Hoàn thiện quy trình Nhập khẩu hàng hóa tại Công ty Đại Thịnh

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN Trong thời gian thực tập theo quy định của nhà trường, em thực tập tại Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại và Xuất nhập khẩu Đại Thịnh. Em chọn đề tài “ Hoàn thiện quy trình nhập khẩu hàng hóa tại Công ty Đại Thịnh” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Em xin cam đoan chuyên đề này hoàn toàn do em tìm hiểu, nghiên cứu và viết trong quá trình thực tập tại công ty, không sao chép chuyên đề, luận văn các khóa trước. Sinh viên Đinh Thị Thiên Hà LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đang

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3611 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quy trình Nhập khẩu hàng hóa tại Công ty Đại Thịnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bước vào thời kì đổi mới, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã và đang không ngừng cố gắng đẩy mạnh nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đưa nền kinh tế hoà nhập vào khu vực Đông Nam Á, hay nói rộng hơn là khu vực vành đai Châu Á - Thái Bình Dương. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần nhanh chóng tiếp cận những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài. Để làm được điều này thì nhập khẩu đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng. Nhập khẩu cho phép phát huy tối đa nội lực trong nước đồng thời tranh thủ được các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ của thế giới. Nhập khẩu thúc đẩy tái sản xuất mở rộng liên tục và có hiệu quả vì vậy khuyến khích sản xuất phát triển… Nhận thấy được vai trò của hoạt động nhập khẩu nên trong thời gian thực tập ở công ty Xuất nhập khẩu Đại Thịnh em đã lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện quy trình nhập khẩu hàng hóa của Công ty TNHH DV TM và Xuất nhập khẩu Đại Thịnh". Đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề cốt lõi của quy trình nhập khẩu và thực trạng quy trình nhập khẩu của công ty, qua đó rút ra những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong quy trình nhập khẩu của công ty, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa quy trình nhập khẩu của công ty . Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS. Đặng Đình Đào, người trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Em cũng xin cảm ơn các cô chú trong Công ty Đại Thịnh, những người đã giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian thực tập tại Công ty. Do hạn chế về khả năng bản thân và thời gian nghiên cứu nên chuyên đề này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn nữa. CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHẬP KHẨU VÀ QUY TRÌNH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA I. KHÁI QUÁT VỀ NHẬP KHẨU VÀ QUY TRÌNH NHẬP KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP 1. Khái quát về Nhập khẩu a. Khái niệm Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ vượt qua biên giới của một quốc gia. Nó gồm có hai bộ phận cơ bản cấu thành là nhập khẩu và xuất khẩu. Hai bộ phận này có mối quan hệ mật thiết bổ sung lẫn nhau nhờ sự phối hợp nhịp nhàng giữa chúng mà thương mại quốc tế mở ra những cơ hội mới cho tất cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn lớn hơn đối với các hàng hoá dụch vụ ngoài ra nó còn là nhân tố quan trọng tạo ra công ăn việc làm ở nhiều nước. Trong đó nhập khẩu được hiểu là quá trình hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức nước ngoài được một nước mua nhằm phục vụ quá trình sản xuất, tiêu dùng hoặc tái xuất khẩu nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. b. Vai trò của hoạt động nhập khẩu Tại báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu Á - Thái Bình Dương…Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Để thực hiện tốt chủ trương này, một mặt phải biết phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế trong nước, tranh thủ mọi nguồn ngoại lực để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam; mặt khác đó là hoàn thiện các biện pháp quản lý nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng yêu cầu sớm gia nhập WTO. Điều này cho thấy vai trò của nhập khẩu hàng hoá rất quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia và được thể hiện cụ thể qua những điểm cơ bản sau: - Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà người tiêu dùng trong nước có được sự lựa chọn lớn hơn đối với hàng hoá dịch vụ, nó bổ sung những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước không có khả năng sản xuất từ đó đáp ứng được nhu cầu của thị trường nội địa, nâng cao mức sống của người dân, đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại. - Nhập khẩu để mở rộng khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước, nhằm nâng cao đời sống nhân dân . - Nhập khẩu để chuyển giao công nghệ, đưa công nghệ tiên tiến của thế giới áp dụng vào sản xuất tiêu dùng trong nước, tạo sự nhảy vọt của sản xuất trong nước, nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ, công nghệ trong nước với các nước trên thé giới . - Nhập khẩu để xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng tự cung tự cấp, từ đó thúc đẩy phát triển đa dạng và đồng bộ các loại thị trường như thị trường tư liệu sản xuất, thị trường vốn, thị trưòng lao động... Mặt khác nó còn liên kết thống nhất giữa các thị trường trong và ngoài nước trên thế giới, tạo điều kiện tốt cho quá trình hội nhập và phát triển kinh tế trên thế giới . - Nhập khẩu thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Thông qua hoạt động nhập khẩu các máy móc thiết bị hiện đại được nhập về, các nguyên liệu có chi phí thấp. Các yếu tố này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm qua đó tăng ưu thế cạnh tranh không những trên thị trường nội địa mà còn ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu. Đặc biệt là đối với các nước kém phát triển có giá nhân công rẻ như Việt Nam đây là một lợi thế lớn. - Nhập khẩu tạo ra cơ hội cho dân chúng mở mang dân trí , có thể theo kịp và hoà nhập với nếp sống văn minh của thế giới . - Nhập khẩu là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước với thị trưòng thế giới, đem lại những thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến của thế giới góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước . Thực hiện tốt công tác nhập khẩu sẽ đáp ứng tốt nhu cầu phát triển của sản xuất trong nước, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu . Ngược lại nếu thực hiện không tốt sẽ gây nên sự mất cân đối kinh tế, rối loạn thị trường trong nước, đồng thời lãng phí nguồn lực, tiền của mà không đem lại hiệu quả . - Nhập khẩu để bổ sung, thoả mãn nhu cầu để từng bước thay đổi và hoàn thiện cơ cấu tiêu dùng của nhân dân . - Nhập khẩu còn cho ta biết điểm mạnh và điểm yếu của nền kinh tế, qua đó giúp cho Đảng và Nhà nước ta có những biện pháp ở tầm vĩ mô nhằm đem lại lợi ích cho đất nước . - Nhập khẩu nó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của một nước diễn ra nhanh hơn. Vì nhập khẩu sẽ làm cho môi trường cạnh tranh diễn ra gay gắt, các chủ thể kinh tế phải luôn tự đổi mới hoàn thiện mình mới mong đứng vững trên thị trường. Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể yếu kém sẽ bị loại khỏi cuộc chơi, chỉ có chủ thể mạnh áp dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến mới tồn tại được điều này nó kéo theo sự phát triển của xã hội. - Thông qua hoạt động nhập khẩu các chủ thể kinh tế giữa các quốc gia có cơ hội giao lưu học hỏi kinh nghiệm của nhau, tạo điều kiện cho quá trình phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển đồng thời tận dụng được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Vì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh nên hoạt động nhập khẩu nó tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên trên cơ sở hợp tác hoá cùng có lợi. - Nhập khẩu nó đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng trong nước, góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng trong nước diễn ra thường xuyên và ổn định vì không phải lúc nào thị trường trong nước cũng cung cấp được các yếu tố đầu vào đáp ứng cho sản xuất trong nước diễn ra. Thí dụ như Việt Nam phải nhập khẩu phôi thép nên không có nhập khẩu sản xuất trong nước sẽ trì trệ. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng tăng vì vậy nhập khẩu sẽ khắc phục được hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu trong nước. Nói tóm lại hoạt động nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Thông qua hoạt động nhập khẩu quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, góp phần tăng năng suất lao động, trình độ phân công lao động ngày càng cao, đời sống người dân được nâng cao về vật chất lẫn tinh thần. Điều này được thấy rõ ở các nước kém và đang phát triển điển hình như Việt Nam. Chúng ta đã chủ động tiến hành hoạt động nhập khẩu để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thúc đẩy cơ giới hoá nông nghiệp, tác động đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, sinh học hoá, phục vụ công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản để nâng cao chất lượng phục vụ cho xuất khẩu. Thúc đẩy sự ra đời của ngành công nghiệp lắp ráp điện tử, công nghiệp may mặc… tạo ra những sản phẩm có giá trị cao. c. Các hình thức nhập khẩu Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu khá phổ biến đối với các doanh nghiệp nhưng do trình độ phát triển ngày càng cao, do sự tác động của điều kiện kinh doanh, điều kiện môi trường nên các doanh nghiệp đã sáng tạo ra nhiều hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp tuỳ theo điều kiện của mình là lựa chọn hình thức phù hợp. Sau đây là một số hình thức nhập khẩu mà doanh nghiệp Việt Nam thường áp dụng. FNhập khẩu trực tiếp Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động độc lập của công ty, khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này doanh nghiệp phải tự mình nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lợi nhuận. Tuân thủ theo chính sách pháp luật quốc gia và quốc tế. Hình thức nhập khẩu trực tiếp hai bên (bên nhập khẩu và bên xuất khẩu) trục tiếp giao dịch với nhau, việc mua bán không ràng buộc lẫn nhau. Trong đó bên nhập khẩu phải: - Phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi hoạt động, phải tự nghiên cứu thị trường, chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận, lưu kho, chi phí quảng cáo, chi phí tiêu thụ hàng hoá và thuế giá trị gia tăng. - Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp được tính hạn ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu sẽ được tính vào doanh số và phải chịu thuế giá trị gia tăng. - Để tiến tới ký kết hợp đồng hai bên thường phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về điều kiện giao dịch. - Độ rủi ro của hoạt động nhập khẩu này thường cao hơn các hoạt động nhập khẩu khác nhưng lợi nhuận lại cao hơn. FNhập khẩu uỷ thác Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu phải thông qua trung gian. Bên trung gian nhận sự uỷ thác của doanh nghiệp tiến hành giao dịch, đàm phán với đối tác nhập khẩu để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác có những đặc điểm chủ yếu sau: Bên nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên cứu thị trường công việc này thuộc bên uỷ thác. Bên nhận sự uỷ thác chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bên đối tác nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng, thay mặt bên uỷ thác khiếu kiện, đòi bồi thường với đối tác nước ngoài khi có sự vi phạm hợp đồng gây thiệt hại. Quyền lợi mà bên nhận uỷ thác có được từ bên uỷ thác là phí uỷ thác. Thông thường doanh nghiệp nhận uỷ thác được hưởng một khoản thù lao trị giá 0,5% đến 1,5% tổng giá trị hợp đồng và phải nộp thuế thu nhập trên nguồn thu này, khi tiến hành nhập khẩu doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính vào doanh số và nộp thuế giá trị gia tăng. Việc sử dụng trung gian giúp cho doanh nghiệp giảm được mức độ rủi ro do những người trung gian thường hiểu biết về thị trường, pháp luật và tập quán địa phương. Do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác. Mặt khác các nhà trung gian thwongf có cơ sở vật chất nhất định nên khi sử dụng họ, người uỷ thác đó phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên khi sử dụng doanh nghiệp uỷ thác họ bị chia rẽ lợi nhuận, mất sự liên lạc trực tiếp với thị trường FNhập khẩu song song Đề cập đến nhập khẩu song song là đề cập đến hoạt động thương mại gắn liền với hàng hoá chứa đựng đối tượng SHCN (Sở hữu công nghiệp) được bảo hộ, nhập khẩu song song được hiểu là một nhà nhập khẩu không có mối liên hệ nào với chủ đối tượng SHCN, tiến hành hành vi nhập khẩu một hàng hoá nhất định chứa đựng đối tượng SHCN nói trên đã được cung cấp bởi một nhà phân phối được cấp licence hoặc chủ đối tượng SHCN. Như vậy, một loại hàng hoá chứa đựng đối tượng SHCN sẽ được ít nhất hai nhà khác nhau cung cấp trên một thị trường và chỉ có một trong các nhà phân phối này được đồng ý chủ sở hữu đối tượng SHCN về việc thực hiện hành vi thương mại đối với đối tượng SHCN đó. Đặc điểm của nhập khẩu song song: - Chủ SHCN và nhà nhập khẩu không có mối liên hệ nào. - Ít nhất có hai nhà phân phối cung cấp trên một thị trường được chỉ định bở CSHCN. - Liên quan trực tiếp đến hai mảng quan trọng của thương mại hiện đại đó là: tự do thương mại và việc bảo hộ quyền SHCN. Nhập khẩu song song làm xuất hiện xung đột lợi ích giữa các bên liên quan. Do có hành vi nhập khẩu song song mà bên có quyền với đối tượng SHCN không khai thác hết được quyền của mình đối với đối tượng SHCN. Nhưng nhập khẩu song song mang lại lợi ích rất thiết thực đối với thị trường: Khuyến khích tự do cạnh tranh, vì vậy việc cho phép nhập khẩu song song hay không sẽ dẫn đến khả năng bắt buộc phải lực chọn giữa việc bảo hộ nguyên tắc tự do cạnh tranh và việc bảo hộ quyền SHCN. Đây là một mảng của thương mại hiện đại, đối mặt với vấn đề này mỗi quốc gia đều đưa ra quan điểm của mình. Nhìn chung vấn đề nhập khẩu song song được giải quyết linh hoạt ở các nước khác nhau. FNhập khẩu đối lưu Nhập khẩu đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Thanh toán không bằng tiền mặt mà dùng hàng hoá có giá trị tương đương để trao đổi hay còn gọi nhập khẩu theo phương thức hàng đổi hàng. Loại hình nhập khẩu này có những đặc điểm sau: - Trong mỗi hợp đồng có những điều kiện ràng buộc lẫn nhau khiến cho người nhập khẩu cũng đồng thời là người xuất khẩu. - Điều kiện cân bằng phải cân bằng về mặt hàng, về giá cả, cân bằng về mặt tổng giá trị hàng giao cho nhau và cân bằng về điều kiện giao hàng. - Người nhập khẩu cùng một lúc thu lãi từ hai hoạt động: nhập khẩu và xuất khẩu điều này làm lợi cho cả hai bên. - Trong quá trình trao đổi hàng hoá dịch vụ hai bên phải quy định thống nhất lấy một đồng tiền làm vật ngang giá chung cho quá trình trao đổi. FNhập khẩu tái xuất Nhập khẩu tái xuất là hoạt động mua hàng hoá từ nước ngoài về nhưng mục đích không phải để tiêu dùng trong nước mà xuất khẩu sang nước thứ ba nhằm thu một khoản ngoại tệ lớn hơn. Mặt hàng này chưa qua chế biến ở nước mình mà được xuất khẩu trực tiếp sang nước thứ ba. Như vậy, hoạt động nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Đặc điểm của hoạt động tái xuất: - Người kinh doanh tái xuất phải ký hai hợp đồng một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu không chịu thuế XNK - Hàng hoá có thể chở thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu nhưng nước tái xuất nhận tioền từ nước nhập khẩu và thanh toán tiền cho nước xuất khẩu. - Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tái xuất quy định dùng phương thức thư tín dụng giáp lưng. Kinh doanh theo hình thức này đòi hỏi sự nhạy bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong hợp đồng mua bán. FNhập khẩu gia công Nhập khẩu gia công là hình thức nhập khẩu trong đó bên nhập khẩu nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao Đặc điểm của hình thức này: - Hoạt động nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất - Cả hai bên cùng có lợi: bên đặt gia công giúp họ tận dụng được nguyên liệu và gia công rẻ của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công giúp tạo công ăn việc làm trong nước, tiếp nhận được thiết bị công nghệ mới. - Bên nhận gia công chịu mọi chi phí và rủi ro của quá tình sản xuất gia công. - Hoạt động này về phương thức thanh toán người ta có thể áp dụng nhiều phương thức thanh toán như: nhờ thu, thành toán bằng thư tín dụng Trên đây ta xét một số hình thức nhập khẩu cơ bản. Trong đó nhập khẩu trực tiếp là hoạt động phổ biến nhất và tồn tại lâu đời nhất. Trải qua nhiều biến đổi của xã hội hoạt động nhập khẩu có nhiều hình thức được sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu thay đổi đó. Việc áp dụng hình thức nào là tuỳ thuộc và điều kiện và trình độ cũng như năng lực của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Đứng trước thực trạng đó mỗi quốc gia mỗi tổ chức quốc tế đều đưa ra quan điểm của mình. Bởi đây là một vấn đề nhạy cảm liên quan đến thương mại của mỗi quốc gia, cho nên không phải quốc gia nào cũng có được quan điểm rõ ràng nhất quán. Nhìn chung vấn đề nhập khẩu được giải quyết hết sức linh hoạt ở các nước khác nhau. 2. Quy trình nhập khẩu của các doanh nghiệp Nhập khẩu là việc mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phục vụ sản xuất trong nước. Tuy nhiên việc mua bán ở đây lại rất phức tạp khác hẳn với thương mại trong nước với những đặc điểm như: Các bên thuộc các quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên, chịu sự ảnh hưởng của nhiều thông lệ, luật pháp của các nước, việc vận chuyển rất khó khăn phải qua biên giới quốc gia nên thủ tục rất phức tạp. Chính sự khó khăn và phức tạp đó, nên khi thực hiện một hợp đồng nhập khẩu đòi hỏi phải có một quy trình nhất định, rõ ràng. Chính điều này giúp cho các doanh nghiệp tránh được các rủi ro không đáng có. a. Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường để có một hệ thống thông tin về thị trường đầy đủ, chính xác, kịp thời. Điều này sẽ làm cơ sở cho doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn, đáp ứng được các tình thế của thị trường. Đồng thời hệ thống thông tin không những làm cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn được các đối tác giao dịch thích hợp mà còn làm cơ sở cho quá trình giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng và thực hiện các hợp đồng sau này có hiệu quả. Chỉ có thể phản ứng linh hoạt và có các quyết định đúng đắn trong quá trình giao dịch đàm phán khi có các thông tin đầy đủ. Do đó, ngoài việc lắm vững tình hình trong nước và đường lối chính sách, luật lệ quốc gia có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, đơn vị kinh doanh ngoại thương cần phải nhận biết hàng hoá kinh doanh, nắm vững thị trường nước ngoài và lựa chọn đối tác. Trước khi chuẩn bị giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng thì nghiên cứu thị trường để có thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời sẽ giúp cho các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đúng đắn , phù hợp với tình hình thị trường. Hoạt động nghiên cứu này bao gồm : Nghiên cứu thị trường trong nước: Thị trường trong nước đối với hoạt động nhập khẩu là thị trường đầu ra. Mục tiêu nhập khẩu là đáp ứng nhu cầu thị trường này, do vậy phải nắm bắt được biến động của nó. Để phát hiện và hạn chế những biến động, nắm bắt thời cơ, biến nó thành những cơ hội hấp dẫn, doanh nghiệp phải luôn theo sát, am hiểu thị trường thông qua công tác nghiên cứu thị trường. Phải luôn luôn trả lời được câu hỏi xem nhu cầu thị trường và tình hình tiêu thụ hàng hoá của công ty sẽ như thế nào? ü Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu Mục đích của việc nghiên cứu này là để tìm ra mặt hàng nhập khẩu mà nhu cầu trong nước đang cần nhưng phải phù hợp với điều kiện và mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn biết mặt hàng nào đang được khách hàng, người tiêu dùng trong nước cần, đang là nhu cầu cần thiết của thị trường trong nước thì doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu, khảo sát và trả lời được các câu hỏi sau: - Thị trường đang cần mặt hàng gì ? ( Về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu ) - Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?, phải hiểu rõ tập quán tiêu dùng, thị hiếu và quy luật biến động của quan hệ cung cầu để có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường một cách tốt nhất. - Mặt hàng đó đang ở trong giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm? - Tình hình sản xuất ra sao? - Tỷ suất ngoại tệ là bao nhiêu?. Trong thương mại quốc tế, các nước có hệ thống tiền tệ khác nhau, do vậy việc tính toán tỷ suất ngoại tệ cho hàng hoá nhập khẩu là rất quan trọng. Doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu so sánh giữa tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu với tỷ suất ngoại tệ lúc đầu tư ban đầu để nhập hàng. ü Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Dung lượng thị trường của một hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định ( thế giới, khu vực, dân tộc), trong một thời gian nhất định ( thường là một năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thật của khách hàng kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, từng vùng, từng khu vực. Cùng với việc lắm bắt nhu cầu là việc lắm bắt khả năng cung cấp của thị trường, bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng của sản phẩm thay thế. Thông thường, dung lượng của thị trường chịu ảnh hưởng của 3 nhóm nhân tố chính: - Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi theo chu kỳ như sự vận động của tư bản, đặc điểm sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm của từng thị trường đối với mỗi loại hàng hoá. - Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi lâu dài như tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp, các chính sách của nhà nước, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng và ảnh hưởng của hàng hoá thay thế. - Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến đổi tạm thời như các hiện tượng cũng gây ra các đột biến về cung cầu, ngoài ra còn có các nhân tố khách quan như hạn hán, lũ lụt…. ü Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh nhằm lắm vững về thông tin số lượng các đối thủ cạnh tranh trong mặt hàng kinh doanh, tình hình hoạt động, tỷ trọng thị trường, thế mạnh, điểm yếu của các đối thủ. Đặc biệt cần nghiên cứu kỹ các chiến lược kinh doanh và khả năng thay đổi chiến lược kinh doanh của đối thủ cạnh tranh trong thời gian tới để đưa ra các phương án đối phó tối ưu, hạn chế các diểm mạnh và tận dụng các điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. ü Nghiên cứu sự vận động của môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh bao gồm môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội, chính trị, luật pháp. Môi trường kinh doanh có tác động lớn và chi phối đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu sự vận động của nó để từ đó có thể nắm bắt được quy luật vận động của môi trường kinh doanh và có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Nghiên cứu thị trường nước ngoài: Việc nghiên cứu này khó khăn hơn so với nghiên cứu thị trường trong nước, và có thể áp dụng nhiều phương pháp như tham quan triển lãm, hội chợ, tìm hiểu thông qua sách báo, hoặc cơ quan tư vấn. Doanh nghiệp cần phải nắm rõ về tình hình kinh tế xã hội và những yếu tố môi trường khác. Nghiên cứu rõ sản phẩm sẽ nhập khẩu về yếu tố chất lượng, giá cả với phương thức tham quan, thông qua hội chợ - triển lãm ... Trong đó, doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý tới yếu tố giá cả, vì nó là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả là yếu tố quyết định tới phương án lựa chọn nguồn cung cấp vì nó ảnh hưởng tới thu nhập của doanh nghiệp. Do vậy cần phải nghiên cứu thị trường nước ngoài và nghiên cứu giá ở từng thời điểm, từng lô hàng, các loại giá cả các nhân tố tạo nên sự biến động của giá cả. Lựa chọn nguồn cung cấp trong nhập khẩu hàng hoá: Nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu hàng hoá lựa chọn được phương thức buôn bán, điều kiện giao dịch thích ứng. Lựa chọn được nguồn cung cấp là một công việc hết sức quan trọng. Một nhà nhập khẩu có thể hoàn tất công việc xác định dúng sản phẩm đấp ứng đúng nhu cầu của mình thì việc đạt tới mục tiêu này hoàn toàn phụ thuộc vào vấn đề lựa chọn nguồn cung cấp. người nhập khẩu phải chắc chắn rằng nhà cung cấp giao hàng đúng theo thời gian cam kết. Do vậy, việc lựa chọn một người cung cấp tin cậy có uy tín, năng lực sẽ quyết định đến hiệu quả của quá trình nhập khẩu và được các nhà nhập khẩu rất chú trọng. ü Nguồn cung cấp hàng hoá trên thị trường quốc tế Doanh nghiệp cần nắm vững đươc tình hình các nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế mà doanh nghiệp có khả năng giao dịch rồi từ đó nghiên cứu các đặc diểm thị trường các nước cung cấp trên các phương diện: - Thái độ và quan điểm của nước cung cấp thể hiện qua các chính sách ưu tiên xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu. - Tình hình chính trị hay thái độ của quốc gia đó có ổn định không, có tác động đến nguồn, mặt hàng đó như thế nào? - Về vị trí địa lý có thuận lợi cho mua bán, có đem lại hiệu quả kinh doanh hay không?, có tiết kiệm chi phí vận chuyển, bảo hiểm của doanh nghiệp trong quá trình nhập khẩu của doanh nghiệp không?. ü Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế Trên thị trường hàng hoá thế giới, giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết mối quan hệ hàng hoá. Việc xác định đúng đắn giá cả hàng hoá xuất và nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với thương mại quốc tế. Giá cả là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả ngoại thương. Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế, giá cả quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá trên thị trường thế giới. Giá đó phải là giá giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường thế giới. - Nhân tố chu kỳ: Tức là sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu của các loại hàng hoá trên thị trường do đó làm biến đổi dung lượng thị trường và thay đổi về giá cả các loại hàng hoá. - Nhân tố lũng đoạn giá cả: Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới trong thời đại ngày nay. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá đối với cùng một loại hàng hoá trên cùng một thị trường, tuỳ theo quan hệ giữa người mua và người bán trên thị trường thế giới có giá trị lũng đoạn cao và giá trị lũng đoạn thấp. - Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa người bán xảy ra tren thị trường cung có xu hướng lớn hơn cầu. Nhiều người cùng bán một loại hàng hoá, cùng một chất lượng, thì dĩ nhiên ai bán giá thấp người đó sẽ chiến thắng. Vì vậy, giá cả có xu hướng giảm xuống. - Cung cầu và giá cả: Mối quan hệ cung cầu thay đổi trên thị trường sẽ thúc đẩy xu hướng giảm giá và ngược lại nếu cung không theo kịp cầu thì giá cả có xu hướng tăng lên. - Nhân tố lạm phát: Giá cả của hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị hàng hoá mà còn phụ thuộc vào giá tiền tệ-vàng. Trong điều kiện hiện nay giá cả không biểu hiện trực tiếp ở vàng mà bằng tiền giấy. Trên thị trường thế giới giá cả hàng hoá thường được biểu hiện bằng đồng tiền của các nước có vị thế quan trọng trong mậu dịch quốc tế như: USD, GBP, JPY,…Do đặc điểm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nên giá cả của những đồng tiền này cũng luôn thay đổi, việc thay đổi ấy thường gắn liền với lạm phát. Lạm phát làm cho giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng tiền giấy tăng lên. @ Lập phương án kinh doanh Phương án kinh doanh là một chương trình hành động tổng quát hướng tới việc thực hiện được những mục đích, mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp . Quá trình xây dựng một phương án kinh doanh gồm các bước : ü Phân tích để lựa chọn thị trường và mặt hàng kinh doanh : Phải phân tích đánh giá một cách tổng quát về thị trường hiện tại và những thay đổi trong tương lai để biết được những cơ hội và thách thức để doanh nghiệp lựa chọn thị trường và mặt hàng kinh doanh . ü Xác định mục tiêu : thì có thể là mục tiêu doanh số hay mục tiêu lợi nhuận. Nội dung cơ bản của một phương án kinh doanh gồm : Ÿ Mô tả chi tiết tình hình kinh doanh trên thị trường mục tiêu: mặt hàng kinh doanh, đối tác, số lượng, giá cả. Ÿ Cách thức tiến hành kinh doanh. Ÿ Các biện pháp và tiến trình thực hiện. Ÿ Các phương pháp kiểm tra, giám sát thức hiện và đánh giá kết quả. b.Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng ngoại thương FGiao dịch Sau giai đoạn nghiên cứu, tiếp cận thị trường, để chuẩn bị giao dịch xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp tiến hành tiếp xúc với khách hàng bằng biện pháp quảng cáo. Nhưng để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau, người xuất khẩu và người nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương thảo và các điều kiện giao dịch. Quá trình đó có thể bao gồm những bước sau đây: Chào hàng (offer) Hỏi giá (Inquiry) Đặt hàng (order) Chấp nhận (Acceptance) Xác nhận (Confirmation) Hoàn giá (Counter-offer) Ÿ Hỏi giá: là lời đề nghị bước vào giao dịch. Hỏi giá là việc người mua đề nghị người bán cho biết giá cả và các điều kiện thương mại cần thiết khác để mua hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm pháp lý của người hỏi giá, cho nên người hỏi giá có thể hỏi nhiều nơi nhằm nhận được nhiều bản chào hàng cạnh tranh nhau để so sánh lựa chọn bản chào hàng thích hợp nhất. Tuy nhiên, nếu người mua hỏi giá nhiều nơi quá sẽ gây nên thị trường ảo tưởng là nhu cầu quá căng thẳng. Đó là điều không có lợi cho người mua. Ÿ Phát giá (chào hàng): Luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng và như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán thì phát giá là chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong chào hàng người ta nêu rõ: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, điều kiện thanh toán, bao bì, ký mã hiệu, thể thức giao nhận,…Trường hợp hai bên đã có quan hệ mua bán với nhau hoặc có điều kiện chung giao hàng điều chỉnh thì chào hàng chỉ nêu những nội dung cần thiết cho lần giao dịch đó như tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá cả, thời hạn giao hàng. Những điều kiện còn lại sẽ áp dụng như những hợp đồng đã ký trước đó hoặc theo điều kiện chung giao hàng giữa hai bên. Có hai loại chào hàng đó là: Chào hàng cố định và chào hàng tự do: ü Chào hàng cố định: là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm vào lời đề nghị của mình. Thời gian này gọi là thời hạn hiệu lực của chào hàng. Trong thời gian hiệu lực nếu người mua chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó thì hợp đồng coi như được giao kết. Nếu trong chào hàng cố định người bán không ghi rõ thời gian hiệu lực thì thời hạn này đ._.ược tính theo thời hạn hợp lý. Thời hạn này thường do tính chất loại hàng, khoảng cách về không gian giữa hai bên và cũng nhiều khi do tập quán quy định. ü Chào hàng tự do: là việc chào hàng “ tự do” cần phải làm rõ bằng cách ghi “chào hàng không cam kết” hoặc “ chào hàng ưu tiên cho người mua trước” hoặc “báo giá”. Chào hàng tự do không ràng buộc trách nhiệm của người phát ra chào hàng, nên thường có thể chào ở nhiều nơi, nhiều người. Ÿ Đặt hàng: Đặt hàng là lời đề nghị ký kết hợp đồng thương mại xuất phát từ phía người mua. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. Trong thực tế người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên, hoặc hai bên đã ký những hợp đồng dài hạn và thoả thuận giao hàng theo nhiều lần thì nội dung đặt hàng chỉ nêu những điều kiện riêng biệt đối với lần đặt hàng đó. Còn những điều kiện khác, hai bên áp dụng theo những hợp đồng đã ký kết trong lần giao dịch trước. Ÿ Hoàn giá: Hoàn giá là sự mặc cả về giá cả và các điều kiện thương mại khác. Hoàn giá có thể bao gồm nhiều sự trả giá. Khi người nhận được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra một lời đề nghị mới thì đề nghị này là trả giá. Khi có sự trả giá, chào hàng coi như huỷ bỏ. Đặc tính của bảng hoàn giá là thể hiện ý định mua hoặc bán thực của người phát ra, do đó nó mang tính ràng buộc pháp lý với người đề nghị. Thường bản hoàn giá thể hiện ý định mua bán thực và có ràng buộc trách nhiệm pháp lý cho nên trong thời gian hiệu lực một bên nhận được hoàn giá chấp nhận các điều kiện hoàn toàn và vô điều kiện thì thương vụ đó được coi là có hiệu lực. Vì vây, cần phải cân nhắc thật kỹ trước khi thể hiện ý chí trong bản còn lại. Ÿ Chấp nhận. Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của hoàn giá, chào hàng, đặt hàng để kết thúc quá trình hoàn giá. Đặc tính của bản chấp nhận là mang tính ràng buộc trách nhiệm pháp lý cao nhất khi có bốn điều kiện sau: ü Do chính người nhận giá chấp nhận là người giao dịch và phát ra bản chào giá, đặt hàng. ü Phải đồng ý hoàn toàn vô điều kiện tất cả các nội dung của bản chào giá, đặt hàng, hoàn giá. ü Phải chấp nhận trong thời gian hiệu lực của bản chào giá, đặt hàng hoặc hoàn giá. ü Chấp nhận phải được truyền đạt tới chính những người phát ra đề nghị. Ÿ Xác nhận Xác nhận là văn bản thống nhất những điều kiện đã thoả thuận mua bán có xác nhận của các bên tham gia. Đặc tính của xác nhận là có tính ràng buộc trách nhiệm pháp lý cao nhất đối với giao dịch kinh doanh. Chính vì vây, giai đoạn xác nhận là giai đoạn ký kết hợp đồng. Xác nhận thường được lập thành hại bản, bên lập xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản rồi gửi trả lại một bản. Bản xác nhận có thể soạn thảo là một văn bản thống nhất bao gồm các điều khoản và điều kiện quy định rõ nội dung, tính chất, hình thức của giao dịch mua bán hoặc là văn bản chấp nhận có hội tụ đủ bốn yếu tố chứng minh tính pháp lý của nó. FĐàm phán Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột nhằm đi đến thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hoặc nhiều bên. Thông thường người ta sử dụng ba hình thức sau để đàm phán: Ÿ Đàm phán qua thư tín: Đàm phán qua thư tín là việc đàm phán qua thư từ và điện tín, là phương thức các bên gửi cho nhau những văn bản để thoả thuận những điều kiện buôn bán. Đây là hình thức đàm phán chủ yếu để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu trong điều kiện hiện nay. So với việc gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí. Hơn nữa, trong cùng một lúc có thể trao đổi với nhiều khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Người viết thư có điều kiện để cân nhắc suy nghĩ, tranh thủ ý kiến nhiều người và có thể khéo léo giấu kín ý định thực sự của mình. Nhưng việc giao dịch qua thư tín đòi hỏi nhiều thời gian chờ đợi, có thể cơ hội mua bán tốt sẽ trôi qua. Còn việc sử dụng điện tín thì phần nào khắc phục được nhược điểm này. Ÿ Đàm phán qua điện thoại ( các phương tiện truyền thông ) Đàm phán qua điện thoại và các phương tiện truyền thông là hình thức giao dịch mà các bên chỉ tiếp cận được một dạng thức hình ảnh hoặc âm thanh hoặc cả hình ảnh lẫn âm thanh nhưng trong một cảnh tĩnh nhất định do đó người đàm phán phải có các nghiệp vụ sau: ü Phải có công tác chuẩn bị trước khi bước vào giao dịch, đàm phán. Phải chuẩn bị phương án đàm phán, mục tiêu đàm phán, bố trí không gian, khung cảnh khi đàm phán. ü Giai đoạn đàm phán phải trình bày ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiễu. Khi kết thúc đàm phán phải liệt kê và khẳng định những nội dung đã được thống nhất. ü Việc trao đổi qua điện thoại là việc trao đổi bằng miệng, không có gì là bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi, bởi vậy điện thoại chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết, thật khẩn trương, sợ lỡ mất thời cơ, hoặc trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận xong chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết. Ÿ Đàm phán qua gặp gỡ trực tiếp. Hình thức giao dịch này là một trao đổi ý kiến giữa các chủ thể nhằm đi đến thống nhất các điều kiện mua bán và giá cả trên cơ sở gặp mạt lẫn nhau. Trong giao dịch gặp gỡ trực tiếp các bên thường thể hiện rất nhiều thủ thuật đàm phán, lợi dụng bối cảnh đàm phán thể hiện khả năng của mình. Việc hai bên mua bán gặp gỡ trực tiếp nhau tạo điều kiện cho việc hiểu biết nhau tốt hơn và duy trì được mối quan hệ tốt, lâu dài với nhau. Đây là hình thức đàm phán khó khăn nhất trong ba hình thức đàm phán. Đàm phán trực tiếp đòi hỏi người tiến hành đàm phán phải chắc chắn về nghiệp vụ, phản ứng nhanh nhạy…để có thể tỉnh táo, bình tĩnh nhận xét, nắm được ý đồ, sách lược đối phương, nhanh chónh có biện pháp đối phó trong những trường hợp cần thiết hoặc quyết định ngay tại chỗ khi thời cơ đã chín muồi. Mất bình tĩnh, không tự chủ sẽ dễ lộ ý định của mình để đối phương nắm được. Mỗi lần gặp gỡ nhau thường tốn kém về chi phí đI lai, đón tiếp, quà cáp. Cho nên việc gặp gỡ nhau mà không đi đến kết quả là điều mà cả hai bên đều không mong muốn. Do vậy việc chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi tíên hành đàm phán trực tiếp là việc hết sức cần thiết. Tiến trình đàm phán gồm các bước sau: ÝChuẩn bị đàm phán: là quá trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đàm phán. Các nhà đàm phán phải chuẩn bị kĩ nội dung sau: © Chuẩn bị nội dung và xác định mục tiêu: trong nội dung cần xác định các phương án đàm phán, các mục tiêu cần đạt được, những mục tiêu cần ưu tiên tối đa các nỗ lực để đạt được. © Chuẩn bị số liệu thông tin về : Thông tin hàng hoá: tìm hiểu đặc điểm hàng hoá, công dụng, tính chất... các yêu cầu thị trường về mặt hàng đó như chủng loại kiểu mốt... Thông tin thị trường : bao gồm các thông tin kinh tế, chính trị, pháp luật ... Thông tin về đối tác: tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển, hình thức tổ chức, các mặt hàng kinh doanh... © Chuẩn bị nhân sự: là một vấn đề đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo. Thành phần nhân sự trong đàm phán gồm chuyên gia ở cả ba lĩnh vực: pháp lí, kĩ thuật, thương mại. Người đàm phán là người có năng lực, trình độ và kinh nghiệm tham gia các hoạt động giao dịch TMQT, có tinh thần sáng tạo, đầu óc phân tích, phán đoán, quyết đoán và phản ứng linh hoạt trước các tình huống, am hiểu hàng hoá, thị trường và đối tác đàm phán, có kĩ thuật và kĩ năng đàm phán TMQT. © Chuẩn bị thời gian, địa điểm: địa điểm đàm phán có thể lựa chọn ở nước người bán, nước người mua hoặc nước thứ ba. Phải chọn thời điểm tối ưu, và địa điểm đàm phán đảm bảo tâm lí thoải mái và phù hợp cho cả hai bên. © Chuẩn bị chương trình làm việc: cần có chương trình làm việc cụ thể, chi tiết và trao trước cho đối tác. ÝTiến hành đàm phán : Có 4 giai đoạn © Tiếp cận : Là giai đoạn mở đầu cho đàm phán, giành cho thảo luận những vấn đề nằm ngoài thương lượng để giới thiệu các bên. © Trao đổi thông tin : trong giai đoạn này, những người thương lượng cung cấp và thu nhận thông tin về nội dung các cuộc đàm phán để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo. Đây là giai đoạn quan trọng, các thông tin làm cho các bên hiểu được quan điểm, mục tiêu, quyền lợi của nhau, làm cơ sở phân tích, đưa ra các quyết định thuyết phục hay nhượng bộ để đàm phán đạt kết quả cao. © Thuyết phục : trên cơ sở các thông tin đã cung cấp và nhận được, người đàm phán phải tiến hành phân tích, so sánh mục tiêu, quyền lợi, điểm mạnh, điểm yếu của đối phương với mình để đưa ra chiến lược thuyết phục đối phương nhượng bộ theo quan điểm của mình, bảo vệ quyền lợi của mình làm đối phương chấp nhận các quan điểm lập trường của mình, thực hiện các mục tiêu đề ra. © Nhượng bộ và thoả thuận: kết quả của quá trình đàm phán là kết quả của sự thoả hiệp và nhượng bộ lẫn nhau. Sau giai đoạn thuyết phục sẽ xác định được những mâu thuẫn còn tồn tại, giữa các bên cần phải có sự nhượng bộ, thoả thuận thì mới đạt được thành công. Người đàm phán phải biết kết hợp chặt chẽ giữa nhượng bộ của mình và đối phương để đàm phán được thành công mà các bên đều có lợi, đặc biệt là đạt được mục tiêu đề ra. Kết thúc đàm phán : có thể xảy ra các trường hợp sau Ù Trong đàm phán đối phương không kí kết thoả thuận hoặc kết thúc bằng những thoả thuận bất hợp lý mà ta không thể chấp nhận được ... thì tốt nhất nên rút khỏi đàm phán, không nên bực tức nóng giận đổ lỗi cho đối phương mà tìm lý lẽ giải thích một cách hợp lí về việc ta không thể tiếp tục đàm phán mà vẫn giữ được mối quan hệ tốt đẹp . Ù Các bên tiến hành kí kết hợp đồng, hoặc các bên đã đạt được những thoả thuận nhất định và cần có những đàm phán tiếp theo mới có thể dẫn đến kí kết hợp đồng thì các bên phải xác nhận những thoả thuận đã đạt được. Sau mỗi cuộc đàm phán phải đánh giá kết quả cuộc đàm phán so với mục tiêu đã đề ra để rút ra những bài học kinh nghiệm cho những cuộc đàm phán tiếp theo. FKý kết hợp đồng Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, bên bán có nhiệm vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Bên mua có nhiệmvụ thanh toán toàn bộ số tiền theo hợp đồng. Hợp đồng có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp các bên ký vào hợp đồng. Các bên đó phải có địa chỉ pháp lý ghi rõ trong hợp đồng. Hợp đồng được coi như đã ký kết chỉ khi người tham gia có đủ thẩm quyền ký vào các văn bản đó, nếu không thì hợp đồng không được công nhận là văn bản có cơ sở pháp lý. Nhiều trường hợp có ký kết hợp đồng ba bên trở lên có thể thực hiện bằng tất cả các bên cùng ký vào một văn bản thống nhất hoặc bằng một văn bản hợp đồng tay đôi có trích dẫn trong từng hợp đồng đó với hai hợp đồng khác ( trích dẫn chéo ). Ngoài ra, hợp đồng mua bán có thể bằng miệng, hoặc một phần văn bản một phần bằng miệng, cũng có khi bằng hành động ra hiệu như ở sở giao dịch và bán đấu giá. Hợp đồng bằng miệng hay hành động ra hiệu chưa có văn bản thì sau đó phải làm văn bản xác nhận khi đã thoả thuận bằng miệng hay ra hiệu. Theo luật Thương mại Việt Nam quy định thì hình thức của hợp đồng nhập khẩu bắt buộc phải là văn bản. Khi soạn thảo hợp đồng cần tuân theo quy tắc 5 “C” đó là: Clear: rõ ràng Complete: đầy đủ, hoàn chỉnh Consise: ngắn gọn, xúc tích Correct: chính xác về chính tả và thông tin Courteous: lịch sự Trong phần nội dung của hợp đồng cần phải ghi rõ nội dung của các điều khoản hợp đồng đó là: tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Ngoài ra, còn có thể có các điều khoản khác như: khiếu nại, trọng tài,… Ở phần kết thúc hợp đồng cần phải nêu rõ số bản hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng để ký kết, giá trị pháp lý của bản hợp đồng, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, chữ ký và dấu của các bên tham gia hợp đồng. c. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và luật quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. Để thực hiện hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải tiến hành các khâu công việc sau đây: FXin giấy phép nhập khẩu Hàng hoá nhập khẩu phải được cấp giấy phép nhập khẩu để nhà nước quản lý. Đối với hàng hoá thông thường thì doanh nghiệp không phải xin giấy phép nhập khẩu mà chỉ làm một tờ khai hải quan gửi Bộ thương mại để lưu giữ và theo dõi. Hồ sơ cấp giấy phép nhập khẩu gồm có: hợp đồng nhập khẩu, phiếu hạn ngạch, L/C và các giấy tờ liên quan. Thủ tục cấp giấy phép được quy định trong thông tư số 21/KTĐV/VT ngày 23/10/1989. Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để nhập khẩu hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định, chuyên chở bằng một phương thức vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định. FThuê phương tiện vận tải Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc ai thuê tàu, thuê tàu theo hình thức nào được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau đây: - Điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng nhập khẩu. - Khối lượng hàng hoá và đặc điểm hàng hoá - Điều kiện vận tải Ngoài ra còn phải căn cứ vào các điều kiện khác trong hợp đồng nhập khẩu như: Quy định mức tải trọng tối đa của phương tiện, mức bốc dỡ, thưởng phạt bốc dỡ. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng là điều kiện CFR, CIF, CPT, CIP, DAF, DEQ, DDU, DDP thì người xuất khẩu phải tiến hành thuê phương tiện vận tải. Còn nếu điều kiện cơ sở giao hàng là EXW, FCA, FAS, FOB thì người nhập khẩu phải tiến hành thuê phương tiện vận tải. Trong trường hợp người nhập khẩu phải thuê phương tiện vận tải. Để thực hiện vận chuyển, người nhập khẩu phải thực hiện các nghiệp vụ sau: - Liên hệ với hãng tàu hoặc đại lý vận tải nhằm lấy lịch trình các chuyến tàu vận chuyển. - Điền vào mẫu đăng ký thuê vận chuyển ( thường được soạn sẵn) để thông báo nhu cầu cần vận chuyển. - Hãng tàu và người nhập khẩu sẽ lên hợp đồng về vận chuyển bao gồm những nội dung: loại hàng vận chuyển, thể tích, trọng lượng, cước phí, thời gian giao nhận, các điều khoản thưởng phạt do chậm chễ. - Hai bên thống nhất địa điểm, thời gian tiến hành giao nhận và thanh toán cước phí. Nếu thanh toán trước thì sẽ ghi trên vận đơn là đã thanh toán trước. Nếu thuê tàu chợ theo khoang và lưu cước phí gọi là thuê tàu lưu cước. FMua bảo hiểm hàng hoá Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Bảo hiểm là một sự cam kết của người bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm về những mất mát, hư hỏng, thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro đã thoả thuận gây ra với điều kiện người được bảo hiểm đã mua cho đối tượng đó một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Người nhập khẩu phải mua bảo hiểm theo các điều kiện khác nhau, có nhiều điều kiện bảo hiểm, trên thế giới và Việt Nam hiện nay thường áp dụng ba điều kiện bảo hiểm chính sau: Điều kiện bảo hiểm A : bảo hiểm mọi rủi ro Điều kiện bảo hiểm B : bảo hiểm có tổn thất riêng Điều kiện bảo hiểm C : điều kiện tối thiểu, bảo hiểm miễn tổn thất riêng Ngoài ra còn một số điều kiện bảo hiểm phụ, điều kiện bảo hiểm đặc biệt như chiến tranh, bảo hiểm đình công ... Khi mua bảo hiểm cho hàng hoá cần căn cứ vào ü Điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng: một nguyên tắc có tính cơ bản là rủi ro về hàng hoá trong quá trình vận chuyển thuộc về người xuất khẩu hay nhập khẩu thì người đó cần xem xét để mua bảo hiểm cho hàng hoá.(NgoạI trừ trường hợp CIP và CIF người bán phảI có nghĩa vụ bảo hiểm cho hàng hoá ở phạm vi tối thiểu). ü Hàng hoá vận chuyển : nếu lô hàng có giá trị lớn, dễ chịu tác động của quá trình bốc xếp vận chuyền làm hư hỏng, hao hụt, để tránh rủi ro cần bảo hiểm ở điều kiện A mới đáp ứng nhu cầu. Những hàng hoá khó có thể hư hỏng, mất mát cho dù có tác động từ bên ngoài thì có thể bảo hiểm ở điều kiện thấp hơn hoặc không cần bảo hiểm. ü Điều kiện vận chuyển : như loại phương tiện vận chuyền, chất lượng của phương tiện vận chuyển..., các yếu tố tác động trong quá trình bốc dỡ, vận chuyển...là các yếu tố tạo nên rủi ro cho hàng hoá mà chúng ta cần xem xét, phân tích để quyết định lựa chọn loại hình bảo hiểm cho phù hợp. Để thực hiện mua bảo hiểm hàng hoá, người nhập khẩu tiến hành các nghiệp vụ sau: - Lựa chọn và liên hệ với một công ty bảo hiểm nhằm thu thập thông tin và mua bảo hiểm. Điền mẫu đơn và gửi bảo hiểm hàng hoá. - Ký kết hợp đồng về những nội dung: Loại hàng hoá được bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, suất phí bảo hiểm, thời gian, địa điểm chi trả bảo hiểm, những điều kiện thưởng phạt, miễn trách, miễn thưởng ( nếu có) - Khi không biết giá CIF thì muốn mua suất phí bảo hiểm phải tính được giá CIF trên cơ sở số liệu đã có. - Thanh toán cước phí và nhận lấy đơn bảo hiểm làm chứng từ giao nhận hàng hoá. FLàm thủ tục hải quan Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm: - Mua tờ khai hải quan - Kê khai hải quan kèm với bộ chứng từ gồm: hợp đồng, phiếu đóng gói, hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận xuất xứ, vận đơn ( đã ký hậu hoặc giấy tờ chứng minh đã thanh toán…), giấy chứng nhận số lượng, chất lượng… - Mang tờ khai đến cửa khẩu thông quan hàng hoá nộp và xin giấy chấp nhận tờ khai - Đăng ký thời gian và lịch trình cho cán bộ kiểm hoá kiểm tra - Trình bộ hồ sơ cùng hải quan kiểm hoá ký biên bản và ký vào tờ khai kiểm hoá để hàng hoá được thông qua Nội dung cần phải kê khai Công ty phải kê khai những mục sau: - Người xuất khẩu với đầy đủ địa chỉ - Người nhập khẩu với đầy đủ địa chỉ ( kê khai cả mã số thuế xuất nhập khẩu) - Phương tiện vận chuyển: tên, số hiệu phương tiện, ngày khởi hành, ngày đến cảng, số vận đơn, cảng bốc hàng, cảng dỡ hàng, số giấy phép ( nếu có), số hợp đồng, ngày tháng ký hợp đồng, cửa khẩu thông quan hàng hoá, loại hình mua bán kinh doanh. - Khai tên nước xuất khẩu và nhập khẩu, điều kiện và cơ sở giao hàng, số lượng mặt hàng, phương thức thanh toán, loại hình thanh toán, tỷ giá thanh toán, tên hàng ghi chính xác theo hợp đồng và hoá đơn, xuất xứ, số lượng và trọng lượng. - Khai các chứng từ kém theo, ký tên và đóng dấu Đối với hải quan sẽ phải kiểm tra mã số xuất nhập khẩu, tự tính thuế và cử cán bộ kiểm tra trên thực tiễn Đối với tờ khai hải quan không được phép dùng hai loại mực FGiao nhận hàng hoá Đối với việc nhận hàng thì gồm rất nhiều hình thức tuỳ vào phương thức chuyên chở hàng hoá, gồm có: Giao nhận hàng từ tàu biển. Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng container. Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường sắt Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường bộ. Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không. Giao nhận hàng chuyên trở bằng tầu biển: Khi có thông báo tầu cập cảng đến doanh nghiệp nhập khẩu khẩn trương thực hiện việc giao nhận hàng hoá Nhập khẩu với tàu vận chuyển bằng cách trực tiếp hoặc uỷ thác cho cơ quan vận tải cảng thực hiện giao nhận, bao gồm các bước: Chuẩn bị các chứng từ để nhận hàng Ký hợp đồng uỷ thác cho cơ quan ga, cảng về việc ra nhận hàng hoá từ nước ngoài về. Xác nhận với cơ quan ga, cảng về kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Cung cấp tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hoá như vận đơn ,lệnh giao hàng. Tiến hành nhận hàng: Nhận về số lượng, xem xét sự phù hợp về tên hàng, chủng loại, kích thước, thông số kỹ thuật, chất lượng bao bì, ký mã hiệu của hàng hoá so với yêu cầu đã thoả thuận trong hợp đồng. Kiểm tra, giám soát việc giao nhận, phát hiện các sai phạm và giải quyết các tình huống phát sinh. Thanh toán chi phí giao nhận, bốc xếp, bảo quản hàng hoá cho cơ quan vận tải. Giao nhận hàng chuyên trở bằng container: bao gồm các bước: Nhận vận đơn và các chứng từ khác Trình vận đơn và các chứng từ khác( hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói …) cho hãng tàu để đổi lấy lệnh giao hàng (D/O). Nhà nhập khẩu đến trạm hoặc bãi container, người nhập khẩu muốn nhận container về kiểm tra tại kho riêng thì trước đó phải làm đơn đề nghị với cơ quan hải quan, đồng thời đề nghị với hãng tàu để mượn container. Khi được chấp thuận, chủ hãng kiểm tra niêm phong, kẹp chì của container, vận chuyển container về kho riêng, sau đó hoàn trả container rỗng cho hãng tàu. Giao nhận hàng chuyên chở bằng đường sắt: Nếu hàng đầy toa xe, người nhập khẩu nhận cả toa xe, kiểm tra niêm phong kẹp chì, làm thủ tục hải quan, dỡ hàng, kiểm tra hàng hoá và tổ chức vận chuyển hàng hoá về kho riêng. Nếu hàng hoá không đủ toa xe riêng, người nhập khẩu nhận hàng tại trạm giao hàng của ngành đường sắt, tổ chức vận chuyển hàng hoá về kho riêng. Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường bộ: Nếu tại cơ sở của người nhập khẩu( thường là đầy một xe hàng), nếu người nhập khẩu chịu trách nhiệm dỡ hàng xuống và nhận hàng. Nếu tại cơ sở của người vận tải, người nhập khẩu phải kiểm tra hàng và tổ chức vận chuyển về kho của mình. Giao nhận hàng chuyên chở bằng đường hàng không: Người nhập khẩu nhận hàng tại trạm giao nhận hàng không, tổ chức vận chuyển hàng về kho riêng của mình. FKiểm tra hàng hoá nhập khẩu Hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải được kiểm tra. Mỗi cơ quan tiến hành kiểm tra theo chức năng, quyền hạn của mình. Nếu phát hiện thấy dấu hiệu không bình thường thì mời bên giám định đến lập biên bản giám định. Cơ quan giao thông kiểm tra niêm phong, kẹơ trì trước khi dỡ hàng ra khỏi phương tiện vận tải. Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn cũng phải kiểm tra hàng hoá và lập dự thư, dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự hàng hoá có tổn thất, thiếu hụt hoặc không theo hợp đồng FLàm thủ tục thanh toán Trong ngoại thương hợp đồng quy định phương thức thanh toán nào thì người mua( người nhập khẩu) phải tiến hành theo phương thức đó. üĐồng tiền thanh toán: Tuỳ vào sự thoả thuận của hai bên dùng đồng tiền thanh toán của nước nào, nhưng phổ biến trong các hợp đồng là dùng ngoại tệ mạnh như đồng USD. üPhương thức thanh toán: Hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán bao gồm phương thức tín dụng chứng từ, phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền, phương thức giao chứng từ trả tiền. Phương thức tín dụng chứng từ ( L/C ): Phương thức tín dụng chứng từ là một thể thức thanh toán trong đó ngân hàng phục vụ người nhập khẩu theo yêu cầu của người nhập khẩu sẽ tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu khi người xuất khẩu xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung trong thư tín dụng. Để mở L/C, người nhập khẩu phải đến ngân hàng làm đơn xin mở L/C (Theo mẫu in sẵn từng ngân hàng). Đơn xin mở L/C là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp (nếu có) giữa ngân hàng mở L/Cvà người xin mở L/C, đồng thời cũng là cơ sở để ngân hàng tiến hành mở L/C cho bên xuất khẩu. Vì thế người nhập khẩuphải lập đơn chính xác, đúng mẫu. Ngoài đơn xin mở L/C, cùng với các chứng từ khác, người nhập khẩu phải đồng thời tiến hành ký quỹ số tiền ký quỹ phụ thuộc vào từng mặt hàng, mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Phương thức nhờ thu: Phương thức nhờ thu là phương thức người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sẽ kí phác hối phiếu đòi tiền người mua nhờ ngân hàng thu hộ số tiền đó. Có hai phương thức nhờ thu: üNhờ thu phiếu trơn: phiếu thu không kèm chứng từ. üNhờ thu kèm chứng từ: người bán sau khi giao hàng sẽ chuẩn bị chứng từ gửi đến cho ngân hàng nhờ thu tiền hộ. Trong trường hợp này, khi người mua muốn có những chứng từ để di nhận hàng thì phải : Trả tiền để nhận chứng từ: D/P Chấp nhận trả tiền để nhận chứng từ: D/A Phương thức chuyển tiền: Là phương thức người bán sau khi giao hàng thì chuyển trực tiếp chứng từ cho người mua để người mua nhận hàng. Người mua sau khi kiểm tra chứng từ thấy phù hợp thì yêu cầu ngân hàng của mình thanh toán tiền cho người bán. Ngân hàng của người mua lệnh cho đại lý của mình tại nước người bán trả tiền cho người bán. Phương thức chuyển tiền này bao gồm : üChuyển bằng thư . üChuyển tiền bằng điện. Phương thức giao chứng từ trả tiền: Khi đến kỳ hạn thanh toán, người nhập khẩu đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu thực hiện dịch vụ CAD hoặc COD lý một văn bản ghi nhớ, đồng thời thực hiện ký quý 100% giá trị của thương vụ để lập tài khoản ký thác. Sau khi ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ do người xuất khẩu chuyển tới nếu thấy phù hợp thì ngân hàng chấp nhận chứng từ và thanh toán cho bên xuất khẩu, đồng thời chuyển chứng từ đúng cho người nhập khẩu để tiến hành nhận hàng. FKhiếu nại và giải quyết khiếu nại ( nếu có) Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu phát hiện ra hàng có sai sót về mặt số lượng hoặc bất cứ tình trạng không bình thường phải mời ngay các cơ quan hữu quan như chủ tàu, nhân viên cảng biển, cán bộ giám định( nếu có) trực tiếp làm các biên bản hàng đổ vỡ, hàng kém chất lượng để làm chứng từ khiếu kiện sau này. Bộ chứng từ khiếu kiện bao gồm: + Đơn khiếu kiện, khiếu nại + Hợp đồng ngoại thương + Biên bản sai phạm + Các chứng từ liên quan hoặc mẫu hàng kém chất lượng. Tuỳ theo nội dung khiếu nại mà người nhập khẩu và bên bị khiếu nại có các cách giải quyết khác nhau. Nếu không tự giải quyết được thì làm đơn gửi trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế theo quy định trong hợp đồng. 3. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu Thực hiện hợp đồng nhập khẩu là một loạt các hoạt động của doanh nghiệp để tiến hành nhập khẩu hàng hoá vào một quốc gia theo những quy định và thủ tục của quốc gia bao gồm việc xin giấy phép nhập khẩu, tiến hành làm thủ tục thanh toán, thủ tục hải quan, giao nhận hàng hoá, giám định và kiểm tra chất lượng. Các chứng từ thường sử dụng trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng: Hoá đơn thương mại ( commercial invoice ): Là chứng tư cơ bản phục vụ cho công tác thanh toán. Nó là yêu cầu của người bán đòi hỏi người mua phải trả số tiền đã được ghi trên hoá đơn. Thông thường hoá đơn thương mại được lập thành nhiều bản và được dùng trong nhiều việc khác nhau. Bảng kê chi tiết ( specification ): là chứng từ về chi tiết hàng hoá trong kiện hàng. Phiếu đóng gói ( packing list ): là bảng kê khai tất cả các hàng hoá đựng trong một kiện hàng. Giấy chứng nhận số lượng ( certificate of quantity ): và giấy chứng nhận trọng lượng (certificate of weight ): là giấy chứng nhận về số lượng và trọng lượng hàng hoá thực giao, do tổ chức kiểm hàng hoá nhập khẩu cấp. Giấy chứng nhận phẩm chất (certificate of quality ):là chứng nhận xác nhận chất lượng hàng hoá thực giao. Giấy chứng nhận kiểm dịch và giấy chứng nhận vệ sinh: do cơ quan có thẩm quyền nhà nước cấp. Giấy chứng nhận xuất xứ ( certificate of origin ): do tổ chức có thẩm quyền cấp. Chứng từ vận tải : gồm có Chứng từ bảo hiểm: là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp nhằm hợp thức hoá hợp đồng bảo hiểm. Chứng từ bảo hiểm thường được dùng là đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm: là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp, bao gồm những điều khoản chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm . Giấy chứng nhận bảo hiểm: do tổ chức bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm để xác nhận một lô hàng nào đó đã được bảo hiểm theo điều kiện của một hợp đồng dài hạn. II. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện quy trình nhập khẩu của công ty TNHH TM & XNK Đại Thịnh Hoạt động thương mại nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng đều chịu ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau như: kinh tế, chính trị, luật pháp văn hoá, xã hội… Các yếu tố này sẽ gây ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh. Nhìn chung ta có thể chia thành các yếu tố bên trong doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. 1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp a. Các nhân tố bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính Cần phải có một bộ máy quản lý, lãnh đạo hoàn chỉnh, không thừa, không thiếu và tổ chức phân cấp quản lý, phân công lao động trong mỗi doanh nghiệp sao cho phù hợp. Nếu bộ máy cồng kềnh không cần thiết sẽ làm cho việc kinh doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả và ngược lại. Bắt đầu khởi nghiệp Công ty Đại Thịnh chỉ có khoảng 10 thành viên. Sau hơn ba năm phát triển cùng với sự nỗ lực làm việc của tất cả mọi thành viên, và với định hướng phát triển mở rộng thị trường qua ba miền Bắc, Trung, Nam thì cho đến nay Công ty Đại Thịnh đã phát triển ngày càng vững mạnh với số lượng nhân viên lên đến gần năm mươi người; từ chỗ chưa có bộ máy tổ chức đã có cơ cấu tổ chức rõ ràng với các phòng kinh doanh, phòng Xuất nhập khẩu, phòng kế toán tài chính, phòng tổ chức nhân sự, phòng hành chính… b. Nguồn tài chính Nguồn tài chính là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng sản xuất kinh doanh, cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm: vốn chủ sở hữu hay vốn tự có và các nguồn có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp mà còn bao gồm các khoản vay, các khoản thu nhập sẽ có trong tương lai. Nếu thiếu nguồn tài chính cần thiết, các doanh nghiệp có thể bị phá sản bất cứ lúc nào. Trong kinh doanh, tài chính được coi là vũ khí sắc bén để chiếm lĩnh thị trường và thôn tính các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay Dai Thinh Imex đang hoạt động với vốn điều lệ là 6.000.000.000 VNĐ (Sáu tỷ Việt Nam đồng). Với đối tượng khách hàng là các Doanh nghiệp lớn, các hệ thống Siêu thị lớn nhỏ, các Đại lý, các Bệnh viện lớn …có uy tín. Đồng thời Công ty có nhiều năm hoạt động kinh doanh hiệu quả và hoạt động tài chính minh bạch. DAI THINH IMEX CO.,LDT đã trở thành “khách hàng vàng “ của ngân hàng ACB với nhiều ưu đãi trong việc hỗ trợ vốn kinh doanh cho Công ty. Được sự hỗ trợ đắc lực của Ngân hàng ACB đã giúp cho Công ty Đại Thịnh luôn có nguồn lực tài chính đủ mạnh để thục hiện được nhiều dự án kinh doanh của mình. c. Nhân tố về con người Con người là trung tâm hoạt động xã hội và mọi hoạt động kinh doanh đều nhằm phục vụ con người ngày một tốt hơn. Vì vậy, muốn hoạt động kinh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2250.doc