Hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập

Tài liệu Hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÊN ĐỀ TÀI: HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐẤU THẦU TẠI VIỆT NAM NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỘI NHẬP. Họ và tên: Vũ Hoài Thu Lớp: Anh 5 – K42B – KTNT Khóa: 42 Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Duy Liên. Hà Nội, tháng 11/ năm 2007 MỤC LỤC I NÓI ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài. Sau một thời gian dài vận hành theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, năm 1986 nền kinh tế Vi... Ebook Hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam đã có bước chuyển đổi quan trọng sang cơ chế thị trường định hướng XHCN theo Nghị quyết Đại hội Đảng VI. Để phù hợp với các quy luật kinh tế của cơ chế thị trường, hàng loạt cơ chế, chính sách và thể chế kinh tế đã được đổi mới, trong đó phải kể đến sự thay đổi của các chính sách liên quan tới đầu tư nói chung và đầu tư sử dụng tiền nhà nước nói riêng. Đặc biệt, trong hệ thống các chính sách điều tiết hoạt động đầu tư sử dụng vốn nhà nước thì cơ chế về đấu thầu mới được áp dụng vào Việt Nam khoảng hơn một thập kỷ nay. Tuy mới được áp dụng rộng rãi trong thời gian chưa dài nhưng công tác đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế nói riêng đã mang lại những thành tựu đáng kể trong việc chi tiêu sử dụng có hiệu quả hơn tiền vốn của Nhà nước cho đầu tư phát triển. Thành tựu rõ rệt nhất là việc thông qua đấu thầu, mỗi năm trung bình có khoảng 30.000 gói thầu được thực hiện với số tương ứng đạt khoảng 4 – 5 tỷ USD/năm và tiết kiệm cho Nhà nước vào khoảng 400 triệu USD/năm (8 – 10%/năm). Tuy vậy, đấu thầu là một lĩnh vực tương đối mới đối với Việt Nam, trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những lúng túng, thậm chí sai lầm gây thất thoát tài lực của Nhà nước, quy trình thực hiện vẫn còn những hạn chế, lạc hậu, vướng mắc và bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu đẩy mạnh việc áp dụng hình thức tiên tiến này vào việc phát triển kinh tế. Bên cạnh đó còn nhiều biểu hiện tiêu cực, phản ánh sai lệch mặt tích cực và tính hiệu quả của đấu thầu. Chính những nguyên nhân này đã làm giảm tính hiệu quả của các dự án đầu tư phát triển, gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc cả về người và của, đồng thời đánh mất dần sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, việc nghiên cứu, cập nhật, đổi mới phương thức phù hợp trong công tác điều hành cũng như cải tiến quy trình thực hiện trở thành một yêu cầu hết sức bức thiết để hoạt động đấu thầu được áp dụng hiệu quả vào đời sống kinh tế đất nước, đồng thời thích ứng một cách linh hoạt trước những biến động của môi trường trong nước cũng như quốc tế. Để góp phần nghiên cứu vấn đề phức tạp này và tìm biện pháp nhằm góp phần nâng cao tính phù hợp và linh hoạt của quy trình đấu thầu quốc tế ở Việt Nam trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới, em đã lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Trong đó đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học về quy trình thực hiện đấu thầu ở Việt Nam và những vấn đề tồn tại trong quá trình áp dụng. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu thực trạng đấu thầu quốc tế ở Việt Nam hiện nay và khảo sát, đánh giá quy trình của hoạt động đấu thầu tại Việt Nam. Trên cơ sở nhận định tồn tại, hạn chế trong quy trình đấu thầu ở Việt Nam, cũng như kinh nghiệm thực hiện công tác đấu thầu của một số tổ chức trên thế giới, đề xuất ra những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy trình đấu thầu phục vụ cho quá trình hội nhập, đồng thời góp phần lành mạnh hóa môi trường đầu tư, chống thất thoát vốn Nhà nước. Phương pháp nghiên cứu. Đề tài sử dụng phương pháp phân tích (hệ thống, thống kê), phương pháp tổng hợp trên cơ sở vận dụng lý luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm lý luận của Đảng. Kết cấu của đề tài Nội dung đề tài được chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Lý luận chung về đấu thầu và quy trình đấu thầu quốc tế. Chương 2: Thực trạng hoạt động đấu thầu và quy trình đấu thầu tại Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình đấu thầu quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tới. Người thực hiện đề tài xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Phạm Duy Liên, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, đóng góp những ý kiến quưý báu trong quá trình viết khóa luận này, nhờ đó đề tài này mới được hoàn tất. Tuy nhiên, do nhận thức của người viết còn nhiều hạn chế cùng với những khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, nhất là những thông tin chi tiết về các cuộc thầu, đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ QUY TRÌNH ĐẤU THẦU QUỐC TẾ I. Sự hình thành và phát triển của đấu thầu quốc tế. Đấu thầu là một hình thức mua bán đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử nhân loại. Cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa, các hình thức mua bán cũng ngày càng được phát triển và hoàn thiện. Trong số đó có hình thức đấu thầu. Rất nhiều nước trên thế giới đã sử dụng một cách có hiệu quả phương thức mua sắm này. Ngày nay đấu thầu không chỉ tồn tại trong một lĩnh vực, một địa phương, một quốc gia mà đã vượt ra ngoài biên giới. ở các nước tư bản phát triển như Mỹ, Đức, Pháp, Ý,...đấu thầu được áp dụng rộng rãi để xây dựng các công trình công cộng, các công trình lớn đều phải nhờ phương pháp mua bán nêu trên. Vào thập kỷ 70, 80 của thế kỷ trước, phần lớn các nước đang phát triển sử dụng phương pháp đấu thầu để mua máy móc thiết bị. Việc phổ biến rộng rãi phương pháp này ở các nước đang phát triển có liên quan chặt chẽ tới sự can thiệp của Nhà nước vào trong đời sống kinh tế. Ở đại đa số các nước phát triển, Nhà nước ban hành những điều luật buộc các nhà nhập khẩu chỉ được mua của nước ngoài bằng phương pháp đấu thầu khi trị giá lô hàng vượt một số tiền nhất định, hoặc khi nhập khẩu thiết bị. Điều đó được thể hiện trong các quy định của Mianma, Cộng hòa A rập, Ai cập và nhiều nước châu Mỹ la tinh. Theo ước tính, ở các nước đang phát triển khoảng 80% cuộc mua bán máy móc thiết bị được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu. Hình thức đấu thầu càng trở nên phổ biến khi mà nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài ngày càng gia tăng. Theo đánh giá của các tổ chức kinh tế quốc tế, trong đó có Ngân hàng Thế giới thì trong những năm 60, 70 vốn đầu tư của nước ngoài chiếm từ 10 – 20% tổng vốn đầu tư của các quốc gia. Mà phần lớn những nguồn vốn này khi mua sắm, xây dựng ... đều sử dụng đấu thầu. Ở các nước đang phát triển 20 – 40% trị giá hàng hóa nhập khẩu do các tổ chức Nhà nước thực hiện hiện thông qua đấu thầu. Ở Việt Nam, hình thức đấu thầu đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mua sắm, xây dựng các công trình, nhà máy, hầm mỏ,... Về mặt lịch sử, hình thức đấu thầu đã xuất hiện từ thời kỳ Pháp thuộc. Khi đó các nhà thầu được gọi dưới tên các nhà thầu khoán. Ở miền Bắc sau khi hòa bình lập lại năm 1954, để khôi phục và phát triển kinh tế, nhà nước ta đã mua nhiều nhà máy, xí nghiệp... của các nước XHCN bằng hình thức đàm phán trực tiếp với những nước cấp vốn. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta đã tổ chức đấu thầu xây dựng công trình thủy lợi Dầu tiếng với vốn vay của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) vào năm 1979 tại Câu lạc bộ Quốc tế. Kể từ đó tới nay chúng ta đã tổ chức nhiều cuộc đấu thầu với số lượng và quy mô ngày càng lớn. II. Các khái niệm. 1. Đấu thầu. Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, người mua đóng vai trò tổ chức để các nhà thầu (những người bán) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của người mua là có được hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng với chi phí thấp nhất. Mục tiêu của các nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hóa dịch hoặc dịch vụ đó với giá cả bù đắp các chi phí đầu vào đồng thời đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể, trong điều kiện cạnh tranh với nhiều nhà thầu khác. 2. Đấu thầu quốc tế. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) thì "đấu thầu cạnh tranh quốc tế là tạo ra một phạm vi rộng rãi cho Bên vay (cơ quan thực hiện dự án) trong việc lựa chọn hồ sơ dự thầu tốt nhất trong số những người cung cấp hàng hóa hay nhà xây dựng tham gia đấu thầu và để tạo cơ hội đầy đủ, công bằng và bình đẳng cho tất cả những người dự thầu có tiềm năng của các nước thành viên hợp lệ tham gia đấu thầu cung cấp hàng hóa và sử dụng công trình từ vốn vay của Ngân hàng". Trong Bản hướng dẫn mua sắm bằng vốn vay IBRD và tín dụng IDA thì đấu thầu cạnh tranh quốc tế là "thông báo đầy đủ và kịp thời cho tất cả các nhà thầu ở các nước thành viên có khả năng và đủ tư cách hợp lệ về yêu cầu của bên vay và tạo cho họ một cơ hội đấu thầu bình đẳng nhằm cung cấp hàng hóa, dịch vụ và công trình xây lắp." Liên hợp quốc cũng đưa ra Luật mẫu của Liên hợp quốc cho rằng "đấu thầu là việc mua sắm hàng hóa, xây dựng công trình và dịch vụ bằng một phương pháp nào đó". Còn theo Quỹ hợp tác kinh tế hải ngoại Nhật Bản (OECD) thì "đấu thầu cạnh tranh quốc tế là giải pháp tốt để đáp ứng được mọi đòi hỏi liên quan đến việc đấu thầu hàng hóa dịch vụ cho các dự án. Các dự án này đòi hỏi phải chú trọng việc xem xét tính kinh tế, tính hiệu quả và tính trong sáng của quá trình đấu thầu và không có sự phân biệt giữa những người dự thầu hợp lệ đối với các hợp đồng đấu thầu". Theo Luật đấu thầu 2005 của nước CHXHCN Việt Nam thì " Đấu thầu quốc tế là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài và nhà thầu trong nước". Như vậy, mặc dù có những định nghĩa, giải thích khác nhau nhưng tự chung lại đều có những nhận định chung như sau về đấu thầu quốc tế" đấu thầu quốc tế là phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó bên mời thầu (chủ dự án, công trình) công bố trước các điều kiện mua hàng để cho các nhà thầu (người cung ứng hàng hóa, dịch vụ, xây dựng công trình) bao gồm cả trong nước và nhà nước báo giá và các điều kiện giao dịch, sau đó bên mời thầu sẽ chọn mua của ai đáp ứng tốt nhất các điều kiện đã nêu ra". III. Đặc điểm của đấu thầu quốc tế. 1. Giới hạn cạnh tranh. Bản chất của đấu thầu quốc tế là tự do cạnh tranh, tuy nhiên sự tự do đó nằm trong những giới hạn được định sẵn. Các nhà thầu muốn giành ưu thế như thế nào thì cũng phải thực hiện theo những điều kiện mà Bên mời thầu đã quy định trong hồ sơ mời thầu. Trong hồ sơ mời thầu đó, người chủ công trình nêu ra các điều kiện ràng buộc rất chặt chẽ về kỹ thuật cũng như tài chính, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Vì vậy, các nhà thầu muốn có hi vọng trúng thầu thì phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiện đó và phải có khả năng thỏa mãn tốt nhất các điều kiện đó. 2. Người mua và người bán. Đấu thầu được sử dụng khi thị trường là của người mua, nghĩa là trên thị trường này chỉ có một người mua và nhiều người bán cạnh tranh với nhau. Người mua, hay còn gọi là Bên mời thầu thường là những tổ chức, cơ quan, chủ đầu tư được Chính phủ cấp tài chính để xây dựng, nâng cấp, cải tạo công trình, mua sắm thiết bị vật tư...Ngược lại với những người mua đó, người bán thường là những nhà thầu muốn giành được quyền thi công công trình hoặc cung cấp dịch vụ, hàng hóa. Các nhà thầu này tự do cạnh tranh với nhau để giành quyền thi công và kết quả của cuộc cạnh tranh đó là giá cả của công trình sẽ tiến gần lại với giá thị trường, điều này làm thỏa mãn các chủ công trình. 3. Địa điểm và thời gian mở thầu. Khác với các hình thức giao dịch thông thường, đấu thầu được tổ chức tại một địa điểm và trong thời gian được quy định sẵn, được xác định cụ thể trong hồ sơ mời thầu. Trên thực tế, địa điểm mở thầu của đấu thầu quốc tế có thể không đặt tại nước có công trình được thi công mà đặt ở nước chủ đầu tư. 4. Hàng hóa. Hàng hóa trong đấu thầu quốc tế có thể là hàng hóa hữu hình hoặc vô hình. Các mặt hàng này thường có khối lượng lớn, quy cách phẩm chất phức tạp, có giá trị cao. Ví dụ như dự án khôi phục quốc lộ 1 A đoạn Hà Nội – Vinh và thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ với tổng trị giá 176 triệu USD do Liên hợp quốc tài trợ. Việc xác định phẩm chất hàng hóa, dịch vụ đấu thầu bằng các bản liệt kê các chỉ tiêu cơ bản. Đối với các mặt hàng máy móc thiết bị thì quy cách phẩm chất chỉ có thể xác định bằng một bản tài liệu kỹ thuật do người tổ chức đấu thầu soạn thảo. Độ dày của tập tài liệu này có thể lên tới vài chục trang tùy theo tính chất phức tạp của hàng hóa. Ngoài ra, hàng hóa có thể bao gồm cả những mặt hàng vô hình như các bí quyết kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn..[Tài liệu 13] 5. Đồng tiền dự thầu. Đồng tiền dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu theo nguyên tắc một đồng tiền cho một khối lượng cụ thể. Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, việc quy đổi về cùng một đồng tiền để so sánh phải căn cứ vào tỷ giá giữa bản tệ và ngoại tệ theo quy định trong hồ sơ mời thầu. 6. Ngôn ngữ trong đấu thầu. Ngôn ngữ sử dụng trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu và các tài liệu trao đổi giữa bên mời thầu và các nhà thầu bao gồm ngôn ngữ của nước mời thầu và tiếng Anh. 7. Sự tham gia của bên thứ ba, nhà tư vấn. Theo Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn (FIDIC), "kỹ sư tư vấn" là người đảm bảo hạn chế mức tối đa các tiêu cực phát sinh, những thông đồng thỏa hiệp làm cho chủ dự án bị thiệt hại, vì vậy, người kỹ sư tư vấn phải có trình độ, năng lực chuyên môn vững vàng để giúp chủ dự án giải quyết các vấn đề kỹ thuật với các nhà thầu. Dịch vụ tư vấn có thể xuất hiện trong các giai đoạn như làm báo cáo trước khi đầu tư, giám sát và quản lý dự án... Các thông tin về các công ty tư vấn các Bên mời thầu có thể tìm được ở các tài liệu của Ngân hàng về công ty tư vấn hoặc các nguồn khác có liên quan. Vai trò của nhà tư vấn trong đấu thầu là rất quan trọng. Khi có khuyến cáo của các nhà tư vấn về chất lượng của công trình hoặc việc mua sắm, chủ đầu tư có quyền đình chỉ thi công hợp đồng. Đồng thời trách nhiệm liên đới của các nhà tư vấn giám sát cũng không nhỏ khi có các sự cố xảy ra. IV. Tác dụng của đấu thầu. 1. Đối với bên mời thầu – người mua. Lựa chọn được các nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu: cung cấp hàng hóa và dịch vụ đảm bảo chất lượng mong muốn, đảm bảo tiêu chuẩn yêu cầu với giá cả hợp lý có thể. Sử dụng vốn có hiệu quả: với lượng cầu có hạn, các nhà cung cấp phải cạnh tranh để nhận được hợp đồng. Theo quy luật thị trường, khi cung tăng mà cầu không đổi thì giá cả sẽ rẻ hơn và đấu thầu không nằm ngoài quy luật đó. Sự cạnh tranh giữa các nhà thầu không tạo ra nhiều sản phẩm hơn, nhưng có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá cả, nhờ đó vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả. Thể hiện uy tín của người mua thông qua việc tổ chức những cuộc đấu thầu cạnh tranh công bằng, minh bạch. Tuy nhiên, đấu thầu quốc tế cũng mang lại không ít rủi ro thiệt hại cho bên mời thầu. Dễ bị bắt chẹt, giá cả hàng hóa cao hơn giá trị thực của hàng hóa, hoặc phẩm chất không đảm bảo do bên mời thầu chưa có khả năng tham gia vào thị trường, không am hiểu và thiếu kinh nghiệm tổ chức đấu thầu. Mặt khác, các nhà thầu có thể liên kết với nhau trong một liên minh nào đấy để gây sức ép lên nhà mời thầu. Có những trường hợp các hãng đã thành lập một Công-xooc-xi-om và nói rõ khả năng hợp tác của các hãng riêng biệt để hoàn thành một đơn đặt hàng lớn, rồi tự phân chia mặt hàng và định giá cung cấp. Những hành vi này gây không ít thiệt thòi cho bên mua. Người tổ chức đấu thầu bị hạn chế trong khi lựa chọn người thắng thầu do những ràng buộc bởi những định chế tài chính. Trong đấu thầu, người thắng thầu nhiều khi không phải là người chào giá thấp nhất, mà là người của những nước cung cấp vốn. 2. Đối với nhà thầu. Nhà thầu thắng thầu giành cho mình được một hợp đồng lớn do gói thầu cạnh tranh quốc tế thường có giá trị cao, khối lượng lớn. Điều này cũng có nghĩa là họ sẽ nâng cao doanh số và lợi nhuận của công ty, đảm bảo hơn cho sự phát triển lâu dài. Hơn nữa, thắng thầu còn giúp cho nhà thầu tăng thêm uy tín trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động kinh doanh sau này. Đấu thầu góp phần giải quyết công ăn việc làm cho công nhân các nhà thầu. Qua đó, đời sống của công nhân sẽ được cải thiện, trình độ tay nghề của công nhân cũng sẽ tăng lên, đồng thời cũng làm tăng niềm tin vào ban lãnh đạo công ty trong lòng công nhân của họ. Đấu thầu quốc tế còn giúp các nhà thầu hoàn thiện mình. Thông qua cạnh tranh với nhiều nhà thầu trong cũng như ngoài nước, nhà thầu không ngừng hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, năng lực, quy trình công nghệ, ... nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, tăng khả năng thắng thầu. Bên cạnh đó, việc cọ sát với các nhà thầu quốc tế giúp các nhà thầu trong nước học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ bên ngoài. Mặt khác, các nhà thầu gặp không ít trở ngại khi tham gia đấu thầu. Các nhà thầu dễ bị đọng vốn khi ký quỹ để đảm bảo dự thầu hoặc đảm bảo thực hiện hợp đồng, vì vậy các nhà thầu nhỏ với tiềm lực tài chính mỏng khó có khả năng tham gia và thắng thầu. Nhiều nhà thầu gặp khó khăn trong việc tham gia đấu thầu vì nhiều nước yêu cầu có sự bảo lãnh của ngân hàng về khả năng chi trả hoặc cho vay. Lợi nhuận của các nhà thầu có nguy cơ suy giảm do sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà thầu dẫn đến chi phí bị đẩy lên quá cao. 3. Đối với nền kinh tế. Đấu thầu quốc tế đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội ở hầu hết các nước trên thế giới. Do việc lựa chọn người thắng thầu thuộc quyền của người tổ chức vì vậy mà có nhiều cơ hội người thắng thầu cho các nước sở tại. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho nước sở tại. Sử dụng vốn có hiệu quả: Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm và quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển với nhu cầu vốn rất cao. Thông thường, vốn Nhà nước chỉ đóng góp phần nào cho các dự án. Vì vậy, phần lớn những nước đang phát triển phải dựa vào vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế, nguồn tài trợ của các nước phát triển mà chủ yếu là từ WB, ADB, Nhật Bản... và đôi khi từ chính các nhà thầu. Hơn nữa, đấu thầu quốc tế không chỉ mang lại hiệu quả sử dụng vốn cho chủ đầu tư là doanh nghiệp mà còn cho cả các đơn vị sử dụng tiền Nhà nước thông qua Ngân sách. Tiết kiệm được một lượng ngoại tệ lớn phải trả nếu nhà thầu nước ngoài thắng thầu. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với những quốc gia đang gặp khó khăn từ vốn vay từ nước ngoài. Chúng ta có thể thấy được phương thức đấu thầu quốc tế đem lại nhiều tác dụng cho các nhà đầu tư, cho các nhà thầu, cho các tổ chức tài chính quốc tế. Vì vậy mà phương thức này ngày càng được áp dụng rộng rãi và phổ biến. V. Quy trình đấu thầu của một số tổ chức quốc tế và quốc gia trên thế giới. Quy định về đấu thầu ở mỗi nước, mỗi tổ chức quốc tế khá đa dạng cả về số lượng điều khoản cũng như nội dung chi tiết của từng điều khoản, tạo ra tính riêng đặc thù cho hoạt động đấu thầu của từng quốc gia và tổ chức riêng biệt. Có những luật đấu thầu mẫu của WTO và Liên hợp quốc trong đó bỏ trống một số nội dung để từng nước tùy theo điều kiện của mình mà bổ sung cho phù hợp. Trong điều kiện đó, các bài học kinh nghiệm từ các tổ chức quốc tế và quốc gia hết sức phong phú. 1. Quy định đấu thầu của Ngân hàng Thế giới (WB) Ngân hàng Thế giới là một tổ chức tài trợ quốc tế, hiện có 185 nước thành viên trong đó có Việt Nam. Việc sử dụng các khoản vay mà WB dành cho các nước thành viên thực hiện dự án phải tuân theo một quy định mua sắm chung. Những đặc điểm chính trong quy định đấu thầu của tổ chức này là bài học tham khảo trong việc hình thành và hoàn thiện quy trình đấu thầu của mỗi nước thành viên, đó là: 1.1. Tạo sự cạnh tranh tối đa. Đấu thầu cạnh tranh quốc tế (ICB) là hình thức được áp dụng chủ yếu, mọi nhà thầu thuộc một quốc gia thành viên đều có đủ tư cách hợp lệ để tham gia các cuộc thầu sử dụng tiền tài trợ từ WB. Các hình thức khác như đấu thầu hạn chế, chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp... chỉ được sử dụng khi có lý do chính đáng thỏa mãn các điều kiện nêu trong Hướng dẫn mua sắm của WB. Trong hồ sơ mời thầu không được đưa các yêu cầu mang tính định hướng như yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay thương hiệu cụ thể. Hồ sơ mời thầu phải đảm bảo cho phép và khuyến khích sự cạnh tranh quốc tế bằng cách quy định cụ thể, chi tiết và rõ ràng tiến trình thầu cũng như các yêu cầu về kỹ thuật và kiểm tra, về giá cả, phương thức dự thầu, các điều kiện hoàn thành, thanh toán, phương pháp đánh giá và cả những phương án thay thế. Những quy định chi tiết này nhằm vừa tạo ra sân chơi đầy đủ cho mọi nhà thầu, tạo cơ sở cạnh tranh công khai với nhà thầu cũng như cơ sở công bằng và thuận lợi trong việc đánh giá, xếp hạng các hồ sơ dự thầu. 1.2. Đảm bảo công khai. Việc đăng tải thông báo mời thầu đối với các gói thầu lớn và quan trọng được WB quy định phải thực hiện thông qua một tờ báo Kinh doanh phát triển của Liên hợp quốc, việc đăng tải này là miễn phí và bằng tiếng Anh. Trong thông báo phải nói rõ thời gian và địa điểm nhận hồ sơ, các thông tin về Bên vay, về số tiền và mục đích sử dụng khoản vay, quy mô mua sắm theo thể thức ICB, tên và địa chỉ của tổ chức mua sắm. Hồ sơ mời sơ tuyển hoặc mời thầu không được phát hành sớm hơn 8 tuần sau ngày đăng thông báo, khuyến khích gửi thông báo mời thầu tới các sứ quán, đại diện thương mại của các nước có nhà thầu. Một nguyên tắc cơ bản là phải mở thầu công khai, các nhà thầu tham gia đấu thầu phải được mời tới dự lễ mở thầu. Sự chi tiết đầy đủ của hồ sơ mời thầu bao gồm cả tiêu chuẩn đánh giá đã thể hiện tính công khai trong quy định mua sắm của WB. 1.3. Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu. Các quy định về phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu của WB vừa đảm bảo sự chặt chẽ, tiên tiến nhưng linh hoạt. 1.3.1. Đối với lựa chọn dịch vụ tư vấn, quy định mua sắm của WB cho phép sử dụng 6 phương pháp đánh giá, bao gồm: Phương pháp 1: Đánh giá trên cơ sở xem xét cả 2 yếu tố chất lượng và chi phí tư vấn, trong đó, tỷ trọng điểm về chất lượng không được quy định thấp hơn 70%. Phương pháp này khắc phục được tình trạng các nhà tư vấn có uy tín lợi dụng thế mạnh của mình để ép bên mua trả chi phí cao nhất cho các dịch vụ tư vấn của mình và là phương pháp cơ bản nhất trong việc tuyển chọn tư vấn theo quy định của WB. Phương pháp 2: Đánh giá trên cơ sở về chất lượng, áp dụng cho các công việc tư vấn phức tạp hoặc chuyên môn hóa cao, theo đó, nhà tư vấn chỉ yêu cầu nộp đề xuất kỹ thuật hoặc nộp cả đề xuất tài chính, nhưng khi xem xét thì yêu cầu nhà tư vấn nộp tiếp đề xuất tài chính hoặc chỉ mở đề xuất tài chính của nhà tư vấn có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là tốt nhất. Phương pháp 3: Đánh giá dựa trên một nguồn Ngân sách cố định, sử dụng cho các công việc tư vấn đơn giản, nhà tư vấn yêu cầu nộp ra đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính, hồ sơ nào có giá thấp hơn mức Ngân sách và có vị trí cao nhất trên cơ sở đánh giá kỹ thuật sẽ được mời để đàm phán. Phương pháp 4: Đánh giá trên cơ sở chi phí thấp nhất. Đối với các công việc tư vấn đã có chuẩn mực là các công việc thông thường thì hồ sơ dự thầu nào được đánh giá vượt qua mức yêu cầu tối thiểu về mặt kỹ thuật và có chi phí thấp nhất sẽ được mời vào đàm phán hợp đồng. Phương pháp 5: Đánh giá trên cơ sở năng lực, áp dụng cho các công việc tư vấn có giá trị rất nhỏ, không vượt quá 100.000 USD, theo đó hồ sơ dự thầu được đánh giá là có năng lực và phẩm chất thích hợp sẽ được mời để trình một đề xuất kỹ thuật và tài chính để có cơ sở cho đàm phán hợp đồng. Phương pháp 6: Phương pháp chọn theo một nguồn duy nhất là phương pháp rất ít được áp dụng vì nó không có được hiệu quả thông qua cạnh tranh về chất lượng và chi phí, đôi khi lại thiếu tính minh bạch. Nó chỉ được coi là một ngoại lệ, dùng trong một vài trường hợp đặc biệt như cần tiếp tục thực hiện một công việc dở dang, yêu cầu tiến độ quá gấp gáp, khối lượng công việc nhỏ hoặc do chỉ có một tổ chức tư vấn duy nhất đủ kinh nghiệm thực hiện. 1.3.2. Đối với mua sắm hàng hóa và xây lắp, WB quy định phương pháp đánh giá như sau. Bước đánh giá về kỹ thuật được thực hiện đầu tiên ngay sau khi kiểm tra tính hợp lệ và đầy đủ của hồ sơ dự thầu và sử dụng tiêu chí "Đạt" và "Không đạt". Cách đánh giá này ít bị ảnh hưởng bởi sự chủ quan của chuyên gia đánh giá nhưng lại đòi hỏi sự hiểu biết thấu đáo của đơn vị mua sắm trong việc xây dựng hồ sơ mời thầu sao cho đầy đủ chi tiết. Bước đánh giá về tài chính, thương mại để xếp hạng nhà thầu. Những hồ sơ vượt qua bước đánh giá kỹ thuật sẽ được xem xét trong bước này. Các hồ sơ sẽ được tiến hành sửa lỗi trong hồ sơ dự thầu, sửa các sai lệch so với yêu cầu của hồ sơ mời thầu, đưa về cùng một đồng tiền và cuối cùng là đưa tất cả các sai khác của hồ sơ dự thầu về các mặt kỹ thuật, tài chính, thương mại và các yếu tố khác về cùng một mặt bằng tức là xác định giá đánh giá. Việc đánh giá chi phí thấp nhất thực sự là xem xét không chỉ giá dự thầu ban đầu, mà có tính tới các yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp trong suốt thời gian sử dụng hàng hóa hoặc công trình. 1.4. Các nguyên tắc cơ bản trong quy định mua sắm của WB. Không phân biệt đối xử, tạo sân chơi lành mạnh và cạnh tranh công bằng cho mọi nhà thầu. Không đàm phán về giá, giá dự thầu phải được coi là cố định nhằm giảm thiểu các hoạt động tiêu cực, tham nhũng trong quá trình thầu. Đảm bảo sự cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong quá trình thầu. Không được vi phạm quy định về đấu thầu. Nguyên tắc này tuy có cứng nhắc trong một số trường hợp, song tạo được một cách làm trở thành thói quen quy củ. Điều chỉnh theo thời gian, bổ sung hoặc thay đổi một vài điểm nhỏ cho phù hợp với tình hình mới. Chống tham nhũng thông qua những quy định khắc khe, cụ thể trong quy trình. 2. Quy định đấu thầu của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) Về cơ bản các quy định đấu thầu của ADB quy định mua sắm cho các khoản tiền mà ngân hàng này tài trợ cho các nước là thành viên cũng tương tự như của WB. Tuy nhiên, có một vài khác biệt nhỏ như đối với tuyển chọn dịch vụ tư vấn, quy định của ADB cũng yêu cầu nhà tư vấn nộp một túi hồ sơ về kỹ thuật hoặc cả hai túi hồ sơ cả về kỹ thuật và tài chính, song cách đánh giá vẫn là xem xét đề xuất kỹ thuật trước. Chỉ hồ sơ nào đạt yêu cầu về kỹ thuật và đạt điểm đánh giá cao nhất, thì được mở đề xuất về tài chính để đàm phán. Nếu đàm phán không thành công, thì tiếp tục mở đề xuất tài chính của nhà thầu có điểm đề xuất kỹ thuật đứng thứ 2. Cách đánh giá này đảm bảo lựa chọn được nhà tư vấn có đủ trình độ chuyên môn, có đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện công việc. Tuy nhiên, phương pháp này sẽ bị sức ép của nhà thầu có đề xuất kỹ thuật tốt, họ rất ít khoan nhượng trong đàm phán về giá. Đối với đấu thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp thì lại có sự thống nhất cao giữa phương pháp đánh giá của WB và ADB. Theo đó, sau khi xem xét tính hợp lệ của nhà thầu thì đến bước xem xét về mặt kỹ thuật theo tiêu chí đã được công bố trong hồ sơ mời thầu. Những hồ sơ dự thầu vượt qua bước đánh giá về kỹ thuật sẽ được so sánh, xếp hạng trên cơ sở giá đánh giá thấp nhất. Những nguyên tắc chính trong Quy chế Đấu thầu của ADB là: - Cạnh tranh: việc đấu thầu cạnh tranh quốc tế (ICB) là hình thức cơ bản nhất. Việc thông báo phải thực hiện trên tờ "Cơ hội kinh doanh của ADB" (ADB's business opportunities). Ngôn ngữ tiếng Anh được sử dụng chủ yếu kể cả trong quảng cáo, hồ sơ mời thầu và các tài liệu có liên quan khác. Trong trường hợp có nhiều ngôn ngữ được sử dụng thì bản tiếng Anh có ưu thế sử dụng. Hồ sơ mời thầu theo quy định của ADB phải tạo điều kiện để đảm bảo sự cạnh tranh thực sự, phải mô tả rõ ràng và chính xác về công trình được thực hiện hoặc loại hàng hóa cần được cung cấp, cùng với địa điểm và thời gian giao hàng hoặc lắp đặt, phải nêu đầy đủ các yêu cầu về bảo lãnh, bảo hành, bảo trì, và những yêu cầu cụ thể khác. Các mô tả chi tiết về đặc tính hoặc thông số kỹ thuật trong hồ sơ mời thầu được coi là yêu cầu bắt buộc đối với hồ sơ dự thầu nếu như muốn đánh giá là đáp ứng và ngược lại. Các bản vẽ trong hồ sơ mời thầu phải phù hợp với thuyết minh, việc cho phép chào phương án phụ phải được nêu trong hồ sơ mời thầu. Tương tự như vậy, tiêu chuẩn đánh giá cũng phải được nêu rõ. Các yêu cầu về kỹ thuật phải dựa trên yêu cầu về vận hành và không được đưa ra yêu cầu về nhãn hiệu, mã hiệu, catalogue, trừ khi cần thiết phải bảo đảm có những đặc điểm chủ yếu nhất định. Khi đó về sự tham chiếu phải sử dụng từ hoặc tương đương và mô tả rõ thế nào là tương đương, về đặc tính kỹ thuật để nhà thầu chào thay thế với hiệu suất và chất lượng ít nhất là đáp ứng yêu cầu về vận hành và chất lượng quy định trong hồ sơ mời thầu. - Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu: Cũng tương tự như WB, phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu của ADB là tiên tiến, phù hợp với thông lệ đấu thầu trên thế giới, tuy nhiên vẫn có một vài đặc thù riêng, cụ thể như sau: ADB luôn coi trọng tính hợp lệ của nhà thầu (hay hồ sơ dự thầu). Chỉ có những thành viên của ADB mới đủ tư cách là nhà thầu hợp lệ. Trong một gói thầu lựa chọn tư vấn quốc tế cho dự án, một tư vấn tham gia với tư cách trưởng nhóm, nhưng quốc tịch của tư vấn này lại không phải là nước thành viên ADB thì chỉ nhận được điểm "0" qua đánh giá hồ sơ dự thầu. Tuy nhiên, phương pháp đánh giá tư vấn của ADB lại quy định chỉ yêu cầu nhà tư vấn xếp thứ nhất qua đánh giá về kỹ thuật được chào hồ sơ đề xuất tài chính (hoặc nếu túi hồ sơ đã nộp thì được bóc ra). Như vậy, quan điểm của ADB là ưu tiên đánh giá về kỹ thuật trong việc chọn tư vấn. Nếu WB quy định danh sách ngắn trong đấu thầu lựa chọn tư vấn là từ 3 đến 6 nhà tư vấn, thì con số này trong quy định của ADB lại là 5 đến 7. Trong đấu thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp thì phương pháp đánh giá dựa theo giá đánh giá là cơ bản. Theo đó, hồ sơ dự thầu đã qua đánh giá về kỹ thuật sẽ được quy về cùng một mặt bằng chi phí để so sánh và xếp hạng. Nhà thầu đứng vị trí thứ nhất là nhà thầu có giá đánh giá thấp nhất (lowest evaluated price). Trong bước đánh giá về kỹ thuật thì phương pháp sử dụng tiêu chí "đạt, không đạt" cũng được áp dụng. Đây là một phương pháp tiên tiến, loại bớt được sự tác động của yếu tố chủ quan trong quá trình xem xét các hồ sơ dự thầu. - Quy trình thực hiện: Bên cạnh việc ban hành hướng dẫn mua sắm với nội dung cô đọng, chặt chẽ, ADB còn ban hành sổ tay (handbook) để hướng dẫn chi tiết. Theo đó, một quy trình thực hiện chi tiết được định ra nhằm thực hiện quá trình lựa chọn nhà thầu đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả mua sắm. Có thể tóm tắt quy trình này như sau: Bước 1: Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ dự thầu Tại bước này, các hồ sơ dự thầu được tiến hành xem xét về mặt hợp lệ (tư cách hợp lệ và hồ sơ hợp lệ), sự đầy đủ của hồ sơ dự thầu căn cứ vào biên bản mở thầu và các nội dung trong hồ sơ dự thầu. Để tiện việc theo dõi._. và kiểm tra, các công việc cụ thể được lập thành bảng với một số nội dung sau: + Sự đáp ứng về mặt kỹ thuật; + Sự đáp ứng về các điều kiện thương mại và các điều kiện khác; + Bảng tổng hợp về sự đáp ứng của hồ sơ dự thầu so với yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Bước 2: Đánh giá về mặt thương mại và tài chính, bao gồm + Chuyển giá dự thầu sang một đồng tiền; + Điều chỉnh giá dự thầu theo các yếu tố thương mại; + Điều chỉnh giá dự thầu theo các yếu tố kỹ thuật; + Xác định giá đánh giá. Bước 3: Xác định hồ sơ dự thầu có giá đánh giá thấp nhất để trao thầu Các bước tiến hành nêu trên phù hợp với thông lệ đấu thầu trên thế giới. Tuy nhiên, việc lập bảng chi tiết ở từng bước làm cho quá trình đánh giá trở nên rõ ràng, minh bạch, tránh bỏ sót hoặc làm theo chủ quan, đồng thời tạo ra sự thống nhất và làm cho việc thẩm định có nhiều thuận lợi. Có thể tóm tắt trình tự tổ chức đấu thầu của ADB như sau: Sơ đồ 1: Quy trình đấu thầu theo quy định của ADB PHÂN CHIA GÓI THẦU SƠ TUYỂN (NẾU CẦN) PHÁT HÀNH HSMT MỞ THẦU XÉT THẦU TRAO THẦU ĐẤU THẦU HAI TÚI HỒ SƠ (1 GIAI ĐOẠN) Đóng thầu Phê duyệt Phê duyệt Chuẩn bị Đánh giá 1 Đánh giá 2 Chuẩn bị Đánh giá 1 Đánh giá 2 - Ưu đãi nhà thầu trong nước: Quy định mua sắm của ADB đề cập tới sự ưu đãi nhà thầu trong nước theo từng trường hợp cụ thể và việc ưu đãi này được nên rõ trong HSMT. Việc ưu đãi là cho hàng hóa có chi phí trong nước hoặc sản xuất trong nước và cho các công trình xây dựng do nhà thầu trong nước thực hiện. - Tính quốc tế cao: Để đảm bảo cạnh tranh tối đa, quy định mua sắm của ADB thể hiện tính quốc tế cao. Có thể thấy nội dung này như sau: + Việc thông báo mời thầu sử dụng tờ báo tiếng Anh hoặc yêu cầu đăng tải trên tờ báo có lưu lượng phát hành rộng rãi trong nước (ít nhất trên một tờ báo tiếng Anh, nếu có) + Ngôn ngữ: Do ngôn ngữ làm việc của ADB là tiếng Anh (theo Hiến chương thành lập Ngân hàng) nên hồ sơ mời thầu và các tài liệu liên quan khác, kể cả quảng cáo phải sử dụng tiếng Anh. Trong trường hợp sự dụng nhiều ngôn ngữ, thì tiếng Anh có ưu thế quyết định. + Loại tiền: Cho phép quy định trong hồ sơ mời thầu là sử dụng một hoặc nhiều loại tiền để bỏ thầu. Thông thường cho phép chào bằng loại tiền của nước mình hoặc một loại tiền mua bán quốc tế quy định trong hồ sơ mời thầu. Trường hợp nhà thầu cần ngoại tệ chứ không phải nội tệ để sản xuất ra hàng hóa sẽ cung cấp thì trong giá dự thầu sẽ gồm một phần ngoại tệ dành cho sự chi tiêu này. Trong quá trình đánh giá các hồ sơ dự thầu, giá dự thầu phải được chuyển đổi ra một loại tiền quy định trong hồ sơ mời thầu. Tỷ giá hối đoái được áp dụng là tỷ giá hối đoái bán ra chính thức áp dụng cho những giao dịch tương tự và có hiệu lực vào ngày đã quy định trong hồ sơ mời thầu. Trường hợp nếu không có tỷ giá hối đoái ngoại tệ chính thức thì tỷ giá hối đoái áp dụng sẽ do Bên vay quyết định sau khi tham khảo ý kiến của ADB. 3. Quy định đấu thầu của Trung Quốc. Trung Quốc là một nền kinh tế đang trên đà phát triển và hình thức đấu thầu được áp dụng rộng rãi ở quốc gia này. Nền kinh tế Trung Quốc có nhiều đặc điểm tương tự với Việt Nam, vì vậy những bài học kinh nghiệm từ quy trình đấu thầu của Trung Quốc có tính lý luận cao trong việc hoàn thiện quy trình đấu thầu của Việt Nam. 3.1. Quá trình hình thành các văn bản pháp luật về đấu thầu. Trước đây việc trao hợp đồng ở Trung Quốc thông qua đàm phán trực tiếp, tuy nhiều từ khi có các nguồn tài trợ quốc tế từ WB, ADB thì việc áp dụng hình thức này để giải ngân đã trở nên bắt buộc. Thực tế này đã tạo tiền đề cho việc hình thành các văn bản pháp quy liên quan. Nhờ sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, năm 1998 Bộ Tài chính Trung Quốc đã bắt đầu soạn thảo Luật Đấu thầu áp dụng cho mua sắm thường xuyên sử dụng Ngân sách Nhà nước. Tiếp đó hàng loạt nghị định hướng dẫn thực hiện đã được ban hành. Tuy nhiên, Luật đấu thầu Trung Quốc mới chỉ đưa ra các quy định về đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế, chỉ áp dụng cho các công trình xây dựng. Các hình thức lựa chọn nhà thầu khác như chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp chưa được đề cập trong Luật. Sắp tới, Trung Quốc sẽ ban hành thêm Luật mua sắm Chính phủ. 3.2. Sự phân cấp quản lý đấu thầu ở Trung Quốc. Do đặc thù là một quốc gia có diện tích rộng lớn và đông dân cư, nên việc quản lý ở Trung Quốc được phân cấp cho nhiều bộ ngành như sau. Ủy ban Kế hoạch và Phát triển Nhà nước là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ quản lý công tác đấu thầu trong lĩnh vực các công trình xây dựng, bao gồm việc chủ trì soạn thảo Luật đấu thầu, Luật mua sắm Chính phủ và chủ trì thẩm định kết quả các gói thầu lớn thuộc các dự án xây dựng do Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư. Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản hướng dẫn mua sắm thường xuyên đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp trong phạm vi toàn quốc. Bộ Hợp tác kinh tế và ngoại thương quản lý đấu thầu mua sắm thiết bị điện và điện tử, quản lý xuất nhập khẩu, thẩm định các kết quả đấu thầu các gói thầu mua sắm theo phân cấp. Bộ Xây dựng chủ trì các cuộc đấu thầu các công trình giao thông. Ủy ban Thương mại và Kinh tế Nhà nước quản lý đấu thầu dự án thuộc doanh nghiệp nhằm tạo công bằng, giải quyết xử lý vi phạm, tăng cường thể chế. Các địa phương căn cứ vào Luật đấu thầu và văn bản hướng dẫn của các Bộ chuyên ngành để hướng dẫn thực hiện công tác đấu thầu tại địa phương 3.3. Tính hợp lệ của nhà thầu doanh nghiệp Nhà nước. Ở Trung Quốc khi thực hiện cải cách doanh nghiệp Nhà nước thì các doanh nghiệp được hoạt động độc lập, tách khỏi sự quản lý của các Bộ ngành, phù hợp với cơ chế thị trường nên học có đủ tư cách hợp lệ khi tham gia đấu thầu đối với các gói thầu sử dụng nguồn tài trợ quốc tế. Đây là một kinh nghiệm quý báu trong việc tạo ra tính hợp lệ của nhà thầu để đảm bảo theo đúng yêu cầu của nhà tài trợ. 3.4. Công khai trong đấu thầu. Ở Trung Quốc đã hình thành mạng lưới website trên mạng với mục đích đăng tải các thông tin về đấu thầu cũng như thông báo mời thầu trong phạm vi toàn quốc. Các nhà thầu không chỉ được tiếp cận với nguồn thông tin đầy đủ và cập nhật mà còn có thể trực tiếp nêu thắc mắc và kiến nghị qua hệ thống thông tin trực tuyến này. Công ty Công nghệ thông tin đảm trách công việc này, chịu trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc đăng tải và truy cập thông tin đấu thầu. Khách hàng có thể lựa chọn phương thức sử dụng mật mã riêng của mình để truy cập hoặc sử dụng một thiết bị kết nối dạng chìa khóa. Bên lấy thông tin được miễn phí, bên đăng tải thông tin được miễn phí trong vòng 7 ngày hoặc chịu một mức phí rất thấp. Nội dung đăng tải mời thầu bao gồm tên dự án, phạm vi công việc của gói thầu, tên của Bên mua, ngày giờ bán hồ sơ, ngày giờ đóng và mở thầu. Nội dung đăng tải kết quả đấu thầu: Tên dự án, phạm vi công việc đt, ngày mở thầu, ngày dự kiến công bố kết quả đấu thầu, tên nhà thầu dự kiến trúng thầu, giá đề nghị trúng thầu, tên nhà sản xuất, nguồn gốc thiết bi, thời gian hết hạn đưa khiếu nại liên quan, trạng thái hiện tại về khiếu nại, danh sách nhà thầu không trúng thầu cùng với lý do tóm tắt.... 4. Quy định đấu thầu của Hàn Quốc. Quy định đấu thầu của Hàn Quốc được ban hành dưới dạng Luật hợp đồng mà trong đó Nhà nước là một bên tham gia (dưới đây gọi tắt là Luật HD). Trên cơ sở Luật HD, Tổng thống, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện, Bộ Kinh tế và Bộ Tài chính cá trách nhiệm hướng dẫn thực hiện chi tiết. Về nội dung, Luật HD có nội dung tương tự các quy định đấu thầu trên thế giới, đều đưa ra các mục tiêu là đấu thầu cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế với một dung lượng lớn và quy định rất chi tiết. Tuy nhiên, điều khác biệt trong quy trình đấu thầu của Hàn Quốc là hệ thống mua sắm của Hàn Quốc là hệ thống tập trung cao, thông qua một cơ quan chuyên môn tổ chức các cuộc đấu thầu là SAROK với kim ngạch mua sắm lên đến hàng chục tỷ USD/năm. Nhờ sự tập trung này, SAROK là một cơ quan chuyên nghiệp trong lĩnh vực mua sắm để thực hiện các dự án lớn của Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc dành một khoản ngân sách nhất định hàng năm cho SAROK nhằm nâng cao năng lực tổ chức đấu thầu và đặc biệt hình thành một trung tâm kiểm tra chất lượng các hợp đồng sau khi đấu thầu. Do vậy, chất lượng hàng sau đấu thầu đã được đảm bảo, tránh tình trạng nhà thầu không thực hiện đúng cam kết trong hồ sơ dự thầu. Sự chuyên môn hóa đã tạo ra năng lực mua sắm là điều vô cùng quan trọng và không thể thiếu để đảm bảo tính hiệu quả của các cuộc đấu thầu. 5. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ quy trình đấu thầu của các tổ chức và quốc gia trên thế giới. Qua nghiên cứu một số quy định về đấu thầu nêu trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện quy trình đấu thầu ở Việt Nam như sau: Thứ nhất: quán triệt sâu sắc các quy luật kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường, xây dựng bằng được hệ thống các quy định về đấu thầu mang tính quy phạm pháp luật ở mức độ cao. Nội dung của cá quy định phải dảm bảo nguyên tắc khách quan, công bằng, minh bạch. Đồng thời, các quy định phải rõ ràng, cụ thể để đảm bảo khả năng thực hiện, tránh sự can thiệp của các cơ quan quản lý Nhà nước vào việc lựa chọn và trao hợp đồng, cũng như xử lý các sai phạm, khiếu nại. Thứ hai: chú trọng việc đào tạo và chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ và chuyên gia cho công tác quản lý đấu thầu đáp ứng các yêu cầu thực tế của công tác này. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU VÀ QUY TRÌNH ĐẤU THẦU Ở VIỆT NAM. I. Thực trạng hoạt động đấu thầu ở Việt Nam. 1. Thời kỳ trước năm 1990. Ở Việt Nam, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi hoạt động đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực mua sắm và xây dựng đều theo quy định của nhà tài trợ. Trước năm 1975 quan hệ kinh tế của Việt Nam chủ yếu được thiếr lập với các nước XHCN, các công trình, xí nghiệp, bệnh viện,... ở Việt Nam thời kỳ này được xây dựng bằng vốn viện trợ của các nước XHCN và do nước tài trợ thiết kế, cung cấp máy móc thiết bị và xây dựng. Sau giải phóng 1975 nước Việt Nam trở thành thành viên của ADB và được sử dụng các khoản vay từ tổ chức này để phát triển kinh tế. Việt Nam đã sử dụng nguồn vốn còn lại mà ADB cho chính quyền Sài Gòn vay trước đây cho công trình cấp thoát nước Thành phố Hồ Chí Minh và khoản vay mới 60 triệu USD của WB để cải tạo xây dựng công trình thủy lợi Dầu Tiếng. Cuộc đấu thầu quốc tế đầu tiên ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được thực hiện vào năm 1979 tại Câu lạc bộ Quốc tế Hà Nội do Tổng công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ chủ trì. Trong thời kỳ này buôn bán của Việt Nam với các nước XHCN vẫn chiếm tới 70% Ngân sách quốc gia. Tính đến năm 1990, chúng ta đã nhận được 12,6 tỷ Rúp chuyển nhượng từ nguồn viện trợ của Liên Xô, thời điểm cao nhất là 1,8 tỷ cho gần 100 dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau. Ngày 9/5/1988, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 80/HDBT về các chính sách đổi mới cơ chế quản lý xây dựng cơ bản, theo đó đấu thầu được thí điểm trong xây dựng. Dù vậy, trong thời kỳ này hoạt động đấu thầu ở Việt Nam chưa phát triển do quan hệ tài chính với các tổ chức quốc tế bị gián đoạn. Trong thời kỳ 1978 – 1979 do sự kiện Campuchia, nhiều nước TBCN và tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB... đã ngừng viện trợ cho Việt Nam, cho tới tận năm 1993 chúng ta mới khai thông được. Như vậy trong thời kỳ này hoạt động đấu thầu của Việt Nam chưa phát triển, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường được đấu thầu tại các nước chủ đầu tư, các nhà thầu Việt Nam nếu tham gia thì chỉ với tư cách là nhà thầu phụ. Các dự án thực hiện bằng vốn tài trợ cũng diễn ra tương tự, thời gian này việc đấu thầu đã được thực hiện theo sự hướng dẫn của nhà tài trợ. 2. Thời kỳ từ năm 1990 đến 2005. Từ tháng 10 năm 1993, với sự giúp đỡ của các nước thuộc Câu lạc bộ Paris, Việt Nam đã khai thông các mối quan hệ kinh tế với IMF, WB, ADB... Ngày 3/2/1994, tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại chống Việt Nam và cho phép các giao dịch tài chính, thương mại và các hoạt động khác với Việt Nam. Việc bình thường hóa các quan hệ với Việt Nam không chỉ mở đường cho các công ty Mỹ vào Việt Nam mà còn tạo điều kiện thuận lợi khiến cho nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng lớn. Hoạt động đấu thầu mua sắm cũng trở nên nhộn nhịp hơn. Quy mô, chất lượng của hoạt động đấu thầu cũng tăng và đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội Việt Nam. Trong tổng số vốn đầu tư thì khu vực kết cấu hạ tầng chiếm 80%, riêng đầu tư vào giao thông vận tải là 38%. Các công trình xây dựng thông qua đấu thầu thắng thầu của các công ty Chinese Oversea Eng Co (Trung Quốc), KuK Dong Eng và Const, Keang Nam Shing Sung (Hàn Quốc), Bes Engineering Corp (Đài Loan),... cùng với các nhà thầu Việt Nam, Dự án quốc lộ 5 với vốn vay của OECF Nhật Bản và Chính phủ Đài Loan do công ty Bát Sơn (Trung Quốc)... trúng thầu và cùng các dự án khác. Từ giữa năm 1994 – 1995 ở Việt Nam có 15 hợp đồng dịch vụ tư vấn, 6 hợp đồng xây dựng, 13 hợp đồng cung cấp thiết bị. Năm 1996 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thẩm định 46 gói thầu, trong đó có 21 gói thầu cung cấp dịch vụ, 14 gói thầu xây dựng, 11 gói thầu cung cấp thiết bị. Từ năm 1997, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ra Thông tư 07/BKH/VPXT bổ sung các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào phạm vi quản lý của Quy chế đấu thầu. Từ đây, hoạt động đấu thầu được mở rộng và đi vào đời sống xã hội của người Việt Nam. Chỉ một năm sau có 4.577 gói thầu được đấu thầu theo Quy chế đấu thầu và tiết kiệm 11,2% trên giá trị dự toán gói thầu cho Ngân sách Nhà nước. Con số các gói thầu qua tổ chức đấu thầu theo Quy chế đấu thầu ngày càng tăng, đến năm 2002 gấp 7,02 lần năm 1998, năm 2005 sau khi ban hành Luật Đấu thầu tăng gấp 6,53. Đồ thị 1: Tốc độ tăng tổng số gói thầu qua các năm 1999 – 2005 Đơn vị % Nguồn: Vụ Quản lý đấu thầu – Bộ Kế hoạch và đầu tư. Đến nay, ngành xây dựng nước ta có khoảng gần 5000 nhà thầu xây lắp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau với gần 30 Tổng công ty 90, khoảng 1.500 doanh nghiệp Nhà nước, số còn lại là các nhà thầu thuộc các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, hiện cả nước có trên 30 nhà thầu liên doanh, gần 100 nhà thầu xây lắp nước ngoài thuộc 20 quốc gia và vùng lãnh thổ. Với một lực lượng các nhà thầu hùng hậu như vậy, công tác đấu thầu xây dựng đã diễn ra trong sự cạnh tranh hết sức gay gắt, quyết liệt. Bên cạnh đó, thông qua các cuộc đấu thầu, các nhà thầu trong nước có cơ hội để thử thách, tập dượt trong môi trường cạnh tranh quyết liệt với nước ngoài, nhờ đó mà trưởng thành nhanh chóng, bước đầu bứt khỏi vị trí chuyên làm thầu phụ không những chỉ ở thị trường Việt Nam mà còn ở nước ngoài như Lào, Campuchia. Hiện nay, một số nhà thầu trong nước (đặc biệt là các nhà thầu xây dựng) đã có khả năng cạnh tranh ngang bằng với các nhà thầu nước ngoài và trúng thầu hầu hết là các nhà thầu xây dựng thuộc các dự án do WB, ADB, JBIC tài trợ. Đây cũng chính là điều kiện để các nhà thầu nước ta tạo được vị thế bình đẳng trong liên doanh, liên kết với nước ngoài, phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Hiện nay, đấu thầu không còn là hiện tượng xa lạ mà ngày càng được coi như một phương thức mua sắm có hiệu quả, được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực xây dựng các công trình. II. Những kết quả đạt được và tồn tại trong công tác đấu thầu ở Việt Nam. 1. Kết quả. 1.1. Lựa chọn được nhà thầu phù hợp. Với các quy định của Quy chế đấu thầu, việc chi tiêu tiền của Nhà nước được thực hiện thông qua các hình thức cạnh tranh từ mức cao nhất là đấu thầu rộng rãi rồi tiếp đến các hình thức khác như đấu thầu hạn chế, chà hàng cạnh tranh... Thông qua các cuộc đấu thầu, bên mua (là Nhà nước) lựa chọn được các nhà thầu đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện công việc được giao và bảo đảm trúng thầu không được vượt giá dự kiến (giá gói thầu). Trong đấu thầu công trình xây lắp thì giá trúng thầu không được vượt quá giá dự toán được duyệt, đấu thầu tạo ra sự cạnh tranh để làm động lực cho sự phát triển. Nếu trước đây một công ty có việc nhờ mối quan hệ thì nay dưới quy định của Luật Đấu thầu, công ty này phải chứng minh là có đủ năng lực và kinh nghiệm, phải có giải pháp được đánh giá là khả thi và giá cả phải cạnh tranh với các nhà thầu khác. Thực tế ở một số công trình lớn ở nước ta như hầm đèo Hải Vân, cầu Mỹ Thuận,... đã lựa chọn các nhà thầu trúng thầu có đủ kinh nghiệm và năng lực thực hiện công trình, có giải pháp được đánh giá là khả thi để thực hiện công việc với giá cạnh tranh, góp phần đảm bảo chất lượng và hiệu quả công trình. Đây là một trong những thành tựu lớn nhất mà công tác đấu thầu của nước ta đã đạt được. 1.2. Tiết kiệm ngoại tệ. Trong thời gian qua, đấu thầu quốc tế ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích. Báo cáo tổng hợp về chi tiêu do Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng thế giới phối hợp gần đây, với chủ đề "Việt Nam quản lý tài chính công để tăng trưởng và giảm đói nghèo" cho thấy, từ năm 1999 đến 2003, tổng chi ngân sách của Việt Nam tăng ở mức đáng kể, khoảng 16%, trong đó tổng giá trị chi để mua sắm được thực hiện qua đấu thầu tăng gấp đôi, từ 2 tỷ USD năm 1999 lên 4,9 tỷ USD năm 2003. Cũng theo báo cáo này, tiết kiệm chênh lệch giữa giá gói thầu so với giá trúng thầu ước tính đạt từ 350 triệu USD đến 400 triệu USD – một tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu công được thực hiện qua đấu thầu. Như vậy, chỉ cần một cải thiện nhỏ về hiệu quả trong hoạt động đấu thầu cũng có thể góp phần tác động đến mức tăng trưởng GDP của Việt Nam. Xét về khía cạnh trực tiếp, số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, chỉ tính riêng 496 gói thầu lớn qua thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ năm 1999 đến 2004 đã tiết kiệm được cho Ngân sách Nhà nước một khoản tiền trị giá 853,4 triệu USD, đạt tỷ lệ tiết kiệm 14,5%. Số tiền này đủ để có thể xây dựng 10 công trình tương đương cầu Mỹ Thuận. Tổng hợp các báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về công tác đấu thầu trong phạm vi cả nước giai đoạn 2001 – 2004 cũng cho thấy, tiết kiệm qua đấu thầu là 1.751,59 triệu USD, đạt tỷ lệ tiết kiệm 9,59%. Như vậy, trung bình mỗi năm (giai đoạn 2001 – 2004), chúng ta tiết kiệm được 427,89 triệu USD thông qua đấu thầu. Điều đó chứng tỏ đây là một phương thức đem lại hiệu quả kinh tế lớn nhất cần phải khuyến khích áp dụng trong hoạt động đầu tư trong thời gian tới ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 1.3. Tăng cường phân cấp và kiểm tra, thanh tra trong đấu thầu. Việc phân cấp trong Quy chế đấu thầu được căn cứ theo các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, nghĩa là theo nguyên tắc cấp nào phê duyệt dự án thì cấp đó quyết định các nội dung cơ bản về đấu thầu. Theo đó, người có thẩm quyền chỉ quyết định 3 nội dung cơ bản trong đấu thầu là kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu, còn các nội dung khác (tổ chức đấu thầu, xét thầu, phê duyệt nội dung hợp đồng...) được phân cấp cho các chủ dự án. Thủ tướng Chính phủ chỉ phê duyệt các kế hoạch đấu thầu và kết quả lựa chọn các nhà thầu các gói quan trọng. (Tư vấn từ 20 tỷ đồng trở lên, Hàng hóa + Xây lắp từ 100 tỷ đồng trở lên), các nội dung còn lại được phân cấp cho các bộ, ngành hoặc địa phương quyết định. Thực tế, các trường hợp do Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định các nội dung cơ bản về đấu thầu trong thời gian qua ngày càng giảm do quy định về phân cấp nói trên (nhất là khi ban hành Nghị định 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003), cụ thể như sau Bảng1: Kết quả đấu thầu theo phân cấp thẩm định, phê duyệt (2000 – 2003) Đơn vị tính: % Năm Các gói thầu do TW thẩm định và phê duyệt Các gói thầu do các địa phương thẩm định và phê duyệt Năm 2000 % số gói thầu/ tổng số các gói thầu 0,44 99,56 % giá gói thầu/ tổng giá các gói thầu 26,06 73,94 Năm 2001 % số gói thầu/ tổng số các gói thầu 0,37 99,63 % giá gói thầu/ tổng giá các gói thầu 23,66 76,34 Năm 2002 % số gói thầu/ tổng số các gói thầu 0,28 99,72 % giá gói thầu/ tổng giá các gói thầu 21,75 78,25 Năm 2003 % số gói thầu/ tổng số các gói thầu 0,26 99,74 % giá gói thầu/ tổng giá các gói thầu 16,87 83,13 Nguồn: Vụ quản lý đấu thầu – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 1.4. Tăng cường năng lực nhà thầu. Công tác kiểm tra, thanh tra cũng là một biện pháp nhằm tăng cường quản lý về đấu thầu theo hướng hậu kiểm nhằm giúp cho việc phân cấp thực sự có hiệu quả, làm cho các quy định của Quy chế đấu thầu và Luật Đấu thầu hiện hành thực sự đi vào cuộc sống. Luật Đấu thầu đã xác định rõ các nội dung và đối tượng của công tác kiểm tra, thanh tra trong đấu thầu và là một nhiệm vụ của công tác quản lý Nhà nước về đấu thầu. Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng 64 Sở Kế hoạch & Đầu tư các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập cơ quan thanh tra (trong đó có chức năng thanh tra đấu thầu) và nhiều nơi đã và đang thực hiện tốt nhiệm vụ này. Thông qua đấu thầu, năng lực của các nhà thầu trong nước không ngừng được tăng cường, đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu có sự thành vượt bậc. Công tác đấu thầu với sự khắt khe của nó đã tạo điều kiện cho các nhà thầu Việt Nam trưởng thành nhanh chóng. Trước năm 1998 hiếm có trường hợp nhà thầu Việt Nam độc lập cạnh tranh với các nhà thầu nước ngoài với nhiều kinh nghiệm và năng lực. Khi đó các nhà thầu Việt Nam thường tham gia với hình thức liên danh hoặc làm thầu phụ cho nhà thầu nước ngoài. Nhưng từ năm 1998 trở lại đây thì tình hình lại theo chiều hướng tích cực đối cới các nhà thầu Việt Nam. Đa phần các gói thầu trong ngành xây dựng, giao thông, các nhà thầu Việt Nam đã giành nhiều hợp đồng trên cơ sở cạnh trành với nhiều nhà thầu quốc tế có tầm cỡ. Đến nay, nhiều nhà thầu trong nước đã vươn lên tham gia với tư cách là nhà thầu chính, nhà thầu tổng thầu gói thầu EPC (Engineering – Procurement – Construction: gói thầu tư vấn thiết kế - mua sắm thiết bị - xây lắp), hoặc thậm chí đã tham gia đấu thầu và trúng thầu ở nước ngoài. Đó là các Tổng công ty xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ Giao thông vận tải, các Tổng công ty thuộc Bộ Xây dựng đang là những đối thủ cạnh tranh nặng ký như: Ciencol, Cienco4, Cienco8, Tổng công ty xây dựng Thăng Long, Vinaconex, Licogi, Lilama... 2. Tồn tại. 2.1. Công tác chuẩn bị chưa đáp ứng yêu cầu. Việc lập thiết kế - dự toán trong một số trường hợp thiếu chuẩn xác (dự toán quá thấp hoặc quá cao so với thực tế) nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đấu thầu. Tình trạng điều chỉnh, thay đổi, bổ sung thiết kế do thiết kế ban đầu không chuẩn xác cung diễn ra khá phổ biến, từ đó dẫn đến làm tăng giá trị hợp đồng và kéo dài thời gian thực hiện (thậm chí gây khó khăn cho cả quá trình thanh quyết toán công trình). Tình trạng trong hồ sơ mời thầu đưa ra các yêu cầu cụ thể về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa, vật tư, thiết bị hoặc ký mã hiệu của thiết bị vẫn chưa được khắc phục làm giảm tính công bằng, minh bạch trong đấu thầu. Nội dung các tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu thiếu sự thống nhất hoặc đưa ra tiêu chuẩn đánh giá quá cao, vượt quá mức cần thiết đã gây khó khăn cho việc đánh giá hồ sơ dự thầu hoặc lựa chọn được một nhà thầu đáp ứng như yêu cầu. Để hạn chế tồn tại này, việc nghiên cứu và ban hành các tài liệu mẫu về đấu thầu như: Mẫu hồ sơ mời thầu, Mẫu báo cáo xét thầu... là công việc cần thiết nhằm đảm bảo sự thống nhất và tạo thuận lợi trong quá trình thực hiện. Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn chỉnh và ban hành Mẫu hồ sơ mời thầu đối với mua sắm hàng hóa... Công tác mở thầu tại một số dự án chỉ mang tính hình thức. Một số dự án (Bộ Thủy sản) không đảm bảo đủ số lượng nhà thầu tham dự, cá biệt gói thầu phần thân nhà làm việc và giảng đường 5 tầng. Trường trung học Kỹ thuật và nghiệp vụ thủy sản II có 5 nhà thầu gửi hồ sơ, nhưng khi mở thầu thì chỉ có một nhà thầu tham dự và cũng là đơn vị trúng thầu. Đặc biệt, hạng mục san nền, xây tường chắn đất của gói thầu số 4 công trình Trung tâm Quốc gia giống hải sản nước ngọt miền Bắc thi công xong mới tổ chức đấu thầu, gây lãng phí kinh phí tổ chức đấu thầu và không sử dụng được kết quả đấu thầu để thanh, quyết toán. 2.2. Tình trạng đấu thầu hình thức, khép kín chưa được khắc phục. Việc lạm dụng hình thức đấu thầu hạn chế dẫn đến đấu thầu hình thức còn xảy ra ở một số nơi. Hiện tượng chia nhỏ các gói thầu để tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu, từ đó làm giảm hiệu quả của công tác đấu thầu và tạo điều kiện cho nhà thầu liên kết, móc ngoặc dưới dạng "quân xanh, quân đỏ" vẫn còn xảy ra. Mặc dù tình hình thực hiện công tác đấu thầu những năm gần đây cho thấy đấu thầu rộng rãi đã trở thành xu thế, song đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu vẫn được áp dụng tràn lan ở một số nơi (tỷ trọng các hình thức này xét về số lượng gói thầu lên tới 70%, mặc dù các gói thầu này thường có giá trị rất nhỏ). Tình trạng lạm dụng hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu trong các năm vừa qua đã phần nào làm giảm tính cạnh tranh và hiệu quả của công tác đấu thầu. Hiện tượng các nhà thầu cấu kết để nhường phần thắng cho một nhà thầu, rồi nhận lại phần việc được chia từ người thắng cuộc theo hợp đồng không phải là quá hiếm. Ngay cả các nhà thầu tư nhân dù đủ năng lực, song thiếu thời gian hoạt động để có bảng thành tích, kinh nghiệm nên đành núp bóng dưới những tên tuổi "có tiếng tăm" cũng không ít. Sau các bản hợp đồng được ký kết, nhà thầu to thắng cuộc nhận phần hoa hồng và công việc thực hiện hoàn toàn thuộc về nhà thầu tư nhân...Đây là lý do mà trong vài cuộc thanh tra về đấu thầu ở một số địa phương, người ta thấy nhà trúng thầu là một hai tên tuổi quen thuộc. Liên quan đến vấn đề khép kín trong đấu thầu, tình trạng phổ biến hiện nay là các dự án thuộc các bộ ngành hoặc địa phương nào quản lý thì khi triển khai thực hiện thường chủ yếu do các doanh nghiệp trực thuộc đảm nhiệm bao gồm các công việc từ thiết kế, cung cấp thiết bị, xây lắp, giám sát thi công...Cách làm này tuy là cần thiết trong một số lĩnh vực song nói chung là dễ dẫn đến "độc quyền", thiếu tính cạnh tranh và minh bạch trong quá trình thực hiện và cuối cùng là hiệu quả thấp. 2.3. Tình trạng vị phạm Quy chế đấu thầu còn phổ biến. Trong thời gian qua, tình trạng vi phạm Quy chế đấu thầu của một số dự án, công trình diễn ra rất phổ biến, gây thất thoát lãng phí, bị dư luận và báo chí lên tiếng. Sau đây là một số trường hợp vi phạm điển hình trong thời gian qua: a. Trường hợp không tổ chức đấu thầu hay vi phạm trình tự thực hiện đấu thầu, thủ tục pháp lý về đấu thầu. Công trình "Sửa chữa, nâng cấp đảm bảo an toàn hồ chứa nước Ea Kar" được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước (thông qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), có giá dự toán là 6.437.550.000 VNĐ do Nông trường cà phê 720 làm chủ đầu tư. Sau khi xem xét hồ sơ dự thầu, hai doanh nghiệp bỏ giá thầu thấp hơn giá xét của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Công ty TNHH Xây dựng Cầu đường Việt Đức (gọi tắt là công ty Việt Đức) và Liên danh Công ty Cổ phần Xây dựng Quyết Thắng và Công ty Xây dựng và Sản xuất Nhôm Cosvco (gọi tắt là Liên danh) cùng được xem xét bước 2. Khi đánh gia chi tiết hồ sơ dự thầu và chấm điểm, công ty Việt Đức được 89 điểm, Liên danh chỉ được 40 điểm. Nhưng khi phê duyệt kết quả đấu thầu, Cục Thủy lợi của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lại cho Liên danh trúng thầu khiến chủ đầu tư vừa bất bình vừa lo lắng. Bất bình vì Cục Thủy lợi đã bất chấp các quy định hiện hành về Quy chế đấu thầu. Lo lắng vì năng lực tài chính của Liên danh chỉ là 0 điểm (chấm điểm của tổ chuyên gia xét thầu). Nhà máy đường Quảng Bình, có 15 gói thầu xây lắp thì 100% các quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu được tiến hành sau khi ký hợp đồng thi công và thực sự thi công trước đó vài tháng. Dự án tu bổ, tôn tạo Nhà hát lớn Hà Nội diễn ra trong khi tổng mức đầu tư, tổng dự toán công trình đều chưa được phê duyệt. Gói thầu số 5 rà phá bom mìn, vật nổ dưới biển trị giá 6 tỷ đồng theo Công văn số 927/CP-KTN ngày 7/8/1998 của Chính phủ là đấu thầu hạn chế nhưng Cục Hàng hải Việt Nam đã không tuân theo sự chỉ đạo của Chính phủ, không tổ chức đấu thầu mà chọn thầu. Cục đưa ra danh sách 3 đơn vị là liên doanh để chọn thầu và đề nghị với Bộ Giao thông vận tải chọn thầu đơn vị liên doanh giữa Trung tâm xử lý bom mìn với Lữ đoàn công binh 513. Sau đó, Bộ Giao thông vận tải ký quyết định số 2716/QĐ-GTVT-CGĐ quyết định giao nhiệm vụ trên theo đề nghị của Cục Hàng hải Việt Nam. Đây là sai phạm nghiệm trọng của Bộ Giao thông vận tải và Cục Hàng hải Việt Nam... VNPT đã đầu tư nâng cấp hệ thống chuyển mạch để có tính năng thông minh cho mạng Vinaphone với tổng số vốn đầu tư 147,473 tỷ VNĐ, thực hiện theo hình thức đấu thầu hạn chế giữa 3 nhà thầu là Siemens, Ericson, Alcatel. Sau khi chấm thầu, tổ chuyên gia tư vấn, tổng giám đốc VNPT đã đề nghị Siemens trúng thầu. Tuy nhiên, sau đó Chủ tịch hội đồng quản trị VNPT đã quyết định chọn Ericson trúng thầu, quyết định này là sai trình tự, thủ tục, Quy chế đấu thầu, Luật Đấu thầu. b. Vi phạm thời gian mở thầu, nhận hồ sơ dự thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, nghiệm thu và thanh toán (nghiệm thu tăng khối lượng, áp hệ số, áp giá cao hơn...) Gói thầu số 1 Dự án cấp nước, vệ sinh 7 thành phố, thị xã – nhà máy cấp nước Đà nẵng (trị giá 14 triệu USD), mở thầu từ tháng 5/1999 nhưng sau 19 tháng mới có quyết định trúng thầu. Gói thầu đập và cống thuộc công trình thực hiện hồ chứa nước Cà Giây, Công ty xây dựng 44 nộp hồ sơ dự thầu chậm 3 ngày sau khi hết thời gian quy định là không hợp lệ, nhưng Giám đốc, Ban quản lý dự án thủy lợi 415 là đơn vị mở thầu vẫn cho tiếp nhận hồ sơ này và trình Tổ tư vấn chấm thầu, Vụ Đầu tư xây dựng cơ bản vẫn trình Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phê duyệt kết quả trúng thầu cho Công ty xây dựng 44 cùng với Công ty xây dựng 46 (thuộc Tổng công ty xây dựng số 4). Gói thầu số 7, thân và đập công trình thủy lợi Tân Giang do Công ty xây dựng công trình thủy lợi 24 thi công. Khi mới được 3.216 m3, Bên A, B và tư vấn giám sát đã cùng nhau nghiệm thu, lập phiếu giá thanh toán khối lượng bê tông xây lắp hoàn thành là 5.546m3, như vậy là nghiệm thu trước khi thực hiện tới 2.258m3, bằng 41,2% số tiền nhận thanh toán khống trước là 1,243 tỷ VNĐ. Gói thầu 1 cung cấp thiết bị chính cho Dự án xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng được đấu thầu quốc tế. Theo kế hoạch, thời gian xét thầu kể từ khi bán hồ sơ mời thầu đến khi ký được hợp đ._.uan quản lý và độc lập về tài chính. Thậm chí, nếu các đơn vị độc lập về tài chính nhưng cùng một cơ quan quản lý ra quyết định thành lập thì sẽ không được tham gia trong quá trình đấu thầu. Đây là vấn đề nhạy cảm do đụng chạm quyền và lợi ích cục bộ của một số đơn vị và tổ chức đấu thầu. Bên cạnh đó, theo các chuyên gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, điều này cũng có những cái khó so với thực tế ở nước ta vì lực lượng tư vấn thi công mạnh nhất của bất cứ ngành nào thường nằm ở các DNNN trực thuộc cùng một Bộ chủ quản chuyên ngành. Thực tế, các nhà tài trợ đã yêu cầu nếu bộ chủ quản dự án thì các cơ quan thuộc Bộ không được tham gia đấu thầu dự án do Bộ quản lý. Nhưng thực tế Việt Nam chưa thể thực hiện ngay điều này và Chính phủ đã thoả thuận lùi thời điểm thực hiện cam kết này lại và thực hiện theo lộ trình. Lộ trình này được thực hiện bằng cách đẩy mạnh cổ phần hoá để tách doanh nghiệp ra khỏi quản lý Nhà nước ở các Bộ, chuyển tất cả các DNNN sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong chiều tác động ngược lại thì việc áp dụng các quy định mới cũng sẽ góp phần thức đẩy việc cải cách DNNN của Việt Nam. 2. Vấn đề tổ chức cung cấp thông tin. Đây là một trong những khâu yếu nhất trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Các nguồn thông tin hiện nay chúng ta nhận được và cung cấp cho khách hàng không kịp thời, không chính xác. Do vậy, khi xây dựng các đơn dự thầu, tài liệu kỹ thuật không sát thực với tình hình thực tế. Khi tổ chức mời thầu, thông tin không được truyền tải đến mọi nhà thầu tiềm năng, hạn chế quá trình đấu thầu rộng rãi. Với đà phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, hệ thông thông tin cần phải kịp thời và chính xác. Để làm được việc đó, Nhà nước phải tập xây dựng các Viện nghiên cứu với đội ngũ cán bộ có năng lực và với các phương tiện làm việc hiện đại. Hoạt động này đòi hỏi phải có nguồn kinh phí hỗ trợ rất lớn. Đồng thời việc làm đó sẽ tạo cho các viện nghiên cứu mọi điều kiện đẻ tham gia vào quá trình hợp tác quốc tế. Nguồn thông tin thu lượm được sau khi xử lý sẽ cung cấp thường xuyên cho các doanh nghiệp, coi đây cũng là một hoạt động đầu tư. Tránh tình trạng tự lo tìm kiếm thông tin cho hoạt động của riêng mình, hoạt động manh mún và kém hiệu quả. Nguồn lưu trữ thông tin sẽ mang lại kiến thức tổng hợp và chi tiết cho trong nhiều lĩnh vực mua sắm, cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà tổ chức thầu để phục vụ hiệu quả cho công tác tổ chức thầu và xây dựng các tiêu chuẩn đấu thầu. Hiện nay, cùng với sự phát triển của hệ thống mạng toàn cầu Internet, việc áp dụng hình thức đấu thầu qua mạng đang là một xu hướng rất phổ biến để tăng cường tính minh bạch trong đấu thầu, hình thức đấu thầu mới - đấu thầu qua mạng cùng được đề cập trong Luật Đấu thầu. Theo nghĩa đơn giản nhất, đấu thầu qua mạng được hiểu mọi công việc mời thầu, dự thầu, xét thầu, công bố kết quả...được diễn ra trên hệ thống mạng. Nhiều nước trên thế giới đã và sẽ chuyển sang áp dụng hình thức đấu thầu qua mạng do đem lại những thuận lợi sau: - Tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch trong đấu thầu. - Giảm chi phí thời gian và chi phí trong đấu thầu. - Đơn giản hoá quá trình tổ chức đấu thầu và xét thầu. - Hạn chế tối đa các hiện tượng tiêu cực 3. Chuyên môn hóa hoạt động tổ chức đấu thầu. Chính phủ nên đưa ra sàn giao dịch đấu thầu. Đây là một ý tưởng được đánh giá là mới nhưng đang cần phải cân nhắc. Bởi vì các bên mời thầu của ta không chuyên nghiệp. Là ông Hiệu trưởng, Giám đốc bệnh viện, Giám đốc nhà máy rượu... họ chỉ quản lý tiền thôi, còn đưa ra sàn giao dịch phải là những nhà thầu chuyên nghiệp. Nhà tổ chức thầu sẽ làm tất cả mọi quy trình từ lập hồ sơ mời thầu đến chọn đúng nhà thầu, đồng thời kiêm giám sát một cách khách quan và chuyên nghiệp. Như thế không những nâng cao tính hiệu quả của hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp phù hợp mà còn hạn chế được rất nhiều tiêu cực, tránh tình trạng ai cũng xâu xé để nhận một công trình trước khi về hưu để có cơ hội kiếm chác. Đây cũng là kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới đã áp dụng. Tuy nhiên, đối với nước ta, hoạt động đấu thầu tuy thực hiện hơn 10 năm nhưng mới ở giai đoạn đầu, cách hiểu, vận dụng và thực thi pháp luật còn mức độ. Nếu áp dụng ngay trong Luật sẽ khó khả thi, cần có bước tập dượt để chuyên môn hoá cao hơn. Hơn nữa, việc hình thành sàn giao dịch về đấu thầu sẽ liên quan đến việc hình thành những tổ chức, chủ thể trong sàn giao dịch, phải có bước chuẩn bị kỹ hơn, đồng bộ hơn. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay của nước ta, có thể áp dụng hình thức mở thầu lựa chọn nhà tổ chức thầu cho các công trình quốc lớn và hoạt động mua sắm công. Biện pháp này rất hiệu quả đối với hoạt động mua sắm của các ngành y tế hay giáo dục vì hiện nay thường xuyên phải thuê các chuyên gia tư vấn với giá cao, nhưng vẫn không tránh khỏi hiện tượng khép kín trong đấu thầu vì vẫn do Bộ chủ quản đứng ra tổ chức đấu thầu. 4. Mời thầu và lựa chọn người dự thầu. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước cũng như nhu cầu hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội 8 Đảng cộng sản Việt Nam, việc mua đúng chất lượng, số lượng và đúng nguồn hàng, cũng như việc lựa chọn đúng nhà thầu có đủ năng lực xây dựng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà nhập khẩu. Trong quy trình đấu thầu nảy sinh hàng loạt vấn đề có liên quan việc tìm nguồn cung cấp. Những nhà tổ chức đấu thầu có kinh nghiệm thường luôn luôn nhấn mạnh việc tiếp cận thị trường, khuyến khích các nguồn cung để họ chào hàng. Số lượng nguồn cung cấp được mời chào sẽ không cố định, mà nên tùy thuộc vào các điều kiện sau đây: Khối lượng và giá trị hàng hóa Mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Chất lượng hàng hóa mong muốn. Khả năng của phía đối tác. Hiểu biết về thị trường. Trong quá trình xem xét cần phải tính đến một số nguyên tắc chuyên môn cơ bản, như: Tham khảo người cung cấp gần nhất về mặt hàng cần mua. Thảm khảo ít nhất 3 nguồn cung cấp. Tham khảo người cung cấp thứ hai, thứ ba trong quyết định cuối cùng. Việc chuẩn bị mời thầu nên được giữ kín để không đẩy giá lên cao. Yếu tố bất ngờ là cần thiết. Ngày mời thầu, nơi công bố, phương tiện công bố phụ thuộc vào tình hình kinh tế trong nước thế giới. Giấy mời thầu phải phán ánh được tất cả mọi yêu cầu mua hàng, như tiêu chuẩn, đặc điểm kỹ thuật, sự vận hành, giá cả... Tính chính xác của giấy mời thầu sẽ phản ánh năng lực chuyên môn của người gọi thầu. 5. Quá trình xét thầu - ứng dụng mạng notron nhân tạo Việc xem xét đánh giá, lựa chọn nhà thầu nên vận dụng linh hoạt tùy theo đối tượng đấu thầu. Trong quá trình xem xét cần phải lập một số mẫu biểu. Các mẫu biểu này phải được thống nhất cho từng loại hình đấu thầu. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xét duyệt sau này. Đặc biệt với hoạt động xây dựng là những gói thầu lớn, có giá trị cao, thời gian hoàn thành lâu dài và yêu cầu kỹ thuật kỹ lưỡng, công tác đấu thầu cũng tùy thuộc nhiều yếu tố, trong đó, có cả đặc điểm của dự án lẫn các tình huống biến động khác. Đôi khi việc lựa chọn thầu còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và trực giác của các chuyên gia. Hiện nay ở các quốc gia phát triển, việc ứng dụng phần mềm mạng Notron nhân tạo tỏ ra là một công cụ hữu hiệu để có thể ứng xử với các vấn đề phức tạp và không cấu trúc như vậy. Mô hình mạng Notron có thể áp dụng cho các công trình dân dụng, loại nhà ở, khách sạn, văn phòng... có giá trị dưới 200 tỷ đồng vì tính phổ biến của chúng. Các công trình xây lắp có giá trị từ 200 tỷ đồng trở lên là khá hiếm ở Việt Nam và phải tiến hành đấu thầu theo một quy trình dài đấu thầu hai giai đoạn. Bên cạnh đó, với các công trình có giá trị lớn hơn 200 tỷ đồng thì hiển nhiên là việc đấu thầu sẽ được tiến hành bởi các chuyên gia hàng đầu, việc hỗ trợ bằng máy tính chỉ là công cụ bổ sung cần thiết. Công cụ được sử dụng là Mạng nơtron nhân tạo - Artificial Neutral Network (ANN), cũng chính vì khả năng mô phỏng và học hỏi mạnh mẽ của nó. ANN còn có thể mô phỏng gần như bất cứ hàm mục tiêu nào với số biến nhập và xuất tuỳ ý, ở thời điểm này thì có lẽ chưa có một phương pháp nào trước đây đạt được, chỉ riêng khả năng này của ANN đã là quá ấn tượng và đáng quan tâm. ANN còn là một ưu điểm tuyệt vời khác, đó là khả năng học. Một ANN gần giống như một đối tượng có thể tư duy. Mỗi khi có kiến thức mới (Data mới) ta lại đưa cho ANN. Khả năng này của ANN là rất cần thiết cho các vấn đề có dữ liệu luôn thay đổi, cập nhật như vấn đề đấu thầu mà ta đang nghiên cứu. Lý thuyết toán ANN là một phương pháp mô hình hoá tập trung vào các bài toán phi tuyến (các hàm phức tạp như hàm ra quyết định chọn thầu là một ví dụ). Khả năng học của ANN chủ yếu dựa trên kỹ thuật lan truyền ngược. ANN lan truyền là một hàm phi tuyến có thể xấp xỉ gần đúng, nhưng một hàm đích được cho qua một số mẫu trong tập mẫu hình 1 sau đây sẽ minh hoạ một mạng lan truyền. Hình 1: Mạng lan truyền 3 lớp Hình 2: Đồ thị hàm Logistic(u) Trong hình, mạng gồm 3 lớp (thực tế ANN cho việc hỗ trợ chọn thầu cũng sẽ có 3 lớp như thế này): lớp nơtron nhập (input), lớp nơtron ẩn và lớp nơtron xuất (output). Mỗi nút - nơtron trong lớp nhập, phải nhận giá trị của một biến độc lập và chuyển vào mạng. Dữ liệu từ tất cả các nơtron trong lớp nhập được tích hợp - ta gọi là tổng trọng hoá và chuyển kết quả cho các nơtron ẩn. Gọi là “ẩn”, vì các nơtron trong lớp này chỉ liên lạc với các nơtron trong các lớp nhập và xuất, và chỉ người thiết kế mạng biết lớp này (người sử dụng mạng không biết lớp này). Tương tự, các nút - nơtron trong lớp xuất cũng nhận các tín hiệu tổng trọng hoá từ các nút ẩn. Mỗi nút - nơtron trong lớp xuất tương ứng một biến phụ thuộc. Mạng lan truyền chỉ có thể ở một trong hai trạng thái: - Trạng thái ánh xạ (VD: tính toán ra các thông số cần thiết cho việc chọn thầu) - Trạng thái học (VD: học các dữ liệu chọn thầu mẫu từ người dùng nhập vào) Trong trạng thái ánh xạ, thông tin lan truyền từ lớp nhập đến lớp xuất và mạng thực hiện ánh xạ để tính giá trị các biến phụ thuộc dựa vào các giá trị biến độc lập được cho: Y=NN(X). Trong trạng thái học, thông tin lan truyền theo hai chiều nhiều lần để học các trọng số. Trong trạng thái ánh xạ, mạng xử lý mỗi lần một mẫu để tính Y= NN(X). Giá trị các lớp trong nút ẩn và trong lớp xuất là giá trị của hàm lan truyền với tham số là tổng trọng hoá. Về mặt hình học, đồ thị của hàm truyền thống có dạng chữ S, nên ta gọi là hàm dạng S. Hình 2 minh hoạ đồ thị hàm truyền thông dụng g(u): Khi u= 0, g(0)= 0.5. Khi u tăng, g(u) tăng - nhanh lúc đầu nhưng rồi chậm hơn khi tiếp cận 1, đó là chăn trên của nó. Chặn dưới là 0. Về mặt toán học, hàm logistic được định nghĩa như sau: trong đó e là cơ số logarit tự nhiên. Hắng số e có giá trị khoảng 2.71828 Thiết kế mạng ANN cho mục đích chọn thầu Sơ đồ thiết kế ANN Bài toán này có đầu vào là dữ liệu về công trình, có kết xuất là các tiêu chí, thang điểm đánh giá HSDT. Các dữ liệu (số nút nhập) của ANN gồm có: a. Nhóm công trình: 5 nhóm Công nghiệp; Cấp thoát nước, tuyến ống dẫn dầu, tuyến cáp thông tin bưu điện, đường dây tải điện; Nông nghiệp thuỷ lợi; Giao thông; Dân dụng b. Loại công trình của nhóm: từ 3 đến 8 phân loại cho một nhóm. c. Phân loại của loại công trình: từ 1 đến 5 phân loại cho một loại công trình. Do đó tổng số phân loại công trình lên đến hàng trăm d. Giá trị công trình (tỷ) e. Thời gian thi công (năm) Vậy trực quan ta có thể thấy rằng nên thiết lập một ANN có 5 nút nhập cho 5 dữ liệu vừa nên, có 25 nút xuất với 25 là số tiêu chuẩn đánh giá HSDT, số nút ẩn sẽ được nghiên cứu xác định trong quá trình XD và huấn luyện ANN sao cho hợp lý nhất. (Hình 3) Hình 3: ANN có 5 nút nhập, n nút ẩn và 25 nút xuất Hình 4: ANN có 2nuts nhập, 3 nút ẩn và 1 nút xuất Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực nghiệm, nhận thấy một kiến trúc ANN với 5 nút nhập và khá nhiều nút xuất như vậy rất có thiết kế và nhất là rất khó huấn luyện. Kiến trúc rất cồng kềnh, thời gian luyện rất lâu, sai số giảm rất chậm và dĩ nhiên độ tin cậy không cao. Vì vậy, phải tìm một giải pháp nào đó để đơn giản hoá cấu trúc “bộ não” này, từ đó làm cho việc kiểm soát ANN trở nên dễ dàng & tin cậy hơn. Giải pháp đơn giản hoá ANN thô ban đầu Nếu chú ý đến 3 dữ liệu đầu tiên của 5 dữ liệu thuộc lớp nhập ta nhận thấy rằng, ba dữ liệu này nhằm lọc công trình (dự án) thành 5 x 8 x 5 tương đương khoảng 200 phân loại công trình. Thực tế về mặt lý thuyết ANN có thể hoàn thành nhiệm vụ tách lọc này. Nhưng ở mức độ nghiên cứu hiện tại và qua phân tích tình hình thực tế, ta chưa cần phải đưa phần lọc phân loại công trình này vào ANN. Có thể thế một bộ lọc bằng thuật toán lọc CASE cổ điển. Động tác lọc gần 200 phân loại công trình này theo 3 tầng lọc: Nhóm, Loại, Phân loại. Điều này thật sự đã làm kiến trúc của ANN nhẹ đi khoảng 60% và độ phức tạp đã giảm đi nhiều lần. Đến đây, đối với riêng từng ANN thì từ 5 dữ liệu cần cho 5 nút ẩn, ta chỉ còn cần 2 dữ liệu và2 nút ẩn tương ứng là: giá công trình và thời gian thi công. Thực ra, ta chỉ bớt khối lượng cho ANN bằng cách chuyển phần lọc dữ liệu nhập sang cho một bộ lọc thông thường. (Hình 4) Chương trình hỗ trợ chọn thầu Bidder Select a. Khả năng: Chương trình được viết bằng ngôn ngữ Java, tiện lợi cho việc xuất bản sử dụng trên mạng Internet. Do vậy mang tính ứng dụng và phát triển cao. Chương trình sẽ ứng dụng ANN giúp người dùng trong các tác nghiệp chính của quá trình chọn thầu. Các Modules chính của chương trình là: 1. Lập HSMT 2. Đánh giá hồ sơ dự thầu. 3. Học cách tư duy của các chuyên gia chọn thầu b. Nguyên lý hoạt động Các Module (processes) đặc thù cho xử lý thông tin, điều khiển chương trình, xuất nhập dữ liệu... được nghiên cứu XD theo thuật toán và quy trình chọn thầu đã phân tích. Phần Module huấn luyện ANN có nguồn gốc từ một java engine (gói chương trình) do Paolo Maroone - một chuyên gia toán tin học - phát triển. Sơ đồ 3: Sơ đồ hoạt động tổng quát của Bidder Select Nghiên cứu đã XD được một phần mềm có khả năng hỗ trợ công đoạn khó khăn nhất và mang tính chuyên gia nhất trong quy trình tuyển chọn nhà thầu là quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu của họ. Quan điểm, đánh giá hồ sơ dự thầu của Bidder Select là động, có thể thay đổi, không cứng nhắc và bất biến như phần mềm thông thường khác. Ngoài ra, đối với từng công trình Bidder Select cũng sẽ cung cấp một HSMT hoàn chỉnh nhằm giúp dỡ các cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm hoặc ngay cả các chuyên gia giàu kinh nghiệm cũng đôi khi cần tham khảo đến các đề xuất này để giảm bớt nguy cơ bỏ sót thông tin, quy định, hoặc ngay cả những nhầm lẫn không đáng có của mình. 6. Tăng cường công tác hậu kiểm trong đấu thầu Luật quy định tổ chức, cá nhân được giao trách nhiệm giám sát thực hiện hợp đồng phải công tâm, trung thực, khách quan và phải đảm bảo có đủ năng lực kinh nghiệm. Theo đó, tư vấn giám sát thi công thiếu trách nhiệm hoặc thông đồng với nhà thầu thi công, thì cả nhà tư vấn và nhà xây dựng đều phải đền bù thiệt hại và bị xử phạt từ mức cảnh cáo, phạt tiền đến không cho tham gia hoạt động đấu thầu. Để tạo thuận lợi thúc đẩy tiến độ thực hiện dự án cũng như để tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia các hoạt động đấu thầu, Luật đã phân cấp tối đa các bước phê duyệt trong đấu thầu theo hướng người nào quyết định đầu tư dự án thì có trách nhiệm phê duyệt kế hoạch đấu thầu, phê duyệt hoặc uỷ quyền phê duyệt hồ sơ mời thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu, các nội dung còn lại (tổ chức sơ tuyển nhà thầu, tổ chức đấu thầu, phê duyệt hợp đồng, ký kết hợp đồng...) được phân cấp cho chủ đầu tư quyết định. Điều này vừa gắn trách nhiệm về chất lượng của công trình cho người quyết định phê duyệt, vừa tránh được tình trạng khép kín. Ngoài ra cũng có thể học tập kinh nghiệm ở  các nước như Inđônêxia, Philipin, Malaysia... Một trong những điều luật họ đã làm để chống gian lận trong đấu thầu là thành lập một Ban quản lý vốn nhà nước trong đấu thầu. Gọi là tiền kiểm và hậu kiểm. Mọi quy trình đấu thầu đều được kiểm tra, giám sát hết. Tất nhiên với những công trình nhỏ thì chỉ cần hậu kiểm. Đây là một hình thức kiểm toán trong đấu thầu. Hoạt động kiểm tra giám sát như vậy sẽ được đảm nhiệm bởi một cơ quan độc lập và có uy tín, tương tự như hoạt động kiểm toán ở các doanh nghiệp. Điều này đảm bảo tính minh bạch và chính xác cho công tác kiểm tra. Trong khi đó, ở Việt Nam, yếu kém nhất là Ban quản lý dự án và Tư vấn giám sát. Tư vấn giám sát tại các nước làm việc độc lập và chuyên nghiệp. Còn ở Việt Nam là do bộ phận thiết kế kiêm nhiệm thêm. Và ở Việt Nam lương tư vấn giám sát vẫn còn quá thấp, không đủ để người ta tồn tại. Vậy nên, một trong những điều kiện tiên quyết là phải trả lương cao để người ta yên tâm làm việc mới tránh được tham nhũng. Đi đôi với phân cấp nói trên, Luật cũng quy định về các hoạt động kiểm tra thanh tra và các chế tài xử lý các trường hợp vi phạm theo hướng tăng cường hậu kiểm. Theo đó, các hành vi vi phạm bị xử lý từ mức cảnh cáo, phạt tiền nếu gây ra thiệt hại về lợi ích cho đến cấm không cho tham gia các hoạt động đấu thầu, cá nhân vi phạm có hành vi cấu thành tội phạm sẽ bị truy tố theo pháp luật về hình sự. Ngoài bị xử lý theo các hình thức nói trên, các trường hợp vi phạm còn bị đăng tải trên hệ thống thông tin về đấu thầu của Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình triển khai Luật Đấu thầu và Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 29/09/2006 của Chính phủ cho thấy vẫn còn một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, tránh tình trạng chế tài không phát sinh từ thực tế, hoặc chưa đủ nghiêm, không đủ sức răn đe. Hệ thống giám sát, hành pháp, tư pháp khi xử lý tình huống phải tuyệt đối tránh "tống" tất cả về bên hành chính, rất nguy hiểm vì như vậy không xác định đúng trách nhiệm của bên sai phạm, không đúng người đúng tội nên không hiệu quả. 7. Tăng cường vai trò của luật pháp trong đấu thầu. Tuy các quy định về đầu tư và đấu thầu hiện hành đã có những đóng góp đáng kể trong việc tạo ra nề nếp các hoạt động kinh tế trong xã hội của cơ chế kinh tế thị trường, song có lẽ do nước ta đã trải qua thời kỳ quá dài quản lý kinh tế theo cơ chế tập trung chỉ huy, nên sự tiếp cận với cơ chế mới không tránh khỏi những cản trở của lối làm ăn cũ. Các chính sách quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô cũng được du nhập một cách ồ ạt, thiếu sự chọn lọc bài bản. Chính sách về quản lý đầu tư, đặc biệt là các quy định về đấu thầu được du nhập một cách hết sức bị động. Luật Đấu thầu của ta hiện nay hoàn toàn ảnh hưởng bởi nội dung hướng dẫn mua sắm của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản là những đối tác chính tài trợ cho Việt Nam thông qua nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trong khi đặc điểm nền kinh tế nước ta hiện nay mang nhiều nét đặc thù khác với đặc điểm, mặt bằng kinh tế - xã hội của các tổ chức nói trên. Xét về nội dung, Luật Đấu thầu hiện hành của Việt Nam đã bao hàm đầy đủ các quy định cần có để bảo đảm đạt được mục tiêu của công tác đấu thầu, nếu mọi quy định của Luật nói trên được tuân thủ một cách nghiêm ngặt trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, các quy định nhằm bảo đảm cho việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Luật Đấu thầu hiện hành lại chưa được đề cập trong Luật, do đó thực tế việc vi phạm Luật Đấu thầu còn tồn tại ở mọi chỗ, mọi nơi. Chẳng hạn, Luật Đấu thầu yêu cầu phải áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi đối với mọi gói thầu sử dụng vốn Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế có tới gần 80% số gói thầu được người có thẩm quyền cho phép áp dụng các hình thức lựa chọn khác với đấu thầu rộng rãi mà không hề chú ý đến việc có đáp ứng các điều kiện luật định hay không. Thậm chí nhiều gói thầu còn được quyết định lựa chọn một cách tùy hứng (dự án đường Hồ Chí Minh là một ví dụ điển hình), mà không phải thông qua các quy định của Luật Đấu thầu... Ngoài ra còn tồn tại các quy định khác liên quan đến thủ tục đầu tư nói chung vẫn quá rườm rà, phức tạp, khó hiểu và khó thực hiện khiến cho việc ra quyết định đầu tư trở nên tràn lan, thiếu tính quy hoạch, chất lượng báo cáo nghiên cứu khả thi quá kém. Điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các quy định về đấu thầu trong công tác lựa chọn nhà thầu nói chung. Tóm lại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về quản lý đầu tư, xây dựng và đấu thầu chưa thoả mãn yêu cầu là hành lang pháp lý bảo đảm cho các hoạt động đầu tư vận hành một cách hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy cần nghiên cứu, ban hành một văn bản mang tính quy phạm pháp luật cao hơn chứa đựng đầy đủ các nội dung quy định về quản lý đầu tư, xây dựng và đấu thầu nhằm hoàn thiện, ổn định về luật pháp đối với lĩnh vực này. Đặc biệt, cần quy định thật rõ các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư và đấu thầu. Hình thành cơ quan chuyên trách xử lý vi phạm và giải quyết các khiếu nại về đấu thầu. Về hình thức cơ quan này phải hoạt động độc lập và mang tính khách quan tương đối với cả bên mời thầu và nhà thầu. 8. Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ trực tiếp điều hành công tác đấu thầu Do đặc điểm của chế độ công hữu, bộ máy quản lý và điều hành đóng vai trò vô cùng quan trọng trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nó vừa là cơ quan ban hành chính sách, vừa đóng vai trò chỉ đạo thực hiện, vừa tham gia thực hiện trong từng hoạt động cụ thể. Với vai trò quan trọng như vậy đòi hỏi các thành viên trong bộ máy phải thực sự có năng lực, thông thạo về chuyên môn, trong sáng về phẩm chất đạo đức, có nhiệt tình và đủ bản lĩnh hoàn thành công việc được giao phó trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ những người làm công tác đấu thầu càng ngày càng đông về số lượng và tinh về kỹ thuật. Tuy nhiên, do còn một số hạn chế nhất định khiến cho công tác đấu thầu chưa thực sự đem lại hiệu quả mong muốn, chưa đáp ứng được yêu cầu tự thân của công tác này. Việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung để phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường là đòi hỏi mang tính cấp thiết. Đặc biệt, trong lĩnh vực đấu thầu càng hết sức cần một đội ngũ cán bộ có tính chuyên nghiệp cao. Họ cần được trang bị đầy đủ các kiến thức kinh tế về thị trường, các hiểu biết về pháp luật, biết cách xây dựng Luật để có khả năng nhận thức đầy đủ bản chất, nội dung công tác đấu thầu, biết đề ra các quy định có tính chất quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư và đấu thầu để tổ chức thực hiện tốt các cuộc đấu thầu. Ngoài ra còn có khả năng xử lý một cách minh bạch các vướng mắc xảy ra trong lĩnh vực này. Để đạt được các yêu cầu nêu trên, cần cố gắng giải quyết tốt các công việc sau đây: - Cần có sự cải cách cơ bản trong công tác tuyển và sử dụng cán bộ trong bộ máy quản lý hành chính Nhà nước. Kiên quyết trung thành với nguyên tắc công bằng và minh bạch trong việc tuyển chọn và sử dụng cán bộ. Không tuyển vào đội ngũ những người không đủ trình độ chuyên môn. - Công tác đào tạo và đào tạo lại đối với nhân sự trong bộ máy phải được làm thường xuyên, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, công chức không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực công tác. Tiến tới chuyên môn hóa sâu những người làm công tác đấu thầu. - Cùng với việc cải cách chính sách tiền lương, cần chú trọng đặc biệt đến công tác đời sống của cán bộ, công chức. Tạo mọi điều kiện để cán bộ, công chức có thể nâng cao mức thu nhập trong phạm vi có thể. Có chính sách đãi ngộ thích hợp đối với các cá nhân có thành tích trong công tác, hoặc có sáng kiến đem lại hiệu quả kinh tế cho đất nước. - Xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm pháp luật, dù người vi phạm ở bất kể cương vị công tác nào. - Thường xuyên xem xét, đánh giá kết quả làm việc của cán bộ, công chức (theo các chuẩn mực mang tính định lượng), trên cơ sở đó, bố trí sắp xếp lại một cách khoa học nhằm phát huy cao nhất khả năng và sở trường công tác của từng cán bộ. Tiến tới xóa bỏ tình trạng bè phái, ê kíp gây ra và duy trì các tệ nạn xã hội trong bộ máy quản lý nhà nước về đấu thầu. KẾT LUẬN Sự tăng trưởng vượt bậc về kinh tế cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong những năm vừa qua đã chứng minh một cách sinh động về tính đúng đắn trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước khôi phục và phát triển, từ nghèo đói, thiếu ăn, thiếu mặc, đến nay đã trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và đang có những thành quả bước đầu trong công cuộc CNH – HDH đất nước. Công tác đấu thầu đã góp phần quan trọng trong các thành tựu kể trên bởi nó tạo ra sự cạnh tranh tự do trong môi trường bình đẳng và minh bạch. Cạnh tranh công bằng sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các nhà thầu sẽ tạo thuận lợi cho chủ đầu tư lựa chọn được hàng hoá và dịch vụ phù hợp nhất với yêu cầu của mình và với giá cả thấp nhất. Vì vậy, trong việc chi tiêu mua sắm hàng hoá và những công trình lớn, cần có các chính sách quy định về việc lựa chọn nhà thầu bảo đảm cạnh tranh công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Trong khoảng thời gian 10 năm đã có hàng chục văn bản pháp quy về đấu thầu được ban hành. Quy trình đấu thầu ngày càng được cải tiến, song vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy khoá luận này vẫn còn chưa hoàn chỉnh do hạn chế về tầm kiến thức và hạn chế về thời gian nhưng cũng đã giới thiệu khái quát hệ thống lý luận về đấu thầu quốc tế và quy trình đấu thầu tại Việt Nam. Khoá luận cũng đã nêu lên thực trạng xây dựng và hoàn thiện quy trình đáu thầu trong thời gian qua, đồng thời phân tích những mặt còn tồn tại trong quy trình dấu thầu tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, khoá luận có đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình này nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập toàn diện của đất nước trong thời gian tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Các báo cáo tổng kết công tác đấu thầu hàng năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ 1998 đến 2005. Luật Đấu thầu Việt Nam 2005. Chính phủ - Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 Chính phủ - Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 Chính phủ - Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/5/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu Chính phủ - Nghị định số 34/2001/NĐ-CP ngày 06 tháng 7 năm 2001 của về ban hành Quy chế Đấu thầu dự án tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí. Bộ Tài chính - Thông tư số 121/TT-BTC ngày 29/12/2000 , hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm đồ dùng, vật tư trang thiết bị, phương tiện làm việc đối với các cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang, đoàn thể và doanh nghiệp Nhà nước sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước. Bộ Tài chính - Thông tư này được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 94/2001/TT-BTC ngày 22/11/2001. Ngân hàng nhà nước Việt Nam - Công văn số 413/NHNN - KTTC ngày 07 tháng 5 năm 2001, hướng dẫn đấu thầu mua sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc trong hệ thống ngân hàng nhà nước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Thông tư số 50/2001/TT-BNN-XDCB ngày 03 tháng 5 năm 2001, hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu đối với các dự án đầu tư thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Công văn số 919 BKH/VPXT ngày 20/02/2001, báo cáo tổng kết và đánh giá tình hình thực hiện công tác đấu thầu từ 1998 đến năm 2000. Luật Xây dựng và Nghị định 16/2005/NĐ-CP hướng dẫn Luật Xây dựng. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, TS. Ngô Minh Hải, Quản lý đấu thầu: Thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Vụ Quản lý đấu thầu – Báo cáo nghiên cứu tình hình khép kín trong đấu thầu các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Vụ Quản lý đấu thầu – Báo cáo chuyên đề phân cấp trong đấu thầu thực hiện các dự án sử dụng vốn Nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Vụ Quản lý đấu thầu – Một số tiền đề về đấu thầu qua mạng tại Việt Nam. Trung tâm thông tin thương mại - Đấu thầu cạnh tranh quốc tế để xây dựng công trình và chuyển giao công nghệ. PGS.TS Thái Bá Cẩn, Học viện tài chính - Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng PGS Vũ Hữu Tửu (2002), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương – NXB Giáo dục Tờ thông tin đấu thầu, trang Web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Website: www.dau-thau.com Con bệnh đã nhờn thuốc – Báo đầu tư số 10/3/2003. Địa chỉ một số công trình có thất thoát trong đầu tư xây dựng năm 2004 – Tạp chí Người xây dựng số tháng 4/2005 Hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng – Báo Kinh tế & Đô thị ngày 9/11/2006 Trách nhiệm đến đâu? – Báo Lao động ngày 19/10/2006 Hà Giang – bi kịch đại công trường và món nợ 48 000 tỷ : Hà Tây "treo" 48 dự án – Báo Diễn đàn doanh nghiệp online Hơn 5 tỷ USD đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất Xây dựng nhà thi đấu thể dục thể thao Phú Thọ: Hàng loạt những sai phạm chết người! Vụ điện kế điện tử: Liờn tục cố ý làm trỏi! Đấu thầu kiểu ấy nên chăng? Loại nạn "quân xanh, quân đỏ" trong đấu thầu www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/09/3B9E20DE/ - 50k DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á ANN: Mạng Nơtron nhân tạo CNC - HDH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước EPC: Gói thầu tư vấn thiết kế - mua sắm thiết bị - xây lắp FIDIC: Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn HSDT: Hồ sơ mời thầu HSMT: Hồ sơ dự thầu ICB: Đấu thầu cạnh tranh quốc tế ODA: Đầu tư gián tiếp OECD: Quỹ hợp tác kinh tế hải ngoại Nhật Bản USD: Đô – la Mỹ VND: Việt Nam đồng WB: Ngân hàng thế giới WTO: Tổ chức thương mại thế giới. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Quy trình đấu thầu theo quy định của ADB 17 Đồ thị 1: Tốc độ tăng tổng số gói thầu qua các năm 1999 – 2005 25 Bảng1: Kết quả đấu thầu theo phân cấp thẩm định, phê duyệt (2000 – 2003) 28 Bảng 2: Thời gian thẩm định và phê duyệt : 38 Bảng 3: Danh mục văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu. 50 Sơ đồ 2: Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu. 55 Hình 1: Mạng lan truyền 3 lớp 78 Hình 2: Đồ thị hàm Logistic(u) 78 Hình 3: ANN có 5 nút nhập, n nút ẩn và 25 nút xuất 80 Hình 4: ANN có 2nuts nhập, 3 nút ẩn và 1 nút xuất 80 Sơ đồ 3: Sơ đồ hoạt động tổng quát của Bidder Select 82 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT069.doc