Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I

LỜI MỞ ĐẦU Chuyển sang kinh doanh trong cơ chế thị trường và thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là thực hiện bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh với mục đích cuối cùng là bảo toàn lợi nhuận. Để đạt được mục đích này thì các doanh nghiệp phải áp dụng đồng thời nhiều biện pháp mà một trong những biện pháp quan trọng đối với các doanh nghiệp đó là: sản phẩm sản xuất ra phải có chất lượng cao và giá thành hạ tức là chi phí để sản xuất ra sản phẩm đó ph

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải được tiết kiệm tới mức tối đa trên cơ sở hợp lý, có kế hoạch. Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật chất, việc tối đa hoá lợi nhuận được các doanh nghiệp đặt mối quan tâm lên hàng đầu nó là mạch máu nuôi sống toàn bộ doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Trong điều kiện giá bán trên thị trường chịu sự khống chế của quy luật cung cầu, cạnh tranh để có lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần quan tâm đến chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Mà như ta biết sản phẩm của doanh nghiệp muốn tiêu thụ được trong nền kinh tế thị trường thì phải dành được lợi thế trong cạnh tranh, đó là chất lượng và giá bán. Khi giá bán sản phẩm dừng lại ở mức thị trường có thể chấp nhận được, muốn thu được nhiều lợi nhuận thì cách tốt nhất là doanh nghiệp phải phấn đấu hạ thấp giá thành cá biệt của mình. Để có giá thành hạ, nếu xét về mặt kỹ thuật là việc thay đổi thiết kế kỹ thuật, sử dụng các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, lao động hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nhận thức được vấn đề đó việc thực hiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách đúng đắn là một yêu cầu tất yếu của chế độ kế toán, là biện pháp quan trọng để giảm chi phí dẫn đến hạ giá thành sản phẩm giúp cho doanh nghiệp có đưọc ưu thế cạnh tranh trên thị trường. Cùng vận hành trong cơ chế đó, Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I, một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn đã trải qua gần 30 năm xây dựng và phát triển. Từ khi thành lập đến nay, công các hạch toán kế toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng của Xí nghiệp đã được quan tâm thích đáng và tổ chức tương đối tốt. Song bên cạnh đó, còn nhiều điều cần phải bổ sung và hoàn thiện hơn nữa. Qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I được sự chỉ bảo của các bác, các cô chú trong phòng kế toán đặc biệt là sự động viên và hướng dẫn tận tình của cô giáo ThS. Nguyễn Thị Hà, nhận thấy vai trò quan trọng cũng như những vướng mắc, tồn tại trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp, em mạnh dạn chọn đề tài “Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I” cho bài luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần: Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất. Phần 2: Thực trạng về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I Phần 3: Phương hướng hoàn thiện kế toán tập hợp chi phíí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I Với nhận thức còn hạn chế nên bản luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em xin kính mong được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy, các cô để luận văn của em được phong phú về lý luận và thiết thực với thực tế. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Nguyễn Thị Hà và các bác, các cô chú trong Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I đã giúp em hoàn thành bản luận văn này. Tác giả. PHẦN 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT I. BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG KINH TẾ CỦA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Chi phí sản xuất Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quí, năm). Nói cách khác chi phí sản xuất kinh doanh là toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một thời kỳ để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn, dịch chuyển giá thị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất hàng hoá cúng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các cho phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. Trong thực tế, có một khái niệm mà ta rất hay nhầm với khái niệm chi phí đó là chi tiêu. Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau: + Về mặt lượng, chi phí là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ còn chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. + Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau (chi mua nguyên, vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí phải trả). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng. Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. 1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh Chi phí sản xuất kinh doanh có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của nhà quản lý. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau: 1.2.1. Phân theo nội dung, tính chất của chi phí (theo yếu tố) Cách phân loại này phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế của nó mà không xét đến công dụng cũng như địa điểm phát sinh chi phí. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí. Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ được chia thành các yếu tố chi phí sau: + Yếu tố nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ các loại chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, vật liệu, thiết bị mà doanh nghiệp đã sử dụng trong các hoạt động sản xuất trong kỳ. + Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong thời kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). + Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho cán bộ công nhân viên chức. + Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Trích theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho cán bộ công nhân viên. + Yếu tố khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. + Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. 1.2.2. Phân tích theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích, công dụng dụng nhất định đối với hoạt động sản xuất. Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo các khoản mục sau: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm, không tính vào khoản mục này những chi phí nguyên liệu, vật liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung và những hoạt động ngoài sản xuất. Khoản mục này thường được tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng tập hợp chi phí. - Chi phí nhân công trực tiếp. Bao gồm chi phí về tiền lương, các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) của công nhân trực tiếp sản xuất, không tính vào khoản mục này số tiền lương và BHXH, BHYT, KPCĐ của nhân viên phân xưởng, nhân viên quản lý, nhân viên bán hàng. - Chi phí sản xuất chung Là các khoản chi phí phát sinh trong nội bộ phân xưởng, tổ đội sản xuất ngoài 2 khoản chi phí trên. Nếu phân xưởng sản xuất nhiều loại sản phẩm thì khi tổng hợp chi phí để tính giá thành cho từng loại sản phẩm trong phân xưởng, khoản mục này phải được phân bổ cho từng loại sản phẩm theo tiêu thức phù hợp. - Chi phí bán hàng Là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, … - Chi phí quản lý doanh nghiệp Là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi mà doanh nghiệp đã chi ra phục vụ cho quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh gồm chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của toàn bộ doanh nghiệp. 1.2.3. Phân theo cách thức kết chuyển chi phí Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua, còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. 1.2.4 Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh lại được phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này, chi phí được chia thành biến phí và định phí + Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên liệu, nhân công trực tiếp… Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định. + Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh…. Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi. 1.3. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi phí sản xuất và giai đoạn tính giá thành sản phẩm. Có thể nói việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất (tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất) và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị (tức là đối tương tính giá thành). Vậy xác đinh đối tượng hạch toán chi phí sản xuất mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát việc tổ chức hạch toán chi phí và yêu cầu tính giá thành sản phẩm. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất và tuỳ theo đặc điểm qui trình công nghệ của từng doanh nghiệp mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, từng đơn đặt hàng… Trên cơ sử đối tượng hạch toán chi phí, kế toán lựa chọn phương pháp hạch toán hay phương pháp tập hợp chi phí thích ứng. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm… Trước tiên kế toán mở thẻ hoặc sổ kế toán chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. 2. Giá thành sản phẩm 2.1 Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí vệ lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ hoàn thành. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, các nhà quản lý cần phải xác định chính xác toàn bộ chi phí kết tinh trong từng sản phẩm hay còn phải xác định chính xác toàn bộ chi phí kết tinh trong từng sản phẩm hay còn gọi là giá thành vì đó là mức mà nếu giá bán thấp hơn thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ. Điều này chứng tỏ giá thành sản phẩm vừa làm chức năng thước đo bù đắp chi phí, vừa làm chức năng thước đo lập giá. 2.2. Phân loại giá thành Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá người ta chia giá thành ra nhiều loại khác nhau: a) Phân theo thời điểm và nguồn số liệu tính giá thành. Để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, người ta sử dụng tiêu thức thời điểm và nguồn số liệu tính giá thành để chia giá thành sản phẩm thành 3 loại: + Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính dựa trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán giá thành do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất. + Giá thành định mức: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức cũng được tiến hành trước khi sản xuất, chế tạo sản phẩm. + Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt hoặc hụt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp. b) Phân theo phạm vi phát sinh chi phí. Theo cách này, giá thành được chia thành hai loại: + Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thanh công xưởng): bào gồm các chi phí liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Giá thành sản xuất = Chi phí NVLTT + Chi phí NCTT + Chi phí sản xuất chung + Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ) phản ánh toàn bộ các khoản chi phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Bao gồm giá thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Công thức tính giá thành tiêu thụ: Giá thành toàn bộ = Giá thành sản xuất + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. 2.3. Đối tượng tính giá thành Như đã nói ở trên, việc hạch toán quá trình sản xuất có thể chia làm hai giai đoạn đó là giai đoạn xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và giai đoạn xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm. Nếu như việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là giai đoạn đầu tiên của việc tổ chứch hạch toán quá trình sản xuất thì việc các định đối tượng tính giá thành là giai đoạn đầu tiên của công tác tính giá thành. Đối tượng tính giá thành chính là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ doanh nghiệp sản xuất ra cần phải tính được giá thành đơn vị. Tuỳ theo tính chất của từng loại hình sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ, yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh… để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp: - Về đặc điểm tổ chức sản xuất: Nếu sản phẩm đơn chiếc thì từng sản phẩm, từng công việc hoàn thành sẽ là đối tượng tính giá thành. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất hàng loạt thì từng lợi sản phẩm sẽ là đối tượng tính giá thành. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất với khối lượng lớn thì mỗi loại sản phẩm khác nhau sẽ là đối tượng tính giá thành. - Về mặt quy trình công nghệ: Nếu quy trình công nghệ sản xuất giản đơn thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở cuối quy trình công nghệ. Nếu quy trình công nghệ phức tạp kiểu liên tục thì không những thành phẩm là đối tượng tính giá thành mả nửa thành phẩm ở từng giai đoạn sản xuất cũng là đối tượng tính giá thành. 2.4 Phương pháp tính giá thành. Phương pháp tính giá thành là một hay một hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Ta biết rằng mỗi doanh nghiệp có một đặc điểm riêng và phải xác định cho mình một phương pháp tính giá thành riêng sao cho phù hợp với doanh nghiệp của mình nhất. Về cơ bản có 6 phương pháp tính giá thành. 2.4.1. Phương pháp tính giá thành giản đơn còn gọi là phương pháp trực tiếp. Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, số lượng mặt hàng ít, sản xất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn. Căn cứ vào chiphí sản xuất đã tập hợp trong kỳ và giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ, cuối kỳ để tính giá thành sản phẩm theo các công thức sau: Tổng giá thành sản phẩm = Giá trị SPDD đầu kỳ + Chi phí SX phát sinh trong kỳ - Giá trị SPDD cuối kỳ Giá thành đơn vị SP = Tổng giá thành sản phẩm Số lượng sản phẩm hoàn chỉnh 2.4.2. Phương pháp tổng công chi phí Phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận sản cuất hoặc giai đoạn công nghệ. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách tổng cộng chi phí sản xuất của giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm. Nếu gọi Z là chi phí phát sinh tập hợp cho bộ phận, chi tiết hay giai đoạn công nghệ, ta có: Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + Z3 + … + Zn 2.4.3 Phương pháp hệ số Trong các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trinh sản xuất cùng sử dụng một loại nguyên vật liệu và một đối tượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Phương pháp này căn cứ vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản phẩm để quy định cho mỗi loại sản phẩm một hệ số, chọn loại sản phẩm đặc trưng tiêu biểu nhất làm sản phẩm tiêu chuẩn có hệ số 1. Tính đổi sản lượng từng loại ra sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn. Giá thành đơn vị SP = Tổng giá thành của tất cả các loại sản phẩm Tổng số sản phẩm quy đổi Giá thành đơn vị sản phẩm loại i = Giá thành đơn vị sản phẩm quy đổi x Hệ số quy đổi sản phẩm loại i Trong đó : Q0 là tổng số sản phẩm quy đổi Qi là số ản phâm i(i=1,…,n) Hi là hệ số quy đổi sản phẩm (i=1,…,n) Tổng giá thành sản xuất các loại sản phẩm = Giá trị sản phẩm dở dang đầu kì + Tổng chi phí sản xuấtphát sinh trong kỳ - Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ 2.4.4. Phương pháp tỷ lệ Áp dụng trong các daonh nghiệp sản xuất nhiều sản phẩm có quy cacha, phẩm chất khác nhau. Trong trường hợp này đôid tượng tập hợp chi phí sản xuất là cả quá trình sản xuất nhưng đối tươngj tính giá thành là từng quy cách, kích cỡ, phẩm chất của từng loại sản phẩm tính theo cách này được tiến hành như sau: Trước hết là từng loại sản phẩm là đối tượng tính giá thành phải có giá thành kế hoạch hay giá thành định mức cho từng đơn vị sản phẩm. Sau đó, trên cơ sở tổng giá thành sản xuất thực tế sản phẩm các loại đã tính toán: Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm loại i = Giá thành kế hoạch (định mức) đơn vị sản phẩm loại i x Tỷ lệ chi phí Tỷ lệ chi phí Tổng giá thành thực tế các loại Tổng giá thành kế hoạch(định mức) sản phẩm các loại = 2.4.5.Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ Áp dụng cho những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất thu được cả sản phẩm chính và sản phẩm phụ. Khi đó căn cứ vào giá có thể thu hồi được hoặc giá ước tính hoặc giá kế hoạch …của sản phẩm phụ thu hồi được trong quá trình sản xuất để xác định giá trị sản phẩm phụ thu hồi. Sau đó, xác định tổng giá thành sản phẩm chính và giá thành đơn vị sản phẩm tình theo công thức sau: Tổng giá thành sản phẩm chính = Giá trị sản phẩm chính dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Giá trị sản phẩm phụ thu hồi - Giá trị sản phẩm chính dở dang cuối kỳ Giá thành đơn vị sản phẩm chính Tổng giá thành sản phẩm chính Số lượng sản phẩm chính = 2.4.6. Phương pháp liên hợp Là phương pháp tính giá thành sử dụng kết hợp cách tính của hai hay nhiều phương pháp trên với nhau. Ví dụ như kết hợp phương pháp trực tiếp với phương pháp tổng hợp chi phí; Phương pháp trực tiếp với phương pháp hệ số, phương pháp tỷ lệ chi phí…Trên thực tế, thông thường người ta hay sử dụng kết hợp các phương pháp trên lại với nhau tức là sử dụng phương pháp liên hợp vì đối tượng tính giá thành sản phẩm thường có nhiều đặc điểm tính chất khác nhau mà phương pháp trên chỉ phù hợp với một hay một vài đặc điểm, tính chất đó. Chẳng hạn khi sản xuất một sản phẩm A hoàn chỉnh phải trải qua nhiều giai đợn công nghệ, mỗi giai đợn sản xuất sẽ tạo ra một loại nửa thành phẩm và nửa thành của bước trước sẽ là đối tượng sản xuất của bước sau. Vì vậy khi thực hiện công tác tính giá thành cần phải xác định đứng đối tượng và lựa chọn phương pháp tính giá thành cho phù hợp với đối tượng đã lựa chọn. II. HOẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP KÊ KHAI THƯỜNG XUYÊN Kê khai thường xuyên là phương pháp phản ánh một cách thường xuyên, liên tục, cập nhật tình hình tăng giảm và hiện có của từng loại hàng tồn kho vào các tài khoản tương ứng. Do đó ở bất kỳ thời điểm nào, chúng ta cũng có thể biết được giá trị xuất, nhập, tình hình hiện có của từng loại vật tư, hàng hóa. Nội dung và trình tự hoạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khaithường xuyên như sau: 1. Hoạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Kế hoạch khái niệm và tài khoản sử dụng Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm toàn bộ các khoản chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu…sử dụng trực tiếp cho việc sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ trong các bộ phận phân xưởng sản xuất. Trường hợp doanh nghiệp mua nửa sản phẩm về gia công , lặp ráp thì giá trị nửa thành phẩm mua ngoài cũng được hoạch toán vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Thông thường chi phí nguyên vật liệu có liên quan trực tiếp tới từng đối tượng tập hợp chi phí thì hoạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp nguyên vật liệu sử dụng liên quan đến nhiều đối tượng kế hoạch không thể hoạch toán riêng được thì áp dụng phương pháp phân bổ chi phí cho từng đối tượng có liên quan. Tiêu thức để phân bổ có thể là định mức tiêu hao, hệ số, theo trọng lượng hay số lượng sản phẩm …công thức phân bổ như sau: Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng = Tiêu thức phân bổ của tưng đối tượng x Tỷ lệ (hệ số phân bổ) Tỷ lệ (hệ số phân bổ) Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ = Để theo dõi các khoản nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng tài khoản 621-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí và cuối kỳ không có số dư. Nội dung phản ánh của tài khoản 622 được thể hiện qua sơ đồ sau: Kết cấu tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Nợ TK 621 Có -Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ -Giá trị NVL xuất dùng không hết nhập lại kho -Giá trị phế liệu thu hồi -Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp 1.2 Trình tự hoạch toán +Xuất kho nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Nợ TK621 (chi tiết theo từng đối tượng) Có TK152 : Giá thực tế xuất dùng theo từng loại +Mua nguyên vật liệu không nhập kho mà chuyển thẳng tới bộ phận sản xuất để sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ, căn cú giá thực tế xuất dùng: Nợ TK621 (chi tiết từng đối tượng) Có TK liên quan (111,112,331,311…) +Vật liệu dùng kế hoạch không hết nhập kho : Nợ TK152 Có TK621 (chi tiết từng đối tượng) +Cuối kỳ kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo từng đối tượng Nợ TK 154 (chi tiết theo từng đối tượng) Có TK 621 (chi tiết từng đối tượng) Sơ đồ 1: Sơ đồ hoạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK 152 TK 621 TK 152 TK 111,112,141 TK 154 TK 331 TK 133 Trị giá NVL suất dùng cho SX Trị giá NVL mua ngoài dùng trực tiếp cho SX Thuế gtgt đầu vào Trị giá NVL mua ngoài Trị giá NVL còn chưa SD và phế liệu thu hồi Trị giá NVL thực tế dùng trực tiếp chi SX Trị giá NVL còn chưa SD và phế liệu thu hồi 2.Hoạch toán chi phí nhân công trực tiếp 2.1. Kế hoạch khái niệm và tài khoản sử dụng Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương, tiền trích BHYT, BHXH, KPCĐ theo số tiền lương của công nhân sản xuất. Chi phí nhân công thường được tính trực tiếp cho từng đối tường chịu phí có liên quan. Trường hợp chi phí nhân công trực tiếp có liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí mà không hoạch toán trực tiếp được thì có thể tập hợp chung sau đó phân bổ cho từng đối tượng chịu phí theo từng tiêu thức thích hợp. Tiêu thức phân bổ có thể là: chi phí tiền công định mức, khối lượng sản phẩm sản xuất … Để tập hợp chi phí nhân công trực tiếp kế toán sử dụng TK622 – chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí và cuối kỳ kế hoạc không có số dư. Nội dung phản ánh của TK622 được thể hiện qua sơ đồ sau: Kết cấu tài khoản 622 – nhân công trực tiếp Nợ TK 622 Có -Chi phí nhân công thực tế phát sinh -Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp 2.2 Trình tự hoạch toán +Hàng tháng căn cứ vào bảng phân bổ tiền lương và các khoản BHXH, xác định chi phí tiền lương phải trả Nợ TK622 (chi tiết từng đối tượng) Có TK334 +Trích BHYT, BHXH, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (19%) Nợ TK622 (chi tiết từng đối tượng) Có TK338 (3382, 3383, 3384) +Đối với các doanh nghiệp thực hiện trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất, hàng tháng căn cứ vào số tiền trích trước và số tiền lương thực tế phải trả kế toán ghi: Nợ TK622 (chi tiết từng đối tượng) Có Tk335 +Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành theo từng đối tượng Nợ TK154 (chi tiết từng đối tượng) Có TK622 (chi tiết từng đối tượng) Sơ đồ 2: Sơ đồ hoạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp TK 334 TK 622 TK 154 TK 338 Trích BHYT,BHXH,KPCĐ theo tiền lương CNSX Trị giá NVL còn chưa SD và phế liệu thu hồi Kết chuyển CPNC choi các đối tượng chịu CP Lương chính, lương phụ và phụ cấp phải trả cho CNSX 3.Hoạch toán chi phí sản xuất chung 3.1. Kế hoạch khái niệm và tài khoản sử dụng Chi phí sản xuất chung là những chi phí phục vụ cho quá trình sản xuất phát sinh ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất, ngoài 2 khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những khoản chi phí liên quan đến toàn bộ các hoạt động trong phạm vi phân xưởng, tổ đội sản xuất. Vì vậy, khi trong một bộ phận phân xưởng sản xuất có nhiều đối tượng tập hợp chi phí thì khó có thể tách riêng chi phí cho từng đối tượng nên kế toán phải mở sổ chi tiết tập hợp chi phí sản xuất chung cho từng bộ phận, phân xưởng sản xuất. Cuối tháng toàn bộ chi phí sản xuất chung đã được tập hợp sẽ được kết chuyển cho từng đối tượng tính giá thành. Trường hợp phân xưởng, tổ đội sản xuất trong kỳ có nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc thì chi phí sản xuất chung được tiến hành phân bổ theo tiêu thức phù hợp. Tiêu thức đó có thể là chi phí nhân công trực tiếp, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, định mức chi phí sản xuất chung… Để tập hợp chi phí sản xuất chung kế toán sử dụng tài khoản 627 – Chi phí sản xuất chung. Tài khoản này cuối kỳ không có số dư. Nội dung phản ánh của tài khoản 627 được thể hiện qua sơ đố sau Kết cấu của tài khoản 627 – Chi phí sản xuất chung Nợ TK 627 Có -Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ -Các khoản giảm chi phí sản xuất chung -Kết chuyển hay phân bổ chi phí sản xuất chung vào chi phí sản phẩm hay lao vụ, dịch vụ Tài khoản 627 được chia làm 6 tài khoản chi tiết: TK 6271 – Chi phí nhân viên phân xưởng: Phản ánh chi phí về lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp và các khoản tính theo lương tră cho nhân viên phân xưởng. TK 6272 – Chi phí vật liệu: Theo dõi toàn bộ các khoản chi phí về vật liệu xuất dùng chung cho phân xưởng như xuất bảo dưỡng, sử chữa thiết bị máy móc…, các chi phí vật liệu cho quản lý phân xưởng (giấy bút, văn phòng phẩm…) TK 6273 – Chi phú dụng cụ sản xuất: là những chi phí về công cụ dụng cụ sản xuất dùng trong phân xưởng. TK 6274 – Chi phí khấu hao tài sản cố định: phản ánh các chi phí khâu hao TSCĐ thuộc các phân xưởng sản xuất. TK 6277 – Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm các chi phí dịch vụ thuê ngoài phục vụ sản xuất kinh doanh của các phân xưởng, tổ đội như chi phí sửa chữa TSCĐ, điện, nước, điện thoại… TK 6278 – Chi phí bằng tiền kế hoạchác: là các khoản chi phí còn lại ngoài những khoản phí kể trên như chi phí hội nghị, lễ tân, tiếp kế hoạchách, giao dịch…của phân xưởng tổ, đội sản xuất. 3.2 Trình tự hoạch toán +Căn cứ vào các khoản phân bổ tiền lương và các khoản bảo hiểm xác định chi phí tiền lương phải trả cho nhân viên quản lý phân xưởng, đội sản xuất trong kỳ Nợ TK627 (6271 chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK334 +Trích BHYT, BHXH, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (19%) Nợ TK627 (6271 chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK338 (3382, 3383, 3384) +Khi xuất vậtliệu dùng chung cho từng phân xưởng Nợ TK627 (6272 chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK 153 +Khi xuất công cụ, dụng cụ sản xuất dùng cho các phân xưởng (loại phân bổ một lần) Nợ TK627 (6273 chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK 153 +Trích khâu hao tài sản cố định ở từng phân xưởng Nợ TK627 (6274 chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK 214 +Chi phí dịch vụ mua ngoài Nợ TK 627 (6277 chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK 331 Đối với đơn vị á._.p dụng thuế GTGT theo phương pháp khâú trừ thuế thì ghi vào TK 627 phần chi phí dịch vụ mua ngoài chưa thuế, còn phần thếu ghi vào TK 133. +Các chi phí theo dự toán tính vào chi phí sản xuất chung Nợ TK 627 (chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK335 (chi tiết chi phí phải trả) Có TK 142(chi tiết chi phí trả trước) +Các chi phí bằng tiền khác Nợ TK 6278 (chi tiết theo từng phân xưởng) Có TK (111, 112) +Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Nợ TK (111, 112, 152, 138…) Có TK 627 (chi tiết theo từng phân xưởng) +Cuối kỳ tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung theo tiêu thức phù hợp cho từng đối tượng chịu chi phí Nợ TK 154 (chi tiết theo từng đối tượng) Có TK 627 (chi tiết theo từng tài khoản chi tiết) Công thức phân bổ chi phí sản xuất chung: Chi phí SXC phân bổ cho từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ cho tất cả các đối tượng Tổng chi phí sản xuất chung cần phân bổ = x Sơ đồ 3: Sơ đồ hoạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung TK 111,112 TK 334,338 TK 627 TK 152,153 Chi phí NVL, CCDC Trị giá NVL còn chưa SD và phế liệu thu hồi Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Chi phí nhân công TK 154 TK 1421,335 TK 214 TK 111,112 TK 331 Chi phí theo dự toán Chi phí khâu hao TSCĐ Chi phí bằng tiền khác Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí SXC Chi phí dịchvụmua ngoài TK 133 Thuế gtgt đ.vào được KT 4.Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang 4.1 Tổng hợp chi phí sản xuất Toàn bộ chi phí sản xuất sau khi đã tập hợp riêng từng khoản mục cuối kỳ được kết chuyển để tổng hợp chi phí sản xuất theo từng đối tượng. Để tổng hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp kế toán sử dụng tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Tài khoản 154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ… của các bộ phận sản xuất khinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ. Nội dung phản ánh của tài khoản 154 được phan ánh qua sơ đồ sau: Kết cấu của tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Nợ TK 154 Có -Tổng chi phí phát sinh theo từng đối tượng -Các khoản chi phí ghi giảm chi phí sản xuất. -Tổng giá thành sản phẩm lao vụ, dịch vụ hoàn thành Dư nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm lao vụ, dịch vụ dở dang chưa hoàn thành +Cuối kỳ kết chuyển chi phí NVL trực tiếp (chi tiết theo từng đối tượng) Nợ TK 154 Có TK 621 +Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp (chi tiết theo từng đối tượng): Nợ TK 154 Có TK 622 +Cuối kỳ, kết chuyển chi phí sản xuất chung (chi tiết theo từng đối tượng): Nợ TK 154 Có TK 627 +Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất Nợ TK liên quan (152, 1381, 334, 821, …) Có TK 154 (chi tiết từng loại sản phẩm) +Phản ánh giá trị thực tế của sản phẩm hoan thành trong kỳ Nợ TK 155: Thành phẩm nhập kho Nợ TK157: Thành phẩm gửi bán Nợ TK 632 : Thành phẩm bán thẳng không qua kho. Có TK 154 (chi tiết theo từng sản phẩm ) TK 152 TK 621 TK 154 TK 622 Cuối tháng kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Trị giá NVL còn chưa SD và phế liệu thu hồi Phế liệu thu hồi Cuối thàng kết chuyển chi phí NVL trực tiếp TK 138 TK 155 TK 157 TK 632 Giá thành thực tế thành phẩm nhập kho Gí thành thực tế thành phẩm gửi bán Giá thành thực tế thành phẩm bán thẳng Bồi thường phải thu do sản xuất hỏng TK 627 Cuối tháng kết chuyển chi phí sản xuất chung Sơ đồ 4: Sơ đồ hoạch toán chi phí sản phẩm 4.2 Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm còn đang nằm trong quá trình sản xuất (chưa qua công đoạn sản xuất cuối cùng). Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán xác định phần chi phí sản xuất mà sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu. Việc đánh giá sản phẩm dở dang hợp lý là một trong những nhân tố quyết định đến tính trung thực hợp lý của giá thành sản xuất của sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Song việc đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ là công việc rất khó và phức tạp kế hoạch không thể thực hiện một cách chính xác tuyệt đối. Kế toán sẽ tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ và tính cấu thành của chi phí, yêu cầu quản ký, trình độ của nhân viên kế toán sẽ lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ thích hợp. 4.2.1.Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp ước tính sản lượng hoàn thành tương đương. Theo phương pháp này kế toán phải dựa vào mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giừo công hoặc tiền lương định mức để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá sản phẩm dở dang. Công thức tính như sau: *Đối với những chi phí bỏ vào một lần ban đầu: *Đối với chi phí bỏ dần vào theo mức độ sản phẩm : Trong đó: -D dk và Dck là những CPSX của sản phẩm làm dở đầu kỳ và cuối kỳ -C là chi phí sản xuất bỏ vào trong kỳ. -Qd là kế hoạchối lượng sản phẩm làm dở cuối kỳ -Qtp là khôí lượng thành phẩm hoàn thành trong kỳ. -Q’đ là khôí lượng sản phẩm làm dở đã tính đổi theo sản phẩm hoàn thành tương đương. Theo phương pháp này kết quả đánh giá sản phẩm dở dang là tương đối hợp lý. Khôí lượng công việc tính toán nhiều và phức tạp đòi hỏi phải xác định mức độ hoàn thành chính xác. Phương pháp này thường áp dụng trong những doanh nghiệp sản xuất mà những sản phẩm có khối lượng sản phẩm làm dở cuối kỳ lớn, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thì chiếm tỷ trọng kế hoạch không lớn lắm. 4.2.2 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Theo phương pháp này sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ tính thành chi phí nguyên vật liệu trực tiếp còn chi phí sản xuất kế hoạch khác thì tính hết cho thành phẩm trong kỳ chịu Đối với doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp thì sản phẩm làm dở của các giai đoạn sau được đánh giá theo giá thành nửa thành phẩm của giai đoạn trước đó chuyển sang. 4.2.3. Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính Theo phương pháp này toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy. Trong sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính mà thôi.Công thức tính: Giá trị SPDD cuối kỳ = Giá trị vật liệu chính trong SPDD đầu kỳ Giá trị vật liệu chính phát sinh tron kỳ + Số lượng sản phẩm hoàn thành Số lượng sản phẩm làm dở + Số lượng SP làm dở x 4.2.4. Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến Theo phương pháp này, sản phẩm dở dang được xác định bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính tiêu hao nằm trong sản phẩm làm dở và 50% chi phí chế biến. Công thức tính: Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Giá trị NVL chính nằm trong SPDD 50% chi phí chế biến so với thành phẩm = + 4.2.5. Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo kế hoạch hay định mức Căn cứ vào định mức tiêu hao cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định sản phẩm dở dang. Phương pháp này chỉ thích hợp với các sản phẩm xây dựng được định mức chi phí sản xuất hợp lý hoặc đã thực hiện phương pháp tính giá thành theo định mức. SPLD cuối kỳ = Khôí lượng SPLD cuối kỳ x Định mức chi phí III. ĐẶC ĐIỂM HOẠCH TOÁN CPSX TẠI CÁC DOANH NGHIỆP ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP KIỂM KÊ ĐỊNH KỲ Kiểm kê định kỳ là phương pháp kế không phản ánh một cách thường xuyên liên tục, cập nhật tình hình biến động tăng, giảm, hiện có của từng loại hàng tồn kho vào các tài khoản tương ứng mà căn cứ vào kết quả kiểm kê để phán ánh giá trị tồn kho cuối kỳ trên có sở sổ kế toán tổng hợp và từ đó tính ra trị giá vật tư, hàng hoá đã xuất trong kỳ. Phương pháp kiểm kê định kỳ và phương pháp kê khai thường xuyên chỉ kế hoạchác nhau trong việc hoạch toán những nghiệp vụ liên quan đến nhóm tài khoản hàng tồn kho. Vì vậy, việc hoạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ nhìn chung giống với hoạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thương xuyên. 1. Hoạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 1.1. Tài khoản sử dụng Do đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ nên chi phí nguyên vật liệu xuất dùng khó có thể xác định được giá trị nguyên vật liệu xuất dùng cho từng mục đích. Để phục vụ cho công việc tính giá thành kế toán phải theo dõi chi tiết các chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng. Cuối kỳ, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định dược giá trị nguyên vật liệu , dụng cụ tồn kho và hàng mua đang đi trên đường, kế toán sẽ phản ánh một lần giá trị vật liệu xuất dùng cho từng mục đích. Tổng giá vật tư hàng hoá xuất dùng Trị giá hàng hoá tồn đầu kỳ Trị giá hàng hoá vật tư nhập trong kỳ = + Trị giá hàng hoá vật tư tồn cuối kỳ - Để phản ánh các chi phí vật liệu xuất dùng cho sản xuất sản phẩm, kế toán sử dụng tài khoản 621 – chi phí NVL trực tiếp cho phương pháp kê khai thường xuyên. 1.2.Phương pháp hoạch toán. Phương pháp hoạch toán các nghiệp vụ liên quan đến việc xác định giá trị nguyên vật liệu xuất dùng cũng giống như trong phương pháp kê khai thường xuyên. +Trị giá nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp để tạo sản phẩm kế toán ghi: Nợ TK 621 (chi tiết theo từng đối tượng) Có TK611 (6111): trị giá NVL xuất dùng + Cuối kỳ kết chuyển chi phí NVL vào giá thành sản phẩm, lao vụ. Nợ TK 631 Có TK 621 Sơ đồ 5: Sơ đồ hoạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiệp TK 331,111, 112,311,411… TK 6111 TK 621 TK 631 TK 152, 153 Giá trị vật liệu tăng trong kỳ Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp Giá trị VL chưa dùng cuối kỳ Giá trị NVL dùng chế tạo sản phẩm Kết chuyển giá trị vật liệu chưa dùng đầu kỳ 2. Hoạch toán chi phí nhân công trực tiếp Về chi phí nhân công trực tiếp, tài khoản sử dụng và cách tập hợp chi phí trong kỳ giống như phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ, để tính giá thành sản phẩm , lao vụ, dịch vụ, kế toán tiến hành kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản 631 theo từng đối tượng: Nợ TK 631 Có TK 622 3. Hoạch toán chi phí sản xuất chung Toàn bộ chi phí sản xuất chung được hoạch toán bvào TK 627 và được theo dõi chi tiết theo từng tiểu khoản tương ứng giống như trong phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ, chi phí sản xuất hung sẽ được phân bổ vào tài khoản 631 (chi tiết theo từng đối tượng): Nợ TK 631 Có TK 627 4. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang 4.1. Tổng hợp chi phí sản xuất Để phục vụ cho việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm kế toán sử dụng tài koản 631 – giá thành sản xuất. Tài khoản này được hoạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí và theo nhóm, loại sản phẩm …TK631 cuối kỳ không có số dư. nội dung phản ánh của TK631: Kết cấu TK 631 – Giá thành sản xuất Nợ TK 631 Có -Phản ánh giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và các chi phí sản xuất trong kỳ liên quan đếnchế tạo sản phẩm -Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ -Tổng giá thành sản phẩm hàon thành -Giá trị thu hồi ghi giảm chi phí từ sản xuất * Đầu kỳ, kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang Nợ TK 631 (chi tiết theo từng đối tượng) Có TK 154 (chi tiết theo đối tượng) * Cuối kỳ, kết chuyển chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo từng loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ… + Chi phí NVL trực tiếp Nợ TK 631 Có TK 621 + Chi phí nhân công trực tiếp: Nợ TK 631 Có TK 622 + Phân bổ chi phí sản xuất chung Nợ TK 631 Có TK 627 + Các khoản thu hồi do ghi giảm chi phí (nếu có) Nợ TK liên quan (111, 112, 138…) Có TK 631 + Cuối kỳ căn cứ vào kết quả kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang ghi bút toán kết chuyển Nợ TK 154 Có TK 631 + Tổng giá thành sản phẩm , lao vụ hoàn thành Nợ TK 632 Có TK 631 Sơ đồ 6: Sơ đồ hoạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ TK 621 TK 622 TK 631 TK 154 TK 627 Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp Giá trị sản phẩm dịch vụ dở dang cuối kỳ Kết chuyển hay phân bổ chi phí sản xuất chung Kết chuyển chi phí nhân công trực tiép Kết chuyển giá trị sản phẩm, dịch vụ dở dan đầu kỳ TK 632 Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm hoàn thành nhập kho, gửi bán hay tiêu thụ trực tiếp 4.2 Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang Việc kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang cũng dược tién hành như trong phương pháp kê khai thường xuyên. PHẦN 2 THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍVÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở XÍ NGHIỆP KHOA HỌC SẢN XUẤT THIẾT BỊ THÔNG TIN I I- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI XÍ NGHIỆP KHOA HỌC SẢN XUẤT THIẾT BỊ THÔNG TIN I 1-Lịch sử hình thành và phát triển của xí nghiệp Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I trước đây có tên là xí nghiệp sửa chữathiết bị thông tin I được thành lập vào ngày 13/1/1972 theo Quyết định số 33/QĐ của Tổng cục Bưu điện dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Khi mới thành lập, xí nghiệp có qui mô rất nhỏ, hoạt động theo phương thức hạch toán nội bộ thuộc khối thông tin bưu điện với nhiệm vụ là sửa chữa các máy thông tin vô tuyến, hữu tuyến, các máy đo lường điện tử trong và ngoài ngành. Trong gần 30 năm hoạt động và trưởng thành, xí nghiệp cho tới nay có thể chia ra thành các giai đoạn như sau : *Giai đoạn từ 1972 – 1975 : Hoạt động với tên gọi là Xí nghiệp sửa chữa thiết bị thông tin I có nhiệm vụ như đã nói ở phần trên. * Giai đoạn từ 1975 – 1985 : Phạm vi hoạt động của xí nghiệp được mở rộngkhông chỉ còn làm nhiệm vụ là sửa chữa mà còn có thêm nhiệm vụ mới đó là việc lắp đặt và trung tu các thiết bị thông tin với phạm vi hoạt động trải ra trên mặt bằng rộng hơn khi mà cả nước đã thống nhất, giai đoạn này là công việc gắn với mạng lưới trong việc lắp đặt sửa chữa các thiết bị thông tin tải ba trên đường trục Bắc – Nam. Xí nghiệp cũng đã xây dựng được trạm đo lường kiểm điệm cấp ngành để đo kiểm định thiết bị máy móc thông tin. Ở giai đoạn này xí nghiệp được Tổng cục công nhận và khen thưởng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đặc biệt nhân kỷ niệm 10 năm thành lập xí nghiệp, Hội đồng nhà nước đã tặng thưởng xí nghiệp Huân chương lao động hạng ba ghi nhận thành tích đóng góp của xí nghiệp trong lĩnh vực thông tin liên lạc. * Giai đoạn từ 1986 – 1991 theo hướng đổi mới, xoá bỏ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, xuất phát từ yêu cầu và đặc thù phát triển của ngành bưu điện, Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện đã ký quyết định số 1206/QĐ ngày 9/10/1995 về việc chuyển từ nhiệm vụ sửa chữa sang nhiệm vụ nghiên cứu sản xuất và đo đó xí nghiệp đã chính thức đổi tên thành. Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I. Tên giao dịch : Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I. Viết tắt : CT – IN Tên giao dịch tiếng Anh : CT – IN telecom manubacturing company. Trụ sở chính : 15B Ngõ Mai Hương – Quỳnh Lôi – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Trụ sở giao dịch : 18B nguyễn Dy – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I là một đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng mang tên “xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I”. Ở giai đoạn này xí nghiệp có nhiệm vụ chính là : - Nghiên cứu kỹ thuật sản xuát các thiết bị thông tin, chế thử và sản xuất các thiết bị thông tin đã nghiên cứu. - Thiết kế chế tạo các thiết bị nguồn. - Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tái tạo phục hồi, thay thế các linh kiện phụ kiện phụ tùng thiết bị thông tin có trên mạng lưới và tồn kho đạt hiệu quả kinh tế – kỹ thuật. - Tận dụng thêm năng lực của xí nghiệp để sản xuất các mặt hàng điện tử dân dụng phục vụ cho ngành bưu điện và toàn xã hội. * Giai đoạn từ 1991 – nay, nhiệm vụ của xí nghiệp trong giai đoạn này là tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của Tổng công ty giao. Nhìn chung, sau nhiều năm hoạt động trải qua biết bao thăng trầm trong chiến tranh và trong thời bình, xí nghiệp đang ngày càng vươn lên khẳng định vị trí quan trọng trong ngành bưu chính viễn thông Việt Nam. Ngày nay, với cơ chế quản lý mới, hiệu quả sản xuất được đặt lên hàng đầu, xí nghiệp đã bước tiến không ngừng về qui mô hoạt động, quan hệ giao dịch ngày càng mở rộng không chỉ trong nước mà còn vươn ra sang các nước khác. Hàng năm xí nghiệp đã mạnh dạn tích cực tham gia nhận thầu với các hàng viễn thông quốc tế như Motorola, Ericson, Fujitsu …về các công trình lắp đặt các trạm thu phát vô tuyến, các tuyến truyền dẫn mạng thông tin di động của VMS và Vinafone. Xét về mặt nhân sự, xí nghiệp cũng đã từng bước sắp xếp, bố trí lại lao động cho phù hợp qui mô và yêu cầu sản xuất. Đặc biệt là gần đây, xí nghiệp đã hoàn thành xây dựng đơn giá tiền lương mới được Tổng công ty phê duyệt. Đây thực sự là một cuộc cải cách để từ bỏ cơ chế cũ xây dựng qui chế phân phối mới hợp lý hơn, khuyến khích được sự đóng góp tích cực của mỗi thành viên xí nghiệp tạo cơ sở bồi dưỡng duy trì và phát triển lực lượng cán bộ kỹ thuật viên trẻ có năng lực, làm việc có năng suất và hiệu quả. Tóm lại, với phong cách quản lý, tổ chức sản xuất hết sức khoa học, chặt chẽ mang tính kỷ luật cao cùng với sự cố gắng, nhiệt tình lao động của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp mà hoạt dộng sản xuất kinh doanh đã đi vào nề nếp, trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên được nâng cao, cơ sở vật chất càng ngày đổi mới, loị nhuận hàng năm tăng lên và hoàn thành mọi nghĩa vụ đối với nhà nước. Dưới dây là một số chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong những năm gần đây : Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Tổng doanh thu 26.852.000.000 50.074.153.276 71.289.145.879 Nộp ngân sách 813.000.000 6.570.000.000 8.150.000.000 Tổng vôn lưu động 147.160.000.000 154.037.586.615 195.597.449.497 Tổng vốn cố định 3.206.000.000 4.499.657.430 5.034.951.937 Lợi nhuận sau thuế 619.702.000 847.336.000 2.042.952.000 Thu nhập bình quân 1.100.000 1.190.000 1.300.000 Trong thời gian tới, xí nghiệp tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm, chú trọng đầu tư theo chiều sâu, đổi mới chức năng nhiệm vụ, phương thức hoạt động, tổ chức lại các bộ phận sản xuất … 2- Đặc điểm về tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp. 2.1. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp. Trong bất cứ một doanh nghiệp nào công tác quản lý là khâu rất quan trọng để duy trì hoạt động sanr xuất kinh doanh được liên tục, sản phẩm được lưu thông, đảm bảo việc giám sát chặt chẽ tình hình sản xuất trong doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm … ở xí nghiệp CT - IN bộ máy quản lý qua nhiều lần thanh giảm nay còn lại đội ngũ cán bộ, có năng lực giữ vai trò chủ chốt và điều hành toàn bộ xí nghiệp một cách năng động và có hiệu quả. Bộ máy quản lý ở xí nghiệp được tổ chức theo mô hình quản lý tập trung bao gồm : 3 phòng ban, 2 phân xưởng sản xuất và một trung tâm ứng dụng công nghệ viễn thông. * Đứng đầu xí nghiệp là giám đốc với nhiệm vụ điều hành và chịu trách nhiệm chung về mọi mặt hoạt động kinh doanh, đời sống cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp, huy động vốn đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi, đảm bảo công ăn việc làm và thu nhập cho công nhân đến việc quyết định phân phối thu nhập và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhànước. * Hai phó giám đốc : phó giám đốc kinh doanh và phó giám đốc kỹ thuật có nhiệm vụ giúp việc cho giám đốc và có trách nhiệm hoàn thành tốt công việc được giao, thay mặt giám đốc giải quyết phần công việc theo trách nhiệm của mình. Cụ thể : Phó giám đốc kinh doanh có nhiệm vụ giúp giám đốc phụ trách phần kinh doanh của xí nghiệp như theo dõi quản lý việc xuất nhập vật tư, hàng hoá, giám sát quá trình bán hàng, thanh toán… Phó giám đốc kỹ thuật : phụ trách về lĩnh vực chuyên môn kỹ thuật, giám sát quá trình sản xuất, đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, tạo ra sản phẩm theo đúng yêu cầu kỹ thuật, nghiên cứu, xét duyệt cac dự án cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, lập và thay thế định mức kỹ thuật… Các phòng ban chức năng có nhiệm vụ giúp ban lãnh đạo công ty quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc, chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban như sau : * Phòng kinh tế chia thành 3 bộ phận phụ trách 3 nhiệm vụ khác nhau : Bộ phận kế hoạch : Xây dựng kế hoạch ngắn và dài hạn cho từng giai đoạn, điều phối sản xuất, khai thác các nguồn thu mua cho sản xuất, xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất. Mọi mặt đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời với năng lực của xí nghiệp sao cho cân đối giữa các mặt vật tư – lao động và máy móc thiết bị đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục. Bộ phận tài chính (kế toán – tài vụ) : có trách nhiệm quản lý toàn bộ của xí nghiệp, chịu trách nhiệm về các hoạt động tài chính – kế toán trong xí nghiệp theo đúng qui định của Nhà nước. Hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện công tác kế toán trong xí nghiệp, cung cấp các sóo liệu cần thiết cho các bên liên quan… Bộ phận kinh doanh xuất nhập khẩu : có trách nhiệm tìm kiếm nguồn hàng, nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác và đi đến ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu phục vụ cho việc lưu thông hàng hoá, xuất khẩu hàng hoá. Phòng tổng hợp (thực hiện tổ hợp các công việc tổ chức – hành chính – lao động, tiền lương – bảo vệ). Quản lý về mặt nhân sự theo chế độ và nội quy của Nhà nước và xí nghiệp, xây dựng chế độ tiền lương trình lên Tổng công ty xét duyệt theo kế hoạch hàng năm. Xây dựng qui chế, điều lệ tổ chức hoạt động trong xí nghiệp. Đồng thời, ở phòng còn cử ra ban bảo vệ để bảo vệ tài sản ở xí nghiệp. Phòng kỹ thuật (phòng viễn thông tin học) : Tiến hành kiểm tra kỹ thuật, xây dựng các định mức kinh tế – kỹ thuật, chất lượng sản phẩm. Cùng với hoạt động quản lý ở các phòng ban chức năng thì ở các phân xưởng sản xuất : phân xưởng gia công cơ khí, phân xưởng lắp ráp điện và trung tâm ứng dụng công nghệ mới còn bố trí các quản đốc phân xưởng, trưởng ca, tổ trưởng … chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh nội bộ của từng phân xưởng hay trung tâm do mình quản lý. Bố trí công nhân ở từng tổ đội sản xuất sao cho phù hợp với trình độ, khả năng từng người, thường xuyên giám sát hướng dẫn kỹ thuật cho công nhân… Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I được trình bày ở sơ đồ 1. 2.2. Đặc điểm về tổ chức sản xuất – kinh doanh 2.2.1. Đặc điểm về loại hình sản xuất – kinh doanh Xí nghiệp vừa mang đặc tính của một doanh nghiệp sản xuất chế tạo ra các sản phẩm hữu hình như điện thoại, tăng âm, các sản phẩm cơ khí … song lại vừa mang đặc điểm của một doanh nghiệp kinh doanh, dịch vụ như việc thực hiện các hoạt động : lắp đặt, bảo dưỡng, mua bán hàng hoá, sản phẩm … Tuy nhiên hoạt động sản xuất được xí nghiệp coi trọng. Hàng năm, xí nghiệp đã đầu tư nhiều vào trang thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ. Hiện nay, ở khâu sản xuất trong xí nghiệp vừa áp dụng đồng thời lao động thủ công và lao động bằng máy móc để chế tạo ra sản phẩm. 2.2.2. Đặc điểm về qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm (tăng âm, điện thoại) của xí nghiệp Sản phẩm sản xuất ra của xí nghiệp trong một chu kỳ kinh doanh là rất nhiều song hai sản phẩm tăng âm và điện thoại được coi là những sản phẩm chính trong quá trình sản xuất. Do vậy luận văn đi sâu vào nghiên cứu phần tập hợp chi phí sản xuất – giá thành của 2 sản phẩm này. Nguyên vật liệu dùng để sản xuất ra sản phẩm tăng âm và điện thoại gồm nhiều loại khác nhau, hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Theo thống kê thì có khoảng 60 loại nguyên vật liệu từ các linh kiện điện tử như ổ cắm, phích cắm, giấy cách điện … và các loại vật liệu cơ bản như : nhôm, tôn, thép, nhựa … Tuy nhiên, đa phần các loại nguyên vật liệu này được nhập từ nước ngoài. Tham gia vào việc sản xuất, chế tạo ra sản phẩm tăng âm và điện thoại gồm 2 phân xưởng : gia công cơ khí và lắp ráp điện. Phân xưởng gia công cơ khí là phân xưởng sản xuất ra các loại sản phẩm mang tính bán thành phẩm như chấn lưu điện tử, các loại vỏ mặt và chân máy tăng âm… để cung cấp cho quá trình lắp ráp sản phẩm tăng âm các loại thông qua các thao tác : dập, cắt, nén, ép, gò, hàn …Tại phân xưởng lắp ráp điện : tiếp nhận bán thành phẩm từ xưởng cơ khí (riêng đối với tăng âm) để lắp ráp tạo thành một tăng âm hoàn chỉnh. Riêng đối với điện thoại thì bộ phận lắp ráp điện chỉ tiến hành lắp ráp điện các linh kiện đã có sẵn nhập từ bên ngoài để tạo thành các máyđiện thoại khác nhau mà không qua phân xưởng gia công cơ khí. Sơ đồ 2 : Quy trình công nghệ sản xuất ra tăng âm và điện thoại ở xí nghiệp Nguyên vật liệu tôn, nhôm, thép cho tăng âm Phân xưởng gia công cơ khí Nắp, mặt, chân tăng âm áp biến áp Nguyên vật liệu (linh kiện điện tử IC, bán dẫn … cho tăng âm) Phân xưởng lắp ráp điện Nguyên vật liệu (linh kiện điện tử) cho điện thoại Sản phẩm tăng âm Sản phẩm điện thoại Thành phẩm nhập kho Kiểm nghiệm KCS Về trang thiết bị phục vụ cho sản xuất chỉ tập trung chủ yếu ở phân xưởng gia công cơ khí còn ở phân xưởng lắp ráp điện thì quá trình sản xuất hoàn toàn gần như thủ công bằng tay với các loại công cụ, dụng cụ. Do đó chất lượng của sản phẩm phụ thuộc nhiều vào tay nghề của công nhân lắp ráp. II- ĐẶC ĐIỂM VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN VÀ HÌNH THỨC KẾ TOÁN ÁP DỤNG TẠI XÍ NGHỆP CT – IN. 1- Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán Tổ chức công tác kế toán của xí nghiệp được tổ chức theo hình thức tập trung. Sơ đồ 3 : Tổ chức bộ máy kế toán tại xí nghiệp CT – IN Phòng Tài chính kế toán trưởng Thủ quỹ Kế toán trưởng Kế toán tổng hợp Kế toán vật tư, TSCĐ KT các khoản công nợ Công tác tổ chức kế toán theo dõi từ phòng kế toán xuống kho và các phân xưởng. * Tại phân xưởng có bố trí nhân viên thống kê phân xưởng làm nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra công tác hạch toán ban đầu, thu nhận, kiểm tra, sắp xếp các chứng từ, tổ chức chấm công của công nhân sản xuất. Sau đó, gửi các chứng từ về phòng kế toán để tiến hành ghi chép. * Tại các kho (nguyên vật liệu, thành phẩm) thủ kho có nhiệm vụ lập các phiếu nhập – xuất kho và ghi vào thẻ kho. Định kỳ thủ kho tập hợp các chứng từ gửi lên phòng kế toán. Cuối kỳ, tiến hành kiểm kê và lập báo cáo nhập, xuất, tồn kho gửi lên phòng kế toán. * Tại phòng kế toán nhận các chứng từ ban đầu theo sự phân công, các nhân viên kế toán thực hiện công tác kiểm tra, phân loại, xử lý chứng từ, tiến hành ghi sổ liên quan. Từ đó là cơ sở để tổng hợp, hệ thống hoá số liệu cung cấp thông tin cho việc quản lý tại xí nghiệp. Có thể thấy được nhiệm vụ của từng người cụ thể như sau : - Kế toán trưởng : là người chịu trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra toàn bộ công tác tài chính kế toán trong xí nghiệp, lập báo cáo kế toán – tài chính, cung cấp các thông tin kế toán – tài chính cho giám đốc, các phòng ban và đồng thời giúp lãnh đạo xí nghiệp phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của xí nghiệp để đề ra được những quyết định đúng đắn. - Kế toán vật tư, TSCĐ, có nhiệm vụ là theo dõi và quản lý vật liệu. TSCĐ, ghi chép, tổng hợp về tình hình biến động của vật tư, hàng hoá, TSCĐ, tình hình bảo quản, xuất nhập, tồn vật tư, hàng hoá, lập báo cáo kiểm kê vật liệu, hàng hoá, theo dõi, ghi chép, tính toán mức trích khấu hao TSCĐ trong kỳ. - Kế toán các khoản công nợ : Theo dõi nguồn vốn kinh doanh, các khoản nợ phải thu, nợ phải trả và tình hình thanh toán các khoản công nợ này. - Kế toán tổng hợp : nhiệm vụ chính của kế toán tổng hợp là theo dõi một cách tổng hợp toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh trong kỳ, sổ sách kế toán tổng hợp, trợ giúp cho kế toán trưởng lập các báo cáo tài chính và thực hiện công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm trong kỳ. - Kế toán thanh toán nội bộ : Có nhiệm vụ theo dõi và ghi chép tình hình biến động của vốn bằng tiền, các khoản tạm ứng cho cán bộ công nhân viên, các khoản phải trả, phải thu giữa xí nghiệp với cán bộ công nhân viên và giữa xí nghiệp với các đơn vị khác trực thuộc Tổng công ty. - Thủ quỹ : Theo dõi và quản lý số hiện có, tình hình thu, chi theo các hoá đơn chứng từ hợp lệ. Lập báo cáo thu chi hằng ngày và tiến hành phát lương cho cán bộ công nhân viên. 2- Hình thức kế toán áp dụng tại xí nghiệp CT – IN Để phù hợp với khối lượng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, đáp ứng kịp thời các yêu cầu quản lý và phù hợp với trang bị máy vi tính cho phòng kế toán nên hiện nay xí nghiệp đang áp dụng hình thức kế toán “chứng từ ghi sổ”, áp dụng kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên và đánh giá theo giá thực tế bình quân để phù hợp với điều kiện quản lý kinh tế trên máy vi tính. Niên độ kế toán của xí nghiệp áp dụng từ 01/01/N đến ngày 31/12/N. Đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép kế toán là Việt Nam đồng. Nguyên tắc chuyển đổi những đồng tiền khác là qui đổi theo tỷ giá của ngân hàng ngoại thương công bố tại thời điểm phát sinh chuyển đổi. * Trình tự kế toán : Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ gốc nhận được đã kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp, kế toán tiến hành phân loại lấy số liệu để ghi vào các sổ chi tiết. Đối với các chứng từthu – chi tiền mặt, hàng ngày được thủ quỹ ghi vào sổ quỹ. Với các nghiệp vụ phát sinh có chứng từ gốc (phiếu thu, chi; phiếu nhập, xuất …) kế toán tập hợp số liệu để ghi vào bảng tổng hợp chứng từ gốc làm căn cứ để cuối quý ghi vào bangr tổng hợp chứng từ gốc làm căn cứ để cuối quý ghi vào sổ cái các tài khoản liên quan. Đối với các nghiệp vụ phát sinh không có chứng từ gốc (như các nghiệp vụ kết chuyển, phân bổ chi phí …) đến cuối quý kế toán lập các chứng từ ghi sổ làm cơ sở để vào cho các sổ cái tài khoản liên quan. Cuối quý, kế toán từ các sổ chi tiết để lập bảng tổng hợp chi tiết. Đối chiếu sốliệu giữa bảng tổng hợp chi tiết với sổ cái, lấy số liệu ở sổ cái để lập bảng cân đối tài khoản. Số liệu ở bảng cân đối tài khoản và bảng tổng hợp chi tiết được kế toán lấy để lập các báo cáo kế toán – tài chính. III- KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT TẠI XÍ NGHIỆP KHOA HỌC SẢN XUẤT THIẾT BỊ THÔNG TIN I. Do đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng, đối tượng phục vụ gồm nhiều ngành nghề khác nhau nên danh mục các mặt hàng sản xuất tại xí nghiệp cũng rất phong phú. Có những mặt hàng thuộc về sản xuất thuần tuý như : tăng âm, điện thoại và các sản phẩm cơ khí khác… thì bên cạnh đó lại có những sản phẩm phải thông qua lao dộng dịch vụ mới có như công tác lắp ._.ẩm đã hoàn thành cuối quy trình công nghệ, nếu quy trình công nghệ phức tạp kiểu chế biến liên tục thì đối tượng tính giá thành ngoài thành phẩm ở bước công nghệ cuối cùng còn có thể là bán thành phẩm ở từng giai đoạn sản xuất . 2.3. Vận dụng hợp lý hệ thống tài khoản Các chứng từ kế toán trong hoạch toán ban đầu chỉ cung cấp thông tin có tính chất rời rạc về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Do đó chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý. Để đáp ứng được những yêu cầu đó đòi hởi kế toán phải tiến hành hoạch toán tổng hợp để có được các thông tin tổng hợp. Trong quá trình hoạch toán tổng hợp, kế toán sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình nếu vận dụng hợp lý hệ thống tài khoản. Các tài khoản giúp ké toán phản ánh, kiểm tra và giám xát từng đối tượng cụ thể trong doanh nghiệp. Việc phản ánh tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên các tài khoản tổng hợp vẫn chưa đủ. Mà kế toán cần hoạch toán chi tiết chi phí sản xuất về giá thành theo từng đối tượng cần hoạch toán như từng mặt hang, nhóm hàng. Căn cứ vào việc sản xuất, cũng như yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, kế toán có thể mở chi tiết các tài khoản cấp 2, 3 để theo dõi chi tiết chi phí sản xuất và giá thành. Chẳng hạn như TK 154 “chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang” có thế mở chi tiết theo từng phân xưởng, từng mặt hàng, từng nhóm hàng…tương ứng doanh nghiệp có thể mở các TK cấp 2, 3 cho các TK 621, 622, 627… để phản ánh chi tiêt. 2.4. Tổ chức khoa học hệ thống sổ sách Cùng với việc hoàn thiện hệ thống tài khoản cần phải hoàn thiện hệ thống sổ sách. Tuy theo đặc điểm sản xuất kinh doanh, khả năng, trình độ của nhân vien kế toán, điều kiện trang thiết bị kỹ thuật trong công tác kê toán mà kế toán có thể lựa chọn hệ thống sổ sách cho khoa học, gọn nhẹ theo 4 hình thức ghi sổ sau: -Hình thức sổ kế toá Nhất ký chung -Hình thức sổ kế toán Nhật ký sổ cái -Hình thức sổ kế toán Chứng từ ghi sổ -Hình thức sổ kế toán Nhật ký chúng từ Các loại sổ kế toán thường dùng là: - Sổ kế toán tổng hợp - Sổ kế toán chi tiết Trong đó, sổ kế toán Tổng hợp có 2 sổ kế toán chủ yếu là: Sổ cái và Sổ nhật ký. Còn sổ kế toán chi tiết gồm các sổ, thẻ kế toán chi tiết. - Sổ Nhật ký chung dùng để ghi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong từng kỳ kế toán và trong niên độ kế toán theo trình tự thời gian và quan hệ đối ứng các tài khoản của các nghiệp vụ đó. Số liệu kế toán trên sổ nhật ký trung phản ánh tống số phát sinh bên nợ và bên có của tất cả các tài khoản sử dụng ở doanh nghiệp. - Sổ cái dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thời kỳ, trong niên độ kế toán theo các tài khoản kế toan được quy định trong chế độ tài khoả kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp. Số liệu trên Sổ cái sẽ được dùng để lập các báo cáo tài chính. - Sổ kế toán chi tiết dùng đẻ ghi chép các đồi tượng kế toán cần thiết phải theo dõi chi tiết theo yêu cầu quản lý. Số liệu kế toán trên sổ kế toán chi tiết cung cấp các thông tin phục vụ cho việc quản lý từng loại tài sản, nguồn vốn, công nợ chi tiết được phản ánh trên Sổ chi tiết và Sổ cái. Tổ chức khoa học hệ thống sổ kế toán là rất cần thiêt. Trên thực tế thì vẫn còn tồn tại về sổ sách kế toán cần được hoàn thiện như công tác ghi sổ còn nhiều rườm rà phức tạp, mở và ghi chép sổ không đúng với nguyên tắc và phương pháp kế toán dẫn số liệu kế toán nhiều khi không đầy đủ, thiếu chính xác, thiếu trung thực. Để hoàn thiện thì sổ sách kế toán cần phải đáp ứng các yêu cầu sau: - Áp dụng hệ thống sổ đơn giản, gọn nhẹ, thuận tiện cho việc ghi chép, giảm tới mức thấp nhất công việc ghi chép của kế toán nhưng vẫn phản ánh đầy đủ chính xác thông tin. - Tuỳ theo từng nghiệp vụ phát sinh cũng như yêu cầu theo dõi chi tiết từng hoạt động mà mở thêm các sổ chi tiết để theo dõi. 2.5. Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán phải đảm bảo các nguyên tắc gọn nhẹ xong vẫn phải đảm bảo thực hiện đầy đủ khối lượng công tác kế toán và các phần hành kế toán. Mặt khác các nguyên tắc như nguyên tắc bất vị thân, bất kiêm nhiệm; hiệu quả và tiết kiệm; chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động…cần phải đựoc chú trọng. Tuỳ vào đặc điểm sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp mà tổ chức bộ máy kế toán có thể được tổ chức tập trung hay phân tán hoặc kết hợp cả tập chung và phân tán. Với các đơn vị có quy mô nhỏ hoặc đơn vị có quy mô lớn nhưng các đơn vị thành viên phân bố trên cùng một địa bàn có trang bị các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại thì nên tổ chức bộ máy kế toán tập trung. Nhưng với các đơn vị có quy mô lớn, các đơn vị thành viên phân bố rộng khắp trên nhiều địa bàn, trang thiết bị thông tin liên lạc không cao thì tôt nhất bộ máy kế toán được tổ chức phân tán. 3. Nguyên tắc của việc hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. - Hoàn thiện phải phù hợp với chế độ kế toán hiện hành và các chế dộ kinh tế – tài chính của Nhà nước đồng thời phải thích ứng với xu hướng phát triển trong tương lai. Chế độ kinh tế – tài chính, chế độ kế toán của Nhà nước là những văn bản mang tính chất bắt buộc thể hiện đương lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực kế toán – tài chính ở một giai đoạn nhất định. Việc tuân theo nguyên tắc giúp cho sự hoàn thiện của doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật. Mặt khác xu hướng trong tương lai có nhiều biến chuyển lớn đòi hởi sự hoàn thiện trong các doanh nghiệp phải kịp thời nắm bắt cho phù hợp. - Hoàn thiện phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu quản lý và trình độ nhân viên kế toán trong doanh nghiệp đây chính là nguyên tấc cơ bản của sự hoàn thiện trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này bắt nguồn từ các yếu tố nội tại đó là những tồn tại hãn chế trong doanh nghiệp. Các điều kiện về sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ nhân viên kế toán sẽ giúp cho doanh nghiệp có một cái nhìn sâu sắc hơn trong quá trình hoàn thiện. - Hoàn thiện phải mang tính khả thi cao trên quan điểm tiết kiệm và hiệu quả. Thành công của một phương án hoàn thiện không chỉ thể hiện ở việc xây dựng được một lý luận khoa học, logic mà nó còn phải chứng minh được là két quả của phương án hoàn thiện đó có thể áp dụng được trong thực tiễn và thực hiện tốt. Thực tế cho thấy có rất nhiều phương án hoàn thiện tuy có thể đem ứng dụng trong thực tế song hiệu quả đem lại không cao do chi phí để thực hiện nó là quá lớn. Do đó quan điểm vừa tiết kiệm vừa hiệu quả cũng sẽ chi phối khi xây dựng được một phương án hoàn thiện khả thi. 4. Ý nghĩa của việc hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành - Đối với công tác kế toán, hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm giúp cho kế toán nhanh trong, chính xác trong việc thu thập , xử lý, tính toán và tập hợp chi phí và giá thành nhờ có một hệ thống thống nhất, đồng bộ các chứng từ kế toán và phương pháp hoạch toán phù hợp, đảm bảo cho công tác tính đúng, tính đủ chi phí vào trong giá thành sản phẩm. Ngoài ra việc hoàn thiện còn giúp kế toán quản lý chặt chẽ mối quan hệ giữa các yếu tố chi phí, cung cấp các số liệu cho nhiều bộ phận có liên qua thông qua hệ thống tài khoản và sổ sách kế toán khoa học. - Đối với công tác quản lý doanh nghiệp, hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí và giá thành sản phẩm cung cấp các thông tin đầy đủ hơn, chính xác hơn, khoa học hơn cho các nhà quản lý để trên có sở đó nhà quản lý phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự đoán chi phí, tình hình sử dụng các tài sản, vật tư, tiền vốn, lao động, tình hình thực hiện giá thành sản phẩm để có các quyết định quản lý thích hợp về việc tiết kiệm chi phí và phấn đấu hạn giá thành sản phẩm II. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT CÔNG TÁC TỔ CHỨC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở XÍ NGHIỆP CT – IN Trong những năm gần đây, cùng với xu hướng thay đổi chung của nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không ngừng đổi mới, hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức và phương pháp hạch toán. Là một doanh nghiệp nhà nước có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, xí nghiệp CT-IN cũng không ngừng đổi mới và vững mạnh. Bên cạnh đó, công tác kế toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng không ngừng hoàn thiện và đạt được nhiều thành tựu . Bộ máy kế toán của xí nghiệp thường xuyên được kiện toàn và tổ chức lại một cách hợp lý và hiệu quả, phù hợp với qui mô sản xuất, tính chất hoạt động của xí nghiệp, đảm bảo chức năng xử lý thông tin và cung cấp thông tin cho bộ phận quản lý xí nghiệp. Từ chỗ bộ máy kế toán cồng kềnh nay chỉ còn 6 nhân viên kế toán được phân công giao việc cụ thể, đáp ứng được yêu cầu luân chuyển chứng từ hợp lý, dễ phân công công việc và thuận tiện cho việc cơ giới hoá áp dụng máy vi tính. Hàng năm, xí nghiệp đã cử những cán bộ kế toán có năng lực đi học nhằm nâng cao chuyên môn, nắm bắt được những thông tin mới trong nước và thông lệ kế toán quốc tế. Đánh giá được vai trò quan trọng của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, xí nghiệp CT-IN đã không ngừng hoàn thiện công tác hạch toán sao cho đảm bảo tính khoa học, chính xác của số liệu và phản ánh được nguyên vẹn sự việc kinh tế phát sinh giúp cho chi phí của sản phẩm đầu ra được tính đúng, tính đủ. Hiện nay, kế toán của xí nghiệp áp dụng hạch toán theo hình thức “chứng từ ghi sổ” cho thấy xí nghiệp đã có một sự cân nhắc kỹ càng, lựa chọn hợp lý và đúng đắn để phản ánh hoạt động sản xuất – kinh doanh, hình thức này khá đơn giản, dễ làm và thực tế đã tỏ ra phù hợp với đặc điểm qui mô sản xuất – kinh doanh của xí nghiệp, thuận tiện cho việc áp dụng trang bị máy vi tính vào công tác kế toán trong xí nghiệp. Công tác hạch toán của xí nghiệp trong các khâu chứng từ, sổ sách đã đivào nề nếp, nhìn chung đã đảm bảo tính chính xác, rõ ràng với chế độ kế toán hiện hành góp phần cung cấp đầy đủ số liệu để tính giá thành sản phẩm ở xí nghiệp theo đúng định kỳ. Xí nghiệp cũng đã áp dụng tính lương theo sảnphẩm sản xuất đối với bộ phận trực tiếp tham gia sanr xuất, chế tạo sản phẩm và tính lương dựa trên hiệu quả sản xuất chung toàn xí nghiệp đối với bộ phận quản lý, kỹthuật. Có thể thấy đây là hình thức trả lương phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng lao động với chất lượng lao động. Do đó, nó có tác dụng là động lực kinh tế thúc đẩy mọi người làm việc năng suất lao dộng chất lượng và hiệu quả cao. Việ xác định đối tượng tập hợp chi phí theo từng loại sản phẩm (từng loại hoạt động) cụ thể đã giúp cho công tác quản lý, theo dõi chi phí sản xuất theo từng mặt hàng sảnphẩm và do đó có tác động trực tiếp tới việc hạ gía thành sản phẩm của xí nghiệp. Bên cạnh đó, việc tập hợp chi phí theo từng khoản mục đã tạo điều kiện cho việc tính giá thành kịp thời, chính xác, công tác phân loại chi phí khoa học đảm bảo cho nhu cầu quản lý chi phí dễ dàng, tránh được việc hạch toán trùng lắp giữa các công đoạn sản xuất. Ngoài ra, công tác tính giá thành của xí nghiệp được hạch toán theo từng quí, nó thuận tiện cho việc đảm bảo và tập hợp đầy đủ các khoản mục chi phí tính giá thành phát sinh trong quí. Là tiền đề cho giá thành được tính đúng, tính đủ. Cùng với sự lớn mạnh của xí nghiệp, tổ chức công tác kế toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, đảm bảo tính thống nhất về phạm vi, phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế giữa kế toán với các bộ phận liên quan, đồng thời phản ánh trung thực khách quan tình hình hiện có và sự biến động của chi phí và giá thành sản phẩm. Do đó về cơ bản công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở xí nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể của đơn vị có qui mô vừa, sản xuất các sản phẩm phục vụ cho ngành bưu điện và điện tử dân dụng. Song bên cạnh những thành tích đã đạt được trên, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở xí nghiệp còn có một số hạn chế nhất định cần phải tiếp tục hoàn thiện. 1- Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nếu như chi phí sản xuất tính cho một thời kỳ nhất định thì giá thành sản phẩm lại tính cho những sản phẩm hoàn thành nhưng cả hai đều thống nhất ở một lượng hao phí về vật tư, lao động, tiền vốn. Tính giá thành sản phẩm chính là mục đích của việc hạch toán chi phí. Do đó mà việc hạch toán đúng đắn chi phí sản xuất sẽ làm tiền đề cho việc tính giá thành sản phẩm được chính xác. Ở xí nghiệp, nguyên vật liệu là một bộ phận lớn nhất cấu thành nên giá thành sản phẩm và đồng thời cũng là một phần nằm trong chi phí sản xuất. Việc tính đúng và tính đủ giá trị nguyên vật liệu đã tham gia vào quá trình sản xuất để tạo nên sản phẩm sẽ góp phần vào việc đảm bảo cho sự chính xác của giá thành. Trong quá trình hạch toán chi phí nguyên vật liệu ở xí nghiệp, kế toán nguyên vật liệu mở chi tiết theo từng loại nguyên vật liệu chính (theo từng chủng loại, từng bộ nguyên vật liệu) để theo dõi quá trình nhập, xuất, tồn kho nguyên vật liệu chính trong kỳ. Trong khi đó ở bộ phận nguyên vật liệu phụ như sơn, nhãn, mác, bao bì … kế toán nguyên vật liệu lại không mở sổ để theo dõi riêng (có thể mở nhiều sổ chi tiết hoặc một sổ chi tiết để theo dõi chung cho toàn bộ vật liệu phụ). Do không mở sổ theo dõi và quản lý khoản chi phí này nên không đảm bảo cho nguyên tắc đúng và tính đủ chi phí nguyên vật liệu vào giá thành và đồng thời không thể cung cấp số liệu cho các bộ phận có liên quan như kỹ thuật, kế hoạch tính toán và xây dựng định mức kinh tế – kỹ thuật phục vụ cho yêu cầu quản lý. 2- Về hạch toán chi phí nhân công Như ở phần hai đã đề cập, bộ phận chi phí nhân công trực tiếp ngoài phần tiền lương, khoản lương nghỉ phép của người công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm thì còn bao gồm cả chi phí nhân công (tiền lương) của bộ phận quản lý phân xưởng như quản đốc , phó quản đốc phân xưởng, nhân viên thống kê phân xưởng… Đây là bộ phận không tham gia trực tiếp tạo nên sản phẩm mà khi khi có trách nhiệm giám sát chung tình hình thực hiện công việc sản xuất của tưngf nhân viên trong phân xưởng. Mặc dù, khi kế toán của xí nghiệp có tính chi phí tiền lương của bộ phận quản lý phân xưởng này vào trong chi phí nhân công trực tiếp thì kết quả cuối cùng làgiá thành sản phẩm không sai song việc đưa khoản chi phí này vào trong chi phí nhân công trực tiếp sẽ không phản ánh đúng nội dung của chi phí. Do vậy khi phân tích tỷ trọng các yếu tố chi phí nằm trong giá thành sản phẩm sẽ không chính xác. vì vậy cần phải hạch toán khoản chi phí này về chi phí sản xuất chung. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay việc xem xét và tính toán lương nghỉ phép của bộ phận lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm là việc làm đúng đắn và rất cần thiết. Song quan trọng hơn là việc hạch toán như thế nào cho đúng đắn. việc tính lương nghỉ phép phụ thuộc nhiều vào nhân tố cả chủ quan và khách quan. Nhân tố khách quan đó là việc xuất hiện tần xuất (số ngày) nghỉ phép thực tế của người công nhân trong khi đó nhân tố chủ quan đó là việc có tính đến việc trích trước hay không trích trước lương nghỉ phép của bộ phận này. cả nhân tố chủ quan và khách quan đều có ảnh hưởng cuối cùng đến giá thành sản phẩm. Thực tế ở xí nghiệp, bộ phận lương nghỉ phép được được tính theo từng quý và được hạch toán ngay vào trong chi phí của quý đó. Trong khi số lượng côngnhân nghỉ phép theo từng quý là không ổn định do đó có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác hạch toán và quản lý do vậy xí nghiệp cần phải xem xét và điều chỉnh cho hợp lý. 3. Về hạch toán chi phí khấu hao tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là một bộ phận chi phí nằm trong chi phí sản xuất chung cấu thành nên giá trị sản phẩm. Việc tính, trích và sản phân bổ phải được xây dựng trên những căn cứ khoa học và hợp lý phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp cũng như phải phù hợp với các quy định ban đầu của Bộ Tài chính. Trên thực tế công tác hạch toán chi phí khấu hao tài sản cố định của xí nghiệp còn nhiều điểm hạn chế như chỉ dựa vào “Bảng tính khấu hao tài sản cố định” và số quản lý máy móc thiết bị dùng trong quản lý, sản xuất kinh doanh do phân xưởng gửi lên để làm căn cứ ghi vào các sổ sách kế toán có liên quan. Bảng tính khấu hao TSCĐ được mở để theo dõi mức trích khấu hao của từng loại tài sản nằm trong nhóm tài sản bằng cách liệt kê hết thời gian sử dụng. Bảng này được lập theo từng quý nhưng như vậy căn cứ vào bảng sẽ không giúp cho các nhà quản lý thấy được tình hình trích khấu hao của quý trước, tình hình tăng giảm mức khấu hao TSCĐ trong quý trên cơ sở đó tính toán mức trích khấu hao trong quý. Mặt khác, bảgn tính và trích khấu hao TSCĐ chưa cho thấy được tình hình phân bổ mức khấu haođã được trích lập cho từng đối tượng sử dụng TSCĐ. Do vậy, cần thiết phải tổ chức xây dựng lại bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ lại cho phù hợp. 4. Về quy trình hạch toán và hệ thống sổ sách theo quy định. Với hình thức ghi chép kế toán hiện nay của xí nghiệp là “chứng từ ghi sổ ” hoàn toàn phù hợp với quy mô sản xuất của xí nghiệp. Về nguyên tắc hình thức này cho phép một htg sổ sách đơn giản, thuận tiện và dễ làm đồng thời cũng cho phép thưcj hiện được công tác kiểm tra đối chiếu số liệu kế toán. song trong công tác ghi chép thiết kế sổ sách ở xí nghiệp còn tồn tại một số hạn chế. Đó là việc đơn vị hạch toán bằng máy vi tính, bộ phận kế toán chỉ mở “chứng từ ghi sổ” cho các nghiệp vụ chưa có chứng từ gốc như nghiệp vụ kết chuyển hay phân bổ còn các nghiệp khác có chứng từ gốc lập theo mẫu quy định thống nhất của nhà nước nhuư phiếu thu, phiếu chi, phiếu nhập xuất kho… kế toán vào cho “bảng tổng hợp chứng từ gốc” có cùng nội dung kinh tế. Cuối kỳ, số liệu của các “chứng từ ghi sổ ” và “bảng tổng hợp chứng từ gốc” được vào cho các sổ cái và từ sổ cái để lập bảng cân đối tài khoản. tuy nhiên, trong quy trình hạch toán tổng hợp, kế toán có thể ghi bỏ xót nghiệp vụ, trùng lặp số liệu hoặc ghi sai về quan hệ đối ứng tài khoản thì không có một cơ sở nào giúp kế toán phát hiện những sai sót của mình. Vì vậy, để có căn cứ lập các báo cáo tài chính, kế toán cần phải có một sổ để tổgn hợp toàn bộ các phát sinh trong kỳ và là cơ sở để kế toán kiểm tra khớp đúng với số liệu trên bảng cân đối tài khoản. sổ này chính là sổ “đăng ký chứng từ ghi sổ” trong hình thức “chứng từ ghi sổ”. Như vậy công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở xí nghiệp CT – IN về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho xí nghiệp và nếu xí nghiệp khắc phục những thiếu sót và có sự điều chỉnh hợp lý thì công tác hạch toán sẽ hoàn thiện hơn và trở thành công cụ cung cấp thông tin đắc lực cho các nhà quản lý và quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GTSP Ở XÍ NGHIỆP CT- IN. 1. Hoàn thiện hạch toán chi phí nguyên vật liệu. Hiện nay tài khoản phản ánh nguyên vật liệu (nguyên vật liệu chính) ở xí nghiệp là tài khoản 152. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng chủng loại từng bộ nguyên vật liệu cvhính như sau. TK152. 111 : nguyên vật liệu chính – tôn. TK152. 112 : nguyên vật liệu chính – thép TK152. 121 : nguyên vật liệu chính – vỏ điện thoại. TK152. 122 : nguyên vật liệu chính – linh kiện điện tử. ……………………………………………………………….. Như vậy mới chỉ dừng lại ở nguyên vật liệu chính nhưng gtsp lại còn bao gồm giá trị nguyên vật liệu phụ do vậy cần phải mở chi tiết tk 152 để theo dõi toàn bộ vật liệu phụ như TK 152.2 : nguyên vật liệu phụ. đồng thời có thể mở chi tiết hơn cho từng loại nguyên vật liệu chính như tôn 0.8 ly tôn 1 ly, vỏ điện thoaị GS 480F và IG5140 … Việc đưa vào sử dụng các tk chi tiết nói trên có thể phục vụ cho nhu cầu thông tin chi tiết, tỷ mỉ, trên cơ sở những tk đó thì kế toán sẽ có thể công nhận xử lý chính xác về các mặt chi phí và giá thành sản phẩm. Với số lượng nguyên vật liệu rất lớn thì ngoài việc theo dõi chi tiết cho từng danh mục nguyên vật liệu, kế toán còn phải tổng hợp tình hình nguyên vật liệu có ở trong kỳ dưới một sổ gọi là “sổ danh điểm nguyênvật liệu”. Sổ này liệt kê toàn bộ nguyên vật liệu sử dụng trong xí nghiệp và thống nhất về tên gọi nguyên vật liệu, mã số, qui cách, đơn vị tính, đơn giá nguyên vật liệu. Việc xây dựng “sổ danh điểm nguyên vật liệu” rất thuận lợi trong việc sử dụng máy vi tính, khi cần thông tin về một loại nguyên vật liệu nào đó, kế toán xem xét mã số của nguyên vật liệu đó, do đó mà rút ngắn được thời gian cho kế toán theo dõi được tình hình nhập, xuất, tồn nguyên vật liệu. Mẫu sổ có thể như sau : SỔ DANH ĐIỂM NGUYÊN VẬT LIỆU STT Mã (danh điểm) vật liệu Tên, qui cách nguyên vật liệu Đơn vị tính Đơn giá Ghi chú 1 152111 Tôn Kg 152111-01 Tôn 0,8 ly Kg 152111-02 Tôn 1 ly Kg 2 152112 Thép Kg 3 152121 Vỏ điện thoại Chiếc . … … … …. … Thông tin về nguyên vật liệu trong kỳ một mặt phải đảm bảo tính chính xác và đầy đủ mặt khác phải đảm bảo cung cấp một cách khoa học và hợp lý nhất cho nhà quản lý. Việc xuất kho nguyên vật liệu cho từng loại sản phẩm (từng hoạt động) cũng cần phải được phản ánh vào một sổ riêng giúp cho đối tượng quản lý thấy được các chỉ tiêu về số lượng, giá trị và từng đối tượng sử dụng bởi nếu như ở sổ chi tiết chi phí nguyên vật liệu chỉ cho thấy chỉ tiêu về giá trị của từng loại nguyên vật liệu xuất cho một đối tượng nào đó hoặc trong khi ở sổ chi tiết nguyên vật liệu chỉ cho thấy việc xuất nguyên vật liệu cho nhiều đối tượng. Vì vậy, kế toán có thể lập một sổ riêng gọi là “bảng xuất nguyên vật liệu”. BẢNG XUẤT NGUYÊN VẬT LIỆU Loại Đơn giá (đồng) 621.11 621.12 621.13 … Số lượng Giá trị Số lượng Giá giá Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị NVL chính Tôn Thép Vỏ điện thoại Linh kiện ĐT … …. …. …. …. …. …. Cộng x x 2- Hoàn thiện chi phí nhân công = Về mặt bản chất, chi phí nhân công trong chi phí sản xuất chung là một khoản chi phí mang tính chất quản lý chung, hoạt động sản xuất kinh doanh không thể đưa chi phí này vào trong chi phí nhân công trực tiếp cuả công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm. Do vậy, khi tính toán lương của bộ phận quản lý phân xưởng dựa trên công thức như ở phần hai đã đề cập, kế toán sẽ ghi nhận vào chi phí nhân công trong khoản mục chi phí sản xuất chung. Đồng thời, kế toán sẽ tiến hành phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng tập hợp chi phí và giá thành sản phẩm. Tiêu thức phân bổ được lựa chọn ở đây có thể là chi phí nhân công trực tiếp cho từng sản phẩm (hoạt động) do đó mà công thức phân bổ được xây dựng như sau : Chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm tăng âm Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng cho sản phẩm tăng âm Hệ số phân bổ Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng cần phân bổ Tổng chi phí nhân công trực tiếp của toàn bộ sản phẩm (hoạt động) x = Hệ số phân bổ Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng cho sản phẩm điện thoại Hệ số phân bổ Chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm điện thoại x = Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng cho sản phẩm khác Hệ số phân bổ Chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm khác x = Kế toán căn cứ vào số liệu đã được tính và phân bổ tiến hành định khoản: Nợ TK 627 (6271) (Chi tiết theo từng đối tượng) Có TK 334 Mặt khác, khi tính lượng nghỉ phép, do số lượng công nhân trực tiếp sản xuất với nhiều lý do khác nhau nên việc nghỉ phép của họ có thể diễn ra không theo một kế hoạch định trước, điều này sẽlàm cho sản phẩm làm ra giảm xuống mà lương nghỉ phép của quí nào được tính vào chi phí của quí đó sẽ dẫn đến giá thành sản phẩm không ổn định ảnh hưởng tới công tác hạch toán. Vì vậy để đảm bảo cho giá thành sản phẩm được ổn định nên trích trước lương nghỉ phép cho công nhân trực tiếp sản xuất và phân bổ vào các quí sao cho hợp lý coi đây như là một khoản chi phí phải trả. Do đơn vị có xây dựng kế hoạch hàng năm nen việc trích trước lương nghỉ phép được xác định theo công thức : Mức trích trước tiền lương nghỉ phép kế hoạch Tiền lương chính thực tế phải trả công nhân trực tiếp sản xuất trong quí Tỉ lệ trích trước x x Tỉ lệ trích trước Tổng lương nghỉ phép kế hoạch năm của công nhân TTSX Tổng quĩ lương kế hoạch năm của công nhân TTSX x 100% = - Hàng quí, khi trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất, kế toán ghi : Nợ TK 622 Có TK 335 Trong quí khi phát sinh số lượng nghỉ phép thực tế phải trả công nhân trực tiếp sản xuất, kế toán ghi : Nợ TK 335 Có TK 334 - Trong trường hợp có chênh lệch giữa số trích trước và số phát sinh thực tế thì tuỳ theo quy định, kế toán có thể hạch toán phù hợp. Khi mức trích trước lớn hơn số thực tế phát sinh, kế toán ghi giảm phí bằng phần chênh lệch vào quí cuối cùng của năm kế toán : Nợ TK 335 Có TK 622 phần chênh lệch Khi mức trích trước nhỏ hơn số thực tế phát sinh, phản ánh phần chênh lệch, kế toán ghi : Nợ TK 622 Có TK 335 phần chênh lệch Khi phát sinh chi phí lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất, kế toán phải mở thêm sổ chi tiết TK 335 – chi phí lương nghỉ phép, để quản lý và theo dõi riêng tình hình trích trước và hạch toán lương nghỉ phép của bộ phận trực tiếp sản xuất. Sổ chi tiết TK 335 được lập theo mẫu qui định của xí nghiệp SỔ CHI TIẾT TÀI KHOẢN Từ ngày 30/9/2000 đến ngày 31/12/2000 Tài khoản : 335 – chi phí lương nghỉ phép Dư nợ đầu kỳ Ngày Số Diễn giải TK dư PS nợ PS có 31/10 264 Thanh toán lương cho NV sản xuất 334 1.192.000 29/11 304 Thanh toán lương cho NV sản xuất 334 547.350 … … … … … … Phát sinh nợ : Phát sinh có : Dư nợ cuối kỳ 3- Hoàn thiện về hạch toán khấu hao tài sản cố định Việc xây dựng “Bảng tính khấu hao tài sản cố định” ở xí nghiệp còn khá chung chung, chưa phản ánh được những thông tin mà kế toán cần đó là tình hình trích khấu hao tài sản cố định kỳ trước, sự thay đổi tài sản cố định trong kỳ và đặc biệt là chưa cho thấy việc phân bổ mức khấu hao tài sản cố định cho từng đối tượng sử dụng. Do vậy để khắc phục hạn chế trên, kế toán vẫn có thể sử dụng “Bảng tính khấu hao tài sản cố định” của xí nghiệp như một bảng để theo dõi toàn bộ tài sản cố định của xí nghiệp theo từng nhóm danh mục tài sản. Mặt khác, kế toán có thể lập thêm “bảng tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định” theo mẫu qui định để xem xét tình hình trích khấu hao tài sản kỳ trước, tình hình tăng giảm tài sản trong kỳ và tình hình phân bổ khấu hao tài sản cố định đã được trích lập cho từng đối tượng sử dụng tài sản. Mẫu bảng “tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định” như sau : 4- Hoàn thiện qui trình hạch toán và sổ sách kế toán theo qui định Sổ “đăng ký chứng từ ghi sổ” là một sổ kế toán tổng hợp để đăng ký tổng số tiền của toàn bộ các nghiệp vụ số liệu của các chứng từ ghi sổ. Thực chất ở xí nghiệp, kế toán mở “bảng tổng hợp chứng từ” cho các chứng từ gốc có cùng nội dung kinh tế cũng tương tự như các “chứng từ ghi sổ” mở cho các chứng từ tự lập. Do đó để có cơ sở lập sổ “đăng ký chứng từ ghi sổ” làm căn cứ cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu với bảng cân đối tài khoản thì kế toán xí nghiệp có thể đổi tên “bảng tổng hợp các chứng từ gốc” thành các “chứng từ ghi sổ” cho phù hợp. Dựa trên sổ tổng cộng trên các “chứng từ ghi sổ” đã được xây dựng, kế toán sẽ ghi vào cột “số tiền” trên sổ “đăng ký chứng từ ghi sổ”. Sổ “đăng kýchứng từ ghi sổ” có một ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý các “chứng từ ghi sổ” và để kiểm tra đối chiếu với tổng số tiền mà kế toán đã ghi trên các tài khoản kế toán. Mẫu biểu sổ “đăng ký chứng từ ghi sổ” được lập theo đúng qui định SỔ ĐĂNG KÝ CHỨNG TỪ GHI SỔ Chứng từ ghi sổ Số tiền Chứng từ ghi sỏ Số tiền Số hiệu Ngày Số hiệu Ngày 35/Q4 31/12 1.474.879.415 35/Q4 31/12 29.497.588 37/Q4 31/12 27.352.619 38/Q4 31/12 3.647.016 … … …. … … … 94/Q4 31/12 444.975.654 C.sang trang bên C.sang trang bên Khi đó toàn bộ qui trình hạch toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được trình bày theo sơ đồ sau : Chứng từ gốc Thủ quỹ Chứng từ tự lập Sổ chi tiết Sổ đăng ký Chứng từ ghi sổ Chứng từ ghi sổ Sổ cái Bảng cân đối tài khoản Báo cáo tài chính Bảng tổng hợp chi tiết QUY TRÌNH HẠCH TOÁN THEO HÌNH THỨC “CHỨNG TỪ GHI SỔ” Ghi chú : Ghi hàng ngày Ghi định kỳ (cuối quý) Đối chiếu, kiểm tra KẾT LUẬN Xét trên góc độ phương pháp luận, thì công tác tập hợp chi phí sản xuất, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có một vị trí quan trọng nhất trong công tác hạch toán kế toán tập hợp chi phí sản xuất hạch toán kế toán, nó xuyên suốt toàn bộ quá trình hạch toán lại từng bộ phận. Để phát huy một cách hiệu lực, tổ chức hạch toán chi phí sản xuất vàtính giá thành sản phẩm phải luôn luôn được cải tiến và hoàn thiện để phản ánh một cách đầy đủ và chính xác, đề ra những biện pháp hữu hiệu nhất giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm góp phần bảo đảm sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Với những đặc điểm của xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I khiến cho việc tính đúng tính đủ chi phí, xác định chính xác giá thành cho từng loại sản phẩm trở thành vấn đề sống còn. Chính vì vậy, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn giành được sự quan tâm hàng đầu trong quá trình đổi mới công tác hạch toán kế toán. Từ cơ sở lý luận đã nêu trong luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những tồn tại trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được nêu ở phần cuối của luận văn, ý kiến đề xuất đó là quá trình nghiên cứu được trình bày trên cơ sở lý luận cơ bản và được vận dụng vào thực tế của xí nghiệp. Qua luận văn của mình, em xin mạnh dạn hơn nữa đưa ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện hơn trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin I. Mặc dù là ý kiến cá nhân nhưng em mong có sự tham gia, đóng góp ý kiến của xí nghiệp để giúp cho công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty được tốt hơn nữa. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ đạo của cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Thị Hà và các cô, chú trong phòng tài chính kế toán của xí nghiệp đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Hà Nội, tháng 5 năm 2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8447.doc
Tài liệu liên quan