Hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương Mại Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Phần mở đầu Kể từ năm 1986, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VIII, Đảng ta nhận định rằng nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước ta là: Xây dựng Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hi

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương Mại Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được những mục tiêu trên thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đó là việc phát huy những tiềm lực kinh tế trong nước kết hợp với việc "đi tắt, đón đầu" nắm bắt những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Việt Nam ở vào khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, lại nằm trên các tuyến giao thông quốc tế quan trọng có nhiều cửa ngõ thông ra biển thuận lợi. Do đó ta có lợi thế để mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển thương mại, dịch vụ,... Quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới cộng với quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật đang ngày càng phát triển. Với đường lối cởi mở và đổi mới, ta có thể tận dụng được những khả năng to lớn về vốn, thị trường và công nghệ để bổ sung và phát huy sức mạnh trong nước. Một trong những nhân tố để phát triển kinh tế chính là việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Đây có thể coi là một nhân tố cơ bản và vô cùng quan trọng đối với bất kỳ nước nào muốn đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII cũng đã chỉ rõ: "Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động nhiều nguồn vốn gắn với việc sử dụng có hiệu quả. Trong đó, nguồn vốn trong nước là quyết định và nguồn vốn bên ngoài là quan trọng". Huy động và sử dụng vốn, đó chính là đặc điểm cơ bản nhất của các ngân hàng thương mại. Điều đó có nghĩa là hoạt động của hệ thống ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng thương mại chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hệ thống ngân hàng đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngay khi mới ra đời nó đã chứng tỏ vai trò quan trọng không thể thiếu của mình trong nền kinh tế. Các ngân hàng trung gian trong đó có ngân hàng thương mại ngày càng phát triển và mở rộng với nhiều loại hình phong phú đa dạng. Các nghiệp vụ ngân hàng cũng thường xuyên được nâng cấp, đổi mới và tăng thêm nhiều dịch vụ nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của khách hàng bao gồm cả những tổ chức và cá nhân thuộc đủ các thành phần kinh tế. ở Việt Nam, sau 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng: tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm1990. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do sự tan rã của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Đặc biệt, chúng ta đã không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á mặc dù hậu quả của nó đối với nước ta cũng khá nặng nề. Đạt được những kết quả trên có sự đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng. Đó là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng hệ thống ngân hàng nước ta còn nhiều tồn tại, khó khăn. Như dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng đã viết: "Hệ thống tài chính - ngân hàng của nước ta còn nhiều mặt yếu kém và chưa lành mạnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư chậm và chưa hợp lý. Đầu tư cho phát triển còn bị phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều, làm cho hiệu quả sử dụng đồng vốn, nhất là vốn từ ngân sách Nhà nước, còn thấp. Nguồn vốn trong dân chưa được huy động đúng mức. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm nhiều, trong khi công tác quản lý, điều hành lĩnh vực này còn nhiều vướng mắc và khuyết điểm". Điều này một lần nữa khẳng định việc đổi mới và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng thương mại là vô cùng cần thiết và cấp bách. Hiện nay, các ngân hàng thương mại với chức năng hoạt động của mình đóng vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình điều tiết và phát triển nền kinh tế thị trường, tạo sự cân đối vĩ mô giữa tiết kiệm và tiêu dùng, giữa tích luỹ và đầu tư, giữa thu nhập và phân phối trong nền kinh tế. Vì lẽ đó, công cuộc đổi mới trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại được rất nhiều các nhà kinh tế cũng như các nhà quản lý quan tâm, nghiên cứu. Trên các báo cáo kinh tế như tờ Thời báo kinh tế hay một số báo chuyên ngành như Tạp chí ngân hàng, Thời báo ngân hàng, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng,... có đăng rất nhiều bài báo về những ưu điểm cũng như những tồn tại của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, họ cũng nêu lên những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng phục vụ của hệ thống ngân hàng. Đó cũng chính là những lý do khiến cho em chọn đề tài: "Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" để nghiên cứu, bài viết của em bao gồm ba nội dung chính: Chương I: Lý luận chung về ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Mặc dù đã hết sức cố gắng, song do trình độ và khối lượng kiến thức có hạn nên em không thể nêu lên đầy đủ thực tế những gì đang diễn ra trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Do đó, bài viết này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo cũng như sự góp ý của các bạn để em có thể hoàn thành tốt hơn những bài viết lần sau. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn. Chương I Lý luận chung về ngân hàng thương mại I. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, hệ thống ngân hàng cũng được hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu tất yếu của đời sống kinh tế. Ngay từ thời thượng cổ, các ngân hàng sơ khai đầu tiên đã xuất hiện và đến nay, phát triển thành cả một hệ thống phong phú, đa dạng và ngày càng hiện đại ở hầu hết các nước trên thế giới. Về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với tư bản cho vay lấy lãi. Hoạt động ngân hàng với các nghiệp vụ truyền thống: nhận gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ cho khách hàng ra đời khi quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá của xã hội đã phát triển ở mức độ cao. Ta có thể xem xét quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng qua 4 giai đoạn. 1. Thời kỳ hoạt động của các ngân hàng sơ khai Từ 3500 năm trước công nguyên đến 1800 năm trước công nguyên là giai đoạn của các ngân hàng sơ khai. Nghiệp vụ ban đầu của nghề kinh doanh tiền tệ là nhận giữ tiền vàng và các tài sản có giá trị khác được thực hiện bởi các nhà kinh doanh, các lãnh chúa và nhà thờ. Người gửi tiền sẽ nhận được một tờ biên lai làm căn cứ để xác định quyền sở hữu và trả lệ phí gửi tiền. Dần dần, những người gửi tiền nhận ra rằng: thay vì sử dụng tiền kim loại với kho bảo quản và vận chuyển khó khăn, họ có thể sử dụng các loại giấy chứng nhận quyền sở hữu vàng để thanh toán. Người nhận các chứng thư này không gặp khó khăn gì trong việc chuyển chúng sang tiền mặt. Việc thanh toán cũng dễ dàng hơn nếu hai người gửi tiền ở cùng một nơi. Như vậy chức năng ban đầu của ngân hàng chính là người tổ chức trung gian thanh toán. Đây cũng là mầm mống đầu tiên của nghiệp vụ phát hành dấu hiệu giá trị. Mặt khác, những người nắm giữ tiền cũng nhận thấy rằng: trong cùng một khoảng thời gian, có một số người đến đổi chứng thư lấy tiền nhưng cũng có những người khác gửi tiền vào. Sự bổ sung qua lại giữa lưu lượng gửi vào và rút ra làm xuất hiện một lượng tiền nhàn rỗi trong kho. Điều đó chứng tỏ những người thợ vàng giờ đây chỉ cần dự trữ tiền mặt với một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi, phần còn lại có thể sử dụng để cho vay. Các nhà kinh doanh tiền tệ bắt đầu tập hợp, thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội để đem cho người khác vay. Các hoạt động tương tự như vậy đã tồn tại từ thời Ai Cập cổ đại. Chẳng hạn, ở Ai Cập, các nghiệp vụ ngân hàng đã xuất hiện từ 2700 năm trước công nguyên, còn ở Hy Lạp thời kỳ chiếm hữu nô lệ, việc quản lý tài chính gắn liền với thánh đường lớn. ở Roma (Italia) hiện tượng cho vay cầm cố xuất hiện khoảng 500 năm trước công nguyên. Đến khoảng 200 năm trước công nguyên thì Roma đã trở thành trung tâm tài chính chủ yếu ở vùng Địa Trung Hải. Do đó, có thể nói rằng, xứ sở của lĩnh vực ngân hàng là vùng Bắc Italia. Vào thời kỳ này, những ngân hàng có hoạt động mạnh nhất và có ảnh hưởng lớn nhất là những ngân hàng mà hoạt động của nó gắn liền với sự lãnh đạo của giáo hội Thiên chúa giáo. Đến đây, các ngân hàng đã bắt đầu tham gia vào quá trình cung ứng tiền. 2. Từ thế kỷ V đến thế kỷ XVII Đây là giai đoạn phát triển và hoàn thiện các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại. Các nghiệp vụ ghi chép sổ sách, hình thành các số hiệu tài khoản, chi tiết đến đối tượng cho vay, mục đích cho vay cũng như nguồn vốn cho vay - tiền thân của kế toán ngân hàng ra đời từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ X. Cũng trong thời gian này, hoạt động thanh toán bù trừ ở dạng sơ khai trong cùng một ngân hàng đã bắt đầu phát triển và sau đó là hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng. Vào khoảng cuối thế kỷ thứ X, nghiệp vụ chuyển ngân và bảo lãnh hình thành. Sau đó, vào giai đoạn từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVII nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu bắt đầu phát triển. Cho đến thế kỷ thứ XVII, các nghiệp vụ của một ngân hàng kinh doanh đã hoàn thiện, bao gồm: - Nhận gửi, cho vay - Phát hành tiền - Chiết khấu thương phiếu - Chuyển ngân, thanh toán, bù trừ và bảo lãnh. Động lực chủ yếu của quá trình phát triển nhanh chóng này là sự lớn mạnh không ngừng của các hoạt động thương mại trong từng quốc gia cũng như quốc tế cùng với việc tìm ra Châu Mỹ và các vùng đất mới. Một ngân hàng có hoàn chỉnh các nghiệp vụ này đã hình thành đầu tiên ở Hà Lan vào năm 1609. Sau đó là ngân hàng Thuỵ Điển 1656, hệ thống ngân hàng Anh vào năm 1694, hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ vào năm 1791 và ngân hàng Pháp vào năm 1800. 3. Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX ở giai đoạn này, các ngân hàng thực sự được công nhận như một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và phát hành tiền dưới dạng các chứng thư và kỳ phiếu thay cho vàng. Hoạt động này thực sự bắt đầu từ thời kỳ ngân hàng sơ khai trước công nguyên. Khi đó, các kỳ phiếu ngân hàng chỉ được phát hành mỗi khi có khoản tiền vàng thực sự được gửi vào ngân hàng. Khả năng chuyển đổi kỳ phiếu ra vàng rất dễ làm cho nó được chấp nhận không hạn chế trong lưu thông như một hình thức tiền tệ. Tuy nhiên, đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng bắt đầu lợi dụng ưu thế của mình để phát hành một khối lượng lớn các kỳ phiếu tách rời khỏi dự trữ vàng, để cho vay, điều này đe doạ dự trữ vàng và khả năng chuyển đổi ra tiền mặt của các kỳ phiếu được phát hành. Vì tất cả các ngân hàng đều có quyền phát hành tiền nên Nhà nước không thể kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông và càng không thể kiểm soát được tính chất đảm bảo của lượng tiền lưu thông đó. Mặt khác, mỗi ngân hàng có quy mô hoạt động, uy tín và khả năng ảnh hưởng khác nhau trên công chúng bắt đầu có sự lựa chọn kỳ phiếu được phát hành bởi những ngân hàng khác nhau. Kết quả là, các kỳ phiếu do các ngân hàng lớn có uy tín phát hành dần dần chiếm lĩnh thị trường và đẩy kì phiếu của các ngân hàng khác nhỏ hơn ra khỏi lưu thông. Đồng thời, sang thế kỷ 18, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc làm cho trong lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Tình trạng này kéo dài gây sự bất ổn định trong lưu thông tiền tệ và Nhà nước buộc phải can thiệp nhằm thiết lập trật tự và sự thống nhất cho việc phát hành tiền và đảm bảo an toàn cho các giấy chứng nhận nợ của ngân hàng. Kết quả của sự can thiệp này là hệ thống ngân hàng lớn được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành. Nhóm thứ hai bao gồm các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế gọi là các ngân hàng trung gian. Chúng được quyền mở tài khoản và thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng phát hành, biến ngân hàng phát hành thành trung tâm thanh toán. 4. Từ đầu thế kỷ XX đến nay. Thời kỳ đầu khi mới thực hiện sự phân hoá hệ thống ngân hàng, các ngân hàng trung gian thực hiện tất cả các hoạt động của nó như nhận tiền gửi, cho vay và làm các dịch vụ thanh toán. Ban đầu chúng chủ yếu nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn ngắn và cho vay ngắn hạn. Về sau, các ngân hàng này thực hiện cả cho vay trung và dài hạn bằng nguồn vốn trung và dài hạn do huy động tiền gửi trung hạn, dài hạn và phát hành trái khoán. Đây cũng là giai đoạn hoàn thiện hoạt động của ngân hàng phát hành về tổ chức, chức năng đồng thời là giai đoạn thành lập một loạt ngân hàng trung ương mới. Trước hết, đó là sự tách rời chức năng độc quyền phát hành ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ trực tiếp với công chúng, được thực hiện đầu tiên bởi các ngân hàng Anh và sau đó là các ngân hàng của các nước khác, nhằm hoàn thiện chức năng quản lý của ngân hàng trung ương. Từ năm 1920, hàng loạt các ngân hàng trung ương mới được thành lập và ngay lập tức đã mang đầy đủ bản chất của một ngân hàng trung ương vì sự cần thiết của nó đã được chứng minh một cách thuyết phục qua kinh nghiệm của các ngân hàng trung ương đang hoạt động. Trước chiến tranh thế giới thứ 2, phần lớn các ngân hàng phát hành là ngân hàng tư nhân hoặc cổ phần, vai trò kiểm soát, điều tiết các hoạt động kinh tế của Nhà nước thông qua ngân hàng là hết sức hạn chế. Vì thế sau chiến tranh thế giới thứ hai, phần lớn các ngân hàng trung ương được quốc hữu hoá trở thành ngân hàng của Nhà nước. Đây là thời kỳ bắt đầu hoạt động của các ngân hàng trung ương hiện đại với các chức năng: độc quyền phát hành tiền; là ngân hàng của các ngân hàng; là ngân hàng của Chính phủ và thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô: thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính. ở giai đoạn này, hệ thống các ngân hàng trung gian cũng phát triển thêm nhiều nghiệp vụ hiện đại: bảo lãnh và uỷ thác,... đồng thời có nhiều loại hình mới ra đời. Trước đây, các ngân hàng chỉ có tên gọi chung là ngân hàng thương mại sau này mới gọi là các trung gian tài chính. Trước năm 1960, các ngân hàng thương mại đều có những hoạt động giống nhau nhưng trong đó có một số ngân hàng thì Nhà nước quy định không được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn. Sau năm 1960, tất cả các ngân hàng đều được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn. Do đó, ranh giới giữa các loại ngân hàng trở nên rất mỏng manh, khó phân định. II. Khái niệm ngân hàng thương mại. 1. Khái niệm * ở một số nước trên thế giới - Mỹ: ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính. - Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay những hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. - ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. - Thổ Nhĩ Kỹ: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn được thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác. * ở Việt Nam: Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-90 của Hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". 2. Đặc điểm. Mặc dù ở mỗi quốc gia lại có những định nghĩa khác nhau nhưng tựu chung lại thì ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau: - Ngân hàng thương mại được phép nhận tất cả các loại tiền gửi khác nhau: tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, trái phiếu,... - Ngân hàng thương mại được phép cung cấp các dịch vụ thanh toán (qua ngân hàng) do được nhận tiền gửi không kỳ hạn. - Tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của nó. - Tổng tài sản có của ngân hàng thương mại luôn là khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Đó là lý do tại sao người ta vẫn tách ngân hàng thương mại ra thành một nhóm riêng trong khi ranh giới phân biệt nó với các tổ chức tiết kiệm khác ngày càng bị xoá nhoà. - Do quy mô hoạt động lớn nên ngân hàng thương mại là đối tượng hàng đầu cần kiểm soát của ngân hàng trung ương. Mục đích là để ổn định tiền tệ và tránh sự phá sản theo hệ thống của các ngân hàng. III. Chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có 3 chức năng chính: 1. Chức năng trung gian tín dụng. Xuất phát từ những cơ sở khách quan mà ngân hàng thương mại cũng như các ngân hàng trung gian khác thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Đó là đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã hội đã phát sinh hiện tượng trong cùng một lúc có những xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân có vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng (như tiền bán hàng chưa mua nguyên vật liệu mới, tiền trích khấu hao chưa sử dụng, tiền lương chưa đến kỳ trả,...). Ngược lại, có những doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vốn cần bổ sung trong một thời gian ngắn (như doanh nghiệp cần mua nguyên vật liệu nhưng chưa bán được sản phẩm, cá nhân cần tiền cho nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị nhưng tiền tích luỹ còn hạn chế,...). Mâu thuẫn này cần được giải quyết để tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế và được thỏa mãn bằng quan hệ tín dụng trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngoài ra, do đặc thù yêu cầu của tiết kiệm và đầu tư: người tiết kiệm không muốn rủi ro nhưng lại muốn có thu nhập cao còn người đầu tư lại muốn có nguồn vốn cao và chi phí vay vốn thấp, cho nên cần phải có vai trò của người trung gian để đáp ứng yêu cầu của cả 2 bên, đồng thời cũng do hạn chế trong việc phân phối vốn một cách trực tiếp. Vì vậy ngân hàng cần đứng ra làm trung gian để chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu tạm thời. Sở dĩ ngân hàng làm được chức năng này vì nó là một cơ quan chuyên trách, chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết được tình hình cung cầu tín dụng. Đó là nơi mà khách hàng có thể tin tưởng được trong việc gửi tiền. Thông qua việc thu hút tiền gửi với một khối lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu cả về khối lượng vốn cho vay và thời gian cho vay. Như vậy ngân hàng làm chức năng tín dụng khi nó là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn. Chức năng này được thực hiện bằng cách huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Điều này cũng có nghĩa là ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế. Đây chính là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự duy trì và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng sau. 2. Chức năng trung gian thanh toán. Thực chất ngân hàng thương mại thực hiện chức năng thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu chi. Đó chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian thanh toán. Hơn nữa, do việc thanh toán bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế và khó khăn, đó là rủi ro cao do phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn đặc biệt là đối với các khách hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Nội dung của chức năng trung gian thanh toán là các ngân hàng thương mại mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Khi có yêu cầu, ngân hàng sẽ thực hiện thanh toán cho khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu do bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải quản lý tài khoản cho khách hàng của họ. ở đây, ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của khách hàng, chi tiền cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì chức năng này càng được phát huy, việc thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng. Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng có thể lựa chọn cho mình những phương thức thanh toán phù hợp với các công cụ thanh toán thuận lợi như: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,... Việc hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, đối với bản thân các ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có của tài khoản tiền gửi khách hàng chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. Nhìn vào hệ thống thanh toán của ngân hàng thương mại, người ta có thể đánh giá ngay được hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại có hiệu quả hay không. Việc thu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng thương mại và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của ngân hàng thương mại mới được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ của xã hội. 3. Chức năng tạo tiền Sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán chính là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Sự ra đời của các ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển về chất trong kinh doanh tiền tệ. Nếu như trước đây, các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận tiền gửi (tiền vàng, bạc) rồi cho vay bằng chính những đồng tiền đó, thì kể từ khi các ngân hàng ra đời, việc cho vay không nhất thiết phải là tiền vàng, bạc, mà họ nhận được từ người gửi. Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các chủ ngân hàng đã phát hiện ra giấy chứng nhận tiền gửi - tín phiếu được khách hàng sử dụng để chi trả các khoản nợ. Vì vậy, tiền giấy chuyển đổi ra vàng được các ngân hàng đưa vào lưu thông qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền bàng hoặc bạc. Đây là phát minh có giá trị nhất trong lịch sử hoạt động của việc kinh doanh tiền tệ. Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền giao dịch. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ,... Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Đó cũng cũng là một phát minh lớn trong hoạt động ngân hàng. ở đây, chính việc cho vay đã tạo ra tiền gửi. Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán. Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, ngân hàng thương mại phải làm chức năng trung gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng thì số tiền trên tài khoản này mới là bộ phận của lượng tiền giao dịch. Trước đây, sự phân biệt giữa ngân hàng thương mại với các ngân hàng trung gian khác chính là chức năng thanh toán và chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Ngày nay, hầu hết các ngân hàng trung gian đều được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn, làm trung gian thanh toán và do vậy có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Sự phân biệt các loại hình ngân hàng trung gian chủ yếu dựa vào tài sản có, mục đích cho vay và đầu tư. Với chức năng tạo tiền, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả xã hội. Rõ ràng khái niệm về "tiền", "tiền giao dịch" không chỉ là giấy bạc do ngân hàng trung ương của mỗi nước phát hành ra mà bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra. ở Việt Nam, tỷ lệ này ngày càng tăng. Đến năm 1998, tỷ lệ tiền gửi thanh toán so với tiền giao dịch là 50,2%, tăng gần 3% so với năm 97 (47,7%). Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Có thể nói, các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó, chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thương mại thực hiện tốt chức năng thanh toán và chức năng tạo tiền thì lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng và mở rộng hoạt động tín dụng. IV. Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại có 2 nghiệp vụ chính là: nghiệp vụ thuộc tài sản nợ và nghiệp vụ thuộc tài sản có. 1. Nghiệp vụ thuộc tài sản nợ. Tài sản nợ của ngân hàng thương mại bao gồm các khoản mục chủ yếu là: vốn tiền gửi, vốn đi vay và vốn của ngân hàng. 1.1. Vốn tiền gửi. Vốn tiền gửi là bộ phận tài sản nợ chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này là đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của ngân hàng. Vốn tiền gửi bao gồm: Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Với khoản tiền này, mục đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng. Do vậy nó thường được coi là tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản tiền gửi có thể phát hành séc (nếu các giao dịch thanh toán thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán được thực hiện bằng séc). Tiền gửi không kỳ hạn đảm bảo tổng nguồn vốn cao và chi phí huy động thấp. Vì vậy, ngân hàng thường huy động tiền gửi không kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời hạn nhất định (một vài tháng đến một vài năm). Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi và ngân hàng có thể chủ động sử dụng nguồn vốn này để cho vay. Vì vậy ngân hàng phải trả lãi cho loại tiền gửi này. Lãi cao hay thấp thường phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và các yếu tố khác trên thị trường. Trên thực tế để nâng cao uy tín và chất lượng dịch vụ, lôi kéo khách hàng, ngân hàng có thể cho phép khách hàng được rút tiền trước hạn với những khoản phạt (như hưởng lãi thấp hơn quy định). Ngoài tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn, trong bộ phận vốn tiền gửi còn có tiền gửi tiết kiệm. Đó là tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi. Hình thức phổ biến và cổ điển nhất là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ. Tức là người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một cuốn sổ dùng để ghi tiền gửi vào và tiền rút ra. Loại hình này vẫn tồn tại cho đến nay và trong những năm 90, nó có thể chuyển sang tài khoản séc dễ dàng. Do vậy nó có khả năng thanh toán rất cao. Tiền gửi có kỳ hạn và tiền tiết kiệm được gọi là tiền phi giao dịch. Chúng có đặc tính chung là được hưởng lãi và chủ những tài khoản này không được phát hành séc. Mức lãi suất của chúng thường cao hơn tiền gửi tài khoản séc bởi vì những người gửi tiền đó không được hưởng nhiều dịch vụ như đối với tài khoản séc. Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay. Chính vì vậy, người ta gọi ngân hàng thương mại là ngân hàng kí thác hay ngân hàng tiền gửi. 1.2. Vốn đi vay. Vốn đi vay của ngân hàng thương mại có thể được lấy từ ngân hàng trung ương hay các ngân hàng và trung gian tài chính khác. Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cho phép thành lập hoạt động đều được quyền vay tiền tại ngân hàng trung ương trong trường hợp thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt. Hai hình thức chủ yếu, đó là: tái chiết khấu các chứng từ có giá và cho vay thế chấp hay ứng trước. Do vậy loại vay này được gọi là tiền chiết khấu hay ứng trước. Ngân hàng thương mại chỉ vay của ngân hàng trung ương sau khi đã khai thác hết nguồn vốn trên thị trường. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền trung ương và việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại có những ngày cho vay quá nhiều dẫn đến sự thiết hụt tại ngân hàng trung ương. Trong khi đó lại có một vài ngân hàng khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại thiếu hụt dự trữ sẽ vay các khoản dự trữ ngắn hạn của các ngân hàng khác có dự trữ dư thừa. Thời hạn của loại cho vay này rất ngắn, thường không quá 1 tuần. Ngoài ra các ngân hàng thương mại cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành phiếu nợ để vay tiền ở nước ngoài. Do loại tiền sử dụng trong thanh toán quốc t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0806.doc
Tài liệu liên quan