Hoàn thiện quá trình lập & phát hành Báo cáo kiểm toán Báo cáo tài chính ở Công ty Kiểm toán & Kế toán Hà Nội - CPA Hà Nội

Mục lục Lời nói đầu Để từng bước hoà nhập với kinh tế khu vực và Thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN . Sự phát triển nhanh chóng và bền vững của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải được cung cấp thông tin tài chính hoàn hảo có độ tin cậy cao với sự kiểm tra và xác nhận của kiểm toán độc lập. Hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng đã và đang khẳng định được vai trò tí

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quá trình lập & phát hành Báo cáo kiểm toán Báo cáo tài chính ở Công ty Kiểm toán & Kế toán Hà Nội - CPA Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cực trong quản lý, điều hành nền kinh tế vĩ mô và vi mô. Do nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động kiểm toán độc lập nên em đã chọn thực tập tại công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội (CPA Hà Nội ). Sau một thời gian ngắn thực tập tại Công ty, em đã có những hiểu biết ban đầu về quy trình thực hiện cũng như các giai đoạn cụ thể một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Nhận thức được tầm quan trọng của quá trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính đối với một cuộc kiểm toán cũng như những ưu điểm và tồn tại của Công ty trong giai đoạn này, em đã lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện quá trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội- CPA Hanoi”. Nội dung của luận văn bao gồm : Chương 1:Lý luận chung về báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính Chương 2: Thực trạng lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà nội Chương 3: Hoàn thiện quá trình lập và phát hành cáo kiểm toán báo cáo tài chính Vì thời gian và trình độ còn hạn chế nên những thiếu sót là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Giám đốc Công ty cũng như các phòng nghiệp vụ và đặc biệt là thầy Vương Đình Huệ đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Chương 1 Lý luận chung về báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính Khái niệm kiểm toán báo cáo tài chính Kiểm toán báo cáo tài chính (Audit of Financial Statements ) là sự kiểm tra và trình bày ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về tính trung thực hợp lý, tính hợp thức và tính hợp pháp của các báo cáo tài chính. - Tính trung thực và hợp lý: + Trung thực: Là các thông tin tài chính phản ánh đúng nội dung, bản chất và thực trạng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. + Hợp lý: Là các thông tin tài chính trên báo cáo tài chính đảm bảo độ tin cậy cần thiết, không có các sai phạm xét trên các khía cạnh trọng yếu. Do tính chủ quan của kế toán nên không thể có các thông tin tài chính phản ánh tuyệt đối chính xác tình hình tài chính của đơn vị. Vì vậy, khi nhận xét về độ tin cậy của các thông tin tài chính, kiểm toán viên không thể sử dụng thuật ngữ “ chính xác”, mà sử dụng thuật ngữ “ hợp lý”. - Tính hợp thức: Một báo cáo tài chính được coi là hợp thể thức khi được lập phù hợp và tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành ( hoặc được chấp nhận ). - Tính hợp pháp : các báo cáo tài chính đảm bảo hợp lệ theo các quy định hiện hành và các thông tin tài chính đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan. Chủ thể kiểm toán báo cáo tài chính Chủ thể của kiểm toán báo cáo tài chính có thể là kiểm toán viên Nhà nước, kiểm toán viên nội bộ hoặc kiểm toán viên độc lập. Kiểm toán viên Nhà nước Kiểm toán viên là công việc kiểm toán do các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước (Tài chính, Thuế…) và các cơ quan kiểm toán Nhà nước chuyên trách tiến hành. Kiểm toán viên thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của Nhà nước tại các đơn vị có sử dụng vốn là kinh phí của Nhà nước. Ngoài ra, kiểm toán viên Nhà nước còn thực hiện kiểm toán hoạt động để đánh tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của các đơn vị nói trên. Kiểm toán viên nội bộ Chức năng quan trọng và chủ yếu nhất của kiểm toán viên nội bộ là thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động trong đơn vị. Tuy vậy, kiểm toán hoạt động cũng có thể tiến hành cùng với kiểm toán báo cáo tài chính. Khác với kiểm toán bên ngoài, trong khi kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên nội bộ còn kiểm toán cả các báo cáo kế toán quản trị và báo cáo kế toán tài chính của các đơn vị thành viên trực thuộc. Mục đích kiểm toán báo cáo tài chính của kiểm toán viên nội bộ là giúp chủ doanh nghiệp ( hoặc thủ trưởng đơn vị ) ký duyệt các báo cáo tài chính. Do tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ bị hạn chế nên về nguyên tắc, kiểm toán nội bộ các báo cáo tài chính không thể thay thế cho các kiểm toán viên ở bên ngoài (kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập ) Kiểm toán viên độc lập Nhu cầu kiểm tra, xác nhận báo cáo tài chính đã làm nảy sinh kiểm toán độc lập. Kiểm toán độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra, tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách hàng, kiểm toán viên độc lập còn có thể thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán khác. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, kiểm toán báo cáo tài chính do các kiểm toán viên độc lập của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thực hiện là hoạt động mang tính thông lệ phổ biến. Doanh thu từ kiểm toán báo cáo tài chính thường chiếm trên 50% tổng doanh thu của các công ty kiểm toán hàng đầu Thế giới. Mục đích kiểm toán báo cáo tài chính Rủi ro thông tin tài chính và các biện pháp khắc phục Rủi ro thông tin tài chính Các thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính có thể bị sai lệch so với thực tế do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan. Chẳng hạn: - Sự xuyên tạc, bóp méo các thông tin tài chính theo động cơ của người cung cấp thông tin. Trên thực tế, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, tuỳ thuộc vào đối tượng quan tâm cũng như mục đích của doanh nghiệp, mà kế toán phải lập và cung cấp các báo cáo tài chính. Các đối tượng quan tâm đến hoạt động doanh nghiệp có thể kể tới: ngân hàng, cơ quan thuế, người lao động, nhà đầu tư.. + Ngân hàng: Cạnh tranh là một nét đặc trưng trong nền kinh tế thị trường. Để nâng cao sức mạnh cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải từng bước hiện đại hoá sản xuất nhằm giảm thiểu chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải có vốn đầu tư vào trang thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất … Tuy nhiên, các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào nguồn vốn tự có, mà cần phải vay vốn ngân hàng. Để vay vốn, doanh nghiệp cần phải lập và gửi báo cáo tài chính tới ngân hàng cũng như chứng minh rằng doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và kinh tế. Chính vì những điều kiện nêu trên, mà các thông tin tài chính sẽ được trình bày theo hướng tối đa hoá lợi nhuận nhằm phụ vụ mục đích vay vốn của doanh nghiệp. + Nhà đầu tư: Trong cơ chế thị trường, do tính đa phương hoá đầu tư và đa dạng hoá các thành phần kinh tế nên trong một doanh nghiệp có thể có nhiều nhà đầu tư. Để thu hút đầu tư, doanh nghiệp cũng cần chứng minh rằng hoạt động của mình có hiệu quả và kinh tế. Do vậy, báo cáo tài chính gửi tới các nhà đầu tư cũng được trình bày theo hướng tối đa hoá lợi nhuận. + Các cơ quan thuế: Tất cả các doanh nghiệp đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp luôn muốn giảm thiểu phần nghĩa vụ thuế phải đóng góp cho Nhà nước. Vì vậy, các báo cáo tài chính được gửi cho các cơ quan thuế sẽ được trình bày theo hướng tối thiểu hoá lợi nhuận. - Tính phức tạp và quy mô của công ty: Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có mối quan hệ rộng cũng như chịu sự tác động từ nhiều phía. Vì vậy, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp ngày càng nhiều và mới mẻ, dẫn đến việc hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp thời. Từ đó, có thể gây ra rủi ro thông tin tài chính. - Ngoài ra, sự cách trở của thông tin từ người cung cấp đến những người sử dụng cũng dẫn đến các rủi ro thông tin. Chính vì một số các nguyên nhân nêu trên mà các thông tin trên báo cáo tài chính có thể bị trình bày sai lệch so với thực tế và do đó, cần có các biện pháp hạn chế rủi ro thông tin tài chính. Các biện pháp khắc phục rủi ro thông tin - Những người sử dụng thông tin trực tiếp thẩm định lại độ tin cậy của các thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, biện pháp này khó thực hiện trên thực tế và cũng không kinh tế. Cho dù những người sử dụng thông tin trực tiếp thẩm định lại thông tin thì các sai sót trọng yếu vẫn có khả năng xảy ra. - Pháp luật có thể chia sẻ các rủi ro thông tin với người sử dụng bằng cách đưa ra các quy định, các chế tài xử phạt vi phạm kế toán của người cung cấp thông tin. Tuy nhiên, trong thực tế, biện pháp này cũng chưa hữu hiệu và chưa thực sự bảo vệ được lợi ích của những người sử dụng thông tin. - Báo cáo tài chính trước khi được công khai phải được kiểm toán một cách độc lập và khách quan bởi một bên thứ ba. Biện pháp này sẽ khắc phục được những nhược điểm của các giải pháp nêu trên cũng như đảm bảo được tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả. Chính vì vậy, kiểm toán nói chung và kiểm toán báo các tài chính nói riêng đã ra đời và ngày càng phát triển. Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính Chúng ta đều biết rằng, các báo cáo tài chính hàng năm do các doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm của nhiều người: các chủ doanh nghiệp, các cổ đông, các thành viên Hội đồng quản trị, các doanh nghiệp bạn, ngân hàng và chủ đầu tư… Luật thuế, luật lao động, luật bảo vệ môi trường… cũng cho thấy sự quan tâm của Chính phủ, người tiêu dùng, công nhân của doanh nghiệp cũng như xã hội nói chung đối với báo cáo tài chính của doanh nghiệp.Tuy mỗi đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp ở mỗi góc độ khác nhau nhưng tất cả đều cần một báo cáo tài chính có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực. Do đó cần phải có một bên thứ ba, độc lập và khách quan, có kiến thức nghề nghiệp, uy tín và trách nhiệm pháp lý để kiểm tra, xem xét và đưa kết luận là báo cáo tài chính đó có được lập phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực và phương pháp kế toán hay không, có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của doanh nghiệp hay không. Đó chính là công việc của kiểm toán viên độc lập thuộc các công ty kiểm toán chuyên nghiệp. Luật pháp ở nhiều nước đã quy định rằng, chỉ có những báo cáo tài chính đã được xem xét và có chữ ký xác nhận của kiểm toán viên mới được coi là hợp pháp để làm cơ sở cho Nhà nứoc tính thuế cũng như các bên quan tân giải quyết các mối quan hệ kinh tế khác đối với doanh nghiệp. Như vậy, mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là nhằm xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong báo cáo tài chính để thoả mãn nhu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin. Lý luận chung về báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính Định nghĩa báo cáo kiểm toán Theo chuẩn mực kiểm toán Quốc tế cũng như chuẩn mực kiểm toán Việt nam, báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính được định nghĩa như sau : Báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã được kiểm toán.(Chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 700) Nội dung báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính Các yếu tố của một báo cáo kiểm toán báo cáo cáo tài chính Báo cáo kiểm toán phải được trình bày nhất quán về hình thức và kết cấu để người đọc hiểu thống nhất và nhận biết khi có tình huống bất thường xảy ra. Các yếu tố cơ bản của một báo cáo kiểm toán, bao gồm: a . Tên và địa chỉ công ty kiểm toán b . Số hiệu báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính c . Tiêu đề báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính d. Người nhận báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính e . Mở đầu báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính . Nêu rõ đối tượng của cuộc kiểm toán . Nêu trách nhiệm của Giám đốc ( hoặc người đứng đầu ) đơn vị được kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên cùng công ty kiểm toán f. Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán . Nêu chuẩn mực kiểm toán đã áp dụng để thực hiện cuộc kiểm toán . Nêu những công việc và thủ tục mà kiểm toán viên đã thực hiện g . ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo tài chính đã được kiểm toán h. Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán i. Chữ ký và đóng dấu Các nội dung cơ bản của một báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính - Tên và địa chỉ công ty kiểm toán : Trong báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính cần nêu rõ tên,biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax và các số hiệu liên lạc khác của công ty kiểm toán( hoặc chi nhánh ) phát hành báo cáo kiểm toán. Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì phải ghi đầy đủ các thông tin nêu trên của các công ty cùng ký vào báo cáo kiểm toán. - Số hiệu báo cáo kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm ( số hiệu đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán ). - Tiêu đề báo cáo kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do người khác lập. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế quy định, báo cáo kiểm toán phải có từ “ độc lập”. Quy định tiêu đề phải có từ “ độc lập” nhằm mục đích thông báo cho người sử dụng biết là cuộc kiểm toán được tiến hành vô tư trên mọi phương diện. - Người nhận báo cáo kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ người được nhận báo cáo kiểm toán phù hợp với hợp đồng kiểm toán. Người nhận báo cáo có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc cổ đông đơn vị được kiểm toán. Ví dụ : “ kính gửi Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty ...” Báo cáo kiểm toán phải được đính kèm với báo cáo tài chính được kiểm toán. - Mở đầu của báo cáo kiểm toán, bao gồm : + Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các báo cáo tài chính bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ... là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà báo cáo tài chính đó phản ánh. + Báo cáo kiểm toán phải khẳng định rõ ràng việc lập báo cáo tài chính là thuộc trách nhiệm của giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của mình. Báo cáo tài chính phản ánh các thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Việc lập báo cáo tài chính đòi hỏi Giám đốc (hoặc người đứng đầu ) đơn vị phải tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận; phải lựa chọn các nguyên tắc và phương pháp kế toán cũng như phải đưa ra các ước tính kế toán và các xét đoán thích hợp. Ngược lại, trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là kiểm tra các thông tin trên báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến về các báo cáo này. - Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng cách khẳng định rằng công việc kiểm toán đã được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, hoặc chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận. Điều đó chỉ khả năng của kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán xét thấy cần thiết tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này là cần thiết để đảm bảo cho người đọc báo cáo kiểm toán hiểu rằng cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo các chuẩn mực và thông lệ được thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, kiểm toán viên đã thực hiện các thủ tục kiểm toán khác thì cần phải ghi rõ trong báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ là công việc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp lý là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các công việc thực hiện , bao gồm : + Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản,...) những bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được các thông tin trong báo cáo tài chính + Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận ), các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập báo cáo tài chính + Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đã được Giám đốc ( hoặc ngưòi đứng đầu ) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập báo cáo tài chính. + Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên. - ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo tài chính được kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về các báo cáo tài chính trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. - Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết rằng kiểm toán viên đã xem xét đến các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng tới báo cáo tài chính hoặc báo cáo kiểm toán cho đến tận ngày ký báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ địa điểm (tỉnh, thành phố) của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Ngày ký báo cáo kiểm toán không đựơc ghi trước ngày Giám đốc (hoặc người đứng đầu ) đơn vị ký báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng ngày ký báo cáo tài chính. - Chữ ký và đóng dấu Báo cáo kiểm toán phải ký rõ tên của kiểm toán viên đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam - người chịu trách nhiệm kiểm toán và ký rõ tên của Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền ) của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Dưới mỗi chữ ký nói trên phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam. Trên chữ ký của Giám đốc ( hoặc người được uỷ quyền) phải đóng dấu của công ty (hoặc chi nhánh công ty ) kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Giữa các trang của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính đã được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai. Phù hợp với thông lệ chung của Quốc tế, Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) được phép ký bằng tên của công ty kiểm toán thay cho chữ ký tên của mình, nhưng vẫn phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam của chính mình và đóng dấu công ty kiểm toán. Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì báo cáo kiểm toán phải được ký bởi Giám đốc của đủ các công ty kiểm toán theo đúng thủ tục. Trường hợp này kiểm toán viên chịu trách nhiệm kiểm toán không phải ký tên trên báo cáo kiểm toán. Các loại báo cáo kiểm toán Để hình thành ý kiến nhận xét của kiểm toán viên trong các báo cáo kiểm toán, các kiểm toán viên phải soát xét, đánh giá các kết luận rút ra từ các bằng chứng thu thập được để hình thành các kết luận toàn diện về các khía cạnh sau : a. Các báo cáo tài chính lập ra có phù hợp với các thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực kế toán hay không. b.Các thông tin tài chính có phù hợp với các quy định hiện hành và các yêu cầu của pháp luật hay không. c. Các thông tin tài chính của doanh nghiệp có nhất quán với các hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không. d. Các thông tin tài chính có thể hiện thoả đáng mọi vấn đề trọng yếu và có đảm bảo trung thực và hợp lý không. Báo cáo kiểm toán sẽ thể hiện chi tiết, rõ ràng ý kiến của kiểm toán viên về các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào kết quả của từng cuộc kiểm toán cụ thể. Căn cứ vào các loại ý kiến nhận xét, báo cáo kiểm toán được chia thành 4 loại cụ thể sau : ý kiến nhận xét hoàn hảo ( báo cáo chấp nhận toàn phần ) Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét hoàn hảo được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam ( hoặc được chấp nhận). ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Chẳng hạn: “ Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của công ty ABC vào ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc vào ngày31/12/X, phù hợp với các chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan.” ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo tài chínhđược kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện và đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên. Báo cáo tài chính sau khi điều chỉnh đã được kiểm toán viên chấp nhận. Chẳng hạn: “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính sau khi đã được điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...” ý kiến chấp nhận toàn phần còn được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo kiểm toán có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính, nhưng không có ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán. Đoạn nhận xét này thường đặt sau đoạn đưa ra ý kiến nhằm giúp người đọc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Ví dụ: “ Theo ý kiến của chúng tôi,báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/ X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc vào ngaỳ 31/12/X, phù hợp với chế độ và chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc báo cáo tài chính đến điểm X trong phần thuyết minh báo cáo tài chính: Công ty ABC đã đưa vào sử dụng công trình xây dựng có giá trị XX VND, 3 tháng trước ngày kết thúc niên độ tài chính, nhưng chưa ghi tăng tài sản cố định, chưa tính khấu hao và cũng chưa lập dự phòng. Điều này cần được thuyết minh rõ ràng trong báo cáo tài chính...” ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là hoàn toàn đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu. 1.2.3.2 ý kiến chấp nhận từng phần (Báo cáo chấp nhận từng phần ) ý kiến chấp nhận từng phần là loại ý kiến nhận xét khi kiểm toán viên thấy không thể chấp nhận toàn bộ được, vì còn nhiều điểm chưa xác nhận được hoặc không đồng ý với doanh nghiệp. ý kiến chấp nhận từng phần có 2 dạnh là ý kiến “Tuỳ thuộc vào” các nguyên nhân dẫn đến nhận xét không hoàn hảo hoặc ý kiến “ Ngoại trừ” những trường hợp có bất đồng với quản lý doanh nghiệp về từng bộ phận của báo cáo tài chính. Trường hợp nhận xét “ngoại trừ” Nhận xét này được đưa ra trong trường hợp, kiểm toán viên cho rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, và những phần không chấp nhận do không đồng ý với Giám đốc hay do công việc kiểm toán bị giới hạn là quan trọng nhưng không liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến “ý kiến từ chối” hoặc “ý kiến không chấp nhận”. Sau đây là một đoạn nhận xét “ngoại trừ” trong trường hợp kiểm toán viên không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho: “ Chúng tôi không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 31/12/X, vì tại thời điểm đó chúng tôi chưa được bổ nhiểm làm kiểm toán viên. Với những tài liệu hiện có ở đơn vị, chúng tôi không thể kiểm tra được đúng đắn số lượng hàng tồn kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính vì lý do nêu trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu đến tình hình tài chính của Công ty ABC vào ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc vào ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan.” Trường hợp nhận xét “tuỳ thuộc vào” Kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu đến tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố mà kiểm toán viên nêu ra trong báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu Yếu tố tuỳ thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn, như các vấn đề liên quan đến tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc một khoản doanh thu không được công nhận làm ảnh hưởng đến kết qủa kinh doanh của đơn vị. Yếu tố tuỳ thuộc do kiểm toán viên nêu ra thường liên quan đến các sự kiện xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và của kiểm toán viên. Việc đưa ra yếu tố tuỳ thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện xảy ra. Ví dụ về báo cáo kiểm toán có yếu tố tuỳ thuộc: “ Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của công ty ABC vào ngày 31/12/X, cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc vào ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và cá quy định pháp lý có liên quan, tuỳ thuộc vào: Khoản doanh thu XX VND được chấp nhận. Khoản chi XY VND được Hội đồng quản trị thông qua. 1.2.3.3 ý kiến nhận xét “từ bỏ”(Báo cáo kiểm toán từ chối bày tỏ ý kiến ) ý kiến từ bỏ (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra trong trường hợp phạm vi kiểm toán bị giới hạn nghiêm trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về báo cáo tài chính, bằng mẫu câu: “ Theo ý kiến của chúng tôi, vì các lý do nêu trên, chúng tôi không thể đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính...” Ví dụ về báo cáo tài chính có ý kiến từ chối: “ Do những hạn chế từ phía đơn vị mà chúng tôi không thể kiểm tra được toàn bộ doanh thu, cũng không nhận đủ các bản xác nhận nợ phải thu từ khách hàng, và vì tính trọng yếu của các sự kiện này, chúng tôi từ chối đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị.” 1.2.3.4 ý kiến “trái ngược” ( Báo cáo kiểm toán có ý kiến trái ngược ) ý kiến trái ngược được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc đơn vị là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của báo cáo tài chính, bằng câu: “ Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của các vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh không trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu... “ Kiểm toán viên không thể đồng ý với các nhà quản trị doanh nghiệp về: sự thích hợp của chế độ kế toán mà doanh nghiệp sử dụng; phương pháp áp dụng chế độ kế toán; sự thể hiện trung thực hợp lý trong báo cáo tài chính; sự phù hợp của báo cáo tài chính với các yêu cầu pháp lý tương ứng.. 1.3 Quy trình kiểm toán Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế của từng cuộc kiểm toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho kết luận của kiểm toán viên , cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm 3 giai đoạn. Quy trình kiểm toán được thể hiện khái quát theo sơ đồ sau: Giai đoạn I Lập kế hoạch kiểm toán Giai đoạn II Thực hiện kiểm toán Giai đoạn III Hoàn thành kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán 1.3.1 Lập kế hoạch kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên cần thiết cho một cuộc kiểm toán. Nguyên tắc kiểm toán Quốc tế thứ 3- các nguyên tắc cơ bản xuyên suốt một cuộc kiểm toán do IAPC (Uỷ ban thực hành kiểm toán Quốc tế ) phê duyệt tháng 6/1980 và ban hành tháng 10/1980 nêu rõ: “ Kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc kiểm toán tiến hành có hiệu quả, đúng thời gian. Kế hoạch kiểm toán phải được tiến hành trên cơ sở các hiểu biết về đặc điểm hoạt động kinh doanh của khách hàng.” Để đảm bảo cho cuộc kiểm toán đạt hiệu quả cao, trong mọi cuộc kiểm toán, kiểm toán viên đều phải lập kế hoạch kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán thích hợp sẽ tạo điều kiện giúp cho kiểm toán viên đạt được những bằng chứng kiểm toán đầy đủ thích hợp làm cơ sở cho nhận xét của kiểm toán viên trong báo cáo kiểm toán; duy trì chi phí kiểm toán ở mức hợp lý và tránh được những bất đồng với khách hàng. Trong đó , đạt được những bằng chứng kiểm toán đầy đủ thích hợp là điều tối quan trọng đối với công ty kiểm toán bởi nó có thể giúp công ty giảm thiểu tối đa trách nhiệm pháp lý và giữ vững danh tiếng trong cộnh đồng nghề nghiệp. Giữ chi phí ở mức hợp lý giúp công ty duy trì sức cạnh tranh và do vậy có thể giữ và mở rộng khách hàng. Tránh những hiểu lầm của khách hàng cũng là điều quan trọng trong mối quan hệ với khách hàng, nó giúp kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán có chất lượng cao và chi phí thấp. Ngoài các vấn đề khác, kế hoạch kiểm toán phải bao gồm các nội dung sau: a. Đạt được sự hiểu biết về hệ thống kế toán, chế độ kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ của khách hàng. b. Xác định độ tin cậy dự kiến vào kiểm soát nội bộ. Lập chương trình và xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các biện pháp kiểm toán sẽ được thực hiện. Tổ chức phối hợp các bước công việc. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán bao gồm: chiến lược kiểm toán, kế hoạch kiểm toán, chương trình kiểm toán. Trình tự tiến hành có thể được minh họa bằng sơ đồ sau: Chiến lược kiểm toán Kế hoạch kiểm toán Chương trình kiểm toán Chiến lược kiểm toán: là quá trình đưa ra phương hướng, đường lối cho hoạt động kiểm toán trên cơ sở hiểu biết của kiểm toán viên về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Chiến lược kiểm toán được lập ra trong trường hợp công ty kiểm toán đã ký được hợp đồng cho nhiều năm kiểm toán hoặc áp dụng cho nhiều cuộc kiểm toán. Để lập được chiến lược kiểm toán, đòi hỏi kiểm toán viên phải tiếp xúc với khách._. hàng để tìm hiểu tình hình, thu thập được những thông tin cần thiết về hoạt động kinh doanh trên những nét đặc trưng cơ bản sau: Quy mô và phạm vi hoạt động kinh doanh; tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ sản xuất kinh doanh chủ yếu và các rủi ro tiềm tàng; tình trạng tài chính và các mối quan hệ kinh tế chủ yếu của khách hàng; tổ chức quản lý kinh doanh; tổ chức bộ máy và công việc kế toán tài chính thống kê.; tổ chức kiểm toán nội bộ; những thuận lợi và khó khăn chủ yếu trong sản suất kinh doanh, trong quản lý và kế toán.. Sự hiểu biết về đặc thù kinh doanh của khách hàng sẽ giúp cho kiểm toán viên xác định được các sự kiện, các nghiệp vụ có ảnh hưởng nhiều đến thông tin tài chính. Kiểm toán viên có thể thu thập các thông tin này từ các nguồn: Báo cáo hàng năm trước cổ đông của doanh nghiệp. Các biên bản Hội nghị cổ đông, hội nghị ban giám đốc và các hội nghị quan trọng khác. Các báo cáo tài chính nội bộ năm nay và năm trước. Các ghi chép kiểm toán của năm trước và các tài liệu quan trọng khác. Những thông tin về các vấn đề có thể ảnh hưởng tới kiểm toán do các cán bộ có trách nhiệm của các đơn vị có quan hệ với doanh nghiệp cung cấp. - Thảo luận trực tiếp với các nhà quản lý và các cán bộ nghiệp vụ của doanh nghiệp. Các quy định nội bộ của doanh nghiệp. Các sổ nhật ký kinh doanh, các tạp chí chuyên ngành. Các cơ chế, chính sách và tình tình kinh tế xã hội, ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh của khách hàng. Những hiểu biết về hoạt động kinh doanh của khách hàng không chỉ có lợi ích cho việc xây dựng kế hoạch kiểm toán mà còn giúp kiểm toán viên nhanh chóng xác định được các điểm trọng tâm cần chú ý đặc biệt khi làm kiểm toán cũng như đánh giá tính hợp lý của các thông tin tài chính và những giải trình của các nhà quản lý. Kế hoạch kiểm toán Kế hoạch kiểm toán là quá trình đưa ra phương pháp, nội dung, cách thức và thời gian để thực hiện mội cuộc kiểm toán trên cơ sở chiến lược kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán chỉ được lập khi công ty kiểm toán ký được hợp đồng kiểm toán với doanh nghiệp. Kế hoạch kiểm toán do chủ nhiệm kiểm toán lập và được phê duyệt bởi Giám đốc hoặc Ban giám đốc công ty kiểm toán. Khi kế hoạch kiểm toán được phê duyệt sẽ được thông báo cho nhóm kiểm toán để chuẩn bị cuộc kiểm toán. Nội dung của kế hoạch kiểm toán thường phải bao gồm: Thực hiện những thủ tục kiểm toán để hỗ trợ trong quá trình lập kế hoạch . Xác định mục tiêu các bộ phận cần kiểm toán. Những công việc phải làm, các phương pháp kiểm toán phải thực hiện. Trình tự thực hiện từng công việc và thời hạn hoàn thành. Thông báo kế hoạch làm việc với các chuyên gia. Dự trù kinh phí cho kiểm toán. Chương trình kiểm toán Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã được phê duyệt, từng kiểm toán viên được phân công tham gia kiểm toán sẽ soạn thảo chương trình kiểm toán cụ thể cho từng bộ phận, từng phần việc mình phải thực hiện để hoàn thành tốt kế hoạch. Xây dựng chương trình kiểm toán là bộ phận công việc quan trọng cuối cùng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện tất cả các bước từ xử lý thư mời kiểm toán và ký hợp đồng kiểm toán đến tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát của cuộc kiểm toán giúp cho kiểm toán viên có căn cứ để thiết kế chương trình kiểm toán. Chương trình kiểm toán có thể bao gồm mục đích kiểm toán của từng bộ phận, các bước công việc chi tiết cần thực hiện, các thủ pháp kiểm toán thích hợp sẽ áp dụng, sự phối hợp các trợ lý một cách hữu hiệu để thực thi công việc đạt chất lượng cao. Xây dựng chương trình kiểm toán phù hợp sẽ giúp kiểm toán viên liệt kê và thấy đầy đủ các công việc cần thực hiện và các thủ pháp cần thiết để thực hiện các công việc ấy. Chương trình kiểm toán còn là căn cứ để phối hợp các công việc, giám sát và kiểm tra cuộc kiểm toán. Đồng thời, chương trình kiểm toán còn được kiểm toán viên sử dụng để ghi chép những công việc đã thực hiện trong quá trình thực hiện kiểm toán làm căn cứ kiểm soát chất lượng công tác kiểm toán. 1.3.2 Thực hiện kiểm toán Thực hiện kiểm toán là giai đoạn kiểm toán viên triển khai các công việc đã ghi trong kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ trung trực và hợp lý của báo cáo tài chính trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy. Giai đoạn thực hiện kiểm toán gồm các công việc sau: Nghiên cứu đánh giá hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ. Kiểm tra các bộ phận của báo cáo tài chính Phân tích đánh giá Đánh giá hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ Việc xem xét, đánh giá hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ giúp cho kiểm toán viên xác định được sự đầy đủ và hữu hiệu của những quy chế kiểm soát nội bộ mà kiểm toán viên định dựa vào đó làm cơ sở cho việc kiểm toán. Nghiên cứu các quy chế kiểm soát nội bộ bao gồm: Thẩm định lại các nhân viên ở các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp. Tham khảo các tài liệu mô tả các phương pháp công việc và sơ đồ lưu chuyển. Thu thập các hiểu biết về những quy định mà kiểm toán viên xác định là quan trọng đối với công việc kiểm toán. Công việc kiểm tra hệ thống kế toán thường bao gồm: Việc tổ chức công tác và tổ chức bộ máy kế toán Việc lập, lưu chuyển, xử lý và bảo quản chứng từ kế toán Việc tổ chức hệ thống sổ và phương pháp ghi sổ kế toán Việc sử dụng các tài khoản kế toán Việc lập và gửi báo cáo kế toán Kiểm tra các bộ phận của báo cáo tài chính Báo cáo tài chính của doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ phận thông tin phản ánh tình tình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những số liệu ghi trong từng bộ phận của các báo cáo tài chính là những thông tin đã được thu thập, xử lý, ghi chép, tổng hợp từ các phần nghiệp vụ kế toán có liên quan. Vì vậy, kiểm toán những thông tin của các bộ phận báo cáo tài chính phải thông qua việc kiểm tra, xem xét các nghiệp vụ kế toán cụ thể theo từng phần hành. Phân tích đánh giá Trong quá trình kiểm tra thu thập các bằng chứng kiểm toán và nhất là khi kết thúc việc kiểm tra các nghiệp vụ kế toán có liên quan đến các bộ phận của báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải tiến hành phân tích đánh giá các thông tin tài chính thu thập được. Việc phân tích đánh giá một cách khoa học, toàn diện và tỷ mỷ sẽ giúp cho kiểm toán viên nhìn nhận doanh nghiệp một cách đầy đủ khách quan và giúp cho việc lập báo cáo kiểm toán được xác đáng. 1.3.3 Hoàn thành kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán Trong giai đoạn này, kiểm toán viên phải làm những công việc cuối cùng để hoàn tất cuộc kiểm toán theo hợp đồng kiểm toán. Các công việc còn phải làm trong giai đoạn này gồm: Bình luận nợ ngoài ý muốn Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập báo cáo tài chính và trước ngày phát hành báo cáo kiểm toán Đánh giá lại kết quả kiểm toán, thực hiện các cuộc kiểm tra lại nếu cần Phát hành báo cáo kiểm toán Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày công bố báo cáo kiểm toán Bình luận nợ ngoài ý muốn Nợ ngoài ý muốn là những khoản nợ tiềm năng có thể xảy ra trong tương lai, sẽ làm giảm sút giá trị tài sản trên các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp chuẩn bị công khai Nợ ngoài ý muốn bao gồm: Các vụ kiện đang chờ xét xử Các tranh cãi về thuế Các giá trị bảo lãnh về sản phẩm mà doanh nghiệp đã cam kết với người tiêu dùng Các bảo lãnh công nợ Các thương phiếu đã chiết khấu Các thư tín dụng mở còn hiệu lực Kiểm toán viên sau khi xem xét các khoản nợ ngoài ý muốn thì đưa ra lời bình luận có hoặc không có các khoản nợ ngoài ý muốn. Nếu có thì kiểm toán viên sẽ ước tính thiệt hại là bao nhiêu. Sau khi đưa ra lời bình luận về nợ ngoài ý muốn thì kiểm toán viên phải đưa ra lời cảnh báo. Trước khi đưa ra lời cảnh báo, kiểm toán viên phải yêu cầu lãnh đạo của doanh nghiệp đưa ra những cam kết bằng văn bản về nợ ngoài ý muốn. Một số thủ tục mà kiểm toán viên thường sử dụng để tìm ra các khoản nợ ngoài ý muốn: - Thẩm vấn Ban quản trị về khả năng của các khoản nợ ngoài ý muốn chưa ghi sổ. Trong những lần phỏng vấn này, kiểm toán viên cần tập trung vào việc mô tả các khoản nợ ngoài ý muốn cần công khai. Dĩ nhiên, phỏng vấn ban quản trị sẽ không có tác dụng trong việc phát hiện sự cố ý không công khai các khoản nợ ngoài ý muốn hiện có, nhưng nếu Ban quản trị đã bỏ qua một loại khoản nợ ngoài ý muốn nào đó hoặc không hiểu biết hết các yêu cầu công khai kế toán thì sự phỏng vấn có tác dụng tốt. Vào giai đoạn hoàn thành cuộc kiểm toán, Ban quản trị được yêu cầu viết một báo cáo rằng Ban quản trị nhìn nhận là không có một khoản nợ ngoài ý muốn nào không được công khai. Xem xét các biên bản họp của Hội đồng quản trị và của cổ đông để tìm các dấu hiệu của các vụ kiện hoặc các khoản nợ ngoài ý muốn khác. Thu thập các thư tín dụng đang còn hiệu lực vào ngày lập báo cáo tài chính. Thu thập các bản xác nhận của ngân hàng về các phiếu nợ phải thu được, chiết khấu hay sự bảo lãnh nợ vay. Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập báo cáo tài chính và trước ngày phát hành báo cáo kiểm toán Ngày ghi trong báo cáo kiểm toán Kiểm toán viên phải ghi ngày và ký vào báo cáo kiểm toán khi hoàn tất việc kiểm toán, nghĩa là khi đã thực thi các thủ pháp có liên quan đến các sự kiện xảy ra tính đến ngày lập báo cáo kiểm toán. Do trách nhiệm của kiểm toán viên là đưa ra các nhận xét của mình về các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp lập ra nên ngày ghi trong báo cáo của kiểm toán viên không thể sớm hơn ngày ghi trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã dược phê duyệt. Kiểm toán viên phải có bằng chứng chắc chắn khẳng định rằng báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã được các nhà lãnh đạo doanh nghiệp duyệt y. Trước khi ký báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên cần thực thi các biện pháp đã dự kiến để chứng minh rằng mọi sự kiện xảy ra cho đến ngày ký báo cáo kiểm toán có thể phải điều chỉnh hoặc đã được thể hiện trong báo cáo tài chính đã được duyệt y. Các biện pháp này phải được tiến hành cho đến ngày ghi báo cáo kiểm toán và bao gồm các bước sau: Đọc biên bản đại hội cổ đông, biên bản họp ban giám đốc, biên bản kiểm toán, biên bản họp hội đồng quản trị về thời kỳ sau ngày lập báo cáo tài chính và thẩm tra các vấn đề đã được thảo luận tại đại hội mà biên bản chưa ghi. Đọc các báo cáo tài chính định kỳ gần nhất cũng như các văn bản cần thiết khác của doanh nghiệp như báo cáo kết quả kinh doanh, dự đoán lưu chuyển tiền tệ, các báơ cáo quản lý liên quan và tiến hành so sánh các thông tin trong các văn bản này. Thẩm tra hoặc đánh giá các phiếu thẩm tra bộ phận tư vấn pháp lý của doanh nghiệp về các vấn đề đang tranh chấp trước đó. Soát xét lại các biện pháp của các nhà quản lý đối với các sự kiện quan trọng, hỏi lại các nhà quản lý xem các sự kiện này đã được thể hiện trong các báo cáo tài chính hay chưa. Chẳng hạn, có thể phỏng vấn các vấn đề sau: + Các khoản mục hiện có được xây dựng trên cơ sở số liệu sơ bộ, tạm tính hay số chưa xác định. + Những điều đã cam kết về các hợp đồng kinh tế, các khế ước tín dụng có được thực hiện không? Bằng cách vay mới hay bảo lãnh? + Doanh nghiệp có bán hoặc có dự kiến bán tài sản hoặc một bộ phận nào đó của doanh nghiệp không? + Có phát hành thêm cổ phiếu mới không? Có sự xáo trộn về tổ chức không? (như giải thể, sáp nhập hoặc chia tách ) hoặc có ý định làm như vậy không? + Có tổn thất gì về tài sản của doanh nghiệp do thiếu hụt, mất mát hoặc hoả hoạn không? + Có sự điều chỉnh bất thường nào hoặc có ý định điều chỉnh báo cáo sau ngày lập báo cáo tài chính không? + Có biểu hiện gì về vi phạm khái niệm “ Doanh nghiệp hoạt động liên tục” không ? Nếu xét thấy có sự kiện xảy ra sau ngày lập báo cáo tài chính tính đến ngày ký báo cáo kiểm toán thì kiểm toán viên phải áp dụng thêm các biện pháp kiểm tra nhằm xác định xem các sự kiện đó có được phản ánh trong các báo cáo tài chính không, để có ý kiến nhận xét thích hợp trong báo cáo kiểm toán. Các sự kiện sau ngày ký báo cáo kiểm toán nhưng trước ngày phát hành báo cáo tài chính Các nhà quản lý doanh nghiệp phải có trách nhiệm thông báo cho các kiểm toán viên biết các sự kiện đã xảy ra từ khi ký báo cáo kiểm toán cho đến lúc phát hành báo cáo tài chính hàng năm và các sự kiện có khả năng ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Kiểm toán viên không chịu trách nhiệm về việc phát hiện các sự kiện này. Nếu kiểm toán viên được thông báo về các sự kiện này thì phải cân nhắc xem doanh nghiệp có nên sửa lại báo cáo tài chính không và cần thảo luận các vấn đề này với các nhà quản lý doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp sửa chữa báo cáo tài chính thì kiểm toán viên cần thực thi các thủ pháp cần thiết và ghi lại báo cáo kiểm toán trên cơ sở báo cáo tài chính đã sửa đổi và được duyệt y. Sau khi thực hiện các biện pháp này, kiểm toán viên ghi ngày trong báo cáo kiểm toán không sớm hơn ngày phê duyệt báo cáo tài chính đã sửa đổi. Đồng thời, các thủ pháp để nhận dạng các sự kiện xảy ra cần được kéo dài đến ngày ký báo cào kiểm toán mới. Nếu báo cáo kiểm toán chưa đưa cho khách hàng thì kiểm toán viên cần diễn đạt lại nhận xét “ chấp nhận từng phần” hoặc “ ý kiến trái ngược”nếu xét thấy phù hợp. Trường hợp báo cáo kiểm toán đã đưa cho khách hàng, kiểm toán viên cần thông báo cho lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp biết rằng kiểm toán viên sẽ có các hành động cần thiết để làm mất hiệu lực của báo cáo này phù hợp với hiệu lực quyền hạn pháp lý của họ cũng như ý kiến khuyến cáo của các luật sư. Đánh giá lại cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán Kiểm toán viên tiến hành kiểm tra lại các kết quả kiểm toán đã thực hiện. ở đây có thể xảy ra 2 khả năng: Nếu thấy thoả mãn về kết quả đánh giá thì kiểm toán viên sẽ đưa ra dạng nhận xét phù hợp với kết quả kiểm toán. Nếu kiểm toán viên chưa thoả mãn ở một khía cạnh nào đó thì kiểm toán viên sẽ thu thập thêm bằng chứng để chứng minh bổ sung. Nếu bằng chứng chứng minh bổ sung là thoả mãn ( tức là bằng chứng không bác bỏ kết quả kiểm toán đã thực hiện) thì kiểm toán viên lựa chọn dạng nhận xét thích hợp trong báo cáo kiểm toán và lập thư quản lý. Kiểm toán viên lập dự thảo báo cáo kiểm toán và thảo luận với khách hàng. Sau đó sẽ lập báo cáo kiểm toán chính thức và gửi cho khách hàng. Xem xét những sự kiện xảy ra sau ngày phát hành báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính Sau ngày báo cáo tài chính đã được phát hành, kiểm toán viên không có bất kỳ nghĩa vụ thẩm tra tiếp tục nào đối với các báo cáo tài chính này. Tuy nhiên, nếu sau khi báo cáo tài chính này đã được phát hành, kiểm toán viên nhận thấy có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến báo cáo tài chính đã được kiểm toán mà trước khi ký báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên chưa phát hiện ra thì họ phải thảo luận vấn đề đó với các nhà quản lý doanh nghiệp. Kiểm toán viên cần xem xét lại các bước công việc mà các nhà quản lý doanh nghiệp đã làm để thẩm tra xem xét liệu có khoản mục nào trong báo cáo tài chính đã phát hành trước đó và báo cáo kiểm toán này bị thay thế không? Nếu các nhà quản lý doanh nghiệp sửa đổi lại báo cáo tài chính thì kiểm toán viên sẽ thực thi các thủ pháp kiểm toán cần thiết để lập một báo cáo kiểm toán mới trên cơ sở báo cáo tài chính đã được sửa đổi và duyệt lại. Báo cáo kiểm toán được lập lại và ghi ngày mới. Các nguyên nhân dẫn đến việc duyệt lại báo cáo tài chính phải được giải thích trong một bản ghi chú riêng. Báo cáo kiểm toán mới cũng cần tham khảo cáo báo cáo kiểm toán trước đó. Nếu kiểm toán viên bị hạn chế việc kiểm tra đối với các sự kiện mới nảy sinh thì cũng phải giải thích những hạn chế này khi lập báo cáo kiểm toán mới . Nếu các nhà quản lý doanh nghiệp không sửa lại các báo cáo tài chính theo yêu cầu của kiểm toán viên thì kiểm toán viên cần thông báo cho các nhà quản lý cao nhất của doanh nghiệp biết rằng kiểm toán viên sẽ có những hành động cần thiết nhằm vô hiệu bản báo cáo của mình sã phát hành phù hợp với hiệu lực quyền hạn pháp lý của kiểm toán viên và sự khuyến cáo của tư vấn pháp lý. Chương 2 Thực trạng lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở công ty kiểm toán và kế toán hà nội (cpa Hanoi ) 2.1 Khái quát chung về Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà nội (cpa Hanoi ) 2.1.2 Sự hình thành và phát triển của Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà nội Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội – tên giao dịch quốc tế là “ Ha Noi company profession of auditing and accounting ltd” – gọi tắt là “ CPA HaNoi’’được thành lập ngày 25 tháng 11năm 1999 theo quyết định số 4010GP/TLDN của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội và được Bộ Tài chính cấp giấy phép hành nghề. CPA Hanoi là công ty TNHH kiểm toán chuyên nghiệp hợp pháp đầu tiên ở Hà Nội, hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, tư vấn thuế, tư vấn tài chính kế toán, tư vấn quản lý... ở Việt Nam. Công ty có quan hệ nghề nghiệp với Trung Ương Hội Kế Toán Việt Nam, Câu lạc bộ Kế toán trưởng và các hãng kiểm toán lớn như KPMG, Arthur Andersen, Dự án của liên minh Châu Âu về kế toán và kiểm toán- EURO TAPVIET. Sau 3 năm hoạt động, CPA Hanoi đã đạt được kết quả khá khả quan mặc dù còn nhiều khó khăn và thách thức. Kết quả hoạt động của của công ty được thể hiện ở bảng dưới đây : Bảng so sánh kết quả hoạt động của công ty Đơn vị : triệu đồng Năm 1999 2000 2001 2002 Doanh thu 500 1200 1400 2000 Số lượng nhân viên (người) 30 45 55 50 Thu nhập bình quân 1,2 1,5 2 2,5 Với lực lượng ban đầu là 7 sáng lập viên, Công ty đã có sự chuẩn bị đầy đủ về vật chất, thiết bị cho sự ra đời của công ty. Buổi lễ khai trương diễn ra ngày 28/01/1999 được đánh giá là thành công ngoài sự mong đợi với sự hiện diện của 400 khách mời, đại diện cho các cơ quan ở Trung ương và Hà nội cũng như các cơ quan thông tin đại chúng như đài phát thanh, báo chí...Những khách ở xa cũng gửi điện hoa về chúc mừng công ty. Sau buổi lễ khai trương, công ty đã tổ chức thi tuyển nhân viên với số người tham gia là trên 300 lượt người. Công ty đã tuyển chọn được qua 3 vòng thi là trên 30 nhân viên. 100% nhân viên của công ty đạt trình độ đại học và trên đại học.Trong năm, công ty cũng đã tiến hành chấn chỉnh và phân công lại nhiệm vụ cho các nhân viên, ban hành thêm một số quy chế kiểm soát nội bộ. Công ty đã có kế hoạch đào tạo rất rõ ràng như cử 3 người đi học chương trình Kế toán viên công chứng (ACCA) do Vương quốc Anh cấp chứng chỉ. Phần lớn nhân viên của công ty đều tham gia học văn bằng hai như Luật , tiếng Anh...Bên cạnh đó, công ty cũng có chương trình đào tạo từ 2 đến 3 tháng để năng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên. Đặc biệt, đối với nhân viên được tuyển lần gần nhất, được tham gia chương trình đào tạo khá cơ bản và quy củ. Ngoài ra, công ty còn mở các lớp huấn luyện cho trên 500 lượt người là kế toán trưởng, kế toán viên, giám đốc các doanh nghiệp về đề tài phân tích tài chính,thuế, kiểm toán nội bộ, kiểm toán dự án... Công ty đã xây dựng chương trình kiểm toán mang sắc thái riêng và hình thành các nhóm nghiên cứu , sưu tầm tài liệu liên quan đến các vấn đề : đầu tư nước ngoài, thuế, tiền lương và bảo hiểm xã hội, kiểm toán xây dựng cơ bản...Giám đốc công ty cũng đã tích cực tham gia vào Ban nghiên cứu soạn thảo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và được Bộ Tài chính đánh giá cao về ý kiến đóng góp. 2.1.2 Phạm vi hoạt động của CPA Hanoi Trên Thế giới, hoạt động kiểm toán phát triển sớm, mạnh mẽ và đã trở thành một yếu tố quan trọng trong hoạt động quản lý. Kiểm toán được coi là công cụ quản lý tài chính tất yếu , mang tính hiệu quả cao nhằm bảo vệ và phục vụ lợi ích của công chúng. Vai trò và tác dụng của kiểm toán đã được toàn xã hội chấp nhận. Các tổ chức quốc tế của nghề nghiệp kế toán- kiểm toán như Liên đoàn kế toán quốc tế – IFAC (International Federation of Accountants ), Tổ chức quốc tế của các cơ quan Kiểm toán Nhà nước – INTOSAI (International Organisation of Supreme Audit Institutions) đã được thành lập và ngày càng đóng vai trò chi phối hoạt động kiểm toán của các quốc gia trên khắp toàn cầu. Trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập và phát triển cùng khu vực và Thế giới thì hoạt động kiểm toán ở Việt Nam cũng ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình. Nhằm đáp nhu cầu của nền kinh tế thị trường, CPA Hanoi có một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, được đào tạo chuyên môn nghiệo vụ đầy đủ, cung cấp các dich vụ về kế toán- kiểm toán,bao gồm : 2.1.2.1 Dịch vụ kiểm toán Kiểm toán báo cáo tài chính của mọi loại hình doanh nghiệp Kiểm toán quyết toán công trình xây dựng cơ bản hoàn thành Kiểm toán vì mục đích thuế của các đơn vị Kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ Kiểm toán phục vụ công tác đấu thầu Thẩm định giá trị tài sản 2.1.2.2 Dịch vụ tư vấn * Tư vấn kế toán Tư vấn xây dựng hệ thống kế toán Tư vấn lập báo cáo tài chính, ghi sổ kế toán Tư vấn lựa chọn các phần mềm kế toán và cài đặt cho đơn vị * Tư vấn tài chính, đào tạo Tư vấn thuế : trả lời, cung cấp các văn bản thuế mới nhất, lập báo cáo cho hoạt động thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế... Xây dựng quy chế tài chính, thiết kế và xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ cho các doanh nghiệp Đào tạo : Công ty tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn theo chuyên đề. Ngoài ra, công ty còn có các lớp dài hạn về thực hành kế toán doanh nghiệp 2.1.3 Cơ cấu tổ chức của CPA Hanoi CPA Hanoi ra đời với 7 thành viên sáng lập. Trải qua quá trình hoạt động với những kỳ thi tuyển nhân viên, hiện nay công ty có tổng số nhân viên và cộng tác viên là trên 50 người. Trong đó, 100% nhân viên chuyên nghiệp của công ty có trình độ cử nhân kinh tế, cử nhân luật được đào tạo tại Việt Nam và nước ngoài như Australia, Ireland...với 12 kiểm toán viên quốc gia được Bộ Tài chính cấp chứng chỉ kiểm toán viên (CPA), có từ 4 đến 9 năm kinh nghiệm đã từng làm việc tại các công ty kiểm toán có uy tín của Việt Nam và các hãng kiểm toán quốc tế hoạt động tại Việt Nam. Nhiều nhân viên của Công ty đã tham dự các khoá học cơ bản và năng cao về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có đủ điều kiện được cung cấp chứng chỉ hành nghề trên thị trường chứng khoán của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước- SSC. Công ty có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ từ ban Giám đốc tới các phòng ban nhằm giúp công ty ngày càng phát triển vững chắc cũng như các hoạt động của công ty được diễn ra hiệu quả nhất. Cơ cấu tổ chức của công ty được khái quát theo sơ đồ dưới đây : Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy công Ty Giám đốc Phó giám đốc Kế toán trưởng P. nghiệp vụ I P. nghiệp vụ II P. XDCB P. Tổ chức - HC Sáng lập viên Ban giám đốc Ban kiểm soát soát P. TƯ VấN 2.1.3.1 Sáng lập viên Sáng lập viên là những người cùng góp vốn thành lập công ty. CPA Hanoi ra đời với 7 thành viên sáng lập. Trải qua quá trình hoạt động, hiện nay công ty còn 4 thành viên sáng lập, bao gồm : - Nguyễn Ngọc Tỉnh : Giám đốc , Chủ tịch Hội đồng thành viên - Nguyễn Đức Lợi: Trưởng ban kiểm soát - Lê Văn Dò : Thành viên - Đào Hùng Tiến : Thành viên 2.1.3.2 Ban giám đốc Ban giám đốc bao gồm : Giám đốc Nguyễn Ngọc Tỉnh Phó giám đốc Lê Ngọc Khuê * Nhiệm vụ của giám đốc - Tổ chức, điều hành mọi hoạt động và không ngừng phát triển toàn diện công ty - Củng cố, phát triển tổ chức của công ty : + Mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện + Tăng số lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên + Sắp xếp cơ cấu tổ chức phù hợp vời hoạt động chuyên môn + Giám đốc có quyền miễn nhiệm , bổ nhiệm hoặc triệu tập hội đồng thành viên về miễn nhiệm, đề bạt cán bộ, thành lập mới phòng nghiệp vụ... - Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ - Phát triển các hoạt động dịch vụ : kiểm toán, tư vấn đào tạo , kiểm soát chất lượng, tránh mọi rủi ro nghề nghiệp. - Duy trì và mở rộng đội ngũ khách hàng, quan hệ đối ngoại, hợp tác , liên doanh trong và ngoài nước. - Phát triển trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công ty - Đào tạo cán bộ nhân viên nghiệp vụ và quản lý. - Trang bị và đổi mới thiết bị, phương tiện và điều kiện làm việc. - Giữ gìn, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và không ngừng phát triển vốn,tài sản, năng lực của công ty. - Chăm lo và không ngừng cải thiện đời sống vật chất của nhân viên - Trực tiếp phụ trách về tài chính, đối ngoại; phụ trách các văn phòng đại diện; kiêm chủ tịch hội đồng thi đua;chủ tịch hội đồng thi tuyển nhân viên mới. - Trực tiếp chỉ đạo chuyên môn một số phòng và một số hợp đồng lớn. * Nhiệm vụ của phó giám đốc - Giúp cho giám đốc trong việc tổ chức, điều hành và phát triển toàn diện công ty. - Quan hệ với các cơ quan địa phương về an ninh, trật tự, địa điểm làm việc của công ty. - Trực tiếp quản lý và điều hành một hoặc một số phòng nghiệp vụ theo sự phân công của giám đốc; đồng thời phụ trách công tác hành chính, tổ chức, văn thư. 2.1.3.3 Ban kiểm soát Ban kiểm soát của công ty bao gồm: Giám đốc Nguyễn Ngọc Tỉnh Phó giám đốc Lê Ngọc Khuê Kế toán trưởng Lê Văn Dò Nhiệm vụ chủ yếu của ban kiểm soát là: - Kiểm soát chất lượng của cuộc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán quốc tế. - Kiểm soát tình hình tài chính, thu chi trong công ty. 2.1.3.4 Kế toán trưởng Kế toán trưởng có trách nhiệm giúp ban giám đốc tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán, tài chính, thống kê, hạch toán kinh tế, quản lý sử dụng tài sản tiền vốn trong công ty. - Bố trí, sắp xếp nhân viên dưới quyền. - Yêu cầu các phòng và các nhân viên cung cấp tài liệu, hợp đồng kinh tế, chứng từ, báo cáo có liên quan đến công việc tài chính kế toán của công ty. - Ký hoặc ký nháy tài liệu của công ty theo chức năng. 2.1.3.5 Các phòng nghiệp vụ * Phòng nghiệp vụ I Phòng nghiệp vụ I do ông Lê Thành Công làm trưởng phòng và có trên 15 nhân viên. - Trưởng phòng là người chịu trách nhiệm về công tác chuyên môn và các vấn đề được giao, thường xuyên báo cáo với ban giám đốc, đồng thời theo dõi giám sát các nhân viên dưới quyền thực hiện công việc. Toàn bộ nhân viên trong phòng phải đoàn kết, giúp đỡ nhau trong công việc, hoàn thành tốt các công việc thuộc phạm vi phòng được giao. - Lập kế hoạch kiểm toán cụ thể đối với từng khách hàng. Khi được Ban giám đốc giao nhiệm vụ thì thực hiện kiểm toán đối với khách hàng đó. - Sau khi kết thúc công việc kiểm toán ở đơn vị khách hàng, phải lập biên bản kiểm toán theo mẫu quy định. - Các nhóm trong phòng phải thường xuyên liên lạc với nhau để thông báo tình hình thực hiện của mỗi nhóm. Căn cứ tình hình thực tế, trưởng phòng sẽ sắp xếp nhân viên cho hợp lý, đảm bảo công việc triển khai tốt. - Trưởng phòng trực tiếp điều hành toàn bộ công việc kiểm toán, nếu vướng mắc thì báo cáo với Giám đốc hoặc Phó giám đốc để xin ý kiến chỉ đạo. - Thực hiện các phần hành mà Ban giám đốc giao cho theo dõi và một số công việc khác. * Phòng nghiệp vụ II Phòng nghiệp vụ II do ông Bùi Thế Dũng làm trưởng phòng và có 12 nhân viên. Phòng nghiệp vụ II thực hiện các công việc tương tự như phòng nghiệp vụ I. * Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản do ông Trần Hữu Huân làm trưởng phòng Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản thực hiện kiểm toán các công trình xây dựng mà công ty ký kết được, nhận đánh giá lại giá trị các tài sản thuộc bất động sản... * Phòng tư vấn Phòng tư vấn do bà Đoàn Thị Thanh Xuân làm trưởng phòng - Chuyên thực hiện tư vấn các vấn đề liên quan đến kế toán như : thiết kế xây dựng hệ thống kế toán cho doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập và ghi sổ kế toán theo đúng quy định ban hành, tư vấn lựa chọn và nhân cài đặt các phần mềm kế toán cho doanh nghiệp. - Tư vấn xây dựng quy chế tài chính, thiết kế xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ cho đơn vị. - Tư vấn thuế và cung cấp các văn bản thuế mới ban hành cho doanh nghiệp. - Nhận đào tạo các lớp ngắn và dài hạn về kế toán, kiểm toán. * Phòng hành chính tổng hợp Đảm nhận các công việc về hành chính, văn thư , thủ quỹ, kế toán... Ngoài ra, CPA Hanoi còn có các tổ chức đoàn thể nhằm bảo đảm quyền lợi chính trị cho các nhân viên, bao gồm : - Chi bộ Đảng : trực thuộc Quận uỷ Hai Bà Trưng, do Giám đốc Nguyễn Ngọc Tỉnh làm bí thư, gồm 7 Đảng viên, thành lập tháng 3/2001. CPA Hanoi là công ty THHH Kiểm toán đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam cho tới nay có chi bộ Đảng. - Công đoàn : thành lập tháng 12/2001, do bà Đoàn Thị Thanh Xuân làm chủ tịch. CPA Hanoi cũng là công ty duy nhất trong hệ thống công ty TNHH kiểm toán có tổ chức công đoàn. Hiện nay, công ty đang xúc tiến thành lập Đoàn Thanh niên và Hội Phụ nữ. 2.1.4 Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của CPA Hanoi 2.1.4.1 Đặc điểm tổ chức công tác kế toán và hình thức kế toán áp dụng Từ khi thành lập tới nay, công ty thực hiện công tác kế toán theo pháp lệnh kế toán thống kê và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật. Công ty thực hiện chế độ kế toán Việt Nam theo quyết định số 1141TC/CĐKT ngày 01/11/1995 và các văn bản bổ sung sửa đổi hệ thống kế toán Việt Nam. Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo hình thức tập trung theo sơ đồ khái quát sau : Kế Toán Trưởng KT Ngân Hàng KT Thanh Toán KT Tiền Lương KT Tổng Hợp Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán Kế toán trưởng trực tiếp chỉ đạo các nhân viên kế toán. Các nhân viên kế toán này sẽ chịu trách nhiệm về những công việc kế toán được giao. Để phù hợp với công việc quản lý, công ty đã sử dụng hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ: Sơ đồ hạch toán theo hình thức chứng từ ghi sổ Chứng từ gốc Bảng tổng hợp Chứng từ gốc Chứng từ ghi sổ Sổ quỹ Sổ đăng ký c. từ ghi sổ Sổ Chi Tiết Bảng t.h chi tiết Sổ cái Bảng cân đối p. s Báo cáo kế toán Ghi cuối tháng Quan hệ đối chiếu Ghi hàng ngày Hiện nay, công ty đang áp dụng phần mềm ACPRO trong hạch toán kế toán. Các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh hành ngày được kế toán lập chứng từ. Định kỳ ngắn (3 đến 5 ngày ), từ các chứng từ gốc này,kế toán sẽ nhập số liệu vào máy vi tính. Máy vi tính sẽ tự động xử lý số liệu và ghi vào các sổ kế toán có liên quan. Hàng tháng hoặc hàng quý, kế toán sẽ in ra các sổ kế toán hoặc báo cáo kế toán. 2.1.4.2 Niên độ kế toán Công ty thực hiện niên độ kế toán từ 1/1 đến 31/12 hàng năm. Riêng năm tài chính đầu tiên thì bắt đầu từ ngày được cấp giấy phép. 2.1.4.3 Đồng tiền hạch toán Công ty sử dụng đơn vị tiền tệ trong hạch toán là VNĐ và hạch toán theo nguyên tắc giá gốc. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh bằng ngoại tệ đều được quy đổi sang VNĐ theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ. Chênh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0265.doc
Tài liệu liên quan