Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty TNHH kiểm toán & tư vấn tài chính Kế toán AFC

Tài liệu Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty TNHH kiểm toán & tư vấn tài chính Kế toán AFC: LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, tốc độ tăng GDP luôn ở mức cao. Giai đoạn 2005-2010 theo dự báo, GDP sẽ dao động trong khoảng 8-8,5%. Theo xu hướng toàn cầu hoá, Việt Nam đã gia nhập WTO hứa hẹn một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Đây cũng là thời điểm bùng nổ của thị trường chứng khoán, một số lượng lớn công ty đã niêm yết hoặc có cổ phiếu giao dịch trên các sàn giao dịch, thị trường chứng khoán thực sự trở thành kênh huy động vốn hấp d... Ebook Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty TNHH kiểm toán & tư vấn tài chính Kế toán AFC

doc111 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1564 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty TNHH kiểm toán & tư vấn tài chính Kế toán AFC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẫn cho các doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, nhu cầu cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, nhu cầu mua bán, sát nhập, nhu cầu định giá cổ phiếu… đang tăng lên khiến nhu cầu định giá doanh nghiệp trở thành vấn đề vô cùng cần thiết. Trên thế giới đã hình thành rất nhiều phương pháp khác nhau để xác định giá trị doanh nghiệp. Nhưng trong điều kiện của Việt Nam hiện nay xác định giá trị doanh nghiệp như thế nào và các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp được sử dụng vẫn còn rất nhiều điều phải bàn cãi. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán kiểm toán AFC, em đã tìm hiểu, nghiên cứu và lựa chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp là: “Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty TNHH kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán AFC” Đề tài tập trung nghiên cứu các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp thực tế được sử dụng tại công ty kiểm toán AFC thông qua một trường hợp minh họa cụ thể, từ đó phân tích các thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. Luận văn tốt nghiệp của em sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp dựa trên những số liệu, tài liệu cụ thể được cung cấp trên công ty kết hợp với những kiến thức em học ở trường, kinh nghiệm thực tế khi thực tập tại công ty AFC và những nghiên cứu từ các nguồn thông tin khác. Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn tốt nghiệp của em gồm các chương: Chương 1_ Lý thuyết về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Chương 2_Thực trạng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán AFC. Chương 3_ Giải pháp hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán AFC. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đàm Văn Huệ và các anh chị trong công ty TNHH kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán AFC đã giúp đỡ em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp của mình. Chương 1 Lý thuyết về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Giá trị doanh nghiệp Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp Xét theo lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Trong nền kinh tế, doanh nghiệp là chủ thể quan trọng thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Con người sở hữu doanh nghiệp, chính là sở hữu cách thức và phương tiện tạo ra lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được coi là một loại tài sản. Cũng giống như các loại tài sản khác, doanh nghiệp cũng được đem ra mua bán, hợp nhất, chia nhỏ… Do đó, doanh nghiệp cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy luật thị trường, trong đó có quy luật giá trị. Giá cả của doanh nghiệp cũng phải tuân theo quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Tuy nhiên khác với tài sản thông thường, doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp còn là một tổ chức kinh tế, một thực thể đang hoạt động. Do vậy, không chỉ gồm các tài sản hữu hình, doanh nghiệp thực sự sở hữu các tài sản vô hình khác như giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh, quyền khai thác, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai… Vì thế khái niệm giá trị doanh nghiệp phải dựa trên tài sản là doanh nghiệp đang hoạt động, mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp đó không thể tách rời, các yếu tố cấu thành hữu hình và vô hình là một thể thống nhất. Khái niệm và đặc điểm của giá trị doanh nghiệp Giá trị doanh nghiệp được định nghĩa là sự biểu hiện bằng tiền tại một thời điểm nhất định về các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh. Giá trị thực sự của doanh nghiệp phụ thuộc vào những quan niệm về giá trị doanh nghiệp khác nhau của từng đối tượng khác nhau. Một cách chung nhất, giá trị doanh nghiệp được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà DN đem lại cho nhà đầu tư. Do đó giá trị doanh nghiệp khác với giá bán doanh nghiệp_được đo bằng cung, cầu “hàng hoá DN”. Giá trị doanh nghiệp vẫn tồn tại ngay cả khi không có hoạt động mua- bán DN, mà nó chủ yếu được coi như một tiêu chí đánh giá các khoản thu nhập DN có khả năng đưa lại. Giá trị doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, trong đó nhiều nhân tố đòi hỏi sự đánh giá chủ quan, biến động, khó định lượng. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp Giá trị doanh nghiệp bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, bao gồm: Yếu tố môi trường Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô: Môi trường kinh tế: Doanh nghiệp luôn tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh tế đó được nhìn nhận thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ lệ ngoại tệ, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị trường chứng khoán… Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự tác động trực tiếp. Một sự thay đổi nhỏ của mỗi yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Trong mỗi trường hợp, sự đánh giá về doanh nghiệp, trong đó có giá trị doanh nghiệp sẽ khác nhau, và có khi bị đảo lộn hoàn toàn. Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị ở mức độ nhất định. Chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tính thiếu minh bạch và công bằng trong cơ chế vận hành cũng như các yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng có những tác động xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội chứ không riêng gì đối với sản xuất kinh doanh. Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi những quan niệm, hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức… được thể hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ”; quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng. Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ , sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt… Trên phương diện xã hội, doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi doanh nghiệp đang hoạt động. Chính vì thế, đánh giá về doanh nghiệp không thể bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường văn hoá xã hội trong hiện tại mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng của yếu tố này đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai. Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật công nghệ đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, sự biến đổi về khoa học và công nghệ không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa doanh nghiệp mau chóng đến chỗ phá sản. Chính vì thế, khi đánh giá về doanh nghiệp, đòi hỏi phải chỉ ra mức độ tác động của môi trường này đến sản xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước phát triển mới của khoa học công nghệ. Các yếu tố thuộc môi trường ngành: Quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra đối với sản phẩm của doanh nghiệp, hay chính là quyết định khả năng phát triển, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Thị trường của doanh nghiệp được duy trì và phát triển khi mà mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp với khách hàng được đảm bảo. Do vậy muốn đánh giá khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xác định tính chất mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng, được đánh giá qua các yếu tố như sự trung thành và thái độ của khách hàng, số lượng và chất lượng khách hàng…Căn cứ có sức thuyết phục cao nhất là thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu qua các thời kỳ kinh doanh khác nhau. Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật liệu, dịch vụ điện nước, thông tin, tư vấn… Tính ổn định của nguồn cung cấp có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu cầu mà doanh nghiệp định ra. Các hãng cạnh tranh: Đối thủ cạnh tranh chính là nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải có những chính sách thích hợp để củng cố vị trí của mình trên thương trường. Đồng thời phải có khả năng dự báo về việc xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới trong tương lai. Các cơ quan Nhà nước: Sự hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào luôn phải đặt dưới sự kiểm tra giám sát của các cơ quan nhà nước, bao gồm cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, cơ quan môi trường…Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức này tức là đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với xã hội và cũng là biểu hiện doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được chính đáng, có ảnh hưởng tích cực tới giá trị của doanh nghiệp. Yếu tố nội tại DN Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp Tài sản của doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh và thu lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp và có tính chất quyết định vào yếu tố này. Mặt khác, giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị của doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó. Vị trí kinh doanh Vị trí kinh doanh được đặc trưng bởi các yếu tố: địa điểm, diện tích, các chi nhánh, yếu tố địa hình, thời tiết… Với vị trí thuận lợi doanh nghiệp có thể giảm được nhiều khoản mục chi phí, đồng thời tiếp cận và nắm bắt nhanh chóng nhu cầu thị hiếu của thị trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu mãi… Trong thực tế, do sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về giá trị doanh nghiệp. Uy tín kinh doanh- thương hiệu Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp, được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau trong doanh nghiệp: chất lượng sản phẩm, trình độ và năng lực quản trị kinh doanh, thái độ phục vụ tận tình của nhân viên… Cùng sản xuất một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp do có uy tín lớn có thể định giá cao cho sản phẩm của mình so với sản phẩm của các doanh nghiệp khác không có được lợi thế này. Có thể nói, khi đã xây dựng được uy tín-thương hiệu thì đó được coi như một tài sản của doanh nghiệp vì nó góp phần tạo nên lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tài sản uy tín-thương hiệu có một giá trị nhất định. Vì vậy, uy tín-thương hiệu của doanh nghiệp được thừa nhận như một yếu tố quan trọng cấu thành nên giá trị của doanh nghiệp. Chất lượng lao động Trình độ và chất lượng của lao động là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Đồng thời, nhờ chất lượng lao động cao, doanh nghiệp còn có thể giảm được chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí đào tạo, bồi dưỡng… góp phần nâng cao thu nhập. Vì vậy, khi đánh giá khả năng tồn tại, phát triển và tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp cần thiết phải xem xét đến yếu tố chất lượng lao động, coi đó như là yếu tố nội tại quyết định đến giá trị doanh nghiệp. Năng lực quản trị kinh doanh Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý đủ mạnh để có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, biến thách thức thành cơ hội, ứng phó linh hoạt với những biến động của môi trường kinh doanh. Năng lực quản trị kinh doanh tổng hợp của doanh nghiệp có thể thể hiện qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Vì vậy việc phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ trợ giúp cho việc đưa ra các kết luận về giá trị doanh nghiệp. Xác định giá trị doanh nghiệp Khái niệm xác định giá trị doanh nghiệp: Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, mục đích sở hữu doanh nghiệp vì thế cũng là vì mục tiêu lợi nhuận. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư quyết định bỏ vốn là đánh giá hiệu quả hoạt động, đánh giá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai hay chính là việc xác định giá trị doanh nghiệp. Vậy xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường tại một thời điểm nhất định. Xác định giá trị doanh nghiệp là công việc ước tính. Điều nay cho thấy không thể có được giá trị doanh nghiệp chính xác một cách tuyệt đối. Giá trị doanh nghiệp chỉ ở mức hợp lý nhất trong điều kiện các thông tin, bằng chứng thu thập được phục vụ cho việc phân tích đưa ra các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phù hợp với những thông tin đó. Sự cần thiết của việc xác định giá trị doanh nghiệp Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu định giá doanh nghiệp ngày càng nảy sinh một cách tự nhiên từ nhiều đối tượng trong nền kinh tế. Trên thế giới xuất phát ban đầu của nhu cầu định giá doanh nghiệp là từ quá trình mua bán, sát nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Giống như mua bán một mặt hàng bình thường, người ta phải xác định giá trị của nó để có được giá cả phù hợp. Đây là giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, cũng như nhu cầu để tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong môi trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể liên kết với nhau, sát nhập hoặc chia tách để tận dụng lợi thế của nhau về thị trường, nhân lực, vốn… để vững chắc và lớn mạnh trên thị trường. Giá trị của doanh nghiệp được đánh giá trên một phạm vi lớn có tính đến tất cả các yếu tố tác động tới doanh nghiệp. Vụ mua bán sát nhập chia tách diễn ra dựa trên cơ sở giá trị doanh nghiệp đã thương thuyết giữa các bên. Đặc biệt trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan trọng để các quốc gia tiến hành chuyển đổi loại hình sở hữu như cổ phần hoá, sát nhập, hợp nhất, giao bán, khoán và cho thuê. Xét sự cần thiết của định giá từ các đối tượng trong nền kinh tế có liên quan đến nhu cầu định giá doanh nghiệp, đó là những nhà đầu tư, người cung cấp, bản thân nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô. Đối với nhà đầu tư, người cung cấp: Thông tin về giá trị doanh nghiệp cho sự đánh giá tổng quát về khả năng tài chính, uy tín kinh doanh, rủi ro và vị thế tín dụng. Từ đó nhà đầu tư có quyết định có tiếp tục đầu tư, nhà cung cấp có tiếp tục cung cấp các yếu tố đầu vào, cấp tín dụng cho doanh nghiệp nữa hay không. Giá trị doanh nghiệp quyết định giá cả cổ phiếu trên thị trường. Nếu nhà đầu tư định giá được đúng giá trị của doanh nghiệp thì sẽ thu được lợi suất đầu tư mong muốn. Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Thông tin về giá trị doanh nghiệp giúp các nhà quản trị phân tích đánh giá trước khi đưa ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp. Từ giá trị doanh nghiệp của mình họ sẽ có cơ sở để so sánh giá trị đó với doanh nghiệp khác, từ đó thấy được vị trí và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Quyết định kinh doanh đúng đắn của các nhà quản trị phải dựa trên nhận thức sâu sắc về vị trí và những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp mình. Đối với các nhà quản lý, hoạch định kinh tế vĩ mô: Trên phương diện quản lí vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức đánh giá tính ổn định của nền kinh tế, của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường… Theo dõi sự biến đổi giá trị doanh nghiệp sẽ rất hữu ích trong việc dự báo sự thay đổi của thị trường. Như vậy định giá doanh nghiệp đang ngày càng trở nên không thể thiếu trước sự tăng trưởng kinh tế, khi mà số lượng các doanh nghiệp mua bán, sát nhập, cổ phần hoá đang nhiều dần lên cùng với nhu cầu thông tin từ nhiều đối tượng trong nền kinh tế. Các phương pháp chung để xác định giá trị doanh nghiệp Xác định giá trị doanh nghiệp là gì tuỳ thuộc vào từng quan niệm về giá trị. Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay có thể sử dụng nhiều phương pháp, nhưng điểm chung là các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đều phải có cơ sở khoa học, chặt chẽ và có thể chấp nhận được. Nhìn chung các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay dựa trên một trong hai cách tiếp cận là: + Đánh giá giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp trong điều kiện doanh nghiệp còn tiếp tục hoạt động, do đó có tính đến khả năng sinh lời của tài sản trong tương lai. + Lượng hoá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư, người cho vay. Sau đây là các phương pháp chung để xác định giá trị doanh nghiệp: Phương pháp giá trị tài sản ròng Cơ sở lý luận: Lý luận thực tiễn cho rằng nếu giá trị doanh nghiệp cao hơn giá trị đầu tư cần thiết để xây dựng nên nó thì các chủ đầu tư sẽ lựa chọn phương án xây dựng mới doanh nghiệp thay vì mua lại doanh nghiệp đó. Từ đó các nhà định giá đã đề ra nguyên lý chung cho phương pháp định giá theo giá trị tài sản: “Giá trị của một doanh nghiệp bằng với giá trị đầu tư cần thiết (hữu hình và vô hình) để lập nên doanh nghiệp đó”. Trong các phương pháp định giá doanh nghiệp theo giá trị tài sản thì phương pháp giá trị tài sản ròng (NAV) được sử dụng phổ biến và dựa trên cơ sở là: Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại tài sản thông thường. Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành dựa trên cơ sở một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể cho sự tồn tại của doanh nghiệp, cấu thành nên thực thể của doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà đầu tư khi thành lập và tiếp tục được bổ sung trong quá trình hoạt động. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với tài sản đó. Vì vậy giá trị doanh nghiệp được tính bằng tổng giá trị thị trường của số tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Phương pháp xác định: Phương pháp 1: Giá trị doanh nghiệp = Giá trị tài sản ròng Giá trị tài sản ròng (NAV) có thể được tính theo hai cách: Cách 1: Căn cứ vào giá trị sổ sách NAV = Tổng giá trị tài sản có - Tổng các khoản nợ phải trả Đánh giá Ưu điểm: Việc định giá tài sản không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, giá trị của các yếu tố vô hình là không đáng kể. Có được giá bán doanh nghiệp tối thiểu, giá này có thể coi là mức giá sàn trong đàm phán về giá trị doanh nghiệp. Hạn chế: Nếu chỉ căn cứ vào số liệu trên bảng cân đối kế toán thì sẽ không thu được kết quả chính xác tại thời điểm định giá. Bởi doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán thì những số liệu đó cũng chỉ là phản ánh trung thực chi phí phát sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ kinh tế trong quá khứ của kỳ kế toán chứ không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không có lạm phát. Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ sách kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá trị thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Cách sử dụng giá hạch toán là giá mua đầu kỳ, cuối kỳ hay thực tế bình quân; tiêu thức phân bổ chi phí… sẽ ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá vật tư, công cụ lao động… Do vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của chúng sẽ không đủ độ tin cậy tại thời điểm định giá. Vì những hạn chế cơ bản như vậy của cách xác định giá trị tài sản thuần theo số liệu của bảng cân đối kế toán mà giá trị tính được chỉ được coi như một tài liệu tham khảo. Cách 2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá trị thị trường Để xác định giá trị tài sản ròng theo giá thị trường, nhà định giá sẽ loại khỏi danh mục định giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng yêu cầu của nhà sản xuất kinh doanh. Sau đó, công việc định giá sẽ được tiến hành: - Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị trường hiện có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế thường không tồn tại thị trường TSCĐ cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Khi đó người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ dựa trên giá trị của TSCĐ mới. Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì nhà định giá sẽ áp dụng một hệ số quy đổi so với những TSCĐ khác loại nhưng có tính năng tương đương. - Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm định giá. Các loại tài sản như vàng, kim loại quý, đá quý… cũng được tính toán tương tự. - Các khoản phải thu: Do khả năng thu hồi của các khoản này là không đồng nhất nên ta phải tìm cách loại bỏ những khoản nợ không có khả năng thu hồi hay khả năng thu hồi là quá mong manh bằng việc: đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu. - Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: Nếu khoản đầu tư không quá lớn, có thể dựa trên giá tri chứng khoán, hoặc dựa theo số liệu của bên đối tác liên doanh. Nếu khoản đầu tư khá lớn, cần thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị của khoản đầu tư đó trong việc tạo nên giá trị doanh nghiệp. - Đối với tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: tính theo phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai. Phương pháp 2: GTDN =V2 =(Giá trị tài sản ròng + Giá trị khả năng sinh lời) /2 Giá trị khả năng sinh lời = LN ròng hàng năm dự tính thu được Hệ số sinh lời Lợi nhuận ròng bình quân hàng năm dự tính thu được = LNi: Lợi nhuận ròng dự tính thu được năm i n: số năm dự tính Hệ số sinh lời là tỷ lệ quy đổi giá trị các khoản lợi nhuận trong tương lai về hiện tại hay chính là lãi suất chiết khấu. Phương pháp này là phương pháp kết hợp giữa hai phương pháp định giá dựa trên giá trị tài sản ròng và dựa trên thu nhập. Giá trị thu được là giá trị bình quân của hai giá trị tương ứng theo hai phương pháp. Phương pháp 3: Giá trị doanh nghiệp = ( V2 + Giá trị tương đối )/2 V2: giá trị doanh nghiệp tính theo phương pháp 2 Giá trị tương đối = : Giá cổ phiếu bình quân nhóm công ty cùng quy mô, lĩnh vực : Lợi nhuận ròng của công ty định giá : Lợi nhuận ròng của nhóm công ty so sánh : Giá trị tài sản ròng của công ty định giá : Giá trị tài sản ròng bình quân của nhóm công ty so sánh Phương pháp này là sự kết hợp của phương pháp 2 với phương pháp định giá theo giá trị tương đối. Giá trị tương đối được xác định dựa trên cơ sở so sánh với các công ty cùng lĩnh vực kinh doanh dựa trên các số liệu theo công thức đã nêu. Ba phương pháp đã trình này trên đây sẽ đưa đến những kết quả giá trị doanh nghiệp khác nhau. Ta nhận thấy phương pháp 3 là sự kết hợp của phương pháp 1 và phương pháp 2 trong đó có tính đến các yếu tố đặc thù của ngành mà doanh nghiệp hoạt động, tiềm năng lợi nhuận, mức độ rủi ro của từng công ty. Ở một khía cạnh nào đó, giá trị doanh nghiệp tính được theo phương pháp 3 có tính bao quát hơn hai phương pháp trước. Nhưng việc lựa chọn phương pháp nào để kết quả thu được là chính xác và hợp lý nhất thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đánh giá phương pháp giá trị tài sản ròng: Hạn chế: Theo cách này, giá trị doanh nghiệp chỉ thuần tuý là một phép cộng tổng các tài sản bên trong doanh nghiệp tại thời điểm tính giá trị. Phương pháp này đã đánh giá doanh nghiệp ở một trạng thái tĩnh, doanh nghiệp không được coi như một thực thể, một tổ chức đang tồn tại và có thể hoàn chỉnh và phát triển trong tương lai. Vì vậy mà nó không phù hợp với một tầm nhìn chiến lược về doanh nghiệp. Một trong những mục tiêu của định giá là nhìn thấy khả năng sinh lời của doanh nghiệp và giá trị NAV không đủ để thoả mãn yêu cầu đó. Nếu chỉ xét đến giá trị NAV thì ta đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật chất nhưng lại có giá trị thực sự và nhiều khi chiếm giá trị rất lớn trong giá trị doanh nghiệp, đó là trình độ quản lý, trình độ công nhân, uy tín, thị phần… Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tài sản thuần lại trở nên quá phức tạp. Chẳng hạn như khi một tập đoàn có nhiều chi nhánh, hay một số loại tài sản không có trên thị trường, thì sẽ khó khăn trong định giá. Lúc này công việc đánh giá đòi hỏi sự dàn trải, tốn kém thời gian, chi phí, sai số đánh giá đối với các tài sản có tính đặc thù trong sản xuất kinh doanh do các chuyên gia trong ngành đưa ra. Ưu điểm: Phương pháp giá trị tài sản thuần chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể cấu thành doanh nghiệp. Giá trị tài sản đó là căn cứ cụ thể, có tính pháp lý rõ ràng nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc chắn nhận được khi sở hữu doanh nghiệp hay số tiền mà người mua bỏ ra luôn được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thật. Phương pháp này cho ta thấy giá trị thị trường của tài sản có thể bán rời tại thời điểm đánh giá. Đây cũng là mức giá thấp nhất, là cơ sở đầu tiên để các bên liên quan đưa ra trong quá trình giao dịch và đàm phán về giá bán doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhỏ có số lượng tài sản không quá khổng lồ, không yêu cầu những kỹ thuật phức tạp trong định giá, giá trị yếu tố vô hình không đáng kể, chiến lược kinh doanh không rõ ràng, thiếu căn cứ xác định các khoản thu nhập trong tương lai thì đây là một phương pháp khá thích hợp để đưa ra giá trị cơ bản trong bước đầu đàm phán, thương lượng, mua bán doanh nghiệp. Phương pháp 2: đã tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp Phương pháp 3: đã tính đến yếu tố so sánh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế, đối với những nước chưa có thị trường chứng khoán phát triển thì các phương pháp 1,2,3 đều có thể sử dụng với mục đích tham khảo và so sánh. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai Cơ sở lý thuyết của phương pháp xuất phát từ quan niệm: giá trị của một doanh nghiệp được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Song do khái niệm “giá trị thời gian của tiền” nên người ta phải thực hiện quy đổi các khoản thu nhập về cùng một thời điểm hiện tại. Theo đó, giá trị doanh nghiệp được xác định dựa trên công thức tổng quát: Vo: Giá trị doanh nghiệp Ft: Luồng tiền đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t i: Tỷ suất hiện tại hoá ( Tỷ suất chiết khấu) n: số năm nhận được thu nhập Xuất phát từ công thức trên, tuỳ theo chiến lược của mỗi nhà đầu tư khác nhau mà người ta phát triển và vận dụng công thức trên theo nhiều cách khác nhau. Bởi vậy nguyên lý trên có thể triển khai theo một trong nhiều phương pháp cụ thể sau: Phương pháp định giá chứng khoán Quan điểm cơ bản: Năm 1962, M.I.Gordon đã đưa ra công thức lượng giá chứng khoán vô cùng nổi tiếng. Ý nghĩa của công thức đó là: Nhà đầu tư bỏ tiền ra mua chứng khoán không phải là để đổi lấy những tài sản hiện có trong doanh nghiệp mà để đổi lấy những khoản thu nhập trong tương lai. Giá trị thực sự của một chứng khoán phải được đánh giá bằng độ lớn của khoản thu nhập mà nhà đầu tư chắc chắn sẽ nhận được từ chính doanh nghiệp đó, không phải do yếu tố đầu cơ chứng khoán. Giá trị doanh nghiệp sẽ bằng tổng giá trị các loại chứng khoán mà doanh nghiệp đã phát hành. Phương pháp xác định: Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán: PVo : giá trị thực của một chứng khoán Rt : thu nhập của một chứng khoán ở năm thứ t i : tỷ số hiện tại hóa n : số năm nhận được thu nhập Xác định giá trị thực của trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng chỉ vay nợ, thể hiện nghĩa vụ của người phát hành trả nợ cho người nắm giữ trái phiếu một số tiền lãi nhất định và khoản tiền gốc khi đến hạn. Trái phiếu có nhiều loại khác nhau song đặc điểm chung của các loại trái phiếu là: lợi tức cố định, có giá trị đáo hạn, thời hạn và thời điểm hoàn trả tiền lãi, gốc thường được xác định từ trước. Ta có thể triển khai công thức tính giá trị trái phiếu như sau: Pn : mệnh giá trái phiếu phải trả vào năm thứ n Vì mức lợi tức trái phiếu thường được coi là ổn định hàng năm, tức là: Vì thế ta có công thức như sau : Trong công thức trên, được coi là thừa số hiện tại hoá, và bằng tổng của một cấp số nhân có công bội Xác định giá trị cổ phiếu: Cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông với công ty cổ phần. Cổ phiếu có một số điểm khác biệt so với trái phiếu là: Không thể xác định trước các khoản lợi tức cổ phần hàng năm. Không có thời điểm đáo hạn Cổ đông chỉ có thể nhận về phần vốn của mình khi doanh nghiệp bị thanh lý, phá sản hoặc bán lại cổ phiếu của mình vào một thời điểm trong tương lai. Do vậy xuất hiện những khó khăn cơ bản khi áp dụng công thức tổng quát ở trên, đó là: Phải dự báo được các khoản thu nhập (Rt) dưới hình thức lợi tức cổ phần hàng năm và giá trị bán lại của cổ phiếu hoặc giá trị cổ phiếu tại thời điểm thanh lý, phá sản doanh nghiệp trong tương lai. Đầu tư cổ phiếu là loại đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro, vì thế không thể sử dụng tỷ suất hiện tại hoá (i) như đối với trái phiếu. Công thức tổng quát làm nên một tổng không xác định do cổ phiếu là một loại chứng khoán không có thời điểm đáo hạn. Vì những khó khăn cơ bản như trên mà công thức tổng quát không mang tính thực tiễn. Lý thuyết được xây dựng thêm để khắc phục khó khăn: Giả định 1 : doanh nghiệp có thể chi trả lợi tức cổ phần ổn định hàng năm là d Cho , ta có: Giả định 2 : lợi tức cổ phiếu chi trả hàng năm tăng một cách đều đặn theo một tỷ lệ ổn ._.định là k (k < i ). Cho ta có: Công thức cuối cùng trên dựa trên lập luận rằng: tăng trưởng và phát triển là động cơ mà mọi doanh nghiệp phải đi theo, nhất là tăng trưởng một cách đều đặn và vững chắc. Vì vậy giả định lợi tức cổ phần tăng một cách đều đặn hàng năm là sự phản ánh khuynh hướng và thực trạng có thật trong nhiều doanh nghiệp. Giả định 3 : Lợi tức cổ phiếu hàng năm tăng không đều đặn Tăng trưởng và phát triển là xu hướng chung của các doanh nghiệp, song đó chỉ là xu hướng. Cho dù các doanh nghiệp có duy trì chính sách phân chia lợi tức cổ phần một cách ổn định thì trong thực tế lợi nhuận thuần và lợi tức cổ phần giữa các năm đạt được cũng thường không đều nhau. Giả định trong n năm đầu doanh nghiệp đạt tỷ lệ tăng lợi tức cổ phần là k (k>i), còn từ năm thứ n+1 trở đi thì tăng với tỷ lệ k’(k’<i) Ta có công thức cuối cùng như sau: Đánh giá: Ưu điểm: Phương pháp định giá chứng khoán có thể đánh giá được giá cả chứng khoán trên thị trường có đi quá xa so với giá trị thực hay không. Phương pháp định giá chứng khoán đặc biệt phù hợp với quan điểm nhìn nhận và đánh giá về giá trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư thiểu số. Trong thực tế, nhà đầu tư thiểu số có thể trông thấy những triển vọng tiềm ẩn lớn lao về khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Song do tính chất thiểu số, họ không thể can thiệp vào những vấn đề có ảnh hưởng lớn tới doanh nghiệp. Do vậy giá trị của một nhà đầu tư thiểu số được tính bằng giá trị hiện tại của các khoản lợi tức cổ phần mà doanh nghiệp sẽ trả trong tương lai. Phương pháp này tỏ ra thích hợp với những doanh nghiệp có chứng khoán được giao dịch trên thị trường và việc xác định giá trị doanh nghiệp bằng những phương pháp khác gặp nhiều khó khăn. Hạn chế: Đối với cổ phiếu, mặc dù đã xây dựng một hệ thống các lý thuyết dựa trên các giả định song việc dự báo lợi tức cổ phần không phải là dễ dàng. Cổ phiếu là loại chứng khoán chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì thế giả thuyết về sự tăng trưởng ổn định không thuyết phục được các nhà thực hành. Để xác định lợi tức cổ phần còn phải xây dựng được một lý thuyết định hướng phân chia lợi tức cổ phần trong tương lai. Chính sách phân chia lợi tức cổ phần phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: nhu cầu đầu tư, nhu cầu trả nợ, khả năng tích lũy từ khấu hao, chính sách thuế thu nhập của nhà nước…Việc tính toán đến các yếu tố này cũng không đơn giản, nhất là khi các nhà đầu tư lại là cổ đông thiểu số, không có quyền quyết định tới chính sách phân chia lợi tức cổ phần. Việc định lượng tham số t bằng cách cho nói chung là không đúng trong thực tế. Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần Cơ sở lý luận: Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở quan niệm đầu tư vào doanh nghiệp giống như đầu tư vào một dự án, tức là đầu tư quản l‎ý doanh nghiệp trên góc độ của nhà đầu tư đa số - người có quyền kiểm soát doanh nghiệp. Quá trình SXKD là quá trình phát sinh các dòng tiền vào và ra được biểu diễn như sau: (+A) (+A) (+A) (+A) ….. (+A) (+A) Dòng tiền vào TGian (-A) (-A) (-A) Dòng tiền ra (-A) Sơ đồ biểu diễn dòng tiền của dự án đầu tư. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp: Nếu Pr1 = Pr2 = …. = Prn và khi n ─> ∞ thì Trong đó V: Giá trị doanh nghiệp Pr: Lợi nhuận sau thuế bình quân hàng năm dự tính thu được i : tỷ suất hiện tại hoá Đánh giá: Ưu điểm: Hoàn toàn phù hợp với quan điểm GTDN được xác định bằng giá trị hiện tại của khoản lợi nhuận sau thuế thu nhập. Có khả năng ứng dụng cao với các DN có nhiều tài sản để khấu hao, khả năng tích lũy vốn từ KH và lợi nhuận để lại là không đáng kể, DN chưa định hướng đầu tư trong tương lai, LNST chủ yếu được chia cho các nhà đầu tư. Định lượng LNST trong tương lai dễ dàng hơn dự báo lợi tức cổ phần. Hạn chế: LN ở đây đã được hiệu chỉnh kế toán nên không phù hợp với cách nhìn chiến lược về DN cũng như quan điểm nhìn nhận về dòng tiền của nhà đầu tư đa số. Việc n ─> ∞ là chưa hợp l‎ý. Phương pháp hiện tại hoá dòng tiền thuần Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp: Trong đó V: Giá trị doanh nghiệp Tk: Dòng thu nhập của doanh nghiệp trong tương lai (bao gồm lợi nhuận sau thuế và tiền khấu hao thu được) = Dòng tiền vào – Đầu tư bổ sung vào TSCĐ ± Chênh lệch về VLĐ thường xuyên. Vn: Giá trị doanh nghiệp ở cuối chu kỳ đầu tư (năm thứ n) i : Tỷ suất hiện tại hoá Đánh giá: Ưu điểm: Việc sử dụng dòng thu nhập của doanh nghiệp = LNST + Khấu hao giúp loại bỏ ảnh hưởng của việc điều chỉnh số liệu kế toán sao cho phản ánh đúng thời điểm phát sinh các khoản tiền như điều chỉnh doanh thu, đặc biệt là tác động của khấu hao đến lợi nhuận sau thuế. Đây là phương pháp tiếp cận từ góc nhìn của các nhà đầu tư đa số: Công thức tổng quát được xây dựng đòi hỏi phải đề cập và lượng hóa toàn bộ các yếu tố tác động tới doanh nghiệp như: Doanh thu, chi phí, thuế thu nhập, vốn đầu tư, chu kì đầu tư, giá trị cuối cùng và tỷ suất hiện tại hóa. Tức là nó đã chỉ ra những cơ sở để nhà đầu tư có thể tùy ‎phát triển những ý tưởng của mình khi sở hữu doanh nghiệp, hàm ‎ý rằng giá trị doanh nghiệp có thể thay đổi rất lớn tùy theo những trù định của nhà quản lý. Hạn chế: Đối với doanh nghiệp chưa có chiến lược kinh doanh xác định thì phương pháp này khó áp dụng. Việc dự báo dòng tiền vào, ra làm phức tạp thêm quy trình đánh giá. Đòi hỏi người định giá phải chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định dự án đầu tư, điều này không phải nhà đầu tư nào cũng có. Đòi hỏi độ tin cậy cần thiết của các thông tin cung cấp, một lượng thông tin lớn để đánh giá các yếu tố môi trường vĩ mô, vi mô. Cũng giống như phương pháp định giá chứng khoán, hiện tại hóa lợi nhuận thuần, phương pháp này cũng gặp khó khăn trong việc xác định tỷ suất hiện tại hóa. Phương pháp định lượng Goodwill Cơ sở lý luận: Hai doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành, nhưng lại có sự khác biệt về khả năng sinh lời. Nguyên nhân có thể do vị trí kinh doanh, chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý, mạng lưới phân phối hàng hoá, uy tín, thương hiệu hay bí quyết công nghệ…Tất cả những yếu tố vô hình trên tập hợp lại và tạo nên khoản lợi nhuận vượt trội giữa doanh nghiệp có khả năng sinh lời lớn hơn với doanh nghiệp có khả năng sinh lời thấp hơn, gọi là lợi thế thương mại. Khoản lợi nhuận vượt trội so với mức trung bình mà doanh nghiệp tạo ra được gọi là siêu lợi nhuận. Từ đây, giá trị tài sản vô hình được tính bằng giá trị hiện tại của các khoản thu nhập do tài sản vô hình tạo ra, hay chính là giá trị hiện tại của các khoản siêu lợi nhuận. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp: (1) V : giá trị của doanh nghiệp NAV : giá trị tài sản thuần GW : giá trị tài sản vô hình (lợi thế thương mại) (2) Bt: lợi nhuận năm t At : giá trị tài sản đưa vào kinh doanh r : tỷ suất lợi nhuận trung bình của tài sản đưa vào kinh doanh r.At : lợi nhuận bình thường của tài sản năm t Bt- rAt : siêu lợi nhuận năm t Xuất phát từ công thức (2) các nhà kinh tế có quan điểm khác nhau trong việc lựa chọn tham số Bt, At, r. Bảng 1.1 thể hiện sự khác biệt đó: Bảng 1.1. Đánh giá doanh nghiệp Tên phương pháp Tỷ suất sinh lợi bình thường của TS (r) Lợi nhuận (Bt) TS đầu tư vào kinh doanh (At) UEC (Hiệp hôi chuyên gia kế toán châu Âu) Chi phí sử dụng vốn trung bình Lợi nhuận sau thuế trước lãi vay. Tổng giá trị tài sản (ko phân biệt TS được tài trợ bằng nguồn nào) Anglo-saxons Chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu Lợi nhuận thuần Giá trị tài sản thuần được đánh giá lại CPNE (Vốn thường xuyên cần thiết cho kinh doanh) Chi phí sử dụng vốn trung bình tính riêng cho nguồn tài trợ trung và dài hạn Lợi nhuận sau thuế trước lãi vay trung và dài hạn Vốn thường xuyên được tài trợ bằng nguồn ổn định (dài hạn và trung hạn). Phương pháp UEC: Để lý giải cho sự lựa chọn các tham số này, các chuyên gia kế toán cho rằng: Tài sản của doanh nghiệp được tài trợ một phần bởi các khoản nợ. Do đó người sử dụng vốn hay chủ doanh nghiệp phải tạo ra tỷ suất lợi nhuận tối thiểu, phản ánh chi phí cơ hội của các nhà đầu tư. Phải trả được lãi vay và mức tối thiểu các cổ đông đòi hỏi. Từ đó, tỷ suất sinh lãi cơ bản cần được lựa chọn là chí phí sử dụng vốn trung bình của DN (WACC). Chi phí sử dụng vốn trung bình của doanh nghiệp là sự phản ánh mức sinh lời tối thiểu mà các nhà đầu tư đòi hỏi ở doanh nghiệp tương ứng với một cơ cấu nợ nhất định. Khoản lợi nhuận vượt trội so với mức sinh lời tối thiểu đó mới được coi là siêu lợi nhuận. Bt cần được tính bằng lợi nhuận sau thuế trước lãi, bởi đó là khoản lợi nhuận sinh ra do các yếu tố vô hình và hữu hình của DN, chứa đựng lợi nhuận cơ bản và siêu lợi nhuận. Phương pháp Anglo-saxons: Lựa chọn các tham số có nhấn mạnh đến các yếu tố rủi ro: ít có doanh nghiệp nào được tài trợ bởi 100% vốn chủ sở hữu. Trong cơ cấu vốn, nợ tăng tức là rủi ro tài chính tăng. Do đó, tỷ suất sinh lời tối thiểu trên vốn chủ sở hữu đầu tư một lượng vốn tương ứng với giá trị tài sản thuần được đánh giá lại, thì tỷ suất sinh lời tối thiểu đối với số vốn này phải là chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu. Khoản lợi nhuận thuần mà doanh nghiệp tạo ra vượt trên mức sinh lời đòi hỏi của chủ sở hữu sẽ được coi là siêu lợi nhuận. Phương pháp CPNE: Xem xét doanh nghiệp như một dự án đầu tư nhằm thu lợi nhuận. Các hoạt động đầu tư dài hạn vào TSCĐ và TSLĐ thường xuyên phải được tài trợ bằng nguồn tài trợ ổn định (dài hạn và trung hạn). Lợi nhuận của doanh nghiệp đạt được chủ yếu phụ thuộc vào những tính toán về đầu tư dài hạn vào những tài sản thường xuyên. Do đó, tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp tối thiểu phải đủ bù đắp chi phí sử dụng vốn trung và dài hạn. Và kết quả hoạt động đầu tư nếu cao hơn mức sinh lời tối thiểu sẽ được coi là siêu lợi nhuận. Như vậy, mỗi phương pháp tính toán khác sẽ cho ra một giá trị vô hình cá biệt tương ứng. Nguyên nhân xuất phát từ quan niệm về chi phí cơ hội của các nhà đầu tư là khác nhau. Đánh giá: Ưu điểm: Phương pháp định lượng Goodwill là một trong những phương pháp hiếm hoi xác định giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp đồng thời có cơ sở lý luận đáng tin cậy. Cách thức tính toán này nêu bật lên quan điểm cho rằng doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh được cấu thành từ hai yếu tố: yếu tố vô hình và yếu tố hữu hình. Thật vậy, nếu không tính đến giá trị vô hình của doanh nghiệp sẽ là một thiếu sót. Dựa trên công thức ta có thể nhận thấy nhà định giá có thể bù trừ sai sót có thể xảy ra khi đánh giá lại giá trị tài sản thuần. Vì nếu NAV được đánh giá cao sẽ làm giảm giá trị GW và ngược lại, nếu đánh giá thấp giá trị của các tài sản thì sẽ được bù đắp một phần bằng giá trị GW tăng lên. Phương pháp này dựa trên cơ sở có tính đến cả lợi ích của người mua và người bán. Công thức tính toán hàm chứa một điều: người mua doanh nghiệp là nhằm thu được khoản lợi nhuận cao hơn mức sinh lời bình thường của một tài sản, chứ không phải mua lấy những tài sản hiện hành. Bao hàm trong đó là quan niệm về mức sinh lời tối thiểu của một đồng vốn đưa vào đầu tư. Đó là cơ sở cho mọi quyết định đầu tư. Hạn chế: Siêu lợi nhuận chỉ ra khả năng sinh lời có thực của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, dưới tác động của quy luật cạnh tranh, quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân thì doanh nghiệp khó có thể duy trì lợi thế đó một cách lâu dài. Tức là ta sẽ gặp khó khăn trong việc dự đoán độ dài thời gian thu được siêu lợi nhuận. Tác động bên ngoài doanh nghiệp như: xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, thay đổi công nghệ…có nguy cơ làm mất siêu lợi nhuận của doanh nghiệp là khó dự đoán. Do đây là sự kết hợp giữa xác định giá trị tài sản thuần NAV và giá trị lợi thế thương mại nên cũng không thể tránh khỏi những hạn chế vốn có. Sử dụng công thức tính toán ta cần có sự thận trọng khi xác định r. Vì khi thay đổi r thì lợi nhuận sẽ thay đổi lớn bởi một lượng At thay đổi theo. Nói cách khác, GW có biên độ dao động lớn trước r. Sự thận trọng khi sử dụng công thức sẽ tránh dẫn đến kết luận sai lầm về giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp. Như vậy, có rất nhiều quan điểm khác nhau trong việc lựa chọn các tham số để định lượng giá trị tài sản vô hình. Mỗi phương pháp khác nhau sẽ cho ra một giá trị vô hình khác nhau. Phương pháp Goodwill cho thấy ngoài các khó khăn trong việc xác định các tham số tỷ suất hiện đại hóa (i), thời hạn (n) như các phương pháp hiện tại hóa nguồn tài chính tương lai; còn phải có sự phức tạp khi xác định chi phí cơ hội của nhà đầu tư và sự biến động của tài sản doanh nghiệp (At) trong tương lai. Nên có thể đơn giản hóa bằng cách: chọn tỷ suất sinh lời bình thường của tài sản bằng tỷ suất lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp cùng ngành kinh doanh, hoặc bằng nghịch đảo tỷ số PER của các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán mà có điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự. Giá trị tài sản đưa vào kinh doanh (At) có thể đánh giá lại theo thị trường theo phương pháp giá trị tài sản thuần. Còn tỷ suất hiện tại hóa được xác định dựa vào lãi suất chính phủ rồi tính thêm tỷ lệ % rủi ro. Phương pháp định giá dựa vào chỉ số PER. Đây là một phương pháp mang nặng tính kinh nghiệm nhưng lại được sử dụng một cách phổ biến trên các thị trường tài chính thế giới để ước lượng nhanh giá trị của một chứng khoán. Bản chất của tỷ số PER Giá cả chứng khoán chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau: cung cầu chứng khoán, đầu cơ, các động thái với mục đích thâu tóm… Vì vậy, giá cả chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị của doanh nghiệp. Trong thị trường chứng khoán hoàn hảo, giá cả chứng khoán chỉ phản ánh cung cầu thuần tuý thì có thể sử dụng để ước lượng giá trị của doanh nghiệp. Lúc này giá cả chứng khoán là sự đánh giá của thị trường về khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Nguời ta bỏ tiền ra mua cổ phiếu là để đánh đổi lấy các khoản lợi tức do cổ phiếu của doanh nghiệp mang lại. dn: cổ tức thu được hàng năm Vn: giá trị bán lại cổ phiếu vào năm n Giả sử doanh nghiệp thu lợi nhuận là P hàng năm và dùng toàn bộ để chi trả cổ tức, ta có: Cho ta có: Tỷ số được gọi là tỷ số giá lợi nhuận, viết tắt là PER, và bằng nghịch đảo của tỷ suất hiện tại hoá i: PER thể hiện mối tương quan giữa giá giao dịch cổ phiếu trên thị trường với số lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư. Phương pháp xác định: Theo những nhận định trên, nếu thị trường chứng khoán là một thị trường hoàn hảo, PER phản ánh trung thực đáng tin cậy mối tương quan giữa giá trị hợp lý của một cổ phần với số lợi nhuận của doanh nghiệp thì giá trị doanh nghiệp có thể tính qua: Giá trị doanh nghiệp = Lợi nhuận dự kiến đạt được * PER ( quá khứ) Trong đó, PER có thể là thông tin của những công ty lớn được công bố thường xuyên trên thị trường, là tỷ số trung bình của các doanh nghiệp cùng một lĩnh vực kinh doanh có chứng khoán giao dịch trên thị trường. Và PER kà con số của kỳ trước hay trong quá khứ. Thực tế là không có thị trường chứng khoán hoàn hảo hay thoả mãn các yêu cầu đề ra. Nhà đầu tư cũng không chỉ có khoản thu nhập là cổ tức, còn có chênh lệch giá…Do đó để phương pháp này đem lại hiệu quả cao hơn, các nhà kinh tế khuyến cáo nên sử dụng kết hợp các chỉ số khác ở những doanh nghiệp có chứng khoán giao dịch trên thị trường và điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự. Đánh giá: Hạn chế: Thiếu cơ sở lý thuyết rõ ràng, mang nặng tính kinh nghiệm, do đó, thiếu tính thuyết phục: giá cả giao dịch là mức giá trả cho lợi nhuận từ doanh nghiệp, không bị ảnh hưởng bởi yếu tố đầu cơ. Và vì vậy, giá trị tính được không có độ tin cậy cao. Tỷ số PER của các doanh nghiệp khác nhau, ở doanh nghiệp này là 20, tức là được trả với giá gấp 20 lần, ở doanh nghiệp khác lại là 30. Và ta không lý giải được vì sao! Phương pháp này không đưa ra được cơ sở để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá về khả năng tăng trưởng và rủi ro tác động tới giá trị doanh nghiệp. Ưu điểm: Tại các nước có thị trường chứng khoán phát triển, đây là một phương pháp định giá khá phổ biến. Tính phổ biến này là do nó cho phép ước lượng tương đối nhanh chóng giá trị doanh nghiệp, đảm bảo tính kịp thời trong việc ra quyết định của nhà đầu tư thiểu số trên thị trường cấp hai. Bản chất của phương pháp này là sử dụng giá trị thị trường, so sánh trực tiếp để ước lượng giá trị doanh nghiệp. Đây hoàn toàn có thể là một phương pháp hiệu quả nếu thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, các yếu tố đầu cơ có thể giảm tới mức thấp nhất. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Mỗi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp có những ưu và nhược điểm riêng, nhược điểm của phương pháp này có thể sẽ được bù đắp bởi ưu điểm của phương pháp khác. Trong thực tế, việc lựa chọn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện cụ thể. Trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Phương pháp tài sản thường được áp dụng phổ biến tại các nước mà có thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh mẽ như ở Việt nam, được dùng để xác định giá trị cho các doanh nghiệp ngoài dịch vụ. Tuy nhiên giá trị tài sản ròng của công ty dù được định giá chính xác đến đâu cũng chỉ thể hiện giá trị thanh lý của công ty, trong khi đó đối với người đầu tư mua cổ phiếu thì tương lai của cổ phiếu mới là điều đáng quan tâm hơn cả. Phương pháp dòng tiền được áp dụng phổ biến ở những nước mà thị trường chứng khoán phát triển, nơi có đầy đủ thông tin về lịch sử cũng như thông tin hiện tại và dự báo hợp lý về tình hình tài chính và rủi ro của doanh nghiệp. Hiện nay áp dụng công thức này ở Việt nam được nhiều người chấp nhận bởi giá cổ phiếu theo phương pháp này phản ánh được tương đối đầy đủ mọi mặt bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty so với các phương pháp khác và đứng trên quan điểm của nhà đầu tư thì, ngoài việc tính toán phương pháp đơn giản, nó còn đáp ứng đúng suy nghĩ, nguyện vọng của họ khi đầu tư vào một doanh nghiệp. Tuy nhiên tại Việt Nam áp dụng công thức này có một số khó khăn làm cho việc ước tính nguồn thu trong tương lai của các công ty khó có thể chính xác như: tình hình môi trường kinh doanh có nhiều biến động; các doanh nghiệp Việt Nam chưa quen với việc lập kế hoạch kinh doanh dài hạn ,đặc biệt xa lạ với việc dự báo chi tiết luồng tiền dài hạn ra, vào các công ty… các chỉ số tài chính của ngành và nền kinh tế còn nhiều bất cập, không phản ánh đẩy đủ và chính xác. Mục đích định giá Phương pháp chiết khấu dòng tiền áp dụng trong trường hợp nhà đầu tư muốn đầu tư lâu dài vì các nhà đầu tư kì vọng vào thu nhập thu được trong tương lai của doanh nghiệp. Nếu người mua mua doanh nghiệp với mục đích đầu tư lâu dài thì sẽ quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai. Còn đối với người bán, nếu muốn tìm kiếm các khoản đầu tư dài hạn, muốn tìm đối tác chiến lược để tranh thủ sự đầu tư và ảnh hưởng của đối tác đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai thì đương nhiên sẽ quan tâm đến các yếu tố sinh lợi trong tương lai. Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ định giá doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền để xác định khả năng chi trả lãi, gốc cho ngân hàng. Tuy nhiên khi dòng thu nhập trong tương lai không đủ để chi trả lãi, gốc cho ngân hàng hoặc để thế chấp, cầm cố tài sản của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ sử dụng phương pháp tài sản ròng hoặc phương pháp nào đó khác. Trong trường hợp người mua chỉ quan tâm đến doanh nghiệp với mục đích chỉ để bán những tài sản hiện có hoặc cả người bán, người mua đều không hề có ý định tiếp tục vận hành, đầu tư hoặc trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp không đem lại lợi nhuận thì không thể sử dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu. Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp Phương pháp dòng tiền thích hợp với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn thiết kế xây dựng, các ngành lĩnh vực phát triển công nghệ cao như phần mềm tin học, chuyển giao công nghệ... Đây là những doanh nghiệp có giá trị tài sản không đáng kể, nếu dùng phương pháp tài sản sẽ bộc lộ nhiều thiếu sót, không phản ánh đúng tiềm năng phát triển thực của doanh nghiệp. Ngược lại, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, công nghiệp, thương mại… giá trị doanh nghiệp tập trung ở tài sản đồng thời bảng cân đối kế toán của những doanh nghiệp này phản ánh đầy đủ các hoạt động thì phương pháp tài sản là phương pháp thích hợp. Bên cạnh đó, phương pháp P/E là phương pháp tính toán nhanh và phù hợp với mọi loại hình công ty cổ phần. Phương pháp này phụ thuộc vào việc lựa chọn một hệ số P/E ngành hợp lý, tương đương với hệ số P/E của doanh nghiệp. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này mang tính chất tương đối do được suy ra từ hệ số P/E của ngành và P/E của các công ty tương đương. Do tính chất nhanh chóng và thuận tiện nên nó phù hợp với phân tích của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán hơn là dùng để xác định giá trị doanh nghiệp dùng cho mua bán, sát nhập, cổ phần hoá. Đối với những thị trường chứng khoán mới phát triển , chỉ số ngành nghề là chưa đủ nên rất khó áp dụng. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không chắc chắn trong tương lai, không có khả năng dự báo được chính xác kết quả hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định thì kết quả định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền sẽ không đáng tin cậy, người thực hiện định giá nên dùng phương pháp định giá theo tài sản hoặc một phương pháp khác. Đối với những doanh nghiệp không chi trả cổ tức (hay D=0), áp dụng phương pháp chiết khấu cổ tức DDM là không thể thực hiện được do dòng cổ tức quy về hiện tại sẽ bằng 0. Thật ra việc không chi trả cổ tức nằm trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp muốn giữ lại toàn bộ phần thu nhập của chủ sở hữu để thực hiện tái đầu tư sản xuất, điều này sẽ là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai của doanh nghiệp. Do vậy đối với doanh nghiệp loại này tốt nhất phản ánh đúng chính xác giá trị thực doanh nghiệp và giá trị vốn chủ sở hữu là áp dụng phương pháp dòng tiền DCF. Dù thế nào thì xác định giá trị doanh nghiệp luôn phải dựa trên những quy định của luật phát do cơ quan thẩm quyền ban hành bởi vì nó phù hợp với chuẩn mực kế toán của từng quốc gia. Do vậy đây chỉ là cơ sở lý thuyết ban đầu để mỗi quốc gia sẽ tự xây dựng những cách thức xác định giá trị doanh nghiệp sao cho phù hợp với mức độ phát triển của thị trường chứng khoán và thị trường tài chính. Chương 2: Thực trạng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán AFC Giới thiệu chung về Công ty kiểm toán AFC Quá trình ra đời phát triển Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán, tên giao dịch là công ty kiểm toán AFC-thành viên tập đoàn kiểm toán BDO quốc tế, tiền thân là nhánh của một trong hai công ty kiểm toán thành lập đầu tiên vào năm 1991 của Bộ Tài chính (Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán - AASC). Đến năm 1995, do nhu cầu của thị trường dịch vụ kiểm toán, đặc biệt là nhu cầu sử dụng dịch vụ kiểm toán của các doanh nghiệp tại các vùng kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và các công trình trọng điểm phía Nam, để đảm bảo mức tăng trưởng cho công ty và tạo sự cạnh tranh thúc đẩy phát triển thi trường dịch vụ kiểm toán, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 108-TC/TCCB cho phép chuyển Chi nhánh thành một Công ty kiểm toán độc lập với tên gọi là Công ty Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn (AFC Sài Gòn). Công ty hoạt động theo Giấy phép đăng ký kinh doanh Số 102204 ngày 01/03/1995 do Uỷ ban Kế hoạch Thành phố Hồ Chí Minh cấp, với số vốn kinh doanh ban đầu là 1.8 tỷ đồng (30% vốn ngân sách Nhà nước cấp và 70% vốn doanh nghiệp tự bổ sung và vốn vay), trong đó vốn cố định là 1,2 tỷ đồng và vốn lưu động là 0,6 tỷ đồng. Trụ sở chính của công ty được đặt tại số 138 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Ngày 01/04/2001, theo công văn chấp thuận số 5173/CV-BTC của Bộ Tài Chính, Công ty kiểm toán AFC Sài Gòn đã được kết nạp và trở thành công ty thành viên duy nhất tại Việt Nam của tập đoàn kiểm toán Quốc tế BDO. Để phù hợp với sự phát triển của thị trường và của nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, theo Quyết định số 263/QĐ-BTC ngày 19/01/2004 do Bộ Tài chính ban hành về việc phê duyệt phương án chuyển doanh nghiệp Nhà nước Công ty Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn thành Công ty Cổ phần Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán (AFC), Công ty đã hoàn tất quá trình cổ phần hoá kể từ ngày 22/12/2004. Công ty có vốn điều lệ là 4,85 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ vốn cổ phần nhà nước là 30% vốn điều lệ, tỷ lệ vốn cổ phần bán cho cán bộ công nhân viên trong công ty là 70% vốn điều lệ, công ty không bán cổ phần ra ngoài doanh nghiệp. Tới tháng 05/2007 Công ty CP Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán (AFC) thực hiện chuyển đổi hoàn toàn hình thức sở hữu và trở thành Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán (AFC) với 14 chủ phần hùn giữ 100% vốn hiện đang làm việc tại công ty. Việc chuyển đổi hình thức sở hữu này đã đảm bảo yêu cầu về tính độc lập của hoạt động kiểm toán chuyên nghiệp tại Việt Nam. Hiện tại, trụ sở chính của công ty đặt tại số 04 Nguyễn Đình Chiểu phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Đến nay, ngoài trụ sở chính tại TP. Hồ Chí Minh là nơi phát sinh hoạt động kinh doanh chủ yếu, Công ty còn có hai chi nhánh hoạt động tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Cần Thơ. Hai chi nhánh này trước đó là hai văn phòng đại diện của công ty tại Hà Nội và Cần Thơ. Sau khi việc chuyển đổi hoàn tất, hai chi nhánh đã độc lập tương đối trong công tác khai thác thị trường, cung cấp dịch vụ và đóng góp một phần doanh thu đáng kể trong tổng doanh thu của toàn công ty. Từ các văn phòng chính và các chi nhánh, các cán bộ nhân viên Công ty được bố trí, phân công để có thể phục vụ tại nhiều nơi khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam khi có yêu cầu của khách hàng. Ngoài ra, hiện nay công ty cũng đang xem xét khả năng mở thêm các văn phòng tại một số các tỉnh thành phố lớn của Việt Nam trong tương lai và coi đây là một phần trong quá trình lập kế hoạch chiến lược của mình. Quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh ở Hà Nội: Chi nhánh Công ty kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán tại Hà nội được thành lập theo Quyết định số 390TC-QĐ-TCCB ngày 15/05/1995 của Bộ Tài chính, Quyết định số 1193/QĐ-UB ngày 26/03/1997 và 1728/QĐ-UB ngày 07/05/1997 của UBND TP Hà Nội về việc cho phép đặt trụ sở tại Thành phố Hà Nội. Trước đó, Chi nhánh được thiết lập dưới hình thức là Văn phòng đại diện của Công ty Kiểm toán và Tư vấn Tài chính kế toán. Theo Quyết định số 03/QĐ-KTTV-HĐQT của Hội đồng quản trị, Chi nhánh được trực tiếp giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng liên quan đến hoạt động kiểm toán và tư vấn về tài chính, kế toán, thuế… Giám đốc Chi nhánh trực tiếp điều hành hoạt động của Chi nhánh theo uỷ quyền của Giám đốc AFC Sài Gòn. Như vậy, các hoạt động kinh doanh trong chi nhánh sẽ độc lập hơn, phạm vi hoạt động cũng được mở rộng hơn trước. Mặc dù mới được thành lập, nhưng Chi nhánh đã nhanh chóng thiết lập được các mối quan hệ tương đối bền vững đối với các khách hàng tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Ngành nghề kinh doanh Từ năm 1992, khi bắt đầu hoạt động trong ngành kiểm toán, Công ty đã xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh bằng cách hợp tác với nhiều công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu như: Ernst & Young, KPMG, Grant Thornton … để thực hiện các cuộc kiểm toán phục vụ các khách hàng và dự án có vốn đầu tư hoặc cho vay của nước ngoài trong điều kiện khách hàng yêu cầu phải có một công ty kiểm toán Việt Nam kết hợp với một công ty kiểm toán nước ngoài cùng xác nhận tính trung thực của báo cáo tài chính. Thông qua các cuộc kiểm toán kết hợp này, các kiểm toán viên của Công ty đã được huấn luyện thực hiện các cuộc kiểm toán theo phương pháp tiếp cận và chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Từ năm 1994 đến 1996, Công ty đã tham gia dự án huấn luyện kế toán và kiểm toán quốc gia tên “Dự án hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam của Liên minh Châu Âu - European Union Technical Assistance Program for Vietnam (EURO TAPVIET)”. Qua chương trình này nhiều cán bộ và nhân viên nghiệp vụ của Công ty đã được huấn luyện trong nước và ở nước ngoài nhằm nắm vững nghiệp vụ kiểm toán, phục vụ khách hàng và đẩy mạnh sự phát triển ngành kiểm toán của Việt Nam. Đến nay, tuy Công ty thành lập được 12 năm, nhưng kinh nghiệm của Công ty trong nghề kiểm toán độc lập đã tích lũy hơn 15 năm, nhờ vào đội ngũ cán bộ nhân viên Công ty đã kinh qua công tác kiểm toán ngay từ khi thị trường dịch vụ kiểm toán độc lập hình thành tại Việt Nam. Trong qua trình hoạt động, nhằm đảm bảo mức tăng trưởng cao, Ban Giám đốc Công ty đã nhận thức được thời điểm phải thay đổi chiến lược kinh doanh bằng cách gia nhập vào một tập đoàn kiểm toán quốc tế có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Sau một thời gian tìm kiếm đối tác và ba năm tìm hiểu, bàn bạc, Công ty kiểm toán AFC đã được kết nạp và trở thành công ty thành viên duy nhất tại Việt Nam của Tập đoàn Kiểm toán Quốc tế BDO kể từ ngày 01/04/ 2001 theo Công văn chấp thuận số 5173/CV-BTC của Bộ Tài chính. Tập đoàn Kiểm toán Quốc tế BDO là tập đoàn quốc tế chuyên cung cấp các dịch vụ chuyên ngành kiểm toán, kế toán, tư vấn tài chính kế toán được xếp hạng thứ 5 trên thế giới với tổng doanh thu năm 2007 đạt hơn 4.703 tỷ đô la Mỹ. Tập đoàn BDO đã và đang phát triển mạng lưới toàn cầu với hơn 626 văn phòng tại 111 quốc gia, 32.000 nhân viên và chủ phần hùn. Việc gia nhập vào một hệ thống kiểm toán quốc tế là bước tiến tích cực thuộc chiến lược kinh doanh của AFC đặc biệt trong quá trình nền kinh tế Việt Nam hội nhập khu vực (AFTA) và quốc tế (WTO) nhằm củng cố các khách hàng hiện nay của Công ty và đồng thời mở rộng thị phần của Công ty ra qua việc phục vụ các khách hàng của Tập đoàn BDO là các công ty lớn, các tập đoàn nước ngoài và các công ty đa quốc gia. Gia nhập vào Tập đoàn BDO là cơ hội Công ty nhận được mọi sự hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ, huấn luyện nội bộ … cũng như được cập nhập các thông tin chuyên ngành trên thế giới. Chức năng hoạt động Công ty kiểm toán AFC cung cấp toàn bộ các dịch vụ kiểm toán, kế toán và tư vấn tài chính cho các khách hàng của các nước khác._. đến dòng tiền thay đổi rất lớn, khi đó giá trị doanh nghiệp sẽ thay đổi theo. Tóm lại, hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp sẽ là tấm gương tốt nhất để có thể dự đoán khả năng sinh lời trong tương lai, phân tích quá khứ để đánh giá tiềm năng phát triển , nguồn lực, nhân lực và tài lực của doanh nghiệp. Việc phân tích chính xác và đầy đủ các hoạt động trong quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp là cơ sở để xây dựng các dữ liệu cho việc thiết lập mô hình dự đoán các hoạt động trong tương lai như dự tính doanh thu hoạt động, dự tính chi phí, khấu hao, thuế suất để đánh giá lợi nhuận dự tính của doanh nghiệp và đánh giá tỷ lệ chiết khấu hợp lý là cơ sở xây dựng mô hính DDM và DCF tại Việt Nam. Dựa trên lý thuyết này ta có thể phân tích tình hình hoạt động trong quá khứ của công ty tài chính X trong ví dụ ở trên như sau: Phân tích ngành Phân tích môi trường vĩ mô: Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, ổn định (7.5%/năm); thị trường tài chính tiền tệ có tốc độ phát triển nhanh là điều kiện thuận lợi cho Công ty tài chính X tiếp cận thị trường và phát triển mạng lưới khách hàng. Đặc tính đường cầu: Cầu tín dụng trên thị trường lớn nên công ty có cơ hội tiếp cận với nhiều loại hình khách hàng, dự án, phương án kinh doanh, lựa chọn những khách hàng với những dự án, phương án kinh doanh hiệu quả, khả thi. Khung pháp lý: Công ty tài chính X được thành lập trong điều kiện có nhiều sự thay đổi tích cực về chính sách cũng như khung pháp lý liên quan tới hoạt động của công ty tài chính và hệ thống tổ chức tín dụng: Các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các tổ chức tín dụng được luật hoá (Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Bộ luật dân sự…) tạo hành lang pháp lý giúp tổ chức tín dụng có được định hướng phát triển trong thời gian dài. Ngân hàng Nhà nước theo dõi, giám sát chặt chẽ và đưa ra những chính sách điều chỉnh hoạt động của tổ chức tín dụng phù hợp dần với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, mặt khó khăn là: Hệ thống pháp luật Nhà nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng chưa hoàn chỉnh, đồng bộ đồng thời chậm đổi mới so với thông lệ quốc tế và yêu cầu phát triển của ngành. Hoạt động của các công ty tài chính nói chung bị ràng buộc bởi nhiều hạn chế do chính sách đem lại, mô hình công ty tài chính chưa thực sự rõ nét về hình thức hoạt động và sản phẩm. Phân tích thị trường: Khả năng cạnh tranh về cung cấp tín dụng của công ty trên thị trường bị hạn chế so với các ngân hàng thương mại có uy tín, tiềm lực mạnh trên thị trường (chiếm 98 % thị phần tín dụng). Khả năng huy động vốn giá rẻ (nguồn gửi tiết kiệm từ dân cư) gặp nhiều khó khăn do công ty mới thành lập uy tín chưa cao, bị hạn chế trong nhiều dịch vụ ngân hàng như không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm… Đây là những khó khăn cơ bản mà các công ty tài chính nói chung đều gặp phải trong đó có công ty tài chính X. Phân tích công ty : Phân tích môi trường nội bộ: Tình hình đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Bên cạnh việc ổn định bộ máy tổ chức, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, công ty cũng không ngừng đầu tư các nguồn lực, cả về con người lẫn cơ sở vật chất trang thiết bị, phần mềm quản lý hiện đại nhằm hướng tới sự phát triển toàn diện bền vững. Công ty đã hoàn thành việc đầu tư trang thiết bị máy tính, phần mềm quản lý nghiệp vụ ngân hàng hiện đại đồng thời mời các chuyên gia giáo viên từ Ngân hàng nhà nước, học viện ngân hàng và các tổ chức tín dụng đầu ngành để đào tạo chuyên sâu cho cán bộ nhân viên trong Công ty. Hiện nay Công ty đã được Tổng công ty tạo điều kiện để làm việc với các Sở, Ngành liên quan của UBND thành phố Hà Nội để tìm và thuê địa điểm làm trụ sở lâu dài của Công ty. Bộ máy tổ chức và tình hình lao động: Tình hình lao động: Tổng số lao động tại thời điểm cổ phần hoá (tháng 10/2007) là 56 người. Trong đó trình độ trên đại học và đại học chiến 84% tổng số lao động. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty đều còn trẻ, đều đã qua đào tạo chính quy và các khoá đào tạo nâng cao, có trình độ chuyên môn tốt. Bên cạch đó, công ty cũng tổ chức các khoá trao đổi nghiệp vụ với các đối tác, vì thế nhân viên công ty có điều kiện nâng cao năng lực áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao trong việc cung cấp dịch vụ phục vụ khách hàng tốt nhất. Sơ đồ tổ chức Héi ®ång qu¶n trÞ Ban kiÓm so¸t Ban Gi¸m ®èc Ban KTKS Néi Bé P.Tµi chÝnh K.to¸n P.TCL§ Hµnh chÝnh Ban §Çu t­ t.m¹i P.giao dÞch sè 1 P.TÝn dông c¸ nh©n P.TÝn dông t.®Þnh DN P.KÕ ho¹ch N.vèn Sự hỗ trợ của Tổng công ty Từ khi thành lập, công ty tài chính X đã được sự quan tâm sát sao của Tổng công ty về mọi mặt, Tổng công ty đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Công ty, trong đó có vai trò đầu mối thu xếp, hỗ trợ các vấn đề tài chính và vốn cho các công ty thành viên và công ty mẹ_Tổng công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty tài chính X đứng ra huy động vốn nhàn rỗi của các công ty thành viên, quản lý và đầu tư sinh lợi từ các nguồn vốn này cho các công ty, đồng thời khi công ty thành viên có nhu cầu vay vốn, công ty tài chính X sẽ đứng ra dàn xếp, tìm kiếm nguồn vốn cho các công ty này hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là nhóm khách hàng quan trọng của công ty tài chính X. Tổng công ty đã quan tâm chỉ đạo chiến lược phát triển của công ty và định hướng công ty gắn kết với thị trường bất động sản của Thủ đô nhằm khai thác những thế mạnh của Tổng công ty có sẵn trên lĩnh vực này. Là một đơn vị mạnh trong lĩnh vực xây dựng, Tổng công ty giúp Công ty tài chính X bước đầu có được thương hiệu trên thị trường. Bước đầu khi công ty đi vào hoạt động. đã xây dựng được tín nhiệm, tạo dựng được hình ảnh tốt đẹp với khách hàng và đối tác kinh doanh. Phân tích tài chính Tình hình kinh doanh trước CPH : Đơn vị tính : Triệu VNĐ TT Chỉ tiêu Từ 29/8/2005 đến 31/12/2005 Năm 2006 a b c Tổng cộng tài sản có Trong đó: TM tại quỹ TG NHNN TG tại các TCTD Cho vay Dự phòng RRTD Các khoản đầu tư Trong đó : + Đầu tư mua trái phiếu + Đầu tư góp vốn mua CP TSCĐ TS có khác Thu nhập sau thuế: Trong đó: + Tổng thu nhập từ lãi + Tổng thu ngoài lãi + Tổng CP + Tổng TNTT + Thuế TNDN Thuế phải nộp nhà nước 76.155 345 67.622 1.200 4.054 2.934 0 554 5 559 0 0 0 3.065.535 3.749 2 2.668.152 161.566 - 1.212 122.417 90.000 32.417 3.467 107.394 1.889 10.499 3.334 11.210 2.624 735 1.054 Nguồn: Công ty kiểm toán AFC Tình hình hoạt động tài chính: thể hiện qua bảng tổng hợp các chỉ tiêu: Đơn vị tính: Triệu VNĐ TT Chỉ tiêu Từ 29/8/2005 đến 31/12/2005 31/12/2006 1 Quy mô vốn - Vốn điều lệ 75.000 75.000 - Vốn chủ sở hữu 75.000 76.778 - Tổng tài sản có 76.155 3.065.535 - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (%) 356,51 11,68 2 Kết quả hoạt động kinh doanh - Nguồn vốn huy động 81 2.803.178 - Dư nợ cho vay 1.200 161.566 + Nợ quá hạn 0 0 + Nợ khó đòi 0 0 - Hệ số sử dụng vốn (*) + ROE (%) 0 2,52 + ROA (%) 0 0,06 - Tỷ lệ nợ bảo lãnh quá hạn/Tổng số dư bảo lãnh (%) 0 0 - Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ (%) 0 0 - Tỷ lệ nợ khó đòi/Tổng dư nợ (%) 0 0 3 Khả năng thanh toán - Tỷ lệ về khả năng chi trả (%) 1,04 174,45 Nguồn: Công ty kiểm toán AFC (*) Với ROE = Tỷ lệ LNST/Vốn điều lệ bình quân ROA = Tỷ lệ LNST/Tổng TS bình quân Qua các chỉ tiêu tài chính trên cho thấy tình hình tài chính của công ty trong năm đầu thành lập và hoạt động là ổn định và lành mạnh. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu năm 2006 đạt 11,68% ( theo quy định của NHNN là 8%), tỷ lệ về khả năng chi trả năm 2006 đạt 174,45%, tuy nhiên do Công ty mới được thành lập nên các hệ số về sử dụng đồng vốn còn thấp. Bên cạnh đó, quy mô vốn của công ty kà không cao, điều này sẽ dẫn đến khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển các dịch vụ và tiếp cận các khách hàng lớn. Dự báo và định giá Kế hoạch kinh doanh của Công ty tài chính X Công ty tài chính X được cổ phần hoá theo Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần dưới hình thức “Bán bớt một phần vốn nhà nước hịên có tại doanh nghiệp”. Sau chuyển sang công ty cổ phần, công ty dự định sẽ giữ nguyên nội dung theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hiện tại và xin cấp thêm giấy phép hoạt động ngoại hối. Cơ cấu tổ chức: Sơ đồ tổ chức công ty cổ phần: Chi nh¸nh H¶i phßng Chi nh¸nh §µ n½ng Chi nh¸nh TP HCM P.Giao dÞch sè 9 (GD9) P.Giao dÞch sè.... (GD...) P.Giao dÞch sè 4 (GD4) P.Giao dÞch sè 3 (GD3) P.Giao dÞch sè 2 (GD2) P.Giao dÞch sè 1 (GD1) P.TCL§ Hµnh chÝnh (P1) Khèi chi nh¸nh Trùc thuéc P.ph¸t triÓn s¶n phÈm d.vô (P6) P.TÝn dông c¸ nh©n (P5) P.TÝn dông T§DN (P4) P.KÕ ho¹ch N.vèn (P3) P.Tµi chÝnh K.Õ to¸n (P2) bAN gi¸m ®èc Ban kiÓm so¸t Héi ®ång qu¶n trÞ §¹i héi ®ång cæ ®«ng Ban KTKS néi bé Ban §Çu t­ TM (P7) Mục tiêu kinh doanh Về vốn chủ sở hữu: Tiếp tục tăng vốn tự có bằng việc phát hành thêm cổ phiếu, đảm bảo quy định về mức vốn pháp định đối với tổ chức tín dụng theo quy định của Chính phủ đồng thời tăng cường tích luỹ thông qua việc phát triển mạnh các quỹ dự phòng. Kế hoạch tăng vốn điều lệ hàng năm: Đơn vị tính: tỷ đồng Năm 2007 2008 2009 2010 2011 Vốn điều lệ 76,65 450 450 750 750 Nguồn: Công ty kiểm toán AFC Về hoạt động kinh doanh: Trên cơ sở phân tích năng lực hiện tại của Công ty, mục tiêu và phương hướng hoạt động, tình hình thị trường trong thời gian tới, dự kiến các chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng: BIỂU KẾ HOẠCH CHỈ TIÊU TĂNG TRƯỞNG Đơn vị tính: Triệu đồng TT Chỉ tiêu-Tiêu chí Kế hoạch 05 năm 2007 – 2011 2007 2008 2009 2010 2011 1 Vốn điều lệ 76.650 450.000 450.000 750.000 750.000 2 Thặng dư vốn 7.500 6.000 3 Vốn chủ sở hữu 77.057 460.928 464.457 777.309 785.306 4 Huy động vốn cuối kỳ 3.784.290 6.622.508 9.271.509 13.443.689 20.165.534 Tốc độ tăng trưởng 35% 75% 40% 45% 50% 5 Dư nợ TD cuối lỳ 218.115 381.701 534.381 774.852 1.162.278 Tốc độ tăng trưởng 35% 75% 40% 45% 50% 6 Đầu tư cuối kỳ (gồm đầu tư chứng khoán, góp vốn mua cổ phần) 165.263 289.209 404.892 587.094 880.641 Tốc độ tăng trưởng 35% 75% 40% 45% 50% 7 Doanh thu 349.493 613.929 857.942 1.243.562 1.859.088 8 Chi phí 338.192 530.021 759.921 1.053.215 1.636.943 9 Lợi nhuận sau thuế 8.136 60.414 70.575 137.049 159.945 10 Tỷ suất lợi nhuận/ Vốn điều lệ (%) 10,62% 13,43% 15,68% 18,27% 21,33% 11 Chia cổ tức 35,919 41,97 81,825 95,517 12 Cổ tức/VĐL (%) 7,98 9,33 10,91 12,74 13 Trích lập các quỹ 3.255 24.165 28.230 54.819 63.978 a Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ (5%) 407 3.021 3.530 6.852 7.998 b Quỹ đầu tư phát triển (10%) 813 6.042 7.058 13.706 15.995 c Quỹ dự phòng tài chính (10%) 813 6.042 7.058 13.706 15.995 d Quỹ khen thưởng phúc lợi (10%) 813 6.042 7.058 13.706 15.995 e Quỹ khác(5%) 407 3.021 3.530 6.852 7.998 14 Thù lao HĐQT, BKS 0 330 375 405 450 15 Lao động- Tiền lương 0 0 0 0 0 a Tổng số lao động 149 243 302 357 380 b Thu nhập bình quân (ngàn đồng/người/tháng) 4.500 5.250 5.700 6.000 6.750 Phân tích rủi ro: Các rủi ro doanh nghiệp có thể gặp: Rủi ro kinh tế: Rủi ro về lãi suất: đó là sự chênh lệch giữa lãi suất huy động đầu vào và lãi suất đầu ra, do biến động của thị trường và chênh lệch giữa các kỳ hạn huy động và kỳ hạn đầu tư, cho vay ra thị trường. Do đặc thù của Công ty tài chính X là tập trung cấp tín dụng trung và dài hạn, đầu tư có thời hạn dài nên khó khăn trong việc dự báo biến động của lãi duất, khi lãi suất trên thị trường biến động mạnh sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty tài chính X. Rủi ro ngành: Rủi ro về hoạt động tín dụng: Rủi ro tín dụng xuất phát từ các hoạt động tín dụng khi khách hàng vay vi phạm các điều kiện của hợp đồng tín dụng dẫn đến khách hàng không trả được nợ cho Công ty tài chính X. Rủi ro về hoạt động đầu tư: là sự mất cơ hội, giảm tài sản, mất vốn hay mất nguồn thu từ việc đầu tư vào các dự án, đầu tư tài chính biến động xấu hoặc dự án không hiệu quả. Đối với hoạt động đầu tư tài chính: đó là sự mất cơ hội, giảm giá trị do thị trường hoặc mất quyền kiểm soát. Đối với hoạt động đầu tư dự án, doanh nghiệp: đó là sự thất thoát do Công ty tài chính X không kiểm soát được nguồn vốn đầu tư của mình hoặc do doanh nghiệp, dự án đó kém hiệu quả. Rủi ro pháp luật: Rủi ro pháp luật liên quan đến những sự cố hoặc sai sót trong quá trình hoạt động kinh doanh làm thiệt hại cho Công ty tài chính X, khách hàng và đối tác dẫn đến việc bị khởi kịên. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro này là do con người hoặc hệ thống công cụ quản lý. Rủi ro khác: Rủi ro về ngành nghề, đối tượng cấp tín dụng, đầu tư do khủng hoảng kinh tế hay chính sách. Rủi ro khác liên quan đến các trường hợp bất khả kháng như thiên tai, lụt lội, cháy, nổ. Kết hợp các phương pháp định giá khác nhau Không có một phương pháp nào là tuyệt đối chính xác cho việc xác định giá trị mọi doanh nghiệp, và do trên thực tế khó có một doanh nghiệp nào có thể đáp ứng hoàn toàn điều kiện áp dụng của riêng một phương pháp nên một giải pháp tốt để hạn chế sai sót trong xác định là kết hợp nhiều phương pháp để xác định giá trị của một doanh nghiệp. Thực tế cho thấy phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo giá trị tài sản mới thể hiện được giá trị tài sản của doanh nghiệp, nhưng chưa thể hiện được giá trị thực tế của doanh nghiệp. Trong khi đó, áp dụng phương pháp DCF sẽ giải quyết được hầu hết các vướng mắc trong việc xác định lợi thế thương mại và tiềm năng giá trị trần của doanh nghiệp. Mặt khác khắc phục được tâm lý của lãnh đạo doanh nghiệp muốn có một giá trị tương đối thấp để dễ bán cổ phần, trong khi cơ quan phê duyệt lại mong muốn ngược lại. Để có thể xác định chính xác hơn giá trị thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá, cần áp dụng đồng thời cả hai phương pháp để thể hiện được một khoảng dao động về giá sàn- giá trần, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể chỉ ra một giá hợp lý nhất, phản ánh giá trị chính xác của doanh nghiệp và mức độ rủi ro của nhà đầu tư. Trên thế giới, ở các nước có nền kinh tế phát triển, thông thường khi định giá doanh nghiệp phương pháp chiết khấu dòng tiền được ưa chuộng và sử dụng nhiều hơn. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay phương pháp này chưa thực sự hiệu quả do thiếu các điều kiện cần thiết. Do vậy, phương pháp tài sản ròng, hoặc phương pháp hệ số so sánh có thể được sử dụng để xác nhận lại kết quả hoặc phủ định hoàn toàn phương pháp chiết khấu dòng tiền. Kết quả định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền là một khoảng giá trị dựa trên các phân tích về độ nhạy, phụ thuộc vào các giả thuyết xu hướng của ngành và nền kinh tế. Trong khi giá trị được xác định theo phương pháp tài sản ròng thể hiện giá thấp nhất- giá sàn của doanh nghiệp thì phương pháp chiết khấu dòng tiền lại thể hiện mức giá cao nhất- giá trần. Trong khoảng giá sàn- giá trần, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể đưa ra mức giá hợp lý, phản ánh kỳ vọng lợi nhuận và mức rủi ro của nhà đầu tư. Khi kết hợp với nhau ta sẽ được một khoảng dao động của giá trị doanh nghiệp. Vì vậy để xác định chính xác hơn giá trị doanh nghiệp cần áp dụng đồng thời cả hai phương pháp để có được một khoảng dao động về giá. Tuy nhiên nhiều khi khoảng giá trị thu được có sự chênh lệch nhau rất lớn, khi đó ta phải lựa chọn phương pháp thích hợp nhất, được tiến hành một cách tin cậy nhất. Ta cũng có thể lấy bình quân gia quyền của hai giá trị bằng cách đặt các trọng số theo độ tin cậy của giá trị doanh nghiệp. Việc sử dụng các phương pháp định giá khác nhau sẽ cho ta các giá trị doanh nghiệp khác nhau vì điều kiện áp dụng của từng phương pháp, những giả định đặt ra, cách xác định các yếu tố góp phần vào giá trị… là khác nhau. Không có phương pháp nào là thực sự hoàn hảo đối với mọi doanh nghiệp mà chỉ có thể thích hợp hơn đối với từng doanh nghiệp cụ thể. Mặt khác giá trị xác định được dựa trên một phương pháp cũng không phải là giá trị chính xác tuyệt đối. Phương pháp nào cũng chứa những ưu, khuyết điểm. Vì thế nên sử dụng kết hợp các phương pháp định giá để có cái nhìn từ những khía cạnh khác nhau về giá trị doanh nghiệp. Các giải pháp khác Sử dụng các nghiên cứu thị trường của các tổ chức chuyên nghiệp Đây chỉ là giải pháp tạm thời trong điều kiện túng thiếu thông tin của thị trường Việt Nam. Các tổ chức tư vấn do không có điều kiện về thời gian và nguồn lực, do đó có thể sử dụng các nghiên cứu thị trường của những tổ chức đáng tin cậy. Tuy nhiên khi sử dụng báo cáo đó cần phải có sự đánh giá và cẩn trọng về nguồn thông tin được cung cấp. Bên cạnh đó, công ty kiểm toán AFC có thể liên kết với các công ty chứng khoán để hưởng các dịch vụ cung cấp thông tin mang tính thống kê và phân tích để làm cơ sở dữ liệu cho định giá. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cho thị trường Thiết lập hệ thống báo cáo bắt buộc và lưu trữ cơ sở dữ liệu về báo cáo và phương pháp định giá áp dụng cho các công ty đã định giá. Cơ sở dữ liệu này là tài liệu vô giá trong việc tổng hợp và phân tích để đưa ra các tỷ lệ chiết khấu giả thiết và giả định của phương pháp chiết khấu dòng tiền, là những khó khăn tạm thời hiện nay khi áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền. Cơ sở dữ liệu này cũng giúp cho việc áp dụng những phương pháp khác nhau như phương pháp Goodwill, phương pháp P/E là những phương pháp phổ biến trong các thị trường tài chính phát triển. Ngoài ra, có thể tạo cơ chế để tăng định phí định giá cho các công ty áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền… ví dụ như áp dụng mức phí khống chế khác nếu áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, hoặc được quyền hưởng một tỷ lệ phần trăm của giá trị doanh nghiệp sau khi đã hoàn thành cổ phần hoá. Báo cáo xác định giá trị hoàn hảo theo phương pháp chiết khấu dòng tiền đòi hỏi tốn nhiều công sức hơn, nhưng đổi lại sẽ giúp công ty thu hút được nhiều vốn hơn. Công khai, minh bạch trước, trong và sau khi cổ phần hoá nhằm thu hút các nhà đầu tư từ mọi thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư là nguyên tắc căn bản của cơ chế thị trường, phù hợp với các thông lệ quốc tế. Mở rộng cơ hội tham gia định giá với các công ty nước ngoài Việc tham gia định giá với các công ty nước ngoài sẽ giúp công ty có thể tiếp cận với các phương pháp định giá tiên tiến trên thế giới, học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm về cách thức xác định cà xây dựng các thông số liên quan. Điều này giúp nâng cao uy tín của công ty trên thị trường trong nước và phát triển thêm hoạt động nghiệp vụ ra thị trường tài chính nước ngoài. Nâng cao chất lượng nhân viên tư vấn định giá Để nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn định giá, công ty kiểm toán AFC cần phải nỗ lực nâng cao chất lượng của nhân viên tư vấn định giá vì kết quả phụ thuộc rất lớn vào các ước đoán giả thiết của người thực hiện định giá. Công ty nên xây dựng cơ chế lương thưởng hậu hĩnh để giữ người tài, đồng thời chú trọng khâu tuyển dụng để có được nguồn nhân lực đầu vào chất lượng tốt. Trong quá trình làm việc, công ty cần tổ chức thêm nhiều khoá đào tạo riêng biệt hoặc đi liền với công việc để nâng cao trình độ cho nhân viên tư vấn tài chính, đặc biệt là kiến thức về kế toán tài chính kiểm toán. Bên cạnh đó, việc thường xuyên cử các nhân viên xuất sắc đi đào tạo tại nước ngoài cũng là giải pháp thực sự hiệu quả để nâng cao chất lượng nhân viên định giá. Kiến nghị Kiến nghị với Nhà Nước: Hành lang pháp lý: Ngoài Nghị định 187/NĐ-CP, Thông tư 126/TT-BTC năm 2004 và gần đây là Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 và Thông tư số 146/2007/TT-BTC ngày 06/12/2007 quy định về định giá doanh nghiệp cổ phần hoá, đến nay còn thiếu những quy định cụ thể về định giá doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp không thuộc đối tượng DNNN được cổ phần hoá. Để hoạt động định giá có tính chính xác và tin cậy cao hơn, Nhà nước cần bổ sung những quy định cụ thể, chi tiết về vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp nhằm chuẩn hoá các tiêu chuẩn trong định giá, làm cơ sở để đánh giá giám sát chất lượng dịch vụ định giá doanh nghiệp. Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước phát triển và các nước châu Á khác, cần phát triển thị trường trái phiếu chính phủ không chỉ với mục đích huy động vốn trong nước và quốc tế mà còn để trái phiếu chính phủ có đủ cơ sở tham chiếu như là công cụ an toàn nhất trên thị trường tài chính. Đặc biệt cần chú trọng đến trái phiếu chính phủ dài hạn phát hành bằng VNĐ và USD. Phát triển và ổn định thị trường chứng khoán Nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và ngược lại. Khi thị trường chứng khoán phát triển sẽ nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu, góp phần làm cho quá trình cổ phần hoá đạt hiệu quả cao. Thị trường chứng khoán càng có nhiều hàng thì càng nâng cao khả năng thanh khoản của chứng khoán và danh mục thị trường càng có tính đại diện. Đến nay, Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại đã chứng tỏ sức hẫp dẫn của mình về thu hút đầu tư. Tuy nhiên thị trường vẫn không ổn định và lên xuống theo tâm lý của các nhà đầu tư. Điều này ảnh hưởng rất lớn đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá. Thành lập các tổ chức đánh giá rủi ro doanh nghiệp: Trong bối cảnh hiện nay chúng ta chưa có được phụ phí rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu đối với các ngành kinh tế ở Việt Nam, điều này rất khó khăn khi xác định tỷ lệ lợi tức yêu cầu của các nhà đầu tư. Vì thế chúng ta cần phải thiết lập một tổ chức chuyên nghiên cứu và xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu cho thị trường bao gồm các số liệu kinh tế từng ngành, từng vùng, các chỉ số phát triển, rủi ro của từng doanh nghiệp trong ngành và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Các công ty này được gọi là các tổ chức định mức tín nhiệm. Tổ chức định mức tín nhiệm thiết lập hệ thống lưu trữ cơ sở dữ liệu các doanh nghiệp định giá. Cơ sở dữ liệu là tài liệu vô giá trong việc tổng hợp phân tích để đưa ra hệ số rủi ro và tỷ lệ chiết khấu giải quyết những khó khăn hiện nay của việc áp dụng phương pháp DCF, phương pháp so sánh, hệ số… là những phương pháp phổ biến trong các thị trường tài chính phát triển. Kiến nghị với Bộ Tài chính: Về cơ chế, chính sách: Hiện nay, các tổ chức tư vấn định giá ở Việt Nam còn chưa được kiểm soát chất lượng rõ ràng cụ thể. Vì vậy trong thời gian tới, Bộ tài chính cần tạo điều kiện về cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tư vấn thực hiện định giá. Đồng thời, Bộ Tài chính cần phải nghiên cứu xây dựng và ban hành quy chế lựa chọn tiêu chuẩn giám sát, đánh giá năng lực hoạt động của các tổ chức tư vấn định giá để lựa chọn danh sách tốt nhất những tổ chức đủ điều kiện để thực hiện dịch vụ định giá. Về việc công bố thông tin: Đối với các doanh nghiệp trong nước, Bộ Tài Chính cần có những quy định cụ thể nhằm đánh giá khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện công bố thông tin minh bạch chính xác. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen với việc công bố thông tin định kỳ, việc đó thường chỉ đối với những doanh nghiệp đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Phần lớn các doanh nghiệp đều không muốn công khai hoá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Việc công bố thông tin sẽ là cơ sở để có được các thống kê thị trường, là cơ sở so sánh ra quyết định đối với nhà đầu tư. Về xây dựng hệ thống lý luận làm nền tảng cho hoạt động định giá doanh nghiệp: Thực tế ở nước ta hiện nay đang thiếu một hệ thống lý luận hoàn chỉnh là cơ sở cho hoạt động định giá doanh nghiệp. Hoạt động định giá được nhắc đến nhiều nhưng chủ yếu là những bài viết phân tích lẻ tẻ và rời rạc; thiếu một cái nhìn tổng quan cho toàn bộ hoạt động. Vì vậy một hệ thống lý luận cần phải được tạo dựng để cung cấp cho những người quan tâm có một cái nhìn bản chất về giá trị doanh nghiệp, những yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, hệ thống lý luận này cũng cần đề cập đến những yếu tố tác động đến giá trị doanh nghiệp, một hệ thống đầy đủ và cập nhật các phương pháp định giá doanh nghiệp và điều kiện áp dụng … làm tài liệu nghiên cứu và tham khảo cho cán bộ định giá. Được tiếp cận với một hệ thống lý luận đầy đủ và sâu sắc, cùng với kinh nghiệm định giá được tích luỹ trong thực tế, đội ngũ cán bộ định giá doanh nghiệp sẽ làm tốt hơn công tác của mình. Kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nên phổ biến kiến thức về giá trị doanh nghiệp, tầm quan trọng của giá trị doanh nghiệp đối với công chúng. Các nhà đầu tư sẽ có cơ sở phân tích, không phải là đầu tư một cách mù quáng và theo trào lưu mà dựa trên những nhận định am hiểu rõ ràng. Đào tạo chuyên viên định giá để nâng cao chất lượng tư vấn Do kết quả định giá theo các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phức tạp phụ thuộc rất nhiều vào các ước đoán, các yếu tố chủ quan của người thực hiện định giá, do vậy nâng cao chất lượng tư vấn định giá đồng nghĩa với nâng cao năng lực của chuyên viên định giá. Uỷ ban chứng khoán nên thường xuyên tổ chức các đợt đào tạo cho nhân viên của các tổ chức tư vấn, mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy để tiếp cận những phương pháp hiệu quả nhất đang được sử dụng trên thế giới, tổ chức các cuộc hội thảo là nơi trao đổi ý kiến, kinh nghiệm cho các chuyên viên định giá. Kiến nghị với Bộ kế hoạch và đầu tư Bộ kế hoạch và đầu tư là cơ quan đưa ra các chiến lược quy hoạch cho từng ngành, vùng trên nhiều khía cạnh. Các doanh nghiệp phải theo dõi nắm bắt các chiến lược của nhà nước để xây dựng kế hoạch kinh doanh cho mình hợp lý và sát với tình hình chung. Một kế hoạch kinh doanh có tính khả thi mới đủ độ tin cậy cho việc dự báo các dòng tiền trong tương lai để thực hiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp một cách hiệu quả. Do vậy, bộ Kế hoạch đầu tư cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan khác để đưa ra định hướng phát triển hợp lý. Trên đây là một số kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền nhằm cải thiện sự thiếu thốn của thông tin thị trường, các quy định của pháp luật và kiểm soát chất lượng của các tổ chức tư vấn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng phổ biến hơn các phương pháp định giá doanh nghiệp trong thực tiễn và kết quả các định giá trị doanh nghiệp phản ánh đúng giá trị thực sự của doanh nghiệp. KẾT LUẬN Hiện nay trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang đi vào phát triển mạnh mẽ và tiến tới hoà nhập cùng các nước có nền kinh tế phát triển thì định giá doanh nghiệp đang trở thành nhu cầu cần thiết, không những đối với quá trình cổ phần hoá và sự phát triển của thị trường chứng khoán mà còn trong nhiều lĩnh vực khác. Hiện nay đã có nhiều phương pháp định giá được nghiên cứu và áp dụng tại Việt Nam, tuy nhiên hai phương pháp chủ yếu thường được sử dụng vẫn là phương pháp tài sản ròng và phương pháp chiết khấu dòng tiền, trong đó phương pháp tài sản ròng chiếm phần lớn do đặc điểm của các doanh nghiệp có nhu cầu định giá và cũng do nhiều vấn đề hạn chế khiến không đủ điều kiện để sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền. Ngoài ra trong thời điểm hiện nay thị trường chứng khoán của nước ta đang trong giai đoạn bùng nổ thì một phương pháp được nhiều người quan tâm là phương pháp chỉ số P/E. Mỗi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp kể trên có những ưu nhược điểm riêng và việc sử dụng phương pháp nào để xác định giá trị doanh nghiệp hay kết hợp các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc định giá là phù thuộc vào trình độ và kinh nghiệm của những người làm công tác định giá doanh nghiệp. Thực tế cho thấy công tác định giá doanh nghiệp tại Việt Nam chưa tỏ ra có hiệu quả và các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cần được kết hợp và áp dụng đa dạng hơn phù hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp và nhu cầu của nền kinh tế. Tại nhiều nước trên thế giới, định giá doanh nghiệp đã được hình thành và phát triển từ khá lâu nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Trong đó, một số phương pháp hiện đại đã được áp dụng và tỏ ra có hiệu quả trong việc xác định giá trị doanh nghiệp một cách tương đối chính xác. Luận văn tốt nghiệp của em đề cập đến những vấn đề cơ bản về các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, bao gồm: Lý thuyết về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. Cách thức áp dụng hai phương pháp định giá doanh nghiệp cơ bản tại công ty kiểm toán AFC và những khó khăn khi áp dụng phương pháp đó trong thực tiễn. Một số giải pháp nhằm khác phục những khó khăn đó tại công ty kiểm toán AFC cũng như kiến nghị với cơ quan chức năng nhằm tạo những điều kiện cần thiết để các phương pháp định giá được áp dụng phổ biến rộng rãi và phát huy hết những ưu điểm của nó. Do những hạn chế về thời gian và kiến thức nên luận văn tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Em mong nhận được sự sửa chữa góp ý của các thầy cô giáo để luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn và em có thể nâng cao kiển thức của mình trong lĩnh vực định giá doanh nghiệp nói riêng và lĩnh vực tài chính nói chung. Trong quá trình thực tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của thầy Đàm Văn Huệ_ giáo viên trực tiếp giảng dạy hướng dẫn, đồng thời nhận được sự giúp đỡ của các anh chị trong công ty kiểm toán AFC. Em xin chân thành cảm ơn thầy và các anh chị trong công ty kiểm toán AFC đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS Lưu Thị Hương (2005), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục. PGS.TS Lưu Thị Hương (2004), Giáo trình Thẩm định tài chính dự án, NXB Tài chính Hà Nội. Nguyễn Hải Sản (2005), Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính. Nguyễn Minh Hoàng (2005), Nguyên lý chung định giá tài sản và giá trị doanh nghiệp, NXB Tài Chính. “Nâng cao hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp”, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp Tháng 10/2005 “Cổ phần hoá DNNN- Thực trạng và định hướng hoàn thiện”, Tạp chí tài chính Tháng 9/2006 “Để cổ phần hoá không trở thành tư nhân hóa_Vận dụng phương pháp định giá doanh nghiệp khi cổ phần hóa”_ Tạp chí Tài chính 5/2007 “Một số vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay”_Tạp chí tài chính 5/2007 “Một số khó khăn khi kiểm toán các doanh nghiệp cổ phần hoá”_Tạp chí Kiểm toán-số 3/2008. Tài liệu tham khảo tại Công ty kiểm toán AFC Website: MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10702.doc
Tài liệu liên quan