Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hải Dương

Lời mở đầu Mục lục ChươngI :Tổng quan về phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM 1.1. Sự cần thiết của việc phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM 1.1.1Tổng quan về ngân hàng thương mại: 1.2. Phân tích tài chính đối với khách hàng vay vốn tại NHTM 1.2.1.Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng 1.2.2.Sự cần thiết phân tích tài chính của khách hàng 1.2.3.Nội dung phân tích tài chính của khách hàng vay vốn của NHTM 1.2.3.1. Phân tích các chỉ tiêu tài chính tr

doc53 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong báo cáo tài chính 1.2.3.2. Phân tích Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Chương II : Thực trạng công tác phân tích đối với khách hàng vay vốn tại NHCT Hải Dương 2.1.Tổng quan về NHCT Hải Dương 2.1.1.Sự hình thành và phát triển NHCT Hải Dương 2.1.2.Vài nét về chi nhánh NHCT Hải Dương 2.1.3.Đánh giá tình hình hoạt động của NHCT Hải Dương trong những năm gần đây 2.2.Nội dung phân tích tài chính Khách hàng tại NHCT Hải Dương Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại NHCT Hải Dương 3.1.Phương hướng hoạt động cho vay của ngân hàng trong thời gian tới 3.2.Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn: 3.3. kiến nghị với cơ quan hữu quan 3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước 3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng công thươngViệt Nam Kết luận Lời mở đầu Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp tư nhân, cá thể để phát triển sản xuất khing doanh. Lịch sử ra đời và phát triển ngân hàng gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá .Trước hết nó đáp ứng các nhu cầu cho mọi thành phần kinh tế, muốn phát triển sản xuất kinh doanh nhưng lại thiếu vốn cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng thương mại ngày càng xâm nhập sâu sắc vào mọi hoạt động của nền kinh tế, trở thành một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế.Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ lớn trong việc tăng thu nhập của NH nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.Vì thế để đảm bảo và nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động tín dụng mà là mục tiêu yếu tố quan trọng để cạnh tranh và phát triển cả mỗi NHTM. Trước mỗi quyết định tài trợ Ngân hàng phải luôn cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng sinh lời và rủi ro dựa trên phân tích các khía cạnh tài chính, phi tài chính theo một quy trình nghiệp vụ nghiêm ngặt mang tính khoa học cao. Phân tích tài chính của khách hàng là một trong những nội dung đó . Phân tích tài chính khách hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá sức mạnh tài chính , khả năng tự chủ tài chính trong kinh doanh , nhu cầu tài trợ và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng.Tuy nhiên hoạt động này trong các NTHM vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả cho vay chưa cao.Vì vậy công tác này góp phần quyết định tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Qua quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Hải Dương, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân hàng Công Thương Hải Dương” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình, với mong muốn áp dụng những kiến thức đã học được và đưa ra những giải pháp góp phần vào hoàn thiện công tác này tại Ngân Hàng Công Thương Hải Dương. Với kết cấu chuyên đề như sau : ChươngI: Tổng quan về phân tích tài chính của khách hàng tại ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân Hàng Công Thương Hải Dương Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại NHCT Hải Dương Hoàn thành chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn cchỉ bảo tận tình của thầy giáo Hoàng Đình Chiến, ban lãnh đạo và các cô, các bác trong chi nhánh Ngân hàng Công thương Hải Dương. Do thời gian có hạn và những hiểu biết của em còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo chi nhánh Ngân hàng công thương tỉnh Hải Dương và của các bạn đồng môn trong và ngoài trường để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. CHươngI : Tổng quan về phân tích tài chính của khách hàng tại ngân hàng thương mại 1.1. Sự cần thiết của việc phân tích tài chính của khách hàng tại ngân hàng thương mại 1.1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại: Hệ thống NHTM ra đời là kết quả của quá trình hình thành và phát triển lâu dài của kinh tế hàng hoá, của quan hệ tiền tệ. Nó được khởi nguồn từ những người thợ in đúc vàng mà ban đầu chỉ làm dịch vụ đổi tiền. Dọc theo thời gian, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, các nghiệp vụ ngân hàng dần được hoàn thiện, mở rộng và phát triển để đáp ứng kịp thời nhu cầu của các thành phần kinh tế. Ngân hàng được thực sự công nhận như một doanh nghiệp kinh doanh với dặc trưng "đi vay để cho vay". Trên thế giới hiện nay, hệ thống ngân hàng của các nước phần lớn là ngân hàng hai cấp. Trong đó, NHTW làm nhiệm vụ phát hành tiền, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về mặt tiền tệ và hoạt động ngân hàng; còn các NHTM thực hiện việc kinh doanh tiền tệ. Như vậy, ta có thể hiểu một cách khái quát "NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và cung cấp các dịch vụ có liên quan đến tiền tệ". ở Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và Công ty tài chính năm 1990 định nghĩa: "NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ , mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Luật các tổ chức tín dụng năm 1997- Điều 20: "NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh khác có liên quan". Trong đó "Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán". NHTM hoạt động kinh doanh trên cơ sở các điều kiện kinh tế và quy định của luật pháp, thông qua các hoạt động đó chúng tác động đến nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội. Cơ sở kinh tế khách quan của chức năng mà hệ thống NHTM đảm nhận là sự cần thiết có các trung gian tài chính dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế... NHTM nhận tiền gửi hoặc phát hành các công cụ nợ, sử dụng số tiền này để cho vay với một lãi suất và kỳ hạn nhất định, người vay phải trả cho ngân hàng gốc là tiền lãi. Lãi thu được từ các khoản cho vay và các khoản đầu tư vào chứng khoán tạo nên bộ phận thu nhập của ngân hàng. Để tạo lập nguồn vốn, ngân hàng phải trả cho các khoản tiền gửi hoặc các khoản vay và chi phí khác. Với mục tiêu tăng cường hoạt động kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận, NHTM thường xuyên tổ chức khai thác các nguồn vốn với chi phí thấp để mở rộng cho vay và đầu tư... Xuất phát từ xu hướng phát triển trong hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống, thông qua việc đa dạng hoá hoạt động, các ngân hàng có thể vừa tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các định chế tài chính phi ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ. 1.1.2.Khái niệm tín dụng ngân hàng Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm hàng hoá. Nhưng chính nó lại là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo những định nghĩa cơ bản sau: tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trọng một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn thành theo thời hạn đã thoả thuận Đặc trưng của Tín dụng ngân hàng là lòng tin tính thời hạn và tính hoàn trả. Chính nhờ hoạt động tín dụng mà ngân trang trải được mọi chi phí phát sinh và là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng. Trong ngân hàng thương mại cho vay hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận. Kinh tế càng phát triển, lực lượng cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng, loại hình và cách thức cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. Hiện nay, ở những nước đang phát triển, khi một ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là sẽ cho ai vay và sẽ đầu tư vào đâu, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn. Ngược lại, ở những nước đã phát triển, vấn đề đặt ra ở những nước này là lợi tức có cao không và an toàn không. Tuy nhiên song hành với lợi nhuận thu được là độ rủi ro cao. Vì vậy, chất lượng của hoạt động là nhân tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để tăng trưởng và phát triển, quy mô của hoạt động cho vay mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là chất lượng của hoạt động này *Đặc điểm của tín dụng ngân hàng Trong các nghiệp vụ của NHTM, cho vay là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất và rủi ro cũng dễ xảy ra nhất. Những rủi ro trong quá trình cho vay gây thất thoát vốn cho ngân hàng được gọi là rủi ro tín dụng là một doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt - hàng hoá tiền tệ. Có nhiều loại rủi ro tác động tới ngân hàng: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản… trong đó rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với hoạt động cho vay. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không thể dự đoán chính xác các khả năng sẽ xảy ra hơn nữa không phải mọi cán bộ ngân hàng có khả năng phân tích tín dụng tốt. Do vậy, trên quan điểm ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, chỉ có thể đề phòng hạn chế chứ không thể loại trừ. -Rủi ro tín dụng là tình trạng người vay không trả hoặc không hoàn trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng nhưng có những nguyên nhân chính sau: -Những nguyên nhân bất khả kháng: như thiên tai, chiến tranh những thay đổi tầm vĩ mô vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn cho vay… -Những nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay: liên quan đến trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng, cũng có cả trường hợp người vay chây ì không trả nợ. Những nguyên nhân thuộc về ngân hàng: trước hết do sự yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ nên có nhiều thiếu sót trong quá trình thu thập thông tin và hạn chế trong quá trình phân tích thông tin về khả năng tài chính, kỹ thuật, khả năng quản lý kinh doanh của người vay, đạo đức người vay… dẫn đến quyết định cho vay không đúng. Sự yếu kém trong quá trình quản lý giám sát các khoản vay cũng tạo nguy cơ không thu được tiền. Ngoài ra có nhiều cán bộ ngân hàng đã tiếp tay với khách hàng, chiếm dụng vốn của ngân hàng. Trong ba nhóm nguyên nhân trên thì nhóm đầu khó phòng nhưng ít xảy ra, chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhóm thứ hai thường xuyên xảy ra nhất chiếm tỷ trọng lớn. Nhóm thứ ba không nhiều nhưng khó khắc phục, thường kết hợp với nhóm thứ hai. Đứng trước thực trạng cho vay là nghiệp vụ chủ đạo mà rủi ro tín dụng thì luôn thường trực, hơn nữa lại diễn ra hết sức phức tạp khó phòng tránh nên việc cho vay đối với các NHTM luôn phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng, kết quả của những phân tích ấy cho thấy khả năng sinh lời, mức độ rủi ro của phương án hoặc dự án sử dụng vốn vay, có ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định cho vay hay không của ngân hàng do đó phân tích tài chính khách hàng có vai trò rất quan trọng. Trên thực tế, việc xác định các thông số phi tài chính như uy tín, năng lực, đạo đức, mục đích sử dụng vốn vay, triển vọng của khách hàng…Là rất khó, mang tính chất định tính. Vì vậy, những thông tin tài chính định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa chọn khách hàng. Phân tích tài chính khách hàng cho ngân hàng xác định được các yếu tố về lưọng của nhu cầu vay vốn tín dụng, xác định được thời hạn hợp lý của khoản vay, xác định các kỳ hạn trả nợ… đối với từng khách hàng. Như vậy phân tích tài chính khách hàng không chỉ là nhu cầu thiết thân mà còn là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi NHTM . 1.2. Phân tích tài chính đối với khách hàng vay vốn tại NHTM Có thể hiểu phân thích tài chính khách hàng đối với NHTM là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài chính khả năng và tiềm lực của khách hàng giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay . Phân tích tài chính khách hàng tại các ngân hàng thương mại nhằm đạt được những mục tiêu sau: Xác định rõ hiện trạng tài chính của khách hàng: giá trị tài sản, tình hình công nợ, nhu cầu tài trợ, khả năng thanh toán… Dự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng: khả năng hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ vay…. Dự đoán được những trường hợp xấu có thể xẩy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. 1.2.1.Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng Phân tích tình hình tài chính cụ thể là phân tích các báo cáo tài chính, hoạt động của khách hàng được cụ thể hoá qua các chỉ tiêu về tình hình tài chính và chúng được thể hiện trên các báo cáo của kế toán vào cuối mỗi kỳ kinh doanh, thường là một niên độ. Nội dung của các báo cáo tài chính phản ánh tình hình tổng quát về tài sản, sự hình thành tài sản, sự vận động và thay đổi của chúng qua mỗi kỳ kinh doanh của khách hàng. Các thông tin được dùng để phân tích tài chính khách hàng là: Bảng cân đối kế toán: Còn gọi là bảng tổng kết tài sản là báo cáo tài chính tổng hợp, mô tả thực trạng tài chính của một khách hàng tại một thời điểm nào đó. Nội dung của bảng cân đối kế toán khái quát tình trạng tài chính của một khách hàng tại một thời điểm nhất định thường là cuối kỳ kinh doanh. Kết cấu của bảng được chia thành hai phần luôn bằng nhau: tài sản và nguồn vốn tức nguồn hình thành nên tài sản gồm nợ phải trả cộng với vốn chủ sở hữu. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được tổng quát tình hình tài chính, khả năng thanh toán, cơ cấu vốn và trình độ sử dụng vốn của khách hàng. Tuy nhiên mặt hạn chế của bảng cân đối kế toán cũng như các báo cáo tài chính nói chung làm ảnh hưởng đến công tác phân tích tình hình tài chính đó là dữ liệu mà chúng cung cấp thuộc về quá khứ trong khi phân tích lại hướng đến tương lai. Người ta luôn muốn biết liệu một kết quả nào đó của năm nay có được lặp lại vào năm tới không? Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh : Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng tại những thời kỳ nhất định. Nó cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng. Đồng thời, nó cũng giúp phân tích so sánh được doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành kinh doanh. Ngoài ra theo quy định ở Việt Nam, báo cáo thu nhập còn có thêm phần kê khai tình hình thực hiện nghĩa vụ của khách hàng đối với ngân sách Nhà nước và tình hình thực hiện thuế giá trị gia tăng - VAT. Hạn chế của báo cáo thu nhập là kết quả thu nhập sẽ lệ thuộc rất nhiều vào quan điểm của kế toán trong quá trình hạch toán. Đồng thời cũng do nguyên tắc kế toán về ghi nhận doanh thu, theo đó doanh thu được ghi nhận khi nghiệp vụ mua bán hoàn thành, tức là khi sở hữu hàng hoá có thể xảy ra vào một thời điểm khác. Nhược điểm này dẫn đến sự cần thiết của báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của khách hàng. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin giúp người sử dụng đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng, phân tích mối quan hệ giữa lợi tức ròng và lưu chuyển tiền tệ ròng, dự đoán trong tương lai lượng tiền mang lại từ hoạt động của khách hàng. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm ba phần: Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính đồng thời, giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích rõ ràng, cụ thể như các thông tin về đặc điểm hoạt động của khách hàng, chế độ kế toán áp dụng, tình hình và lý do biến động một số tài sản và nguồn vốn quan trọng… 1.2.2.Sự cần thiết phân tích tài chính của khách hàng Vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản…bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau và có thể dẫn đến việc không hoàn trả nợ khi đến hạn. Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân khách quan như: thiên tai như bão lụt, hạn hán, hoả hoạn, động đất. Những thay đổi về nhu cầu người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật của một ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả sơ đồ của một hãng kinh doanh và đặt người đi vay cụ thể nào đó đã có thời làm ăn có lãi lâm vào cảnh thua lỗ. Một cuộc đình công kéo dài, việc giảm giá để cạnh tranh, hoặc việc mất một người quản trị giỏi có thể làm giảm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng hoàn trả tiền vay của người vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến lợi nhuận của người vay và gây nên niềm vui hay nỗi buồn của người kinh doanh, cũng như người tiêu dùng. Một số rủi ro nảy sinh từ các yếu tố riêng rẽ khó giải thích. Để quyết định có chấp nhận cho vay hay không, nhà quản trị ngân hàng phải cố gắng ước lượng rủi ro không hoàn trả. Rủi ro này có thể dự đoán trong một quá trình kéo dài, bằng những phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng. Trên thực tế, việc xác định các thông số phi tài chính như uy tín, năng lực, đạo đức, mục đích sử dụng vốn vay,… là rất khó, mang tính chất định tính. Vì vậy, những thông tin tài chính định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa chọn khách hàng. Phân tích tài chính của khách hàng cho ngân hàng xác định được các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng, xác định được thời hạn hợp lý của khoản vay, xác định kỳ hạn trả nợ …đối với từng khách hàng. Như vậy, phân tích tài chính của khách hàng không chỉ là nhu cầu thiết thực mà còn là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi NHTM. Có thể hiểu phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài chính, khẳ năng và tiềm lực của khách hàng giúp ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay đúng. Phân tích tài chính của khách hàng tại các NHTM nhằm đạt được những mục tiêu sau: ỉXác định được tình hình tài chính của khách hàng: giá trị tài sản, tình hình công nợ, nhu cầu tài trợ, khả năng thanh toán… ỉDự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng: khả năng hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ vay… ỉĐảm bảo cho ngân hàng thu được cả lãi lẫn gốc đúng hạn, giảm rủi ro tín dụng, tránh gây thất thoát vốn cho ngân hàng. Phân tích tài chính của khách hàng về cơ bản, giống nhau trong tất cả các NHTM, nhưng ở một số ngân hàng, người ta nhấn mạnh đến một số chỉ tiêu này trong khi đó, các ngân hàng khác lại nhấn mạnh đến một số chỉ tiêu khác. 1.2.3.Nội dung phân tích tài chính của khách hàng vay vốn của NHTM 1.2.3.1. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trong báo cáo tài chính Khi cho vay vốn điều mà ngân hàng quan tâm nhất là khả năng thanh toán và trả nợ của khách hàng vay vốn. Do đó, khi phân tích tài chính, ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá rủi ro thanh khoản của khách hàng tức là phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính, khả năng hoạt động, khả năng sinh lời và báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm đánh giá rủi ro của doanh nghiệp trong tương lai. Do vậy ngân hàng đặc biệt quan tâm tới các chỉ tiêu tài chính từ báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán. a) Đối với cho vay ngắn hạn *Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán Đây là nhóm chỉ tiêu mà không riêng gì ngân hàng mà rất nhiều đối tượng khác quan tâm tới, bất kỳ đối tượng nào liên quan đến doanh nghiệp như nhà đầu tư, công ty tài chính, cán bộ công nhân viên.. Phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản nợ trước đây rất quan trọng vì nó phản ánh được phần nào mức độ tín nhiệm hay sự sẵn sàng chi trả của doanh nghiệp - Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn Chỉ tiêu này là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp bằng cách chuyển đổi những tài sản lưu động thành tiền trong thời kỳ phù hợp với thời kỳ trả nợ. Tài sản lưu động gồm : Tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu và dự trữ. Nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn…. cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dưới một năm. Trong thực tiễn, người ta thường yêu cầu chỉ tiêu này của doanh nghiệp là lớn hơn 1, còn lớn hơn bao nhiêu là tốt thì tuỳ vào từng loại hình doanh nghiệp ở từng ngành nghề khác nhau. - Chỉ tiêu thanh toán nhanh Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay tức thì của doanh nghiệp bằng nguồn vốn bằng tiền, không bị chi phối bởi thời gian chuyển đổi của hàng hoá tồn kho và các khoản phải thu. Về mặt lý thuyết, hệ số này lớn hơn 0,5 là dấu hiệu tốt. Nếu quá lớn tức là vốn bằng tiền của doanh nghiệp quá lớn, chi phí cho việc lưu trữ, ghi chép, kiểm đếm, phân loại khá lớn, mặt khác không sinh lời nên cũng không phải là tốt. *Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động Hệ số này cho thấy lượng hàng hoá tồn kho có lâu hay không, có quay vòng nhanh hay không. Bất kỳ doanh nghiệp nào đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều tất yếu có hàng tồn kho. Tuy nhiên số lượng nhiều hay ít tuỳ vào nhiều yếu tố khác như lĩnh vực kinh doanh, quy mô kinh doanh… Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, song hai chỉ tiêu này phản ánh rất rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Nếu sản xuất kém hiệu quả, vòng quay vốn lưu động nhỏ, doanh thu thuần, lãi thuần trong một kỳ kinh doanh thấp kéo theo nhiều chỉ tiêu khác kém đi như: nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận, có những trường hợp bị lỗ, tài sản cố định còn trích khấu hao không đủ dẫn đến việc đầu tư cho trang thiết bị lỗ, tài sản cố định kém, hậu quả kéo theo là tiếp tục sản xuất kinh doanh kém tạo ra vòng xoáy liên tiếp. *Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính Hệ số này cho thấy mức độ độc lập hay phụ thuộc của doanh nghiệp đối với chủ nợ, mức độ tự tài trợ của đơn vị đối với tổng nguồn vốn kinh doanh của mình. Tỷ lệ này càng lớn thể hiện doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, tính độc lập cao với chủ nợ, khả năng an toàn về trả nợ cao. Khi đơn vị vay có vốn tự có trong tổng nguồn vốn kinh doanh thì họ sẽ có trách nhiệm cao hơn khi sử dụng vốn, tức là họ sẽ bị ràng buộc với vốn vay hơn. Mặt khác trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì vốn tự có sẽ là một nguồn vốn quan trọng để trả một phần nợ vay ngắn hạn. Vì vậy, một điều kiện quan trọng của tín dụng ngân hàng là: các đơn vị vay phải có vốn tự có, ngân hàng chỉ cho vay nhằm bổ sung vốn lưu động thiếu của các đơn vị vay, hoặc cho vay bổ sung vốn đầu tư trong các dự án sản xuất kinh doanh. Trong quá trình phân tích thông qua các nhóm chỉ tiêu trên, ngân hàng có thể phát hiện được các khoản nợ có vấn đề khi có những dấu hiệu khó khăn về tài chính, như: tỷ suất lợi nhuận giảm, tỷ suất tự tài trợ giảm, số dư tiền gửi giảm sút, gia tăng bất thường số hàng tồn kho, gia tăng các khoản nợ thương mại, gia tăng các khoản phải thu…. b) Đối với cho vay trung và dài hạn Khi phân tích tình hình tài chính khách hàng đối với cho vay trung và dài hạn, các NHTM thường tập trung phân tích các nhóm tỷ lệ và các tỷ lệ cụ thể sau: *Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn của doanh nghiệp Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Nguồn gốc và cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp. Nhìn chung, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường muốn sử dụng vốn tự có nhỏ nhất bởi vì: chi phí của vốn chủ sở hữu lớn hơn so với chi phí của vốn vay, do khi sử dụng vốn vay doanh nghiệp được hưởng một khoản tiết kiệm nhờ thuế, mặt khác, nếu doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do nguời cho vay gánh chịu. Trong khi đó, doanh nghiệp nắm phần lợi rõ rệt, doanh nghiệp chỉ cần bỏ ra một số vốn ít nhưng được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn để kinh doanh đang phát triển, sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt khi hoạt động của doanh nghiệp đang phát triển, lãi thu được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp tăng lên gấp bội. Doanh nghiệp càng vay càng có hiệu quả và khi đó rủi ro đến với người cho vay cũng càng lớn. Bất cứ ngân hàng nào cũng muốn mở rộng doanh nghiệp doanh số hoạt động nhất là mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. song nếu càng lấn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ càng trở thành người gánh chịu rủi ro thay cho doanh nghiệp. Do đó, ngân hàng phải tự hạn chế mình, chỉ cho vay trong khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Chỉ tiêu thường được ngân hàng sử dụng khi xem xét cơ cấu vốn của doanh nghiệp là: Tỷ số này cho biết tổng số vốn của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số vốn của doanh nghiệp đưa ra sản xuất kinh doanh. Tỷ số càng lớn, càng có sự đảm bảo cao cho các khoản nợ vay. Trong tình huống xấu nhất, khi doanh nghiệp không còn khả năng đối đầu với những cam kết trên thị trường và bị đặt vào tình trạng thanh lý thì số vốn tự có sẽ dùng để trang trải những khoản tổn thất phát sinh khi chuyển nhượng tài sản của doanh nghiệp. Ngoài ra còn dùng để trang trải những cam kết của doanh nghiệp như phí thanh lý, tiền phạt do không thực hiện hợp đồng, hoặc trả tiền trợ cấp cho người lao động nếu doanh nghiệp giải thể. Mức tối thiểu của tỷ số này tuỳ thuộc vào từng ngành hoạt động. Ví dụ, những doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất kinh doanh tương đối ổn định có thể chấp nhận được tỷ số này ở mức thấp hơn doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất không ổn định. Những ngành mà tài sản cố định mang tính đặc thù chuyên dùng, có tính chuyên môn hoá cao hơn các doanh nghiệp bình thường khác. Nói tóm lại, trong hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào, nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp nào, nguồn vốn chủ sở hữu thường phải đảm bảo những khoản mục có mức độ rủi ro cao như TSCĐ vô hình, TSCĐ có tính chuyên dùng, các bán thành phẩm….. Tỷ số này cao phản ánh doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào chủ nợ, đó là cấu trúc vốn mạo hiểm. Tỷ số này càng cao thì sự an toàn trong đầu tư càng giảm và do đó rủi ro của doanh nghiệp càng tăng, tuy nhiên tỷ số này cũng thay đổi theo ngành hoạt động. Ví dụ: giá trị của nó rất cao đối với ngành công nghiệp nguyên liệu, còn nó thấp hơn nhiều. Theo kinh nghiệm ở một số nước, người ta cho vay chỉ chấp nhận chỉ số này nhỏ hơn 1. Tức là tỷ số này càng gần 1, doanh nghiệp càng ít có khả năng được vay dài hạn. *Nhóm chỉ tiêu sinh lợi Chỉ tiêu này cho thấy sau khi đầu tư vào tài sản bằng nguồn vốn mới huy động sẽ đem lại hiệu quả cao hay thấp hơn so với lúc chưa đầu tư. Vì vậy, trong phân tích tài chính khách hàng để ra quyết định cho vay thì đây là tỷ lệ được ngân hàng quan tâm. Ngân hàng sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra đem về bao nhiêu doanh thu, từ đó đánh giá doanh nghiệp làm ăn như vậy có hiệu quả hay không. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư trung và dài hạn: trước đây khi trình bày các chỉ tiêu này, có một điểm cần lưu ý là: đối với các chỉ tiêu này, việc thẩm định của ngân hàng chỉ là thẩm định lại những gì đã có mà chủ dự án đã thẩm định, việc tính toán các chỉ tiêu này cũng là ngân hàng đứng trên quan điểm của doanh nghiệp để tính toán, bởi vì các chỉ tiêu này mà hấp dẫn đối với doanh nghiệp thì chắc chắn là hấp dẫn đối với ngân hàng. còn các chỉ tiêu thuộc nhóm này đối với ngân hàng là hoàn toàn khác so với doanh nghiệp. 1.2.3.2. Phân tích Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thể hiện lưu lượng tiền vào, ra của doanh nghiệp trong một chu kỳ kinh doanh. Kết quả phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cho biết được sự vận động sản xuất kinh doanh, lượng tiền bình quân trong kỳ. Bản chất sự vận động như sau: Nguồn thu tăng do giảm tài sản này hay tăng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu Nguồn chi tăng do tăng tài sản, trả các khoản nợ đến hạn hay trả cho đồng sở rút vốn Tiền mặt đầu kỳ + tiền phát sinh trong kỳ = tiền mặt cuối kỳ Sự vận động của dòng tiền thể hiện qua ba hoạt động: Dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp. Dòng tiền này lớn hơn hoặc bằng 0 do: doanh thu tăng, bán chịu ít, tốc độ tăng doanh thu bằng tiền lớn hơn tốc độ tăng sản phẩm được sản xuất ra, tăng phải thu kỳ trước. Đây là dấu hiệu sản xuất kinh doanh ổn định phát triển. Dòng tiền lớn hơn 0 do nguyên nhân ngược lại. Dòng tiền từ hoạt động đầu tư: Dòng tiền này lớn hơn 0 do: thu lãi đầu tư, thu tiền bán tài sản cố định, thu hồi đầu tư không có hiệu quả, tăng vốn chủ sở hữu, tìm nguồn hoạt động từ bên ngoài; dòng tiền này nhỏ hơn 0 do: Doanh nghiệp mới đầu tư vào tài sản hay đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải xem xét nguồn vốn để đầu tư, nếu không phải vốn chủ sở hữu hay vốn dài hạn thì chức tỏ doanh nghiệp đã đầu tư bằng vốn ngắn hạn như vậy tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Dòng tiền từ hoạt động tài chính: dòng tiền này liên quan tới vốn chủ sở hữu, vay vốn, nhận vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu. Dòng tiền này nhỏ hơn hoặc bằng 0 do trả lãi, chủ sở hữu rút vốn. Trường hợp lớn hơn 0. Tăng vay vốn, góp thêm vốn. Dtiền HĐSXKD Dtiền HĐĐT Dtiền HĐTC Tổng Đánh giá + + + + DN thừa tiền,chỉ cho vay mở rộng SXKD + + - + DN gặp khó khăn về tài chính, chỉ cho vay mở rộng SXKD - DN có vấn đề, cẩn trọng trong cho vay mới + - + + DN có đầu tư lớn, chỉ xem xét cho vay bổ sung vốn lưu động - DN đầu tư quá lớn, cẩn trọng trong cho vay mới - + + + DN gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, cẩn trọng trong cho vay mới - DN rất khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, cẩn trọng trong cho vay - - + + DN đầu tư lớn, gặp khó khăn tiêu thụ sản phẩm,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32608.doc
Tài liệu liên quan