Hoàn thiện pháp luật về sở hữu công nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam hiện nay đang đi trên con đường xây dựng đất nước định hướng XHCN, giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công ngh

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện pháp luật về sở hữu công nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ, tạo năng suất lao động cao. Như vậy, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tri thức thông tin trở thành yếu tố hàng đầu của sản xuất. Chính vì điều này mà ngày nay người ta vẫn thường nói nền kinh tế hiện đại mà Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới đang theo đuổi là nền kinh tế tri thức, trong đó mỗi sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ra đều đòi hỏi chứa đựng trong nó hàm lượng chất xám ngày càng cao. Mục tiêu phát triển nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong kinh tế thị trường, tự do kinh doanh là các hình thức, phương tiện để phát huy sức sáng tạo, tinh thần kinh doanh mạnh mẽ của người dân. Một quyền tự do cơ bản nhất để đi đến phồn vinh là quyền sở hữu tài sản rõ ràng , và cốt lõi nhất có lẽ là tài sản trí tuệ. Vì trong nền kinh tế toàn cầu hoá, sự khác biệt và chênh lệch lớn nhất giữa các nền kinh tế là trí tụê. Nếu có trí tuệ, có ý tưởng hấp dẫn, bạn sẽ có tiền vốn từ rất nhiều nhà đầu tư Tài chính quốc tế đang sẵn sàng bỏ vốn vào những dự án có lãi và có khả năng thuyết phục. Chỉ cần phân tích cuộc cạnh tranh giữa các nhà cung cấp điện thoại di động, thiết bị điện tử dân dụng... chúng ta có thể thấy phần thắng luôn thuộc về các sản phẩm có trí tuệ, có giải pháp thông minh. Năng lực cạnh tranh được quyết định chủ yếu bởi trí tuệ chứ không phải cơ bắp. Nhưng có lẽ khái niệm sản phẩm trí tuệ là quá trừu tượng đối với mỗi người dân, và chính vì lẽ đó quyền sở hữu trí tuệ cũng được xem là một điều gì quá lạ lẫm và xa vời. Với ý nghĩ đó, rất nhiều người cũng không ý thức được hết quyền sở hữu của mình đối với sản phẩm trí tuệ do chính mình làm ra và không có ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của người khác. Xâm hại quyền sở hữu trí tuệ đang là một vấn đề vô cùng nhức nhối, và ở Việt Nam hiện nay, vấn đề này đang trở nên đặc biệt nghiêm trọng, nhất là khi chúng ta đang ở trong giai đoạn đàm phán để gia nhập WTO. Để có thể được sự đồng ý của các nước thành viên WTO cho Việt Nam gia nhập tổ chức này, và trong tương lai, khi được gia nhập, để chúng ta có thể cạnh tranh và tồn tại trong một nền kinh tế mà khoa học công nghệ biến đổi từng phút, từng giây, thì nhất thiết chúng ta phải phát huy tuyệt đối sức sáng tạo và phải đảm bảo các biện pháp biện pháp bảo hộ cho các sáng tạo ấy. Xây dựng và thực thi triệt để hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ chính là một biện pháp hữu hiệu nhất để không ngừng nâng cao năng lực công nghệ của Đất nước, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội. Trong tài liệu này, đứng dưới góc nhìn hướng về hoạt động kinh tế của Đất nước ta trong quá trình đổi mới, chúng tôi muốn nói đến một mảng rất quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, gắn liền với thời đại khoa học công nghệ ngày nay của chúng ta, đó là Quyền sở hữu công nghiệp. Nhằm khuyến khích, giúp đỡ, đảm bảo quyền và lợi ích cho mọi cá nhân, pháp nhân trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, làm lành mạnh hóa quan hệ về sở hữu công nghiệp, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước. Đúng như tên đề tài chúng tôi đã nêu ra: Pháp luật về sở hữu công nghiệp. Đề tài sẽ bao gồm những quy định cốt yếu nhất của pháp lệnh hiện hành ở Việt nam về Sở hữu công nghiệp và một số nhìn nhận thực tế trong quá trình những quy định đó được đưa vào thực hiện, trên cơ sở đó chúng tôi cũng xin thu thập và đưa ra một số khuyến nghị cho sự hoàn thiện hệ thống pháp luật đó. Trong quá trình nghiên cứu, chúng em xin chân thành cảm ơn Trung tâm thư viện trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, thầy Nguyễn Hữu Mạnh cùng các thầy cô trong khoa Luật Kinh tế và các bạn trong lớp đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này. Do còn thiếu kinh nghiệm trong nghiên cứu, chắc chắn đề tài sẽ còn thiếu xót , chúng em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài hoàn thiện hơn! I – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP 1. Khái niệm về sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp Lịch sử phát triển của loài người gắn liền với hoạt động sáng tạo của con người.Trong quá trình phát triển, hoạt động kinh tế, thương mại càng phát triển thì thành quả do hoạt động trí tuệ của con người sáng tạo ra càng ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quan niệm về sở hữu của con người ngày càng phát triển, mở rộng thêm ra. Ban đầu, đối tượng của sở hữu là cơ sở vật chất (đất đai nhà cửa, tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất) dần dần đối tượng của sở hữu được mở rộng ra bao gồm kết quả sáng tạo của con người, dần dần hình thành khái niệm sở hữu trí tuệ. “Sở hữu trí tuệ” là một thuật ngữ mang nghĩa rộng được mô tả “sự sáng tạo của tư duy”. Sự sáng tạo này là tài sản vô hình mà pháp luật cần phải bảo hộ thông qua việc trao cho chủ nhân của nó một số quyền nhất định, nhằm mục đích khuyến khích những sáng tạo hữu ích đó vì lợi ích chung của toàn xã hội.Cho đến hôm nay, ở Việt Nam đối tượng của sở hữu trí tuệ gồm ba lĩnh vực:quyền tác giả,quyền sở hữu công nghiệp và giống cây trồng và vật nuôi. Quyền sở hữu công nghiệp (SHCN)là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ. Quyền SHCN được hiểu là các quyền hợp pháp của con người đối với các đối tượng mang tính công nghiệp( như sáng chế, giải pháp hữu ích...) hoặc những dấu hiệu phân biệt mang tính công nghiệp và thương mại( như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại...)do trí tuệ con người tạo ra và được Nhà nước bảo hộ các quyền đó trong một thời gian nhất định. Dưới góc độ khoa học pháp lí , theo Điều 4.4 của Luật sở hữu trí tuệ 2005 có qui định quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tĩnh. 2.Tính tất yếu, sự cần thiết phải bảo hộ quyền SHCN Vấn đề bảo vệ quyền SHCN từ lâu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của các tác giả sáng tạo ra các đối tượng SHCN, mà còn là mối quan tâm lớn của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở những nơi, những khu vực có nền kinh tế thị trường phát triển. Về phương diện lí luận, nếu coi các đối tượng quyền SHCN là tài sản và bản thân quyền SHCN là quyền tài sản, thì việc bảo hộ nó là việc làm tất yếu nhằm bảo vệ một trong những quyền có tính chất tự nhiên, cơ bản của con người. Về phương diện kinh tế, ý nghĩa của việc bảo hộ quyền SHCN còn thể hiện qua vai trò của các đối tượng quyền SHCN đối với nền kinh tế. Các đối tượng SHCN là sản phẩm của hoạt động sáng tạo trong quá trình lao động,sản xuất, kinh doanh, không chỉ là loại tài sản có giá trị lớn mà còn tạo cho người sử dụng nó sức mạnh ,ưu thế cạnh tranh trên thị trường. Là một bộ phận ngày càng quan trọng của hàng hoá và dịch vụ, SHCN có vai trò rất lớn đối với thương mại và đầu tư...Nếu việc bảo hộ và thực thi quyền SHCN không thoả đáng sẽ là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư thêm cho nghiên cứu và triển khai, có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều và vì thế chiếm chỗ và loại sản phẩm hợp pháp, chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Để tạo ra môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới,tất yếu mỗi quốc gia đều phải tìm biện pháp nâng cao hiệu quả của việc bảo hộ quyền SHCN của các tổ chức, cá nhân nước mình cũng như của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, xoá bỏ tình trạng cạnh tranh hỗn loạn, chiếm đoạt bất hợp pháp thành quả lao động sáng tạo của nhau. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và SHCN nói riêng với nội dung đảm bảo độc quyền khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ trong một thời hạn nhất định giúp chủ sở hữu thu lợi từ tài sản mà mình tạo ra và áp dụng nhanh chóng các kĩ thuật tiến bộ, tạo ra những sản phẳm mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội có được những thông tin cần thiết về đối tượng đó. Và như vậy, người ta sẽ chỉ tiến hành nghiên cứu, triển khai để tạo ra những thành quả mới chứ không tạo ra những gì đã có, nhờ đó tránh cho xã hội phải lãng phí các nguồn lực. Như vậy, bảo hộ SHCN sẽ thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới kĩ thuật sản xuất, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. SHCN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế quốc tế hiện đại. trong xu thế hội nhập ngày nay, việc bảo hộ SHCN không chỉ còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà còn là yêu cầu cấp thiết đặt ra trên bình diện quốc tế. Hợp tác bảo hộ quyền SHCN ngày càng được các quốc gia quan tâm, thúc đẩy và thực thi rộng rãi.Việc đăng kí bảo hộ một đối tượng sở hữu ở nước ngoài chính là nằm giành độc quyền khai thác, sử dụng đối tượng SHCN ở nước đó. Vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn to lớn, thể hịên rõ nhất là đối với nhãn hiệu hàng hoá. Sản phẩm xuất khẩu mang nhãn hiệu trong nước, nếu không đăng kí bảo hộ nhãn hiệu đó ở nước nhập khẩu thì khi đạt được uy tín với người tiêu dùng, nhãn hiệunày chắc chắn sẽ có người bắt chước, thị trường tiêu thụ có thể bị giảm hoặc mất hoàn toàn. Vì vậy, đăng kí bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở nước ngoài để bảo vệ mặt hàng xuất khẩu trở thành vấn đề quan trọng và bức thiết đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh có chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập Quốc tế, hàng hoá, dịch vụ của các thương nhân chỉ có thể trụ vững và chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt để giành giật thị trường và chiếm lĩnh thị phần nếu hàng hoá, dịch vụ của họ có chứa đựng các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp với tính chất là nhân tố đặc trưng của hàng hoá, dịch vụ. Các đối tượng của quyền SHCN là phương tiện để cạnh tranh trong nền kinh tế thi trường. Không phải bất cứ hàng hoá nào, dịch vụ nào được tung ra thị trường cũng có thể tiêu thụ được ngay, vì thị trường là do hàng trăm, thậm chí hàng ngàn doanh nghiệp cùng cung cấp những mặt hàng vô cùng đa dạng và tất nhiên, các mặt hàng có sự trùng nhau về kiểu dáng, công dụng... là không thể tránh khỏi. Trong bối cảnh đó, các đối tượng của quyền SHCN chính là một phương tiện để các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau nhằm thu lợi nhuận tối đa. Các đối tượng của quyền SHCN chính là những dấu hiệu để cho khách hàng nhận biết và phân biệt hàng hoá, dịch vụ này với hàng hoá, dịch vụ khác, tức là thông báo sự hiện diện của nó trong vô số các mặt hàng cùng loại. Vì thế vấn đề bảo hộ quyền SHCN được đặt ra chính là để bảo vệ khả năng cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Một thực tế được nhấn mạnh nhiều lần là Việt Nam chưa từng có một dự án đầu tư ngoại quốc trực tiếp nào trong lĩnh vực sản xuất phần mềm. Nguyên nhân là quyền Sở hữu công nghiệp chưa được bảo đảm tại Việt nam. Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam Raymond Burghardt nhấn mạnh, các nhà đầu tư Mỹ sẽ không đầu tư nếu bí quyết kĩ thuật, license, kiểu dáng máy móc... của họ không được nước nhận đầu tư bảo vệ. Muốn thu hút các nhà đầu tư Mỹ, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện luật pháp liên quan đến sở hữu công nghiệp. Nếu không, Việt Nam có thể sẽ phải đối phó với các biện pháp trả đũa, đóng cửa thị trường của Hoa Kỳ và các nước phát triển khác. Thiệt hại của Việt Nam sẽ bằng thiệt hại mà Hoa Kỳ và các bên liên quan phải gánh chịu do tình trạng vi phạm sở hữu công nghiệp tại Việt Nam. Lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, hoạt động sáng tạo và sở hữu các sản phẩm trí tuệ ngày càng quan trọng, xuất phát từ vai trò trung tâm thông tin và kiến thức trong xã hội hậu công nghiệp. Bảo hộ quyền SHCN trong phạm vi quốc gia và ở tầm quốc tế là những biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy hoạt động sáng tạo, động viên hoạt động nghiên cứu phát triển, góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hợp pháp. Hiện nay Việt Nam đang rất quyết tâm chấn chỉnh tình hình thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền Sở hữu công nghiệp nói riêng. Trước hết là nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo, phục vụ phát triển nội tại của Việt Nam, Nếu không bảo hộ hiệu quả thì không phát triển được khoa học công nghệ trong nước, không ai muốn sáng tạo. Ngoài ra, việc này cũng nhằm bảo hộ lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân nước ngoài đến làm ăn tại Việt Nam, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài trong quá trình hội nhập. Kinh nghiệm của các nước đã trải qua giai đoạn phát triển công nghiệp cho thấy, nếu tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ lên 10% thì đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng 50% và các công nghệ cao sẽ tăng trưởng 40%. Chỉ một vài con số như vậy cũng đủ thấy vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ quan trọng đến mức nào đối với hoạt động thu hút đầu tư. 3. Thực trạng pháp luật nước ta về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 3.1 Quá trình hình thành các quy định về quyền SHCN tại Việt Nam trước khi có Bộ luật Dân sự 1995 Xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nghèo và chậm phát triển do bị Thực dân Pháp đô hộ. Vì vậy Luật SHTT của nước ta ra đời muộn hơn ở những nước khác. Mãi đến năm 1957, Việt nam mới ban hành Luật Thương hiệu năm 1958, Chính Phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ban hành “Thể lệ về thương phẩm và thương hiệu”. Tuy nhiên, giá trị thực tiễn của các văn bản này chưa cao. Năm 1976, Việt nam đã tham gia vào tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Dựa trên những văn bản pháp luật qui định về quyền SHCN được ban hành và thực hiện ở nước ta, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và SHCN nói riêng được hình thành ở nước ta từ đầu thập niên 80 của thế kỉ XX và đã thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện. Hiệu lực pháp luật của các văn bản từng bước được nâng cao đã đáp ứng được những nhu cầu cơ bản trong công cuộc xây dựng đất nước thuộc mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội. Tuy vậy, luật về SHTT chỉ thực sự phát huy được tác dụng kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Phương hướng của Đại hội Đảng đề ra đã được thể chế tại Điều 60 của Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật, tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, Quyền SHCN”. Nghị định đầu tiên của Chính phủ qui định về sáng kiến, cải tiến kĩ thuật- hợp lí hoá sản xuất là Nghị định số31/CP, được ban hành ngày 23/01/1981 qui định về tiêu chuẩn của một giải pháp kĩ thuật có khả năng bảo hộ là sáng chế. Nghị định qui định số 02 hình thức bảo hộ sáng chế là Bằng tác giả sáng chế và bằng sáng chế độc quyền do cục sáng chế cấp, có thời hạn hiệu lực là 15 năm, tính từ ngày nộp đơn.Đối với sáng chế công vụ: Khi sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng sáng chế và sáng chế được công bố thì mọi cơ quan, đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế Nhà nước đều có quyền áp dụng vào sản xuất và có nghĩa vụ trả thưởng cho tác giả.Đối với sáng chế độc quyền: Chủ sáng chế là cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế được độc quyền sử dụng sáng chế, cho phép người khác sử dụng sáng chế. Chủ sáng chế có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế cho các chủ thể khác theo hợp đồng. Nghị định số 31/CP tuy có qui định tác giả hoặc người thừa kế hợp pháp có quyền lựa chọn một trong hai hình thức là Bằng sáng chế và Bằng sáng chế độc quyền. Nhưng trên thực tế, bằng sáng chế là hình thức bảo hộ được nhà nước khuyến khích và là hình thức bảo hộ chính.. Bằng độc quyền sáng chế chủ yếu dành cho nước người nước ngoài có nhu cầu bảo hộ sáng chế tại Việt Nam. Tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng Nghị định số 31/Cp đã là văn bản pháp luật mở đầu cho hoạt động SHCN ở Việt Nam hình thành và phát triển amnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Cùng với việc thành lập Cục sáng chế, nước ta đã tham gia công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và trở thành thành viên của Tổ chức sở hữu trí tuệ thé giới(WPO), theo đó việc triển khai toàn diện hoạt động SHCN đã từng bước được đẩy mạnh; các văn bản pháp luật lần lượt được ban hành nhằm điều chỉnh từng nhóm đối tượng của quyền SHCN theo cơ chế đồng bộ và thống nhất, đã mở ra những hành lang pháp lí thuận lợi cho những sáng tạo những giải pháp kĩ thuật mới được hình thành. Hàng loạt các Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính Phủ) được ban hành : Nghị định số 197-HĐBT ngày 14-2 -19982 về nhãn hiệu hàng hoá: Nghị định số 85-HĐBT ngày 13/5/1985 về kiểu dáng công nghiệp; Nghị định số 200-HĐBT ngày 28-12-1988 về giải pháp hữu ích ; Nghị định số 201-HĐBT ngày 28-12-1988 về mua bán quyền sử dụng sáng chế , giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết kĩ thuật. Đặc biệt vào cuối những năm 80- Thế kỉ XX, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi, việc giải phóng mọi năng lực sản xuất trong nước được coi trọng, kinh tế thị trường đã dần dần được hình thành, nền kinh tế tập chung quan liêu, bao cấp cao độ đã dần bộc lộ những hạn chế nhất định. Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam quyết tâm đổi mới theo hướng tích cực phù hợp với xu thế phát triển kinh tế –xã hội trong nước và quốc tế. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh hoạt động SHCN đã được cụ thể hoá bằng việc ban hành “Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp” ngày11-02-1989. Đây là văn bản có hiệu lực pháp luật cao, là một mốc quan trọng đánh dấu tiến trình phát triển của hoạt động SHCN ở Việt Nam. Những điểm mới của qui định trong Pháp lệnh so với những qui định tương ứng tại Nghị định31/CP trước đây là: Nhà nước chỉ duy trì một hình thức bảo hộ Bằng độc quyền sáng chế, mà không qui định hai loại bằng bảo hộ sáng chế như Nghị định31/CP đã qui định. Pháp lệnh đã qui định rõ thẩm quyền của toà án nhân dân trong việc xử lí các tranh chấp có liên quan đến quyền SHCN. Trên cơ sở đó, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 03/NCPL, ngày 22-07-1989 hướng dẫn xét xử các tranh chấp về quyền SHCN. Sau khi Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN được ban hành(1989), thí số lượng đơn yêu cầu bảo hộ và số lượng văn bằng bảo hộ đã cấp ngày một tăng.Tuy vậy, trong quá trình triển khai pháp luật bảo hộ quyền SHCN trong những năm 90, thế kỉ XX, hệ thống pháp luật về lĩnh vực này cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đặc biệt về tên gọi xuất sứ hàng hoá là một trong 05 đối tượng được bảo hộ nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện. Vào thời kỳ đó, biện pháp xử lý các xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp chủ yếu là biện pháp hành chính. Mặc dù về mặt nguyên tắc, Toà án sẵn sàng xét xử các tranh chấp và các vụ kiện về Sở hữu công nghiệp, nhưng do các quy định pháp luật chưa phải là luật, toà án lại chưa có kinh nghiệm trong xét xử các vụ việc này, vì vậy việc tham gia xét xử của toà trên các cơ sở văn bản pháp luật cũng rất hạn chế. Thời gian này, một loạt các đối tượng được đề cập tới trong Hiệp định TRIPS chưa được bảo hộ tại Việt Nam như thông tin bí mật, chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích hợp, quyền chống cạnh tranh khụng lành mạnh. Ngoài ra, còn một số qui định có tính nguyên tắc về xác lập và bảo hộ quyền SHCN cũng chưa được cụ thể hoá đúng mức cũng đã gây không ít khó khăn không những cho người nộp đơn, mà còn gây lúng túng cho cơ quan nhận và xử lí đơn, các qui dịnh về xử lí vi phạm chưa rõ ràng và nhát quán, những qui định về trình tự , thủ tục, chế độ thủ tục , chế độ xét nghiệm đơn và cấp văn bằng bảo hộ cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, không còn phù hợp với hoạt động SHCN trong điều kiện mới, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ nói chung và SHCN nói riêng ngày một đồng bộ và hoàn chỉnh Tóm lại, việc ban hành các văn bản pháp luật về hoặc liên quan đến việc bảo hộ quyền SHCN nêu trên chứng tỏ ngay từ trước khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Nhà nước đã quan tâm và ngày càng quan tâm nhiều hơn tới vấn đề bảo hộ quyền SHCN. Các văn bản nêu trên đã tạo cơ sở pháp lí ban đầu cho việc bảo hộ quyền SHCN, cho công tác đăng kí bảo hộ quyền SHCN, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ phuc vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước Xã hội càng phát triển, sản xuất càng phát triển đòi hỏi một hệ thống pháp luật về SHCN ngày càng hoàn thiện. Ngày 28/10/1995, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hôj thông qua Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt nam, chính thức thiết lập chế độ pháp lí cao nhất cho việc xác lập, bảo hộ và thực thi quyền SHTT tại Việt nam (phần thứ VI và thứ VII của Bộ luật). Sau khi Bộ luật dân sự ra đời, một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành 3.2 Sự phát triển của quyền SHCN sau khi Bộ luật dân sự ra đời Trước những vấn đề lớn đặt ra cần phải được giải quyết trong một thời gian ngắn nhất, Bộ luật Dân sự nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam được quốc hội khoá IX thông qua ngày 28-12-1995(có hiệu lực từ ngày 1-7-1996) đã dành hẳn một chương( chương II phần thứ VI, từ điều 780 đến điều 805) cho vấn đề bảo hộ quyền SHCN.Bộ luật dân sự khẳng định quyền SHCN là quyền sở hữu cá nhân, pháp nhân đối với các đối tượng SHCN. Năm đối tượng SHCN được bộ Luật Dân sự bảo hộ là sáng chế, giải pháp hữu ích , kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hoá Tuy nhiên, Bộ luật này cũng mới chỉ đề cập đến những đối tượng Sở hữu công nghiệp đó được nêu trong các văn bản trước đó, còn những đối tượng khác trong quy định của TRIPS chỉ được nêu chung chung trong cụm từ "những đối tượng khác”. Do chỉ đề cập các khía cạnh dân sự của cá mối quan hệ về SHCN nên Bộ luật Dân sự không bao quát hết được các khía cạnh kinh tế, hành chính, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền SHCN.Sau đó, Quốc Hội lại uỷ quyền cho Chính phủ quy định bổ sung thêm các đối tượng và vấn đề bảo hộ đối với các đối tượng này. Cụ thể gồm Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 qui định chi tiết về SHCN. Đây là một nghị định có nội dung tương đối đầy đủ, làm rõ và chi tiết hoá những qui định về SHCN được qui định trong Bộ luật Dân sự, đã giúp cho việc triển khai hoạt động sở hữu trí tuệ ở Việt Nam ngày một có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, còn có Thông tư số 3055/TT-SHCN ngày31-12-1996 hướng dẫn thi hành các Nghị định số 63/CP này, Nghị định số 60/CP ngày 6/6/1997 hướng dẫn thi hành các qui định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 13 về bảo hộ quyền SHCN của các chủ thể nước ngoài). Thông tư số 23/TC- TCT ngày 9/5/1997 hướng dẫn thu, nộp và quản lí phí, lệ phí SHCN. Trong đó, đáng chú ý là Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 06/03/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Theo đó, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp sẽ bị xử phạt bằng hỡnh thức phạt tiền, tịch thu tang vật, huỷ bỏ hàng hoỏ vi phạm và buôc bồi thường cho chủ SHCN. Do chỉ đề cập các khía cạnh dân sự của cá mối quan hệ về SHCN nên bộ luật dân sự không bao quát hết được các khía cạnh kinh tế, hành chính, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền SHCN. Ngoài các văn bản nêu trên, vấn đề bảo hộ quyền SHCN còn được đề cập ở các mức độ khác nhau trong nhiều văn bản pháp luật khác hiện hành như Bộ luật hình sự năm 1999; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1996) Luật khuyến khích đầu tư trong nước( năm 1998)... Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2002 cũng đó đưa ra hành vi vi phạm quyền SHCN ở mức độ nghiêm trọng cấu thành một loại tội phạm hỡnh sự, loại tội phạm này cú thể bị phạt tiền hoặc phạt tự. Tuy nhiên phần lớn các văn bản có liên quan nói trên chỉ khẳng định việc bảo hộ quyền SHCN, còn bảo hộ như thế nào thì phải căn cứ vào các qui định của Bộ luật dân sự và các văn bản qui định cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự. 3.3 Phân biệt Luật điều chỉnh sau khi có sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 Để thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế khu vực,Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN vào năm 1995, do vậy cũng như các nước trong tổ chức này, Việt Nam đã kí Hiệp định khung ASEAN về lĩnh vực sở hữu trí tuệ, trong đó cps những qui định về quyền SHCN. Tiếp theo đó, Việt Nam và Hoa Kỳ đã kí Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ vào ngày 14-07-2000 (có hiệu lực vào ngày 10-12-2001, đã tạo ra những cơ hội trong hội nhập toàn diện với các nền kinh tế Đông Nam Á và gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO cho Việt Nam. Nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ nói chung và SHCN nói riêng, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2006 và đăc biệt với sự ra đời của Luật sở hữu trí tụê (ngày 12-12-2005) có hiệu lực từ ngày 1-7-2006 dần hoàn thiện khung pháp luật về SHCN. Bộ luật dân sự Năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006) có qui định về quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng tại chương XXXV, phần thứ VI, gồm có 04 điều luật. Tại Điều 750 và điều 753 (Bộ luật dân sự năm2005) qui định về các đối tượng của quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng , các căn cứ xác lập quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng .Những qui định trên qui định quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả đã tạo ra các đối tượng thuộc quyền SHCN, quyền sử dụng và quyền chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHCN, quyền thừa kế, quyền ngăn chặn các hành vi xâm phạm, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh...Những qui định trong Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền SHCN chỉ điều chỉnh những căn cứ xác lập quyền và thủ tục bảo hộ quyền SHCN. Về nguyên tắc, BLDS, với tính chất là luật chung trong hệ thống pháp luật dân sự có phạm vi điều chỉnh đáp ứng các điều kiện: BLDS chỉ qui định những nội dung chung nhất, ổn định nhất, có khả năng áp dụng cho hầu hết các quan hệ xã hội (ví dụ các qui định về nguyên tắc dân sự, về quyền nhân thân, tài sản và các quyền tài sản, sở hữu, giao dịch, các nghĩa vụ). BLDS chỉ qui định những vấn đề mang tính nguyên tắc, thu hút vào các qui định về tài sản, quyền tài sản và giao dịch nói chung. Các luật riêng cần có qui định chi tiết về loại quan hệ xã hội đặc thù mà mình điều chỉnh, phù hợp với các đặc trưng của loại quan hệ đó và các qui định này sẽ được ưu tiên áp dụng so với BLDS. Điều này sẽ giúp cho tình trạng chồng chéo được giải quyết một cách triệt để, hệ thống pháp luật sẽ minh bạch hơn, có thể dự đoán trước và do đó khả năng áp dụng cũng cao hơn. Theo đó, những quan hệ không thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Dân sự sẽ được điều chỉnh trong Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 như:Những qui định về thủ tục hành chính, thủ tục xác lập quyền và thủ tục bảo hộ quyền SHCN bằng biện pháp hành chính , các qui định về trình tự thủ tục tố tụng liên quan đến quyền SHCN ... Việc xác định rõ đối tượng và pham vi điều chỉnh của luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ là thật sự quan trọng và cần thiết, vừa đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, vừa đảm bảo cho việc triển khai, họat động SHCN và bảo vệ quyền SHCN ở Việt Nam có hiệu quả cao nhất. Có thể nhận định rằng:”Pháp luật về quyền SHCN của Việt Nam chỉ trong một thời gian không dài đã được xây dựng từ con số không đến có và cho đến thời điểm hiện nay là khá đầy đủ và toàn diện”. Những bước tiến của Pháp luật Việt Nam về quyền SHCN trong những năm đổi mới (1986-2006) đã tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam phát triển, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội mới trong quá trình hội nhập quốc tế. II PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT 1. Pháp luật thực định về SHCN Đứng trước chương trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, Việt Nam đã luôn quan tâm đến những lợi ích ổn định lâu dài, những yếu tố tích cực có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong suốt quá trình hội nhập khu vực và quôc tế. Nhu cầu gia nhập WTO của Việt Nam là rất cần thiết, do vậy Việt Nam đã quan tâm và ban hành những văn bản pháp luật về quyền SHCN tính đến thời điểm này là tương đối đầy đủ, đáp ứng được những điều kiện cần và đủ theo yêu cầu của tổ chức này về cơ chế bảo hộ các đối tượng của quyền SHCN ở Việt Nam. . Xuất phát từ bản chất của quyền SHCN là quyền sở hữu đối với các tài sản vô hình – những tài sản được tạo ra từ trí tuệ và tri thức của con người. Chính vì vậy, trong Luật sở hữu trí tuệ đã dành hẳn 5 chương ( từ chương VII đến chương XI) gồm 99 điều ( từ điều 58 đến điều 156) để qui định về quyền SHCN. Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự (2005) và Luật Sở hữu trí tuệ (2005), thì đối tượng của quyền SHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế, bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh. Điều 4.4 Luật SHTT 2005 So với Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản luật về trước đó có đối tượng giải pháp hữu ích nhưng trong Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ không có đối tượng trên nhưng tinh thần chung vẫn có. Điểm mới trong luật hiện hành đó là việc đưa thêm đối tượng Kiểu dáng công nghiệp vào đối tượng của quyền SHCN đã chứng tỏ sự ngày một hoàn thiện của Pháp luật về SHCN. Để được pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền SHCN thì trước hết, các đối tượng của SHCN phải đáp ứng được những điều kiện nhất định, tùy thuộc vào từng loại đối tượng. Điều này được qui đinh rõ trong chương VII của Luật này. Chẳng hạn, theo Điều 58.1 qui định điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ: “Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: Có tính mới Có trình độ sáng tạo Có khả năng áp dụng công nghiệp.” Theo Điều 60:“sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất cứ hình thức nào khác ở trong nước và nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên”. Chủ thể của quyền SHCN phải nộp đơn đăng kí quyền SHCN. Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì người có quyền nộp đơn đối với nhãn hiệu hàng hoá chỉ có thể là chủ sở hữu. Người nộp đơn chính là chủ cơ sở sản xuất kinh doanh hợp pháp. Đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, mạch tích hợp bán dẫn, thì người có quyền nộp đơn chính là tác giả. Trong trường hợp tác giả là người tự bỏ kinh phí ra để tạo ra đối tượng đó (có thể là cá nhân, tổ chức, hoặc là người được uỷ quyền, hoặc được chuyển giao một cách hợp pháp); trường hợp tác giả tạo ra đối tượng đó mà do một bên cấp kinh phí thông qua một hợp đồng về nghiên cứu phát triển, nếu hợp đồng không thoả thuận gì khác thì người nộp đơn là người cấp kinh phí; nếu t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35805.doc
Tài liệu liên quan