Hoàn thiện quy chế pháp lý đấu thầu và việc áp dụng chế độ đấu thầu ở Công ty thông tin viễn thông Điện lực

Lời nói đầu Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp thuật ngữ đấu thầu chưa xuất hiện các công trình xây dựng cơ bản được tiến hành thông qua hình thức chỉ đính thầu. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến rất khả quan. Với chính sách mở cửa tăng cường hội nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã và đang trở thành một địa chỉ hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc bi

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quy chế pháp lý đấu thầu và việc áp dụng chế độ đấu thầu ở Công ty thông tin viễn thông Điện lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt từ tháng 12 năm 1987, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời thì mới quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế giưã Việt Nam với các nước trên thế giới không ngừng phát triển. Song song với việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, một nhiệm vụ đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam là phải tạo ra một cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng đủ lớn, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước được tiến hành một cách thuận tiện nhanh chóng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thế giới. Nhiệm vụ trên đã tạo ra cơ hội tham gia đấu thầu các công trình trong và ngoài nước là rất lớn, nhất là các lĩnh vực vì nhà ở khách sạn, các khu công nghiệp, thông tin viễn thông.. như vậy, trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh như hiện nay, đấu thầu luôn là vấn đề tính cạnh tranh như hiện nay, đấu thầu luôn là vấn đề được mọi doanh nghiệp cũng như toàn xã hội quan tâm. Đấu thầu không chỉ là thước đo phản ánh trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp xây dựng cơ bản, trong đó có công ty thông tin viễn thông. Tuy nhiên, công tác đấu thầu đặc biệt đấu thầu trong xây dựng cơ bản còn gặp nhiều khó khăn và thử thách. - Các nhà thầu Việt Nam thường bị các chủ đầu tư nước ngoài đánh giá thấp về chất lượng công trình, trình độ quản lý giám sát những công việc cần trình độ cao về mặt kỹ thuật. Vì vậy để có nhiều cơ hội tham gia đấu thầu các công trình lớn, đặc biệt là các công trình có vốn đầu tư nước ngoài thì bản thân các đơn vị phải tự đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị hiện đại, nâng cao biết tận dụng về phương pháp tổ chức đấu thầu. Để tạo khả năng thắng thầu, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp không chỉ thực hiện tốt một khâu hay một lĩnh vực nào đó mà phải thực hiện tốt cả quá trình chuẩn bị, tính toán cả về khâu tổ chức kỹ thuật và kinh tế. Trong quá trình tìm hiểu thực trạng đấu thầu của công ty thông tin viễn thông Điện lực, em đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu chuyên đề " Hoàn thiện quy chế pháp lý đấu thầu và việc áp dụng chế độ đấu thầu ở công ty thông tin viễn thông Điện lực". Chuyên đề bao gồm 3 chương. Chương I: Cơ sở pháp lý của hoạt động đấu thầu Chương II: Thực tiễn về hoạt động tham gia đấu thầu ở công ty thông tin viễn thông điện lực. Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động đấu thầu tại công ty thông tin viễn thông Điện lực. Với lòng mong muốn tìm hiểu một cách thấu đáo về công tác đấu thầu, song do thời gian và trình độ có hạn nên chuyên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của nhà trường và công ty. Chương I: Cơ sở pháp lý của hoạt động đấu thầu I) Tính tất yếu của hoạt động đấu thầu 1. Khái niệm đấu thầu. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh tế đều được quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước thống nhất quản lý và cấp phát vốn. Cấp dưới chỉ thực hiện theo kế hoạch được giao. Nhưng chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các doanh nghiệp phải tự lực cánh sinh, ngành thông tin viễn thông cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Do vậy tất yếu xuất hiện một hình thức mới đó là đấu thầu. Trước khi đi sâu vào nghiên cứu hoạt động nghiên cứu hoạt động đấu thầu ta phải nắm được một số khái niệm sau: Đấu thầu: là hình thức lưạ chọn nhà thầu đáp ứng đầ tư các yêu cầu của chủ đầu tư thông qua cạnh tranh giữa các nhà thầu. Tổ chức đấu thầu là nhà cung cấp sản phẩm thích hợp nhất, đây trở thành thông lệ của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nhà thầu: Là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu. Trong trường hợp đấu thầu tuyển chọn tư vấn, nhà thầu có thể là cá nhân. Nhà thầu là nhà thầu xây dựng trong đấu thầu xây lắp, là nhà thầu cung cấp trong đấu thầu có mua sắm hàng hoá, là nhà tư vấn trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, là nhà đầu tư trong nước là nhà thầu có tư cách pháp nhân Việt Nam và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Bên mời thầu: là chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại điện hợp pháp của chủ dự án chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu. Dự án: Là tập hợp những đề xuất để thực hiện một phần hay tòan bộ công việc, mục tiêu hoặc yêu cầu nào đó. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án không có tính chất đầu tư. Xét thầu: Là quá trình bên mời thầu xem xét phân tích, đánh giá xếp hạng các hồ sơ dự thầu để lựa chọn nhà thầu trúng thầu. Người có thẩm quyền: là người đứng đầu hoặc người được uỷ quyền theo quy định của pháp luật thuộc tổ chức cơ quan Nhà nước hoặcn doanh nghiệp. Gói thầu: là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc dự án được phân theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án có quy mô hợp lý và bảo đảm tính đồng bộ của dự án. Mở thầu: là thời điểm để tổ chức mở các hồ sơ dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu. Trước đây, thuật ngữ đấu thầu chưa xuất hiện, chỉ đến nghị định 177/CP ngày 20/10/1994 của thủ tướng chính phủ, đấu thầu mới trở thành nội dung điều lệ quản lý đầu tư xây dựng . Hiện nay, quy chế đấu thầu ban hành kèm theo nghị định số 88/1999/CĐ - CHI PHí ngày 01/09/1999 và 14/2000 - CP ngày 5/5/2000 của chính phủ, nhằm thống nhất quản lý các hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn, mua sắm hàng hoá xây lắp và tự chọn đối tác để thực hiện dự án hoặc từng phần dự án trên lãnh thổ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, hoạt động đấu thầu có cả "miền đất riêng" để hoạt động so với chỉ định thầu trước đây hiệu quả kinh tế của đấu thầu lớn hơn rất nhiều về cơ bản đấu thầu đem lại lợi ích thiết thực, chính đáng cho cả hai bên, đảm bảo chất lượng mỹ thuật, giá thành, tiến độ thực hiện... thông qua ràng buộc pháp lý của hợp đồng cam kết giữa hai bên và sự bảo lãnh của Nhà nước. Như vậy, việc nhiên cứu và phân tích thấu đáo hoạt động đấu thầu có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên bởi lẽ trong điều kiện hiện nay giải quyết được tất cả các vấn đề đó. 2. Tính tất yếu của hoạt động đấu thầu: Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật là những thành tựu kinh tế chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và đổ mới. Những thành tựu kinh tế đạt được do chúng ta có đường lối phương hướng đúng đắn. Bên cạnh những thành công đạt được chúng ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra môi trường kinh tế ổn định, an toàn và hấp dẫn. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chúng ta cũng công nhận sự bình đẳng của các thành phần kinh tế. Điều này được hiến pháp quy định trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nếu có đủ những điều kiện thì mọi thành phần kinh tế đều được tham gia vào. Để nâng cao chất lượng hiệu quả công trình, tạo ra tính cạnh tranh và cũng chính là thừa nhận sự công bằng, bình đẳng của các thành phần kinh tế, các chủ đầu tư phải tổ chức đấu thầu những dự án, công trình theo quy định của pháp luật. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò quản lý nền kinh tế ở góc độ vĩ mô, không can thiệp sâu vào nền kinh tế, còn các chủ thể kinh tế tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, tự do tìm kiếm thoả thuận về công việc, tự do ký kết các hợp đồng kinh tế theo chế độ hợp đồng kinh tế hiện hành và hoạt động trên được nhà nước coi là một phần tất yếu của nền kinh tế. Vì vậy cần phải tiến hành đấu thầu để bên mời thầu và nhà thầu có thể do lựa chọn đối tác của mình cho phù hợp. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, yêu cầu các dự án công trình ngày càng hiện đại, thẩm mỹ. Vì vậy vấn đề đặt ra là các nhà đầu tư phải có đủ năng lực về kỹ thuật về công nghệ tiên tiến mới có thể có đáp ứng được. Sự lựa chọn nhà thầu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay là tất yếu khách quan. Hoạt động đấu thầu thống nhất quản lý các nguồn vốn đầu tư trong cả nước thông qua quy định của Nhà nước về quy mô của dự án là bao nhiêu thì phải đấu thầu. Nó tạo ra một cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động của các chủ thể trong phạm vi điều chỉnh quy chế đấu thầu. Thông qua chế độ đấu thầu các chủ thể sẽ căn cứ để xác định các mối quan hệ ràng buộc giữa chủ thể đấu thầu nhà thầu và Nhà nước, tạo ra quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia. Chế độ đấu thầu do nhà nước ban hành đưa ra các chỉ dẫn trình tự thủ tục của hoạt động đấu thầu. Thông qua đó hoạt động của các chủ thể nhanh chóng, hiệu quả và đúng pháp luật. Nguồn vốn đầu tư vào nước ta một phần là đầu tư trong nước, phần còn lại là đầu tư nước ngoài. Đối với đầu tư nước ngoài các nhà đầu tư mong muốn vốn của họ phải được sử dụng có hiệu quả đúng mục đích. Vì vậy đấu thầu là hoạt động tất yếu xảy ra để lựa chọn nhà thầu tốt nhất. Đối với nguồn vốn ODA, nhà đầu tư quốc tế yêu cầu phải đấu thầu quốc tế để lựa chọn được nhà thầu mang tầm cỡ quốc tế và có năng lực nhất. Hoạt động kinh tế được điều chỉnh bởi các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh, cạnh tranh cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn. Nó thúc đẩy các nhà sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá của họ. Hoạt động đấu thầu chính là hình thức tổ chức cạnh tranh cho các nhà thầu. Nhà thầu nào mạnh nhất, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của bên mời thầu nhà thầu đó sẽ thắng. Sự cạnh tranh giữa các nhà thầu đã tạo ra chất lượng sản phẩm công trình xây lắp vật tư thiết bị được cung cấp tốt hơn, bền hơn, rẻ hơn tiến độ thực hiện nhanh hơn, khẩn trương hơn, trình độ tư vấn cao hơn. Những vấn đề nêu trên có thể nói rằng đấu thầu là một hoạt động tất yếu của nước ta trong giai đoạn này. 3) Phạm vi áp dụng quy chế đấu thầu: Văn bản sớm nhất mà nước ta ban hành để điều chỉnh lĩnh vực hoạt động đấu thầu là quy chế đấu thầu xây lắp ban hành kèm theo quyết đínhố 60 - bộ xây dựng ngày 30-4-1994 của bộ trưởng bộ xây dựng. Song song với quy chế đấu thầu xây lắp là nghị định 177/CP ngày 20/10/1994 của chính phủ về việc ban hành điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng đây là hai văn bản đã vạch ra bước ngoặt trong quá trình đầu tư và xây dựng tuy nhiên là những văn bản điều chỉnh một lĩnh vực hoạt động mới nẻ hoạt động đấu thầu nên còn nhiều hạn chế vì vậy hai văn bản này được thay đổi bổ sung vaò năm 1996. Ngày 16-7-1996 chính phủ thay thế quy chế đấu thầu xây lắp thành quy chế đấu thầu (ban hành kèm theo nghị định 43/CHI PHí ngày 16-7-1996 của chính phủ) và nghị định 177/ CP về quản lý đấu thầu và xây dựng được sửa đổi bổ sung thành điều lệ quản lý đấu thầu và xây dựng (ban hành kèm theo nghị định 43/CP ngày 16-7-1996 của chính phủ. Quy chế đấu thầu mà chính phủ ban hành trong nghị định 43/CP rộng hơn so với quy chế đấu thầu xây lắp trong nghị định 177/CP đối tượng của quy chế đấu thầu bao gồm đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị và đấu thầu xây lắp, 3 loại đấu thầu này hoàn thành một quá trình đầu tư hoàn chỉnh. Đầu năm 1996 nghị định 177/ CHI PHí có nhiều điều không phù hợp nữa, vì vậy chính phủ đã sửa đổi bổ sung thành nghị định 42/CP cho phù hợp với tình hình hiện tại. Tới tháng 8-1997 chính phủ lại sửa đổi bổ sung nghị định 42/CP và 43/CP ngày 16-7-1996 nội dung sửa đổi được thể hiện trong hai nghị định 92/CP ngày 23-8-1997. Nghị định92/CP sửa đổi bổ sung một số chức năng, trách nhiệm của cơ quan và trách nhiệm của các chủ thể tham gia về hoạt động để quản lý cũng được sửa đổi bổ sung như kế hoạch hoá đầu tư, nội dung báo cáo nghiên cứu khả thi nội dung thực hiện dự án đầu tư... Nghị định 93/CP sửa đổi một số bước trong trình tự đấu thầu như: hình thức lựa chọn nhà thầu và phương pháp áp dụng, tài liệu đấu thầu thuyết minh và sửa đổi thời gian nộp thầu và mở thầu xếp hạng nhà thầu. Công bối kết quả trúng thầu. Do chức năng nhiệm vụ của các cơ quan chủ quan trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng thay đổi sự phân công lại trách nhiệm, nhiệm vụ và sự sát nhập nên ngày 8-7-1999 chính phủ ban hành nghị định 52/CP thay thế nghị định 42/CP. Mặt khác do tính chất của quá trình đầu tư, tính chất của dự án, công trình cũng thay đổi do đó có thể khẳng định việc thay thế nghị định 42 là cần thiết và nghị định 52/CP ngày 8-7-1999 ban hành sẽ điều chỉnh sát sao hơn công tác quản lý đầu tư xây dựng. Như vậy hệ thống văn bản điều chỉnh chế độ đấu thầu của ta cơ bản là có 6 văn bản và được ban hành 4 đợt. Đợt 1: Năm 1994 gồm quy chế đấu thầu xây lắp ban hành kèm theo nghị định 177/CP . Đợt 2: Năm 1996 ban hành nghị định 43/CP Đợt 3: Năm 1997 ban hành nghị định 92/CP và 93/CP Đợt 4: Năm 1999 ban hành nghị định 52/CP Về phạm vi áp dụng quy chế đấu thầu. Quy chế đấu thầu áp dụng để lựa chọn nhà thầu cho các dự án đầu tư tại Việt Nam và phải được tổ chức đấu thầu tại Việt Nam bao gồm: a) Các dự án đầu tư được người cóp thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt theo nghị định của điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. b) Các dự án đầu tư liên doanh hoặc hợp tác kinh doanh, với nước ngoài của các doanh nghiệp Nhà nước có mức vốn pháp định của bênvn từ 30% trở lên. c) Các dự án đầu tư cần lựa chọn đối tác liên doanh, 100% vốn nước ngoài hoặc BOT (xây dựng vận hành chuyển giao) BT (xây dựng chuyển giao). d) Các dự án đầu tư khác mà chủ đầu tư quyết định tổ chức đấu thầu. e) Đối với các dự án có sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc nước ngoài, cơ quan được giao trách nhiệm đàm phán ký kết hợp hiệp định phải tuân thủ trình chính phủ xem xét quyết định, những quy định khác với quy chế này trước khi ký. II, Các hình thức, phương thức, nguyên tắc đấu thầuL 1) Các hình thức đấu thầu Theo quy định của quy chế đấu thầu hiện hành thì có các hình thức sau: a) Đấu thầu rộng rãi: là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng trong đấu thầu. Tuy nhiên hình thức này có ưu, nhược điểm sau: + Ưu điểm: hình thức này khuyến khích sự cạnh tranh giữa các nhà thầu, việc nắm bắt các thông tin mời thưầu tương đối nhanh chóng và đơn giản, thể hiện tính đa dạng trong các cuộc mơì thầu, làm tăng sức hấp dẫn giữa các đối tượng tham gia đấu thầu. Các nhà thầu luôn đưa ra những giải pháp đạt tiêu chuẩn chất lượng cao với chi phí thấp nhất. + Nhược điểm: Do số lượng nhà thầu không hạn chế nên có thể nhà thầu chưa thực hiện đầy đủ nhưng vẫn tham gia dự thầu. Mặt khác số lượng nhà thầu vẫn tham dự đông dẫn đến mất nhiều thời gian và chi phí cho việc tổ chức đấu thầu. b) Đấu thầu hạn chế: là hình thức mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu 5 nhà thầu) có đủ năng lực tham dự. Danh sách tham dự phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều sau: Chỉ có một nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu. Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. + Ưu điểm: các nhà thầu tham gia dự thầu là những nhà thầu có khả năng thực sự đầy đủ mọi mặt, đáp ứng được các yêu cầu mà bên mời thầu đặt ra. Công tác tổ chức đấu thầu tốn ít thời gian và chi phí hơn đấu thầu rộng rãi. + Nhược điểm: Do hạn chế về số lượng nhà thầu nên cũng hạn chế một sự đa dạng trong cạnh tranh giữa các nhà thầu và đôi khi giá trúng thầu không phải là giá thấp nhất do có sự móc ngoặc giữa các nhà thầu và như vậy, chủ đầu tư chưa chắc đã tiết kiệm được tối đa lượng vốn đầu tư. Chính vì vậy hình thức đấu thầu này được áp dụng trong các trường hợp sau: * Chỉ có một số nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của hồ sơ mời thầu, nhưng tối thiểu có 3 nhà thầu có khả năng tham gia. * Các nguồn vốn sử dụng có yêu cầu tiến hành đấu thầu hạn chế. * Do yêu cầu về tiến độ thực hiện dự án được người có thẩm quyền quyết định đấu đầu tư chấp thuận. c) Chỉ định thầu: là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp đặc biệt. Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, dịch hoạ hiện thi công công việc kịp thời. Những gói thầu có tính chất như nghiên cứu, thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh quốc phòng thì cũng được chỉ định thầu nhưng phải do thủ tướng chính phủ quyết định. Cuối cùng là những gói thầu đặc biệt do thủ tướng chính phủ quyết định trên cơ sở báo cáo thẩm định của bộ kế hoạch và đầu tư có ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài trợ vốn, các cơ quan có liên quan. + Ưu điểm: công tác tổ chức đấu thầu tốn ít thời gian và chi phí hơn đấu thầu hạn chế. + Nhược điểm : hình thức chỉ định thầu là triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các nhà thầu. Giá quyết toán thường cao hơn so với giá trị dự án, ngoài ra tiến độ thi công còn kéo dài tiến độ cấp phát vốn. Hơn nữa, nhà thầu được chọn chưa chắc đã đưa ra được phương án tối ưu cho chính dự án. 2) Các phương thức đấu thầu Tuỳ theo yêu cầu của chủ đầu tư và tính chất phức tạp của công trình mà áp dụng phương thức đấu thầu khác nhau. Trong xây dựng cơ bản thường áp dụng các hình thức sau: + Đấu thầu một túi hồ sơ (một phong bì) là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu vào một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá và đấu thầu xây lắp. + Đấu thầu hai túi hồ sơ: là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về gía trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ kỹ thuật sẽ được xem trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất giá để đánh giá. + Đấu thầu hai giai đoạn: phương thức này chỉ áp dụng cho những trường hợp sau: - Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có gía trị từ 500 tỷ đồng trở lên. - Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp. - Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay. Quá trình thực hiện phương thức này như sau: a) Giai đoạn thứ nhất: các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá) để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thực. b) Giai đoạn thứ hai: Bên mời thầu các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức về đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trên cùng mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều toi kiên hợp đồng, già dự thầu. 3, Các nguyên tắc cần nắm vững trong hoạt động đấu thầu Để hoạt động đấu thầu thực sự có hiệu quả thì không chỉ đối với các nhà thầu mà còn đối với bên mời thầu phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc sau: +Nguyên tắc sau cạnh tranh với điều kiện ngang nhau: Mỗi cuộc đấu thầu đều được tham gia của một số nhà thầu có đủ năng lực để hình thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với các nhà thầu là như sau, không phân biệt đối sử. +Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ: Các nhà thầu phải nhận được đầy đủ tài liệu đấu thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng và có hệ thống về quy mô khối lượng, quy cách yêu cầu về chất lượng, tiến độ và điều kiện thực hiện công trình. + Nguyên tắc đánh giá công bằng: các hồ sơ thầu phải được đánh giá theo cùng một chuẩn mực bởi một hội đồng xét thầu có đủ khả năng và phẩm chất. Lý do để xét chọn hay loại bỏ phải đươc giải thích rõ ràng, tránh sự ngờ vực. Nguyên tắc trach nhiệm phân minh: Khôn chỉ có nghĩa vụ, quyền lợi các bên liên quan được để cập và chi tiết. Hoá trong hợp đồng mà vi phạm trách nhiệm của các bên trong từng phần việc đều được phân minh, vạch vòi mà không để sai sót nào không đáng có người chịu trách nhiệm. Mỗi bên liên quan điều đó biết rõ mình sẽ chịu hậu quả gì nếu sơ xuất và do đó mỗi bên phải nỗ lực tối đa trong việc kiểm soát bất trắc và phòng ngừa rủi ro. +Nguyên tắc bảo hành và bảo hiểm thích đáng: Các khoản mục về bảo hành, bảo lãnh và bảo hiểm... Cũng phải đề cập trong hợp đồng một cách rõ ràng để các bên cùng áp dụng. Việc tuân thủ nguyên tắc trên có tác dụng tích cực đối với công tác thầu. Nó kích thích sự cố gắng một cách nghiêm túc của mỗi bên và thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên nhằm vào mục tiêu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu vì chất lượng, tiến độ, tài chính của dự án và do đó đảm bảo lợi ích chính đáng cho cả chủ công trình lẫn bên nhà thầu, góp phần tiết kiệm các nguồn lực xã hội. II)Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tham dự thầu. 1) Nhân tố cạnh tranh. Nhân tố cạnh tranh có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với phương thức đấu thầu rộng rãi. Nếu số lượng nhà thầu tham gia nhiều thì gây tác động tích cực đến giá thầu. Giá thầu sẽ sát với tình hình thực tiễn, tích kiệm đuợc một số lượng vốn đáng kể cho nhà nước, bởi lẽ, tất cả các nhà thầu để tập trung trí tuệ, năng lực hiện có trong tính toán để từ đó đưa ra mức giá thầu hợp lý nhất. Ngược lại, nếu số lượng nhà thầu ít thì cạnh tranh về giá thầu giảm đi, giá trúng thầu chưa chắc là tối ưu đối với chủ đầu tư. Tuy nhiên, cũng phải xem xét mặt trái của nó, bởi vì nếu có nhiều nhà thầu lớn tham dự, chủ đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn nhà thầu tối ưu nhất và các nhà thầu cạnh tranh rất gay gắt, điều này có thể dẫn đến giá trúng thầu không phải là giá có hiệu quả. 2) Trình độ tham gia của các đối tác. Đối với bên mời thầu: Trình độ của ban quản lý dự án và đầu tư càng cao thì càng dễ dàng xác định chính sác giá thầu đối với các nhà đầu tư, từ đó đưa ra quyết định nhanh chóng, hứa hẹn một môi trường đầu tư tốt đẹp. Nếu trình của đầu tư không đáp ứng được thực tế, công việc xúc tiến chậm, kéo dài thời gian, do dự, thiếu tự tin và không quyết đoán sẽ gây ra ảnh hưởng cho công tác đấu thầu. Đối với nhà thầu: yêu cầu trình độ phải cao và nhanh chóng nắm bắt được tòan bộ nội dung của dự án mà mình sắp tham gia dự thầu, có như vậy mới tính toán chính xác, hợp lý và khoa học dự thầu tạo điều kiện cho công tác đấu thầu thành công tốt đẹp. 3) Chất lượng quy mô và khối lượng công trình. Trong đấu thầu đối với dự án có quy mô lớn, chất lượng cao cần thiết phải đòi hỏi nhà thầu có trình độ cao và có uy tín trên tt. Tuy nhiên trong quá trình thi công nếu chỉ có một nhà thầu bao trọn gói hết công trình lớn thì khi chủ đầu tư thanh toán không kịp sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Do đó cần phải phối hợp giữa các nhà thầu khi cùng tham gia một dự án, điều này sẽ khai thác tối đa thế mạnh của từng nhà thầu và từ đó sẽ góp phần thúc đẩy triển khai thành dự án và đảm bảo chất lượng công trình. 4) Nhân tố vốn Vốn ở đây là vốn của ban quản lý dự án (chủ đầu tư) thanh toán cho nhà thầu. Nếu lượng cốn lớn đảm bảo quy vòng thanh toán nhanh chóng theo hợp đồng đã ký kết và quản lý sẽ tạo cho dự án triển khai đúng chất lượng và tiến bộ. Ngược lại, xuất hiện tình trạng kéo dài tiến độ thi công công làm ảnh hưởng đến nhiều mặt khác như: Tăng chi phí, thời gian, giảm doanh thu, lương công nhân… IV) Tổ chức trong xây lắp và mua sắm hàng hoá Để nâng cao chất lượng xây dựng các công trình và tăng cường công tác quản lí, hạn chế sự mất mát, lãng phí nguyên vật liệu cũng như nhân lực thi công, góp phần tích cực vào việc hạ giá thành các công trình, đấu thầu thực sự trở thành một biện pháp thúc đẩy, thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học mới, các công nghệ mới…vào công tác mua bán và xây lắp hàng hoá. Theo cơ chế đấu thầu mới ban hành kèm theo nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 và 14/2000 CP của chính phủ, qui định phạm vi và đối tượng áp dụng đối với các dự án đầu tư tại Việt Nam và phải được tổ chức đấu thầu tại Việt Nam gồm: Các dự án đầu tư thực hiện theo qui chế quản lí đầu tư và xây dựng cơ bản. Các dự án liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc cổ phần có sự tham gia của các tổ chức kinh tế Nhà nước (các doanh nghiệp Nhà nước) từ 30% trở lên vào vốn pháp định, vốn kinh doanh và vốn cổ phần. Các dự án sử dụng vốn tài trợ các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài được thực hiện trên cơ sở nội dung điều ước được các bên kí kết (các bên tài trợ và các bên Việt Nam). Trường hợp có những nội dung trong dự thảo điều ước khác với qui chế này thì cơ quan được giao trách nhiệm đàm phán kí kết. Điều ước phải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi kí kết. Các dự án cần lựa chọn đối tác đầu tư để thực hiện, chỉ thực hiện khi có từ hai nhà thầu trở lên cùng muốn tham gia một dự án ( đối với đầu tư trong nước). Đây là những dự án qui định bắt buộc, còn các đối tượng khác khi Nhà nước chỉ khuyến khích áp dụng. Các điều kiện cơ bản để tổ chức đấu thầu. Việc tổ chức đấu thầu chỉ được thực hiện khi có đầy đủ các điều kiện sau: Phải có văn bản quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư của người có thẩm quyền. Kế hoạch đấu thầu đã được người có thẩm quyền phê duyệt. Hồ sơ mời thầu đã được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong quá trình tham gia đấu thầu có hai loại chủ thể: chủ thể đầu tư ( bên mời thầu ) và các tổ chức kinh tế tham gia dự thầu ( các nhà thầu). Tuy nhiên, để trở thành tổ chức đấu thầu thì các chủ thể này phải thoả mãn những điều kiện quyết định. Những điều kiện đối với bên mời thầu. Thông thường, bên mời thầu là các chủ đầu tư công trình. Trong một số trường hợp, bên mời thầu có thể là các tổ chức tổng thầu khi muốn tìm kiếm các nhà thầu phụ đảm nhận một số công việc nhất định của quá trình xây dựng công trình. Để tổ chức quá trình đấu thầu, các chủ thể này phải đảm bảo một số trường hợp, bên mời thầu có thể là các tổ chức tổng thầu khi muốn tìm kiếm các nhà thầu phụ đảm nhiệm một số công việc nhất định của quá trình xây dựng công trình. Để tổ chức quá trình đấu thầu, các chủ thể này phải đảm bảo một số điều kiện sau: Phải có đủ hồ sơ về đối tượng dự kiến đấu thầu đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt, trong đó quan trọng nhất là thiết kế và dự toán. Có khả năng đảm bảo đủ vốn để thanh toán theo hợp đồng. Bảo đảm được mặt bằng, giấy phép sử dụng đất và giấy phép xây dựng, nghĩa là có đủ điều kiện pháp lí để tiến hành công tác xây dựng công trình. Nắm chắc qui chế đấu thầu và có những kinh nghiệm. Bên mời thầu có thể sử dụng dịch vụ tư vấn để khắc phục sự lúng túng và đặc biệt là để tránh những thua thiệt có thể gặp phải. Ngoài ra, bên mời thầu không được tham gia với tư cách là nhà thầu đối với các gói thầu do mình tự tổ chức. 1.2) Những điều kiện đối với nhà thầu. Điều kiện đầu tiên đối với các nhà thầu là nhà thầu phải có giấy đăng kí kinh doanh và giấy phép hành nghề. Điều này có nghĩa, chỉ có các pháp nhân kinh tế mới đủ điều kiện trở thành nhà thầu. Các nhà thầu phải có đủ năng lực về kĩ thuật và tài chính đáp ứng được nhu cầu của gói thầu. Nhà thầu chỉ được tham gia một đơn dự thầu trong một gói thầu, dù là đơn phương hay liên doanh dự thầu. Trường hợp Tổng công thị trường đứng lên dự thầu thì các đơn vị trực thuộc không được phép tham dự với tư cách là nhà thầu độc lập trong cùng một gói thầu. Trình tự tổ chức đấu thầu xây lắp và mua sắm hàng hoá: Chỉ sau khi cơ quan có thẩm quyền cho phép, chủ đầu tư mới được tiến hành những công việc đầu tiên của quá trình đấu thầu. Cơ quan đó là cơ quan cớ thẩm quyền quyết định đầu tư. Việc tổ chức đấu thầu phải tuân thủ theo qui trình do Nhà nước qui định. Đấu thầu và dự thầu là những công việc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các khâu công việc của quá trình này đan xen nhau theo một trình tự nhất định. Trong đó, có những công việc thuộc trách nhiệm của bên mời thầu, có những công việc thuộc trách nhiệm của các nhà thầu. Việc tổ chức đấu thầu xây lắp và mua sắm hàng hoá được thực hiện trình tự sau: Sơ tuyến (nếu có) Lập hồ sơ mời thầu Gửi thư hoặc thông báo mời thưầu Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu Mở thầu Trình duyệt nội dung hợp đồng Công bố kết quả và thương thảo hợp đồng Trình duyệt kết quả đấu thầu Đánh giá xếp hạng nhà thầu 2.1) Sơ tuyển nhà thầu ( nếu có) Việc sơ tuyển nhà thầu phải được tiến hành đối với các gói thầu có giá trị từ 200 tỉ đồng trở lên, nhằm lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm thực hiện, theo các bước sau: Lập hồ sơ sơ tuyển, bao gồm: thư mời thầu, chỉ dẫn sơ tuyển, các mức tiêu chuẩn đánh giá và phụ lục kèm theo. Thông báo mời sơ tuyển. Nhận và quản lí hồ sơ dự sơ tuyển. Trình duyệt kết quả kết quả sơ tuyển. 2.2) Hồ sơ mời thầu. Sau khi sơ tuyển (nếu có), bên mời thầu đã chọn được một số nhà thầu thích hợp tham dự. Bên mời thầu phải chuẩn bị đầy đủ các tài liệu, thông số kĩ thuật có liên quan và nêu rõ các điều kiện của công trình để bên nhà thầu chuẩn bị. “ Hồ sơ mời thầu” là toàn bộ tài liệu do bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu bao gồm: - Thư mời thầu: - Mẫu đơn dự thầu - Chỉ dẫn đối với nhà thầu - Các điều kiện ưu đãi ( nếu có) - Các loại thuê bao qui định của pháp luật - Hồ sơ thiết kế kĩ thuật kèm theo bản tiêu lượng và chỉ dẫn kĩ thuật. - Tiến độ thi công - Tiêu chuẩn đánh giá ( bao gồm cả phương pháp và cách qui đổi và cùng một mặt bằng để xác định giá đánh giá ) - Các điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng - Mẫu bảo lãnh dự thầu - Mẫu thoả thuận hợp đồng - Mẫu bao lãnh thực hiện hợp đồng. “Hồ sơ mời thầu” phải người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi phát hành. 2.3) Thư hoặc thông báo mời thầu Tuỳ theo đối tượng và mức độ đấu thầu, thư hoặc thông báo mời thầu được công bố trước ngày mời thầu sao cho bên dự thầu có đủ thời gian tìm hiểu công việc để lập hồ sơ dự thầu (ít nhất là 30 ngày trước ngày mời thầu). Nội dung thủ tục hoặc thông báo mời thầu gồm: - Tên và địa chỉ của bên mời thầu - Khái quát dự án, địa điểm thời gian xây dựng và các nội dung khác. - Chỉ dẫn việc tìm hiểu hồ sơ mời thầu - Các điều kện tham gia dự thầu - Thời gian địa điểm nhận hồ sơ mời thầu Ngoài các nội dung trên ,hợp đồng xét thầu chỉ chấp nhận những đơn đặt dự thầu có đủ các điều kiện đã quy định. Chủ đầu tư không để lộ dưới bất kỳ hình thức nào có liên quan đến chỉ tiêu xét trúng thầu. 2.4) Nộp hồ sơ dự thầu: Khi nhận được thông báo mời thầu, các tổ chức xây dựng xét thầu có đủ các điều kiện và muốn tham gia đấu thầu thì phải mua._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29875.doc