tiền phải trả ở các kỳ là bằng nhau bao gồm một phần doanh thu gốc và một phần lãi suất trả chậm. Phương thức này giúp doanh nghiệp khai thác triệt để mọi thị trường tiềm năng. Ngoài ra còn có một phương thức tiêu thụ khác như: biếu tặng, cho, thưởng... bằng hàng hoá. 1.3: Một số khái niệm liên quan đến bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ. 1.3.1: Khái niệm doanh thu bán và cung cấp dịch vụ và cách xác định doanh thu? Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán phát sinh từ các hoạtu động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu. Theo quy định tại điểm 10,16,24 của chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 vè doanh thu và thu nhập khác ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Bộ Tài Chính cũng quy định hàng hoá hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hoá hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hoá hoặc dịch vụ khác không tương tự thì việc trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu. Trường hợp này doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hoá hoặc dịch vụ nhận về, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm. Khi không xác định được giá trị hợp lý của hàng hoá hoặc dịch vụ nhận về thì doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hoá hoặc dịch vụ đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả nợ thêm hoặc thu thêm. Chuẩn mực này cũng chỉ rõ, tiêu chuẩn nhận biết giao dịch tạo ra doanh thu được áp dụng trong từng giao dịch. Trong một số trường hợp tiêu chuẩn nhận biết giao dịch cần áp dụng tách biệt cho từng bộ phận của một giao dịch đơn lẻ để phản ánh bản chất của giao dịch đó. Tiêu chuẩn nhận biết giao dịch còn được áp dụng cho hai hay nhiều giao dịch đồng thời có quan hệ với nhau về mặt thương mại. Trong trường hợp này phải xem xét chúng trong mối quan hệ tổng thể. Doanh thu bán hàng được ghi nhận đồng thời thoả mãn tất cả 5 điều kiện sau: - Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền hoặc hàng hoá cho người mua. - Doanh nghiệp không còn nắm giữa quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá. - Doanh nghiệp được xác định tương đối chắc chắn. - Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng. - Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng. Thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hàng hoá cho người mua trong từng trường hợp cụ thể. Trong hầu hết các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro với quyền sở hữu thì doanh nghiệp không được coi là hoạt động bán hàng và doanh thu không được ghi nhận. Doanh nghiệp còn phải chịu rủi ro gắn liền với quền sở hữu hàng hoá dưới nhiều hình thức khác nhau như: - Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được hoạt động bình thường mà điều này không nằm trong các điều khoản bảo hành thông thường. - Khi việc thanh toán tiền bán hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc vào người mua hàng đó. - Khi hàng hoá được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt là một phần quan trọng của hợp đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành. - Khi người mua có quyền huỷ bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó được nêu trong hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả năng bán hàng đó bị trả lại hay không. Nếu doanh nghiệp chỉ còn chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hoá thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được ghi nhận. Đối với việc giao dịch và cung cấp dịch vụ doanh thu được ghi nhận khi kết quả của giao dịch đó được xác định một cách đáng tin cậy. Trong trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ thì doanh thu được ghi nhận trong kỳ theo kết quả phân công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân đối kế toán của kỳ đó. Kết quả của giao dịch cung cấp dịch vụ được thoả mãn 4 điều kiện sau: Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn. Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó. Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân đối kế toán. Xác định được chi phí phá sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó. Doanh nghiệp có thể ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ khi thoả thuận được với bên đối tác giao dịch những điều kiện sau; Trách nhiệm và quyền của mỗi bên trong việc cung cấp hoặc nhận dịch vụ. Giá thanh toán. Thời hạn và phương thức thanh toán. Để ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải có hệ thống kế hoạch tài chính và kế toán phù hợp. Khi cần thiết, doanh nghiệp có quyền xem xét và sửa đổi cách tính doanh thu trong quá trình cung cấp dịch vụ. Phần công việc đã hoàn thành được xác định theo ba phương pháp sau tuỳ thuộc vào bản chất của dịch vụ: Đánh giá phần công việc đã hoàn thành. So sánh tỷ lệ % giữa khối lượng công việc đã hoàn thành với tổng công việc phải hoàn thành. Tỷ lệ % chi phí phát sinh so với tổng chi phí để hoàn thành toàn bộ giao dịch cung cấp dịch vụ. Cần chú ý rằng, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được ghi nhận chỉ khi đảm bảo doanh nghiệp đạt được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng hay cung cấp dịch vụ còn phụ thuộc vào yếu tố không chắc chắn này đã xử lý xong. Nếu doanh thu đã được ghi nhận trong trường hợp chưa thu được tiền thì khi xác định khoản tiền nợ thu này là không thu được thì phải thanh toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ và không được ghi giảm doanh thu. Khi xác định khoản phải thu là không chắc chắn thu được thì phải lập dự phòng nợ phải thu khó đòi mà không ghi giảm doanh thu. Các khoản nợ phải thu khó đòi khi xác định thật sự là không đòi được thì được bù đắp bằng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi. Doanh thu và chi phí liên quan đến cùng một giao dịch phải được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Các chi phí bao gồm cả chi phí phát sinh sau ngày giao hàng như chi phí bảo hành và chi phí khác thường được xác định chắc chắn khi các điều kiện ghi nhận doanh thu được thoả mãn. Các khoản tiền nhận trước của khách hàng không được ghi nhận là doanh thu mà phải ghi nhận là khoản nợ tại thời điểm nhận tiền trước của khách hàng. Khoản nợ phải trở về số tiền phải nhận trước của khách hàng chỉ được ghi nhận là khoản doanh thu khi đồng thời thoả mãn các điều kiện ghi nhận về ghi nhận doanh thu. Khi kết quả của một giao dịch hoặc cung cấp dịch vụ không được chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận tương ứng với chi phí đã được ghi nhận và có thể thu hồi. Trong giai đoạn đầu về một giao dịch về cung cấp dịch vụ khi chưa xác định được kết quả một cách chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận bằng chi phí đã ghi nhận và có thể thu hồi được. Nếu chi phí liên quan đến dịch vụ đó chắc chắn không thu hồi được thì không ghi nhận doanh thu, và chi phí đã phát sinh được hạch toán vào chi phí các chi phí sẽ phát sinh thì doanh thu sẽ được ghi nhận. 1.3.2: Các khoản giảm trừ doanh thu Hàng bán bị trả lại: Là số sản phẩm, hàng húa, dịch vụ lao vụ đó tiờu thụ bị khỏch hàng trả lại do cỏc nguyờn nhõn như vi phạm hợp đồng kinh tờ, hàng bị mất, kộm phẩm chất khụng đỳng chủng loại, quy cỏch. Giảm giá hàng bán :là khoản tiền được người bỏn chấp nhận một cỏch đặc biệt trờn giỏ đó thỏa thuận vỡ lý do thuộc lỗi của người bán hàng kộm phẩm chất hay khụng đỳng quy cỏch ghi trong hợp đồng kinh tế. Chiết khấu thương mại: là khoản tiền người mua được hưởng do mua hàng húa, sản phẩm với số lượng nhiều hay thường xuyờn sử dụng nhiều dịch vụ lao vụ của đơn vị. 1.3.3: Doanh thu thuần (DTT): là số chờnh lệch giữa doanh thu bỏn hàng với cỏc khoản giảm giỏ hàng bỏn, chiết khấu thương mại, doanh thu của số hàng bỏn trả lại,thuế tiờu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTTT theo phương phỏp trực tiếp. DTT = DT bán hàng - Chiết khấu TM - Giảm giá hàng bán - Hàng bán trả lại - Thuế TTĐB,XNK,GTGT 1.3.4: Giá vốn hàng bán và các phương pháp tính giá vốn. Giá vốn hàng bán: cú thể là giỏ thành cụng xưởng thực tế của sản phẩm xuất bỏn hay giỏ thành thực tế của lao vụ, dịch vụ cung cấp hoặc giỏ mua thực tế của hàng húa tiờu thụ. Trong doanh nghiệp giá vốn được xác định để làm căn cứ ghi sổ dựa trên quy định theo từng đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Các phương pháp tính giá vốn: Để cho việc giá vốn hàng hoá vừa đảm bảo độ chính xác, tin cậy, vừa tiết kiệm chi phí, lại phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của hàng xuất bán trong kỳ theo các cách sau: - Tính theo đơn giá thực tế từng loại hàng hoá theo từng lần nhập (giá đích danh). Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập, vì vậy khi xuất lô hàng nào thì sẽ tính giá đích danh của lô hàng đó. - Tính giá thực tế bình quân gia quyền Giá đơn vị bình quân = Trị giá thực tế tồn đầu kỳ + Trị giá thực tế nhập trong kỳ Số lượng tồn đầu kỳ + Số lượng nhập trong kỳ Trong đó: Trị giá mua thực tế xuất dùng = Số lượng hàng xuất bán x Giá đơn vị bình quân Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có ít danh điểm hàng hoá, tần suất nhập bán. - Tính theo giá thực tế nhập trước xuất trước (FIFO): theo phương pháp này trước hết phải xác định được đơn giá mua thực tế nhập kho của từng lần nhập và giả thiết hàng nào nhập kho trước thì xuất kho trước. Sau đó căn cứ vào số lượng hàng xuất kho để tính ra trị giá mua thực tế của hàng xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá mua thực tế nhập trước đối với lượng xuất kho thuộc lần nhập trước, số còn lại được tính theo đơn giá thực tế lần nhập tiếp ngay sau. Trị giá hàng thực tế xuất kho = Trị giá hàng nhập kho theo từng lần nhập X Số lượng hàng hoá xuất kho trong kỳ theo số lượng lần nhập Phương pháp này thích hợp với những mặt hàng có giá cả thường xuyên biến động, cách tính như vậy đảm bảo tính kịp thời, sát với thưc tế vận động của hàng hoá và giá cả, từng thời kỳ nhưng khối lượng công việc ghi sổ và tính toán các đơn vị khó đáp ứng được điều kiện áp dụng phương pháp này. - Tính theo giá nhập sau - xuất trước (LIFO): Phương pháp này cũng đòi hỏi việc xác định được đơn giá mua thực tế của từng lần nhập và cũng giả thiết hàng nào nhập kho sau thì được xuất kho trước. Sau đó căn cứ vào số lượng xuất kho tính ta giá trị thực tế của lần nhập sau cùng hiện có trong kho đối với hàng xuất kho thuộc lần nhập sau cùng, số còn lại được tính theo đơn giá mua thực tế của lần nhập trước đó. - Phương pháp giá thanh toán: Theo phương pháp này giá thực tế vật tư hàng hoá xuất kho được tính vào cuối kỳ nhưng tính qua giá hạch toán. Giá hạch toán là loại giá ổn định nào đó trong kỳ (có thể là giá kế hoạch, có thể là giá thực tế kỳ trước) được dùng để ghi sổ kế toán chi tiết trong khi chưa tính được giá thực tế nhưng đến cuối kỳ khi ghi sổ kế toán tổng hợp điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế. Giá thực tế vật tư = Giá hạch toán của vật tư * Hệ số giá hàng hoá xuất kho hàng hoá xuất kho Giá thực tế tồn tại + Giá thực tế vật tư hàng hoá đầu kỳ nhập trong kỳ Hệ số giá = Giá hạch toán tồn + Giá hạch toán của vật tư hàng tại đầu kỳ hoá nhập trong kỳ 1.3.5: Lợi nhuận gộp: Là chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn hàng bán. Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - giá vốn 1.3.6: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: 1.3.6.1: Chi phí bán hàng (CPBH). Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kỳ. Trong quá trình bán hàng doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí bắt buộc như: Chi phí bao gói sản phẩm, bảo quản hàng hoá, chi phí vận chuyển, chi phí quảng cáo, tiếp thị…các chi phí đó được gọi chung là chi phí bán hàng. Theo quy định hiện hành, CPBH của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: CP nhân viên, CP vật liệu, CP công cụ đồ dùng, CP khấu hao tài sản cố định, CP bảo hành, CP dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác. Toàn bộ chi phí bán hàng phát sinh trong kỳ đã được tập hợp đến cuối kỳ thực hiện kết chuyển hoặc phân bổ để xác định kết quả kinh doanh. 1.3.6.2 : Chi phí quản lý doanh nghiệp (CPQLDN): Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất cứ một hoạt động nào. Theo quy định hiện hành CPQLDN chia thành các loại sau: CP nhân viên quản lý, CP vật liệu quản lý,CP đồ dùng văn phòng, CP khấu hao tài sản cố định, thuế, phí và lệ phí, CP dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác. Hoạt động quản lý doanh nghiệp liên quan đến mọi hoạt động trong doanh nghiệp, do vậy cuối kỳ cần được tính toán phân bổ, kết chuyển để xác định kết quả kinh doanh. 1.3.7: Kết quả tiêu thụ : Kết quả tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, lao vụ trong doanh nghiệp chính là kết quả của hoạt động tiêu thụ mà doanh nghiệp tiến hành trong kỳ, kết quả đó được tính bằng cách so sánh giữa một bên là doanh thu thuần với một bên là giá vốn hàng tiêu thụ và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và được biểu hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận (hoặc lỗ) về tiêu thụ 1.4: Vai trò và nhiệm vụ của kê toán bán hàng và xác đinh kêt quả tiêu thụ : 1.4.1 : Vai trò của kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ : Việc chuyển hoá nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường là một xu thế tất yếu, bao gồm việc mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ và quan hệ thị trường. Trong sự chuyển hoá này ngành thương mại sẽ phải phát triển mạnh để mở rộng các quan hệ mua bán, mở rộng giao lưu buôn bán hàng hoá phục vụ và hướng dẫn tiêu dùng góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu vật chất tinh thần ngày càng tăng của mọi tầng lớp trong xã hội, thực hiện vai trò là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Kế toán có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý kinh doanh. Vai trò được xác định xuất phát từ hoạt động thực tế khách quan, hoạt động sản xuất kinh doanh và bản chất của kế toán. Để quản lý hiệu quả các sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn, sử dụng các khoản kinh phí ở các doanh nghiệp. Các nhà quản lý doanh nghiệp cần biết những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Chính công tác kế toán trong đơn vị sẽ thu thập một cách hệ thống chính xác kịp thời và đầy đủ khoa học những thông tin đó, đồng thời thực hiện kiểm tra xử lý phân tích các thông tin thu thập được cung cấp cho công tác quản lý doanh nghiệp. Có thể nói kế toán như một phần hệ thống thông tin kinh tế quan trọng cấu thành hệ thống thông tin kinh tế của đơn vị. Chính vì vậy mà hạch toán được khẳng định một cách khách quan là công cụ quan trọng phục vụ công tác điều hành và sản xuất kinh doanh. Sử dụng vốn đồng thời là nguồn thông tin tin cậy cho nhà nước trong việc điều hành vĩ mô nền kinh tế thực hiện việc kiểm tra giám sát hoạt động của các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy đổi mới và hoàn thiện không ngừng công tác kế toán thích ứng với yêu cầu quản lý trong cơ chế thị trường thực sự là một yêu cầu bức xúc. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần với xu thế quốc tế hoá thương mại, khi Việt Nam ngày mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia, các tập đoàn kinh tế các khu kinh tế trên thế giới, gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc nâng cao trình độ quản lý kinh tế là một việc hết sức quan trọng, trong đó có việc không ngừng hoàn thiệt công tác kế toán. Hệ thống kế toán mang đặc trưng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung được thay thế bằng hệ thống kế toán mới thích ứng với cơ chế thị trường, đây là thành tựu đáng kể của công tác kế toán ở Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên trong nền kinh tế nước ta còn đang ở trong giai đoạn chuyển đổi, bước đầu hội nhập nền kinh tế thế giới.Các chính sách kinh tế tài chính trong đó có hệ thống kế toán tất yếu đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện. Đối với doanh nghiệp hoạt động tiêu thụ hàng hoá là khâu cuối cùng kết thúc quá trình kinh doanh của đơn vị. Thực hiện tiêu thụ hàng hoá đơn vị sẽ thu về từ người mua một lượng tiền nhất định theo giá bán để tiếp tục kinh doanh bù đắp chi phí, hình thành khoản lợi nhuận cho đơn vị đồng thời thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Trong cơ chế thị trường mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận, do vậy mà tiêu thụ càng đóng một vai trò quan trọng. Nếu tổ chức tiêu thụ nhanh sẽ làm giảm thời gian hàng hoá nằm trong kho, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay sử dụng vốn, giảm chi phí bảo quản, chi phí lãi vay. Từ đó chúng ta nhận ra rằng kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá trong toàn bộ công tác kế toán của một doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng. Nhưng thực trạng của kế toán tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp hiện nay ở nước ta hầu hết chưa thể hiện được nhiệm vụ cũng như vai trò quan trọng của mình trong quan hệ sản xuất kinh doanh. Nói chung công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá còn rất thụ động và chưa có sự tác động tích cực đối với quá trình tiêu thụ hàng hoá. Như vậy kết quả tiêu thụ hàng hoá là điều kiện quyết định đến sự tồn tại, phát triển hay suy thái của một doanh nghiệp. Vì vậy hoàn thiện quá trình kế toán tiêu thụ là một vấn đề cần thiết và có ý nghĩa. 1.4.2: Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kế quả tiêu thụ : Tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Chính vì lẽ đó mà kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý và tiêu thụ hàng hoá. Thông qua các thông tin về kế toán mà người điều hành doanh nghiệp có thể biết được mức độ hoàn thành tiêu thụ, phát hiện kịp thời sai sót ở từng khâu trong quá trình lập và thực hiện quá trình mua, tiêu thụ và dự trữ hàng hoá. Từ đó có biện pháp cụ thể phù hợp để đạt hiệu quả kinh doanh cao. Đối với nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, kế toán có nhiệm vụ cung cấp tài liệu về quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa giúp cho việc đánh giá chất lượng toàn bộ hoạt động kinh doanh của đơn vị, cụ thể kế toán tiêu thụ cần thực hiện những nhiệm vụ sau: - Phản ánh giám sát thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch tiêu thụ hàng hoá: mức bán ra, doanh thu ban hàng về thời gian và địa điểm theo tổng số, theo nhóm hàng. Quan trọng nhất là chỉ tiêu lãi thuần về hoạt động sản xuất kinh doanh. - Phản ánh đầy đủ kịp thời và chi tiết hàng bán ở tất cả các trạng thái: hàng đi đường, hàng trong kho, trong quầy... nhằm đảm bảo hàng hoá ở tất cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị. - Phản ánh tình hình giám đốc thực hiện kết quả tiêu thụ, cung cấp số liệu lập quyết toán đầy đủ, kịp thời để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như nghĩa vụ với nhà nước. - Phản ánh và kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch bán hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại giá cả, thời hạn giám đốc sự an toàn của hàng hoá cho đến khi người mua được hàng. - Kiểm tra chặt chẽ các chứng từ bán hàng nhằm xác định đúng đắn và kịp thời doanh thu bán hàng, kiểm tra giám._. sát quá trình thanh toán tiền hàng của khách hàng. Với nghiệp vụ tiêu thụ bán lẻ kế toán còn có nhiệm vụ kiểm tra việc đảm bảo an toàn của hàng hoá của đơn vị. - Kiểm tra việc nộp tiền bán hàng đủ và kịp thời cả về số lượng lẫn chất lượng. - Xác định đúng thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ để kịp thời lập báo cáo bán hàng và phản ánh doanh thu, báo cáo thường xuyên, kịp thời tình hình bán hàng và thanh toán với khách hàng chi tiết theo từng loại, từng hợp đồng kinh tế nhằm giám sát chặt chẽ cả về số lượng, chất lượng, thời gian. - Tổ chức hệ thống chứng từ ban đầu và chình tự luân chuyển chứng từ, chánh chùng lặp, bỏ sót không quá phức tạp mà vẫn đảm bảo yêu cầu của quản lý, nâng cao hiệu quả công tác kế toán. Doanh nghiệp lựa chọn hình thức nhật ký sổ kế toán phù hợp để phát huy ưu điểm của chúng và phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu quản lý, đơn giản, tiết kiệm. - Xác định đúng và tập hợp đầy đủ giá vốn hàng bán và chi phí bán hàng phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá cũng như chi phí về quản lý doanh nghiệp. Xác định đúng đắn chính xác kết quả tiêu thụ và thu nhập của đơn vị trên cơ sở đó có những biện pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp cho Ban lãnh đạo của đơn vị nắm được thực trạng tình hình tiêu thụ hàng hoá của mình mà kịp thời có những chính sách thích hợp với thị trường. 1.5: Kế toán bán hàng và xác định KQTT trong các doanh nghiệp: 1.5.1: Chứng từ sử dụng: Trong quá trình bán hàng các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều loại chứng từ kế toán khác nhau. Mỗi doanh nghiệp thì có các chứng từ khác nhau để phù hợp với hoạt động kinh doanh của đơn vị mình Hóa đơn bán hàng Phiếu xuất kho. Phiếu xuất hàng bán. Phiếu thu. Phiếu chi. Thẻ quầy hàng. Bảng thanh toán hàng đại lý ký gửi… 1.5.2: Tài khoản sử dụng: Tk 511 “ Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ “. Tài khoản này dùng để phản ánh tổng doanh thu bán hàng thực tế cùng các khoản giảm từ doanh thu. Từ đó, xác định doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nội dung phản ánh của Tk như sau: Nợ Tk 511 Có - Khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại khi bán hàng và doanh thu hàng bán bị trả lại. - Số thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp phải nộp tính theo doanh thu bán hàng thực tế. - Kết chuyển doanh thu thuần về tiêu thụ trong kỳ. - Phản ánh tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ . - Tài khoản 511 cuối kỳ không có dư - Tài khoản 511 có 4 tài khoản cấp 2 dưới đây : - Tài khoản 511 “doanh thu bán hàng hoá” - Tài khoản 512 “doanh thu bán các thành phẩm” - Tài khoản 513 “doanh thu cung cấp dịch vụ” - Tài khoản 514 “ doanh thu trợ cấp, trợ giá “. Khi phản ánh doanh thu bán hàng ở bên có Tk 511, cần phân biệt theo từng trường hợp sau : - Hàng hoá sản phẩm dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, doanh thu bán hàng ghi theo giá bán chưa có thuế GTGT. - Hàng hoá sản phẩm dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và hàng hóa dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, doanh thu bán hàng ghi theo giá thanh toán với người mua, gồm cả thuế phải chịu. Tài khoản 512 “ doanh thu nội bộ “ Tài khoản này dùng để phán ánh doanh thu do bán hàng hoá, sản phẩm dịch vụ trong nội bộ, giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty hoặc tổng công ty .. Nội dung phán ánh của tài khoản 512 tương tự như tài khoản 511 đã được đề cập ở trên. Tài khoản 512 cuối kỳ không có số dư và gồm 3 tài khoản cấp 2 : - Tài khoản 5121 “doanh thu bán hàng hoá” - Tài khoản 5122 “doanh thu bán các thành phẩm” - Tài khoản 5123 “doanh thu cung cấp dịch vụ” - Tài khoản 5111,5121 “doanh thu bán hàng hoá” - Tài khoản 5111 phản ánh số doanh thu thuần khối lượng hàng hoá đã xác định và tiêu thụ trong một kỳ hạch toán của doanh ngiệp. - Tài khoản 5121 phản ánh doanh thu khối lượng hàng hoá đã xác định và tiêu thụ và tiêu thụ trong kỳ thanh toán. - Tài khoản 5111,5121 chủ yếu dùng cho các ngành, các đơn vị kinh doanh hàng hoá vật tư, lương thực. Tài khoản 5112,5122 “ doanh thu bán thành phẩm “ - Tk 5112 phản ánh doanh thu , doanh thu thuần cả khối lượng sản phẩm ( thành phẩm bán thành phẩm ) đã được xác định là tiêu thụ trong một kỳ hạch toán của doanh nghiệp. - Tk 5122 phản ánh doanh thu của khối lượng sản phẩm cung cấp giữa các đơn vị thành viên trong một công ty hay tổng công ty. Tài khoản 511.2,512.2chủ yếu dùng cho các ngành, các doanh nghiệp sản xuất như : công nghiệp, nông nghiêp, ngư nghiệp... - Tài khoản 511.3,512.3 “ doanh thu cung cấp dịch vụ “ - Tk 511.3 phản ánh doanh thu và doanh thu thuần của khối lượng lao vụ, dịch vụ cung cấp cho khách hàng đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ hạch toán . - Tk512.3 phán ánh doanh thu và doanh thu thuần của khối lượng lao vụ, dịch vụ cung cấp cho các đơn vị thành viên trong cùng một công ty hay tổng công ty. Tài khoản 511.3 ,512.3 chủ yếu dùng cho các ngành doanh nghiệp kinh doanh, dịch vụ như ; giao thông, vận tải, bưu điện... Tài khoản157 “hàng gửi bán”: Tài khoản này dùng để phản ánh giá vốn hàng gửi bán, ký gửi đại lý (trị giá mua của hàng hoá, giá thành công xưởng của sản phẩm dịch vụ) chưa được xác định là tiêu thụ. Tài khoản 157 được mở chi tiết theo từng loại sản phẩm, dịch vụ hàng hoá, từng lần gửi hàng từ khi gửi đến khi được chấp nhận thanh toán. Nội dung phản ánh của từng tài khoản như sau: Nợ Tk 157 Có - Tập hợp giá vốn sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã di chuyển đi bán hoặc giao cho bên nhận đại lý, ký gửi nhưng chưa được chấp nhận thanh toán. - Số dư: phản ánh giá vốn thực tế của sản phẩm, hàng hoá đã gửi đi chưa được xác định là tiêu thụ. - Kết chuyển giá vốn thực tế sản phẩm hàng hoá chuyển đi bán gửi đại lý, ký gửi và giá thành dịch vụ đã được xác định là tiêu thụ. - Giá vốn sản phẩm, hàng hoá không bán được đã thu hồi (bị người mua, người nhận đại lý gửi trả lại) Tài khoản 531 “hàng bán bị trả lại”: Tài khoản này dung để phản ánh doanh thu của số sản phẩm , hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do không đúng quy cách, phẩm chất hoặc vi phạm hợp đồng kinh tế. Nội dung phản ánh của tài khoản 531: Nợ Tk 531 Có Tập hợp doanh thu hàng hoá bị trả lại chấp nhận cho người mua trong kỳ (đã trả lại tiền cho người mua hoặc tính trừ vào nợ phải thu) Kết chuyển số doanh thu của hàng bán bị trả lại. Tài khoản 531 không có số dư. Tài khoản 532 “Giảm giá hàng bán” Tài khoản này dụng để phản ánh khoản giảm giá cho khách hàng tính trên giá bán thoả thuận. Nội dung ghi chép của tài khoản 532 như sau: Nợ Tk 532 Có - Khoản giảm giá đã chấp nhận với người mua - Kết chuyển khoản giảm giá sang tài khoản liên quan để xác định doanh thu thuần Tk 532 không có số dư Tài khoản 521 “Chiết khấu thương mại” Tài khoản này sử dụng để theo dõi toàn bộ các khoản chiết khấu thương mại chấp nhận cho khách hàng trên giá bán đã thoả thuận. Nội dung phản ánh tài khoản này như sau: Nợ Tk 521 Có Tập hợp các khoản chiết khấu thương mại (bớt giá, hồi khấu) chấp thuận cho người mua trong kỳ. Kết chuyển toàn bộ số chiết khấu thương mại vào bên nợ Tk 511, 512. Tài khoản 521 không có số dư và chi tiết thành 3 tiểu khoản: - Tài khoản 5211 “chiết khấu hàng hoá”. - Tài khoản 5212 “chiết khấu thành phẩm”. - Tài khoản 5213 “chiết khấu dịch vụ” Tài khoản 632 “giá vốn hàng bán”. Tài khoản này dùng để xác định giá vốn của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ. Tài khoản 632 không có số dư và có thể mở chi tiết theo từng mặt hàng, từng dịch vụ. Tuỳ theo yêu cầu cung cấp thông tin và trình độ cán bộ kế toán cũng như phương tiện tính toán của từng doanh nghiệp. Riêng trong các doanh nghiệp xây dựng, tài khoản 632 còn phản ánh cả phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ. Nội dung ghi chép Tk 632 như sau: Nợ Tk 632 Có - Phản ánh giá vốn của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ. - Phản ánh chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công vượt trên mức bình thường và chi phí sản xuất cố định không phân bổ, không được tính vào giá vốn hàng bán của kỳ kế toán. - Phản ánh khoản chênh lệch giữa số dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập năm nay lớn hơn khoản đã lập dự phòng năm trước. - Phản ánh khoản hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cuối năm tài chính (31/12) (chênh lệch giữa số phải lập dự phòng năm nay nhỏ hơn khoản đã lập dự phòng năm trước) Tài khoản 632 không có số dư cuối kỳ. Tài khoản 333 “thuế và các khoản phải nộp của nhà nước” Dùng để phản ánh quan hệ của nhà nước và doanh nghiệp về các khoản thuế phí, lệ phí và các khoản phải nộp, phản ánh nghĩa vụ và tình hình thực hiện nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp với nhà nước trong kỳ kế toán. Các khoản này được mở chi tiết theo dõi từng loại thuế, lệ phí, phí phải nộp. Cuối kỳ có số dư bên có phản ánh khoản phải nộp nhà nước thuế doanh thu: là loại thuế gián thu tính trên doanh số của hàng bán. Nó được hình thành trong phía bán của hàng hoá tiêu thụ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải nộp cho nhà nước mỗi khi bán được hàng. Số tiền thuế doanh thu phải nộp = Doanh thu tính thuế X Thuế suất doanh thu Trong đó: Doanh thu tính thuế là toàn bộ số tiền bán hàng, tiền gia công chế biến, tiền hoa hồng, tiền công của khi lượng hàng hoá đã được xác định là đã tiêu thụ trong kỳ nộp thuế. Doanh thu tính thuế = Tổng doanh thu bán hàng ghi trên hoá đơn - Doanh thu của các khoản giảm trừ Thuế suất thuế doanh thu: Do nhà nước quy định trong biểu thuế hiện hành. Thời hạn nộp thuế theo định kỳ hoặc hàng tháng. Ngoài hai loại thuế chủ yếu trên còn có thuế xuất khẩu áp dụng cho doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá với người nước ngoài. Thuế nhà nước quy định về mặt hàng đơn giá tính thuế và thuế xuất, thời hạn nộp thuế. Đối tượng chịu thuế phải thực hiện theo đúng luật thuế này. Để tiện theo dõi tình hình thực hiện nghiã vụ đối với nhà nước về thuế kế toán sử dụng Tk 338. - Tài khoản 911 “xác định kết quả kinh doanh” Tài khoản này dùng để xác định kết quả của toàn bộ các hoạt đọng kinh doanh. Tài khoản 911 cuối kỳ không có số dư và mở chi tiế theo từng hoạt động (hoạt động kinh doanh (bao gồm hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và hoạt động tài chính và các hoạt động khác) Nội dung và kết cấu của tài khoản 911. Nợ Tk 911 Có - Chi phí hoạt động kinh dânh liên quan đến kết quả (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí tài chính) - Chi phí khác - Kết chuyển lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh. - Tổng số doanh thu thuần về tiêu thu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và doanh thu thuần hoạt động tài chính trong kỳ. - Tổng số thu nhập thuần khác - Kết chuyển lỗ từ các hoạt động kinh doanh. Ngoài các tài khoản nói trên, trong quá trình hạch toán thành phẩm tiêu thụ , chi phí kết quả... kế toán còn sử dụng một số tài khoản liên quan khác như: 111, 112, 131,334, 421,... 1.5.3: Nội dung kế toán: 1.5.3.1: Kế toán doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu: TK911 TK 511 TK 1333 Thuế TTĐB, thuế xuất khẩu Thuế GTGT TK 111,112,131… trực tiếp phảI nộp TK 521,532,531 Doanh thu Kết chuyển giảm giá bán hàng Doanh thu hàng bị trả lại Kết chuyển Doanh thu thần để xác định kết quả TK 33311 Thuế GTGT đầu ra phải nộp (phương pháp khấu trừ) Sơ đồ 1.1:hạch toán doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu 1.5.3.2: Kế toán giá vốn: TK 154,155 TK 632 TK 911 Trị giá vốn thực tế Hàng đã tiêu thụ Kết chuyển trị giá vốn TK 157 của hàng tiêu thụ Trị giá vốn Trị giá vốn hàng hàng gửi bán gửi bán đã tiêu thụ Sơ đồ1.2: hạch toán giá vốn theo phương pháp kê khai thường xuyên TK 155,157 TK 632 TK 911 Kết chuyển trị giá Kết chuyển trị giá hàng tồn cuối kỳ và hàng tồn đầu kỳ Kết chuyển trị giá vốn hàng gửi bán và hàng gửi bán chưa hàng bán trong kỳ chưa được chấp nhận được chấp nhận TK 631 Kết chuyển trị giá thành phẩm sản xuất trong kỳ Sơ đồ 1.3:hạch toán giá vốn hàng bán theo phương pháp kiểm kê định kỳ 1.5.3.3: Kế toán CPBH và CPQLDN: TK 334,338 TK 1641 TK 111,112,138 Chi phí lương và các khoản trích Giá trị thu hồi Theo lương của nhân viên ghi giảm chi phí Bán hàng TK 911 TK 152,153 Chi phí vật liệu, dụng cụ Kết chuyển chi phí bán hàng TK 214 Chi phí khấu hao TSCĐ TK 1422 Chờ TK 331,111,112 kết chuyển Kết chuyển Các chi phí liên quan khác TK 133 Sơ đồ 1.4: Hạch toán tổng hợp chi phí bán hàng. TK 334,338 TK 642 TK 111,138 Chi phí nhân viên QL Các khoản ghi giảm TK 152,153 chi phí quản lý Chi phí vật liệu, dụng cụ TK 214 TK 911 Chi phí khấu hao TSCĐ Kết chuyển chi phí quản lý TK 333111,112 vào tài khoản xác định kết quả Thuế,phí lệ phí TK 139 Chi phí dự phòng TK 335,142,242 TK 1422 Chi phí theo dự toán Chờ TK 331,111,112 kết chuyển Chi phí khác Kết chuyển TK 133 Sơ đồ 1.5: hạch toán tổng hợp chi phí quản lý doanh nghiệp 1.5.3.4: Kế toán xác định kết quả tiêu thụ: Tk 632 Trừ vào thu nhập trong kỳ Kết chuyển lãi về tiêu thụ Tk 142 Tk 641,642 Tk 421 Tk 511 Tk 911 Kết chuyển chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ Kết chuyển doanh thu thuần về tiêu thụ Kết chuyển chi phí chờ kết chuyển Kết chuyển lỗ Sơ đồ 1.6: Khái quát kết quả tiêu thụ 1.5.4: Sổ sách kế toán Để thực hiện việc ghi chép kế toán đơn vị cần có hệ thống sổ sách kế toán, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được theo dõi hay tập hợp, được phân tích đánh giá hay đối chiếu... đều được thực hiện thông qua sổ sách kế toán. 1.5.4.1: Sổ kế toán gồm: - Sổ của phần kế toán tổng hợp gọi là kế toán tổng hợp. - Sổ của phần kế toán chi tiết gọi là kế toán chi tiết. - Sổ kế toán tổng hợp bao gồm: sổ nhật ký, sổ cái và sổ kế toán tổng hợp khác. - Sổ kế toán chi tiết bao gồm: sổ, thẻ kế toán chi tiết. Nhà nước quy định bắt buộc về mẫu sổ, nội dung và phương pháp ghi chép đối với mỗi loại sổ cái, sổ nhật ký quy định mang tính hướng dẫn đối với các loại sổ, thẻ, kế toán chi tiết và các loại sổ, thẻ, kế toán khác. Việc sổ kế toán của doang nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện theo quy định hiện hành của nhà nước. Sổ nhật ký được dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong từng và trong một biên độ kế toán theo trình tự thời gian và quan hệ đối ứng của các tài khoản của các nghiệp vụ đó. Số liệu kế toán bên sổ nhật ký phản ánh tổng số phát sinh bên nợ và bên có của tất cả các tài khoản kế toán sử dụng của đơn vị; Sổ nhật ký phải phản ánh đầy đủ các yếu tố sau: - Ngày, tháng ghi sổ. - Số liệu và ngày lập chứng từ kế toán làm căn cứ ghi sổ. - Tóm tắt nội dung kinh tế của nghiệp vụ phát sinh. - Số tiền của nghiệp vụ kinh tế phát sinh ghi vào bên nợ hoặc bên có của tài khoản. Sổ kế toán chi tiết dùng để ghi chép các đối tượng cần thiết kế toán phải theo dõi chi tiết theo yêu cầu quản lý. Số liệu trên sổ kế toán chi tiết cung cấp các thông tin phục vụ cho công việc quản lý từng loại tài sản, công nợ chưa được phản ánh trên sổ nhật ký sổ cái. Số lượng kết cấu các sổ kế toán chi tiết không quy định bắt buộc. Các doanh nghiệp phải căn cứ vào quy định hướng dẫn trong các chế độ kế toán của nhà nước và yêu cầu quản lý của đơn vị để mở các sổ kế toán chi tiết cần phù hợp. 1.5.4.2: Các hình thức sổ kế toán áp dụng đối với doanh nghiệp Hình thức sổ kế toán là hệ thống tổ chức kế toán bao gồm: Số lượng sổ kế toán, mẫu sổ và mối quan hệ giữa các sổ kế toán để ghi chép, hệ thống hoá và tổng hợp số liệu kế toán từ các chứng từ ban đầu, nhằm cung cấp các chỉ tiêu cần thiết cho việc lập báo cáo kế toán theo từng trình tự và phương pháp nhất định. Như vậy đặc trưng của hình thức kế toán là hình thức các sổ kế toán được sử dụng trong hạch toán kế toán trình tự và phương pháp ghi sổ kế toán từ khâu đầu là chứng từ kế toán đến khâu cuối là báo cáo kế toán, do sự khác nhau của hệ thống sổ sách kế toán nên hình thành các hình thức kế toán khác nhau. Mỗi hình thức kế toán có ưu điểm nhược điểm và điều kiện áp dụng nhất định. Lựa chọn hình thức nào tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào mức độ trang bị các phương tiện kỹ thuật cho công tác quản lý mà trước hết là công tác kế toán. Hiện nay trong nền kinh tế quốc dân đang áp dụng 4 hình thức kế toán chủ yếu sau: - Hình thức kế toán nhật ký chung. - Hình thức kế toán nhật ký sổ cái. - Hình thức kế toán chứng từ ghi sổ. - Hình thức kế toán nhật ký chứng từ. a)Hình thức kế toán nhật ký chung Trình tự ghi chép kế toán như sau: Hàng ngày căn cứ vào các chứng từ gốc ghi nghiệp vụ phát sinh vào sổ nhật ký chung theo trình tự thời gian, sau đó căn cứ vào sổ nhật ký chung để ghi vào sổ cái. Trường hợp dùng sổ nhật ký đặc biệt có liên quan định kỳ hoặc cuối tháng tổng hợp các nghiệp vụ trên sổ nhật ký đặc biệt và lấy số liệu tổng hợp ghi một lần vào sổ cái. Cuôi tháng tổng hợp số lượng của sổ cái ghi vào bảng cân đối phát sinh các tài khoản tổng hợp. Đối với các tài khoản có mở các sổ hoặc sổ kế toán chi tiết thì sau khi ghi sổ nhật ký phải căn cứ vào chứng từ gốc ghi vào các thẻ kế toán chi tiết liên quan, cuối tháng cộng sổ hoặc thẻ kế toán chi tiết lập các bảng tổng hợp chi tiết của từng tài khoản để đối chiếu với bảng cân đối số phát sinh sau khi kiểm tra đối chiếu khớp đúng các số liệu, bảng cân đối số phát sinh được dùng làm căn cứ để lập bảng cân đối kế toán và các báo biểu kế toán khác. Hoá đơn bán hàng, phiếu thu… Sổ quỹ Bảng tổng hợp chi tiết bán hang Sổ cái TK 511,632,531,532,641,911… Sổ nhật ký bán hàng Sổ nhật ký chung Sổ chi tiết tk 511,632,641,642,131,156… Bảng cân đối tài khoản Báo cáo tài chính Ghi hàng ngày Ghi vào cuối tháng Đối chiếu kiểm tra Sơ đồ 1.7: Hình thức kế toán nhật ký chung b) Hình thức kế toán nhật ký sổ cái Trình tự ghi chép trong hình thức nhật ký sổ cái: chứng từ gốc sau khi ghi nhật ký-sổ cái được chuyển ngay đến các bộ phận kế toán chi tiết có liên quan để ghi vào sổ hoặc thẻ kế toán của từng tài khoản. Cuối tháng nhân viên phụ trách các phần tiến hành kế toán chi tiết cộng các sổ hoặc thẻ kế toán chi tiết lập các bảng tổng hợp chi tiết của từng tài khoản tổng hợp để đối chiếu với nhật ký sổ cái. Nhật ký sổ cái và các bảng tổng hợp chi tiết sau khi kiểm tra, đối chiếu các biểu kế toán khác. Hoá đơn bán hàng, phiếu thu Sổ quỹ Bảng tổng hợp chi tiết bán hàng Sổ nhật ký chung Sổ chi tiết TK 511,632,641,642,131,156… Bảng cân đối tài khoản Báo cáo tài chính Ghi hàng ngày Ghi vào cuối tháng Đối chiếu kiểm tra Sơ đồ 1.8: Hình thức kế toán nhật ký sổ cái c) Hình thức kế toán chứng từ ghi sổ Trình tự ghi chép. Hàng ngày nhân viên kế toán phụ trách từng phần hành căn cứ vào các chứng từ gốc kiểm tra lập các chứng từ ghi sổ. Đối với những nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều và thường xuyên, chứng từ gốc sau khi kiểm tra được ghi vào bảng tổng hợp chứng từ gốc, cuối tháng hoặc định kỳ căn cứ vào bảng chứng từ gốc lập các chứng từ ghi sổ. Chứng từ ghi sổ sau khi lập song chuyển đến kế toán trưởng ký duyệt rồi chuyển đến bộ phận kế toán tổng hợp với đầy đủ các chứng từ gốc kèm theo để bộ phận này ghi vào sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và sau đó ghi vào sổ cái, tiếp đó căn cứ vào sổ cái lập bảng cân đối phát sinh được sử dụng để lập bảng cân đối kế toán và các báo biểu kế toán khác Hoá đơn bán hàng Sổ quỹ Bảng tổng hợp chi tiết bán hàng Sổ nhật ký chung Sổ chi tiết TK 511,632,131,641,642,156… Bảng cân đối tài khoản Báo cáo tài chính Ghi hàng ngày Ghi vào cuối tháng Đối chiếu kiểm tra Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ Sổ CáI TK 511,632,911,531,532,641… Sơ đồ 1.9: Hình thức kế toán chứng từ ghi sổ d) Hình thức kế toán nhật ký chứng từ Trình tự ghi chép:Căn cứ để ghi vào các sổ sách kế toán chủ yếu trong hình thức nhật ký chứng từ là các chứng từ gốc. Tuy nhiên, để đơn giản và hợp lý hoá công việc ghi chép kế toán ngày, trong hình thức kế toán này còn sử dụng hai loại chứng từ tổng hợp phổ biến là bảng phân bổ và bảng kê chi tiết. Bảng phân bổ là chứng từ tổng hợp phân loại chứng từ gốc cùng loại theo các đối tượng sử dụng. Bảng phân bổ được dùng cho các loại chi phí phân bổ nhiều lần và thường xuyên như: vật liệu, tiền lương hoặc đòi hỏi phải tính toán phân bổ như khấu hao TSCĐ... Khi sử dụng bảng bảng phân bổ thì chứng từ gốc được ghi vào bảng phân bổ, cuối tháng số liệu ở bảng phân bổ được ghi vào các bảng kê và nhật ký chứng từ có liên quan. Sổ chi tiết 131 Bảng kê 11 Hoá đon bán hàng Bảng kê 8 Bảng kê 9 Bảng kê 10 Bảng kê 5 Sổ chi tiết bán hàng Bảng tổng hợp bán hàng Nhật ký 8 Sổ cái tài khoản 155, 157, 632, 641, 642, 511, 521, 531, 532, 131, 911, 421 Báo cáo kế toán Chú thích: : Ghi trong kỳ. : Ghi cuối kỳ. : Quan hệ đối chiếu Sơ đồ1.10: Hình thức kế toán nhật ký chứng từ Chương 2: Thực trạng kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty Tiên Du. 2.1. Giới thiệu tổng quát về Công ty Tiên Du. 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Tiên Du. Công ty Tiên Du là một công ty TNHH do các thành viên tự nguyện tham gia thành lập công ty và tự nguyện góp vốn để cùng nhau hoạt động sản xuất nhằm tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động cũng như bản thân mình. Công ty có trụ sở chính đóng tại 51 Thị Trấn Lim, Tiên Du, Bắc Ninh. Điện thoại: 02413837353 Fax: 02413837353 Giấy đăng ký KD: Số 2102000138 Giấy chứng nhận đăng ký thuế: Mã số 2400206975 đăng ký ngày 05/04/2001 Đây là một trong những tỉnh được sự đầu tư nhiều của nhà nước với nhiều khu công nghiệp hiện đại với máy móc, trang thiết bị của các nước tiên tiến trên thế giới. Là một doanh nghiệp tư nhân trải qua những năm tháng xây dựng và trưởng thành với những thăng trầm khó khăn, công ty đã vượt lên tất cả để khẳng định vị trí của mình, phát huy vai trò của mình trong giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay. Những năm qua công ty đã phát huy cao do tính năng động sáng tạo chủ động tìm kiếm thị trường tăng cường đầu tư chiều sâu liên kết liên doanh có biện pháp tăng cường hiệu lực điều hành bộ máy quản lý, nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo. Công ty được thành lập theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 2102000138 do sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Ninh cấp đăng ký lần đàu là ngày 23/03/2001. Công ty đã tham gia ký kết nhiều hợp đồng với sự ổn định và phát triển kinh doanh sự đoàn kết nhất trí trong tập thể ban lãnh đạo những năm qua công ty đảm nhận sự tăng trưởng và sự phát triển về mọi mặt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và không ngừng nâng cao uy tín với khách hàng. Luôn bảo tồn và phát triển vốn chủ sở hữu đảm bảo đời sống cán bộ nhân viên ngày càng đươc nâng cao. Hiện tại công ty nằm ngay trên đường quốc lộ 1A thuận lợi cho việc giao dịch, mở rộng thị trường tìm kiếm thị phần cạnh tranh với các công ty khác song vẫn còn gặp nhiều khó khăn về tìm thị trường thích hợp. Vài năm qua cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước công ty xây dựng Tiên Du không ngừng trưởng thành và ngày càng lớn mạnh từ chỗ địa bàn hoạt động chỉ là khu vực phía Bắc đến nay đã mở rộng ra TP HCM và các tỉnh ĐB Sông Cửu Long với rất nhiều công trình mang tầm cỡ quốc gia có giá trị kinh tế lớn chất lượng cao uy tín với chủ đầu tư. Để có những thành tích như trên trước hết phải kể đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo về công tác tổ chức điều hành sản xuất, luôn phát huy tính năng động sáng tạo năm nào cũng hoàn thành vượt mức cấp trên giao hạch toán xậy dựng có hiệu quả đảm bảo thu hồi vốn giao nộp ngân sách và cấp trên đầy đủ. Bên cạnh đó trình độ tay nghề của công nhân ngày càng được nâng lên rõ rệt, đội ngũ nhân viên kinh doanh với trình độ hiểu biết ngày càng cao. Ngành nghề sản xuất chính là xây dựng công trình công nghiệp và dân dụng, kinh doanh phát triển nhà ở xây dựng công giao thông,…đây là những sản phẩm mang tính đơn chiếc có quy mô lớn, phức tạp thời gian xây dựng lâu. Ngoài ra công ty là đại lý phân phối của công ty Exxon mobil Việt Nam với nhiệm vụ chính là Dầu nhờn máy công nghiệp và mỡ bôi trơn máy công nghiệp, công ty đã phân phối cho các tỉnh phía Bắc nhằm đáp ứng nhu cầu dầu và mỡ cho địa bàn Hà Nội và các tỉnh Phía Bắc. Với mục tiêu kinh doanh, buôn bán, bán lẻ, công ty đã bán ra lượng hàng hoá lớn được thể hiện qua doanh thu của các năm gần đây tăng nhanh và tăng liên tục và đã dần chiếm lĩnh được thị trường. Trong cơ chế mới công ty đã không những tổ chức tốt hoạt động kinh doanh bảo đảm cung cấp dầu mỡ cho mọi nhu cầu của mọi ngành kinh tế, quốc phòng và đời sống xã hội, còn đẩy mạnh quá trình nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật, đổi mới trang thiết bị, khẩn trương mở rộng và phát triển thị trường, tạo ra những lợi thế và giữ vững uy tín của mình trên thị trường. 2.1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.1.2.1: Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Các hình thức kinh doanh tại công ty Hoạt động kinh doanh công ty gồm: - Xây dựng công trình, tư vấn xây dựng, tổng thầu dự án đầu tư xây dựng sửa chữa nhà ở, trang trí nội thất, đại lý phân phối sản phẩm dịch vụ, kinh doanh nhà ở, khách sạn… - Kinh doanh các loại dầu nhờn: kinh doanh dầu thông qua vận tải đường bộ bằng các hình thức xuất điều động ngành, xuất do di chuyển nội bộ, xuất bán trực tiếp như: xuất bán buôn, xuất bán lẻ qua cửa hàng công ty, xuất bán lẻ qua các cửa hàng đại lý. - Kinh doanh mỡ máy công nghiệp. Chủng loại hang hoá kinh doanh bao gồm: - Dầu hộp số. - Dầu thuỷ lọc - Dầu máy nâng - Dầu ôtô - Dầu cầu Nguồn hàng do tổng công ty điều động bằng nguồn vốn ngân sách và nguồn vốn của ngành. Do vậy, vốn lưu động trong quá trình kinh doanh tại công ty là nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn của ngành. Dòng lưu chuyển hàng hoá của công ty: Dầu được nhập từ tàu biển qua cảng Hải Phòng, sau đó được vận chuyển về kho vật liệu tổng hợp của công ty. Tại đây, một lượng xăng dầu được xuất ra bến ôtô để thực hiện xuất bán trực tiếp cho các cửa hàng. Vì vậy, vai trò chủ yếu của kho vật tư tổng hợp tại công ty là trung chuyển, ít mang tính tồn chứa, dự trữ. Từ đặc điểm đó nên công ty thực hiện lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ (ba tháng, sáu tháng…) và tiến hành đối chiếu khi thực hiện quyết toán ngành, tổng công ty sẽ phân bổ lợi nhuận có được cho các đơn vị trực thuộc. Trên cơ sở đó điều tiết thu nhập toàn ngành. Đặc điểm cơ sở vật chất kỹ thuật Công ty Tiên Du quản lý một lượng lớn cơ sở vật chất kỹ thuật, tập chung chủ yếu tại kho vật tư tổng hợp, kho văn phòng và mạng lới các của hàng bán lẻ. Do mặt hàng kinh doanh của công ty hầu hết ở dạng thành phẩm nhập ngoại, chủ yếu ở dạng lỏng, thiết bị công nghệ, kho tàng, bến bãi... của công ty đều được đầu tư trang bị và xây dựng phù hợp với mặt hàng kinh doanh đáp ứng cho các công tác giao nhận, bảo quản, dự trữ và cấp phát loại hàng hoá ở thể lỏng dễ nguy hiểm cháy nổ. Kho vật tư tổng hợp: tại đây diễn ra các hoạt động tiếp nhận tồn chứa bảo quản dầu. Tạo nguồn hàng cho các công ty cần cung ứng dầu cho các công ty sản xuất, vận tải đường hàng không, đường biển và đường bộ, xuất cho các cửa hàng bán lẻ , cửa hàng đại lý và xuất đi chuyển nội bộ ngành. Do vậy kho là nơi tập trung hầu hết hàng hoá của công ty. Khu văn phòng: đây là bộ nơi là việc điều hành của ban giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ. để đảm bảo công tác quản ký và công tác điều hành các quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện thuận lợi, công ty đã đầu tư trang thiết bị văn phòng hiện đại như: mạng máy tính cục bộ, máy Fax, máy phôtcopy... Mạng lới bán lẻ: bao gồm 6 cửa hàng được xây dựng ở các tỉnh huyện ở khu vực phía bắc, với các vị trí có lợi thế về thương mại trong khu vực như: bên các đường quốc lộ, cao tốc, tại các khu tập chung kinh tế. Với trang thiết bị đồng bộ và hiện đại bảo đảm các tiêu chuẩn về môi trường an toàn phòng chống cháy nổ, xây dựng mỹ quan và thuận lợi cho việc cung cấp dầu. Hoạt động của công ty trong những năm gần đây đạt hiệu quả cao, công ty luôn ổn định nguồn hàng trên thị trường cơ sở vật chất kho tàng, hệ thống thiết bị, công nghệ được cải tạo phát triển cả về số lượng và hiệu quả cao. Luôn làm tròn nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước và quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần người lao động. 2.1.2.2: Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty xây dựng Tiên Du được xây dựng và tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng hỗn hợp. Công ty là đơn vị xây dựng vừa là đơn vị kinh doanh mang tính thương mại, nên việc tổ chức hoạt động kinh doanh vừa mang tính kỹ thuật, vừa mang tính thương mại, do đó chức năng nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng và chung chuyển hàng hoá và quản lý một số lượng tài sản lớn và kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt là mỡ và dầu nhờn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Do đó công ty sử dụng môt hình quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng hỗn hợp nhằm phát huy tính hiệu quả và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty. Giám đốc công ty: là người đứng đầu công ty, chịu trách nhiệm toàn bộ mọi hoạt động của công ty và pháp luật nhà nước. Giám đốc là ngời đại diện toàn quyền của công ty trong mọi hoạt động kinh doanh, có quyền quản lý ký kết hợp đồng kinh tế có liên quan tới mọi hoạt động kinh tế đó. Có quyền tổ chức bộ máy quản lý, khen thưởng và kỷ luật cán bộ công nhân viên dưới quyền theo đúng chính sách pháp luật của nhà nước và quy định của công ty, chịu trách nhiệm về công ăn việc làm đời sống tinh thần và mọi quyền lợi hợp pháp khác cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Phó giám đốc kinh doanh: Là người giúp việc cho giám đốc về công tác tổ chức kinh doanh như: quản lý hàng hoá nhập xuất tiêu thụ, chất lượng hàng hoá thông qua các bộ phận có liên quan và chịu trách nhiệm trước giám đốc về các hoạt động đó và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Phòng tổ chức hành chính: phụ trách chủ yếu về các tổ chức lao động, quan lý lao động và các chế độ cho người lao động căn cứ vào hợp đồng lao động giữa người lao động ký trực tiếp với giám đốc và các quy định của nhà nước về vấn đề quản lý lao động. Phòng kinh doanh: đây là phòng nghiệp vụ có vai trò hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty với các chức năng chủ yếu là xây dựng và theo dõi thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh dựa tr._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32952.doc
Tài liệu liên quan