Hoạt động đấu thầu - Thực trạng & Giải pháp tại Công ty xây dựng số 3 Hà Nội

Lời Mở Đầu Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ngành xây dựng cơ bản đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Chủ trương đầu tư và kế hoạch đầu tư cơ bản góp phần đảm bảo nhịp độ phát triển của nền kinh tế một cách cân đối nhịp nhàng, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý trong từng giai đoạn, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, tăng sản phẩm xã hội, tăng thu nhập quốc dân (GDP) và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội . Một yêu cầu của Đảng ta đối với ngành xây dựn

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động đấu thầu - Thực trạng & Giải pháp tại Công ty xây dựng số 3 Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cơ bản là “tiền vốn ít mà làm được nhiều việc”. Để thực hiện được mục tiêu đó, sau khi Đại hội VI của Đảng, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một bước mới: từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi đó đã có tác động không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và ngành xây dựng cơ bản nói riêng. Đó là việc giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm của Nhà nước đã được thay thế bằng sự trao quyền chủ động, tự chủ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Sự thay thế này thể hiện bằng việc các công ty, xí nghiệp phải tham gia đấu thầu để tìm thị trường và thông qua đó tạo công ăn việc làm cho công nhân, đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp mình. Tuy đấu thầu là một hình thức mới đối với các doanh nghiệp nước ta nhưng trong những năm qua nó đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế, tiết kiệm mọi khoản chi phí trong quá trình xây dựng, làm hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận và Nhà nước tiết kiệm vốn để xây dựng nhiều công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân. Loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn yếu kém , thua lỗ nhiều và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tốt, có uy tín, biết cách để tồn tại phát huy hết những khả năng sáng tạo của chính mình và hạn chế những rủi ro đến mức thấp nhất. Với những kiến thức đã được trau dồi sau bốn năm học dưới mái trường Đại học, với lòng ham muốn được hiểu biết thêm về những chính sách mới của Nhà nước đặc biệt là những chính sách về đấu thầu. Sau một thời gian tìm hiểu thực tế và thực tập tại Công ty xây dựng số 3 Hà Nội em đã hiểu biết hơn về hoạt động đấu thầu trong các ngành xây dựng cơ bản nói chung và công tác đấu thầu tại Công ty xây dựng số 3 Hà Nội nói riêng, “Hoạt động đấu thầu – Thực trạng và giải pháp tại Công ty xây dựng số 3 Hà Nội” là đề tài em đã chọn để trình bày trong luận văn tốt nghiệp của mình. Bản luận văn gồm 3 phần như sau: Phần I: Những vấn đề chung về đầu tư và đấu thầu Phần II: Tình hình thực tế công tác đấu thầu ở Công ty xây dựng số 3 Hà Nội Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả đấu thầu ở Công ty xây dựng số 3 Hà Nội Phần I Những vấn đề chung về đầu tư và đấu thầu I. Đặc điểm của sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến công tác đấu thầu Xây dựng cơ bản (XDCB) là một ngành sản xuất vật chất mang tính chất công nghiệp, có những đặc điểm riêng biệt, khác với các ngành sản xuất khác, sự khác nhau đó có ảnh hưởng lớn đến công tác đấu thầu trong xây dựng cơ bản. Để phát huy vai trò là công cụ chủ đạo, chiến lược, công tác đấu thầu trong các doanh nghiệp xây lắp phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh, về qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm trong ngành XDCB về các chế độ, thể lệ đấu thầu Nhà nước ban hành. Phương thức đấu thầu đã trở thành phương thức chủ yếu trong công tác xây lắp. Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc có qui mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính chất đơn chiếc, thời gian xây dựng và lắp đặt kéo dài, nơi sản xuất cũng đồng thời là nơi tiêu thụ. Đặc điểm này làm cho công tác đấu thầu và lập dự án đấu thầu trong XDCB khác với các ngành khác. Sản phẩm xây lắp phải lập dự toán và quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán, phải lấy dự toán làm thước đo. Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá này cũng được xác định trên cơ sở dự toán công trình ). Sản phẩm xây lắp được cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện sản xuất như xe máy, thiết bị, nhân công phải di chuyển theo địa điểm dặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác đấu thầu và dự toán đấu thầu rất phức tạp vì chịu ảnh hưởng lớn của thiên nhiên, thời tiết, dễ mất mát, hư hỏng. Những đặc điểm trên đây của ngành XDCB ảnh hưởng lớn tới công tác đấu thầu cụ thể là về chất lượng kỹ, mỹ thuật, tiến độ thi công. Khái niệm, vai trò và tác dụng của đấu thầu: Khái niệm. Để cùng hoà nhập với nền kinh tế thế giới, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội tham gia cạnh tranh lành mạnh. Gần đây Nhà nước ban hành hàng loạt các văn bản về đấu thầu như: Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính Phủ sửa đổi, bổ sung theo nghị định số 93/CP ngày 23/8/1997 và nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính Phủ. Do đó, đấu thầu có thể định nghĩa như sau: Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà cung cấp đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Trong đó, “Nhà thầu” là tổ chức kinh tế có đủ các điều kiện và có tư cách pháp nhân, “Bên mời thầu” là chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ đầu tư có dự án cần đấu thầu. Vai trò Trên giác độ vi mô: Đối với Nhà thầu: đấu thầu sẽ tạo điều kiện cho các nhà thầu phát huy tính chủ động, độc lập sáng tạo hoạt động kinh doanh cũng như trong việc thực hiện hợp đồng. Cũng thông qua việc đấu thầu các nhà thầu phải không ngừng phát huy tối đa các nguồn lực hiện có của đơn vị mình như: con người, máy móc thiết bị, khả năng tài chính. Đối với Bên mời thầu: thông qua hình thức đấu thầu thì bên mời thầu cũng sẽ có được hiệu quả công việc cao nhất như: chọn được nhà thầu theo ý muốn, tiết kiệm được thời gian và các chi phí phát sinh mà công việc vẫn được hoàn thành với chất lượng cao nhất. Trên giác độ vĩ mô: Nước ta từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, nền kinh tế nước ta đã có những cơ hội để bắt kịp và hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Nhưng đi kèm với đó là sự cạnh tranh gay gắt và ác liệt của các doanh nghiệp trong nước cũng ngoài nước để chiếm lĩnh thị trường, củng cố vị trí của doanh nghiệp mình. Trong sự cạnh tranh đó thì bản thân nó sẽ loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đầy đủ khả năng và nguồn lực để tồn tại và đấu thầu là một trong những hình thức cạnh tranh đó. Do đó, nó giúp Nhà nước (chủ đầu tư) chọn được những nhà thầu tốt nhất, chi phí thấp nhất, tạo ra nhiều công ăn việc làm và những sản phẩm với chất lượng cao nhất cho xã hội. Ngoài ra, Nhà nước còn giảm bớt được sự cồng kềnh trong công tác quản lý vĩ mô vì Nhà nước chỉ còn nhiệm vụ giám sát và nghiệm thu sản phẩm cuối cùng. Các hình thức đấu thầu. Dựa vào chủ thể tham gia đấu thầu có hai hình thức: Đấu thầu nội địa: Là đấu thầu mà các nhà thầu tham gia mang quốc tịch của nước có chủ đầu tư mời thầu. Đấu thầu quốc tế: Là hình thức đấu thầu có sự tham gia của các nhà thầu có quốc tịch của những nước khác nhau. Dựa vào tính chất và mức độ và qui mô của dự án: Đấu thầu rộng rãi (Open Tendering): Là hình thức không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia, bên mời thầu phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và ghi rõ các điều kiện, thời gian dự thầu. Đối với những gói thầu lớn, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật, bên mời thầu phải tiến hành sơ tuyển để lựa chọn nhà thầu có đủ tư cách, năng lực tham gia dự thầu, không giới hạn bởi những yếu tố và điều kiện, mang tính chất công khai Đấu thầu hạn chế (Tender in narrow):Là hình thức đấu thầu mà các bên mời thầu chỉ mời một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được các yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Số lượng nhà thầu bị hạn chế trong phạm vi nhất định nhưng tối thiểu phải là 5. Chỉ định thầu (Nomination instructor):Là hình thức đặc biệt, được áp dụng theo qui định của các qui phạm pháp luật liên quan tới các gói thầu sử dụng vốn của nước chủ đầu tư mời thầu. Bên mời thầu chỉ thương thảo hợp đồng với một nhà thầu do người có thẩm quyền quyết định đầu tư chỉ định. Nếu không đạt yêu cầu mới thương thảo mới nhà thầu khác. Có thể được áp dụng trong các trường hợp sau: Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, dịch hoạ, được phép chỉ định ngay đơn vị có đủ năng lực để thực hiện công việc kịp thời. Sau đó phải báo cáo Thủ tướng Chính Phủ về nội dung chỉ định thầu để xem xét phê duyệt. Gói thầu có tính chất nghiên cứư thí nghiệm, bí mật quôc gia, bí mật an ninh, bí mật quốc phòng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Gói thầu đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở báo cáo thẩm định của bộ kế hoạch và đầu tư, ý kiến bằng văn bản của cơ quan có liên quan. Phương thức áp dụng đấu thầu Đấu thầu một túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này nhà thầu cần nộp những đề xuất về kỹ thuật, tài chính, giá bỏ thầu và những điều kiện khác trong một túi hồ sơ Đấu thầu hai túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu cần nộp những đề xuất về kỹ thuật, tài chính trong từng túi hồ sơ riêng và trong cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật được xem xét trước để đánh giá và xếp hạng. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật thì từ 70% trở lên sẽ được tiếp tục mở túi hồ sơ đề xuất về tài chính để đánh giá tiếp Đấu thầu hai giai đoạn: Giai đoạn 1: Các nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính sơ bộ (chưa có giá) để bên mời thẫuem xét và thào luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chính thức chuẩn bị và nộp đề xuất kỹ thuật của mình. Giai đoạn 2: Bên mời thầu mời các bên tham gia trong giai đoạn 1 nộp đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất đầy đủ các điều kiện tài chính, tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng giá bỏ thầu để đánh giá và xếp hạng. Chào hàng cạnh tranh: Đây là hình thức chỉ áp dụng cho những gió thầu mua sắm hàng hoá có giá trị dưới 2 tỷ đồng. Mỗi gói thầu phải có ít nhất 3 bản chào giá của 3 nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu của bên mời thầu. Mua sắm trực tiếp: áp dụng trong trường hợp người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép đối với các loại vật tư, thiết bị này đã được tiến hành đấu thầu và được người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép thực hiện. Giao thầu trực tiếp: Là phương thức chọn một nhà thàu có năng lực và độ tin cậy cao để xem xét thương thảo hợp đồng. Nếu nhà thầu được chỉ định không đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu thì sẽ được thay thế bởi nhà thầu khác Tự làm: áp dụng đối với các công trình mà chủ đầu tư đồng thời là người thực hiện công trình và tuân theo đúng các qui phạm pháp luật liên quan Thể thức, trình tự đấu thầu: Thể thức dự sơ tuyển cho người ứng thầu: Mời các nhà thầu dự sơ tuyển. Phát và nộp các tài liệu dự sơ tuyển. Phân tích các số liệu dự sơ tuyển, lựa chọn và thông báo danh sách các ứng thầu. Thể thức nhận đơn thầu: Soạn thảo tài liệu đấu thầu. Phát tài liệu đấu thầu. Các ứng thầu đi thăm công trường. Sửa đổi, bổ sung tài liệu đấu thầu. Thắc mắc của các ứng thầu, cách xử lý. Nộp và nhận đơn thầu. Thể thức mở và đánh giá đơn thầu: Mở đơn thầu. Đánh giá đơn thầu. Ký hợp đồng. II. Công tác lập hồ sơ dự thầu xây lắp: Xây lắp là một ngành công nghiệp đặc biệt, nó tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế và vì tính chất đặc biệt của nó nên trình tự đấu thầu xây lắp có đôi chút khác biệt so với các ngành khác nhưng nó vẫn mang đầy đủ các yếu tố theo thông lệ đấu thầu quốc tế. Trình tự đấu thầu xây lắp gồm 6 bước: Chuẩn bị đấu thầu (công việc của chủ đầu tư). Sơ tuyển (áp dụng cho gói thầu có giá trị từ 200 tỷ đồng trở lên). Mời thầu và nộp hồ sơ dự thầu, đánh giá và lựa chọn nhà trúng thầu. Tổ chức mở thầu, đánh giá và lựa chọn nhà thầu. Trình duyệt kết quả đấu thầu. Thông báo kết quả trúng thầu, ký kết hợp đồng và triển khai thi công công trình. Một số tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu xây lắp: Tiêu chuẩn về kỹ thuật, chất lượng: Mức độ đáp ứng đối với các yêu cầu về kỹ thuật , chất lượng vật tư thiết bị nêu trong hồ sơ thiết kế. Tính khả thi của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp và tổ chức thi công. Điều kiện vệ sinh môi trường và các điều kiện khác như: phòng cháy chữa cháy, an toàn lao động. Khả năng đáp ứng của các thiết bị thi công (số lượng, chủng loại, chất lượng và tiến độ). Các biện pháp đảm bảo chất lượng. Kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu Kinh nghiệm về các dự án có yêu cầu kỹ thuật ở vùng địa lý và hiện trường tương tự. Số lượng, trình độ cán bộ, công nhân kỹ thuật trực tiếp thức hiện dự án. Năng lực về tài chính. Tài chính và giá cả: Khả năng cung cấp tài chính, các điều kiện thương mại và tài chính, giá dự thầu /Tiến độ thi công: Mức độ đảm bảo tổng tiến độ thi công qui định trong hồ sơ mời thầu. Tính hợp lý và tiến độ hoàn thành công trình và các hạng mục công trình có liên quan. Nội dung của giá dự toán trong hồ sơ dự thầu xây lắp: Đặc điểm của công tác tính giá thành công trình xây lắp: Công tác tính giá công trình xây lắp thường có một số đặc điểm sau. Đặc điểm thứ nhất: Sản phẩm xây lắp có tính đơn chiếc và khác biệt cao. Do đó, trong xây lắp không thể định giá cho tổng thể các công trình mà phải xác định giá cho từng trường hợp cụ thể và theo những hợp đồng cụ thể. Đặc điểm thứ hai: Trong xây lắp sản phẩm là những công trình, vật kiến trúc có qui mô lớn, kết cấu phức tạp cho nên không thể định giá trước cho tổng thể công trình mà người ta phải định giá trước cho từng loại công việc, từng hạng mục hợp thành công trình thông qua đơn giá xây dựng cơ bản và đơn giá lắp đặt thiết bị. Đặc điểm thứ ba: Về thời gian xây dựng, lắp đặt kéo dài, nơi sản xuất cũng là nơi tiêu thụ cho nên giá của công trình xây lắp thường không ổn định mà hay thay đổi theo các thời điểm khác nhau. Đặc điểm thứ tư: Do đấu thầu là một hình thức cạnh tranh giữa các nhà thầu nên bên mời thầu đóng vai trò quyết định đến việc định giá công trình xây lắp. Nội dung của giá dự toán công trình xây lắp Giá dự xây lắp sau thuế của các công trình xây lắp bao gồm: Giá dự toán xây lắp trước thuế + Khoản thuế Giá trị gia tăng đầu ra = ( T + C +TL) + VAT Trong đó: T-Chi phí trực tiếp C-Chi phí chung TL-Thu nhập chịu thuế tính trước VAT-Thuế giá trị gia tăng đầu ra Giá trị dự toán xây lắp trước thuế: Là mức giá để tính thuế VAT, bao gồm: chi phí trực tiếp, chi phí chung và thu nhập chịu thuế tính trước được xác định theo mức độ tiêu hao vật tư, máy móc và mặt bằng giá khu vực của từng thời kỳ do cơ quan thẩm quyền quyết định. Chi phí trực tiếp: Gồm chi phí vật liệu, nhân công, máy thi công xác định trên cơ sở khối lượng xây lắp theo thiết kế được duyệt và đơn giá xây dựng cơ bản tương ứng của công trình xây lắp. Chi phí chung: Tính bằng % theo từng loại hình công trình so với chi phí nhân công trong giá trị dự toán xây lắp và một số khoản mục chưa tính thuế VAT đầu vào. Thu nhập chịu thuế tính trước: tính bằng % so với chi phí chung và chi phí trức tiếp theo từng loại công trình. Khoản thu nhập nàydùng để tính khoản nộp thuế doanh nghiệp và một số khoản chi phí phải nộp trừ các phần còn lại trích lập qui theo qui chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh theo luật hiện hành. Thuế giá trị gia tăng đầu ra: Dùng để trả thuế giá trị gia tăng đầu vào mà doanh nghiệp đã ứng ra mua nguyên vật liệu nhưng chưa được tính vào chi phí nguyên vật liệu, máy móc thi công và chi phí chung trong dự toán xây lắp trước thuế và phần thuế giá trị gia tăng mà doang nghiệp phải nộp. Phần II Tình hình thực tế công tác đấu thầu ở Công ty Xây Dựng Số 3- Hà Nội Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Công ty Xây Dựng Số 3 là một Công ty trực thuộc sở xây dựng Hà Nội. Hiện nay trụ sở của Công ty đóng tại 28 Láng Hạ - Hà Nội. Nhiệm vụ chính là xây dựng các công trình dân dụng, nhà ở trên phạm vi Hà Nội và một số công trình khác ở các tỉnh lân cận. Công ty Xây Dựng Số 3 được thành lập ngày 15/6/1976 theo quyết định số 736/TCCQ của UBND Thành Phố Hà Nội. Nggày đầu thành lập Công ty có 366 cán bộ công nhân viên được tách ra từ công trường xây dựng thực nghiệm, biên chế thành 3 đơn vị xây lắp, 1 đội bốc xếp, 1đội máy cẩu và 7 phòng bán nghiệp vụ. Tài sản gồm một số vốn không nhiều và một số máy móc cũ phục vụ cho sản xuất thi công, lực lượng lao động mỏng, trình độ tổ chức không đồng đều: Đại học Trung cấp Lao động phổ thông 9 15 342 Công ty phải tự tìm việc làm. Qua 25 năm phấn đấu và trưởng thành tới nay Công ty đã thu được nhiều thành công lớn trưởng thành về mọi mặt. Luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch của Nhà nước và của Công ty. Các công trình của Công ty hoàn thành bàn giao đều đạt yêu cầu về chất lượng, kỹ, mỹ thuật. Đặc biệt những công trình gần đây đạt chất lượng mỹ thuật cao được sở xây dựng và khách hàng đánh giá cao như công trình nhà trẻ Berla, nhà trẻ em SOS, trung tâm đào tạo vận động viên cấp cao. Công ty đã nhiều lần được sở xây dựng tặng bằng khen và được đánh giá là đơn vị khá nhất trong các đơn vị thi công của sở xây dựng và được UBND Thành Phố tặng cờ “ Đơn vị thi đua suất sắc “. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Thực hiện đổi mới công tác quản lý, xoá bỏ cơ chế hành chính bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, công tác tổ chức và quả lý của Công ty có nhiều đổi mới tích cực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công ty Xây dựng số 3 là một trong các đơn vị đầu tiên của sở xây dựng đổi mới tổ chức, mà hình thức tổ chức là 3 cấp, tổ chức sản xuất theo hình thức khoán gọn công việc, khoán sản phẩm đến nay đã có những kết quả khả quan, bộ máy quản lý gọn nhẹ song vẫn hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất, giá trị sản lượng kế hoạch, năng suất lao động và trích nộp ngân sách. Đến nay tổng số vốn của Công ty là: 24.833.988.000 đồng. Trong đó : - vốn lưu động : 1.995.730.000 đồng - vốn cố định : 22.838.258.000 đồng số lao động của Công ty đến nay đã là 517 người. Trong đó: Đại học Trung cấp Công nhân tay nghề bậc 3 4 5 6 51 59 210 147 16 12 Tổ chức thành 5 đội xây dựng trực thuộc Công ty và 5 phòng ban nghiệp vụ. Cán bộ nhân viên văn phòng 102 người nay giảm thành 42 người. Đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng nâng cao, việc làm ổn định. Trong quá trình sản xuất Công ty không phải vay vốn ngân hàng. Tổng doanh thu năm 1997 : 21.523.983.000 đồng. năm 1998 : 23.201.804.000 đồng. năm 1999 : 24.643.986.000 đồng. Để động viên sự gắn bó của cán bộ công nhân viên với Công ty, hàng năm Công ty đều thực hiện đầy đủ các quyền lợi, chế độ quy định của nhà nước đối với công nhân viên chức. Ngoài ra Công ty còn giành hàng nghìn công lao đông, nhiều khoản tiền lớn ủng hộ các hoạt động từ thiện, cá phong trào xã hội của quận và phường tổ chức. Đặc điểm về tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý ảnh hưởng đến hoạt động đấu thầu tại Công ty Xây dựng Số 3. Bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất. Hiện nay ở Công ty Xây dựng Số 3 việc tổ chức lao động được chia thành 5 xí nghiệp xây dựng (XNXD) và 6 phòng ban. Các xí nhiệp được chia thành các tổ cụ thể như sau: XNXD 1: 85 người có 2 kỹ thuật viên và 1 kế toán. XNXD 2: 78 người có 2 kỹ thuật viên và 1 kế toán. XNXD 3: 95 người có 2 kỹ thuật viên và 1 kế toán. XNXD 4: 67 người có 1 kỹ thuật viên và 1 kế toán. XNXD 5: 71 người có 1 kỹ thuật viên và 1 kế toán. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Ban Giám đốc Khối trực tiếp sản xuất Khối gián tiếp sản xuất Phòng dự án P TC Hchính Ytế Phòng kỹ thuật Phòng tài vụ XNXD4 XNXD3 XNXD5 XNXD2 XNXD1 P k Tế - T trường Tổ2 Tổ2 Tổ1 Tổ2 Tổ1 Tổ1 Tổ1 Tổ2 Tổ2 Tổ1 Việc tổ chức lao động các xí nghiệp và các tổ lao động hợp lý giúp cho Công ty trong việc quản lý lao động và phân công lao động thành nhiều vị trí thi công khác nhau với nhiều công trình khác nhau một cách có hiệu quả. Các XNXD có nhiệm vụ trực tiếp thi công các công trình do công ty giao khoán. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty bao gồm có Ban Giám đốc, các phòng hành chính y tế, dự án, kỹ thuật, tài vụ, kinh tế thị trường, và tổ chức hành chính y tế. Ban Giám đốc cùng với các phòng ban chức năng điều hành hoạt động sản xuất thi công ở Công ty một cách thống nhất với các XNSX. Hiện nay Công ty thực hiện quy chế khoán gọn cho các XNSX. Trên cơ sở hợp đồng của Công ty với bên A. phòng kinh tế thị trường của Công ty lên kế hoạch cụ thể cho các công trình thi công chi tiết cho từng khoản mục theo điều kiện và khả năng cụ thể của nội bộ Công ty giao khoán cho các XNXD và thống nhất với các XN về những điều khoản quy định cho công việc thi công hoàn thành công trình qua các hợp đồng làm khoán. ở các XNXD Giám đốc và chủ nhiệm công trình lại căn cứ vào nhiệm vụ của XN mình, khả năng, điều kiện thực tế của các tổ để tiến hành phân công nhiệm vụ và khoán công việc cụ thể cho các tổ sản xuất. Cuối từng tháng hoặc khi hoàn thành hợp đồng làm khoán XN tiến hành tổng kết nghiệm thu, đánh giá công việc về số lượng chất lượng đã hoàn thành của các tổ để làm cơ sở thanh toán tiền lương cho từng tổ sản xuất theo đơn giá trong hợp đồng làm khoán quy định. Đối với công trình Công ty trực tiếp nhận với bên A, Công ty sẽ cân đối và giao cho các XN, phòng kỹ thuật được Giám đốc uỷ quyền tiếp xúc với bên A ký kết hợp đồng, nhận hồ sơ, tài liệu giải quyết các thủ tục về mặt bằng, nguồn điện, nước thi công. Đối với công trình XN tự tìm thì các thủ tục trên XN trực tiếp làm và giao lại hồ sơ cho phòng kỹ thuật lưu, phòng kỹ thuật có trách nhiệm hưỡng dẫn đôn đốc và thông quahợp đồng trước khi trình Giám đốc ký. Sau khi đầy đủ các thủ tục để có thể thi công được XN phải lập tiến độ, biện pháp thi công được Giám đốc duyệt mới ký lệnh khởi công. Về việc lập dự toán và quyết toán do các XN thi công tự làm và trình các cơ quan chức năng thẩm duyệt, yêu cầu đảm bảo tính hợp lý và kịp thời. Trước khi đánh máy chính thức văn bản, XN phải thông qua phòng kỹ thuật tham gia và chế độ đơn giá, thành phần công việc mới trình Giám đốc ký. Về vật tư: chủ yếu Công ty mua ở bên ngoài thông qua các hợp đồng cụ thể. Máy thi công: XN có thể thuê máy của Công ty hoặc thuê ngoài. Hợp đồng thuê máy ở bên ngoài phải thông qua Giám đốc duyệt. Nhân công: Chủ yếu là nhân công của Công ty. Trương hợp cần thiết thì các XN được phép thuê nhân công ngoài theo tỷ lệ nhất định và phải có hợp đồng. Về chất lượng công trình: Giám đốc và chủ nhiệm công trình là người đại diện cho XN chịu trách nhiệm cá nhân trước Giám đốc về chất lượng và an toàn lao động. Chất lương công việc nói riêng và chất lượng công trình nói chung yêu cầu không có chất lượng kém. Nếu có sai phạm kỹ thuật dẫn đến tình trạng phải sửa chữa hoặc phá đi làm lại thì toàn bộ chi phí XN phải chịu và cá nhân là chủ nhiệm công trình. Công trình đạt chất lượng trung bình XN chịu phạt 1%. Công trình đạt chất lượng tốt XN được thưởng 1%. Tỷ lệ thưởng và phạt được tính theo tỷ lệ thích hợp cho từng loại công trình. Bộ máy quản lý. Giám đốc : Giữ vai trò quả lý chung trong toàn Công ty và chỉ đạo trực tiếp đến từng bộ phận. Là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước cấp trên về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Phó giám đốc phụ trách kinh doanh : Chuyên tư vấn tham mưu cho Giám đốc về các công việc liên quan đến kinh doanh và phát triển thị trường. Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật : Chuyên tư vấn tham mưu cho Giám đốc về các công việc liên quan đến kỹ thuật, vật tư và giám sát tiến độ sản xuất thi công các công trình. Có 5 phòng nghiệp vụ sau : Phòng kinh tế thị trường : Tham mưu tư vấn cho Giám đốc và tổ chức tham gia đấu thầu các công trình. Phối hợp các phòng ban để lập kế hoạch SX và tiêu thụ sản phẩm, lập dự toán, thanh quyết toán các công trình xây lắp và bán sản phẩm. Phòng dự án : Tham mưu, tư vấn giúp việc cho Giám đốc thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực kế hoạch dự án. Phòng tài vụ : Tham mưu, tư vấn giúp việc cho Giám đốc thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực tổ chức hoạt động tài chính và hạch toán kế toán trong Công ty, điều hoà phân phối vốn cho các XN, lập kế hoạch thu chi tài chính tổng hợp trong kỳ kế hoạch. Phòng tổ chức hành chính y tế : Tham mưu, tư vấn giúp việc cho Giám đốc thực hiện các công tác bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý, tuyển chọn và biên chế lao động ở các phòng ban và các XNSX theo mô hình Công ty. Theo dõi công tác quản lý lao động, tiền lương, thi đua, các chế độ chính sách với người lao động… Phòng kỹ thuật : Tham mưu, tư vấn cho Giám đốc thực hiện các công tác về lĩnh vực kỹ thuật, an toàn lao động, giám sát thi công, nghiệm thu, bàn giao công trình. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật. Đặc điểm về Kinh tế -Tài chính. Do tính chất của ngành xây lắp nói chung và ngành xây dựng cơ bản (XDCB) nói riêng, lượng vốn đưa vào SX rất lớn. Trên thực tế đại đa số các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay đều thiếu vốn đầu tư do đó nhiều công trình bị ngưng trệ, không đáp ứng được kế hoạch của tiến độ thi công ban đầu cũng chỉ do thiếu nguồn vốn đầu tư kịp thời. Đây cũng chính là trong các nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng công trình hoàn thành chậm hoặc tiến độ thi công chậm làm giảm uy tín dẫn đến hiệu quả công tác đấu thầu giảm sút, nhưng đây không phải là vấn đề của Công ty . Một trong những yếu tố quyết định đến kết quả thắng thầu của Công ty là giá dự thầu. Nói cách khác nếu công tác tính toán và dự toán thầu chuẩn xác, sát với giá bên mời thầu đưa ra thì khả năng trúng thầu của Công ty sẽ cao hơn. Có nhiều trường hợp khi Công ty đã trúng thầu nhưng do công tác dự toán giá không đúng, giá thầu tính thấp hơn giá thực tế mà Công ty vẫn phải đầu tư thi công dẫn tới tình trạng kém hiệu quả kinh tế dẫn tới lỗ vốn. Nói tóm lại, đặc điểm Kinh tế - Tài chính là một trong các nhân tố chính tạo ra khả năng cạnh tranh cao giúp cho khả năng trúng thầu của Công ty lớn hơn. Đây cũng chính là vấn đề bức xúc và nhức nhối trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trong công tác đấu thầu nói riêng. Nhưng xét về thực tế thì Công ty Xây dựng Số 3 có đủ khả năng đáp ứng được các nhu cầu về tài chính của Công ty mình và với nỗ lực của Công ty chắc chắn Công ty sẽ còn lớn mạnh hơn nữa. Đặc điểm về kỹ thuật. Trong công tác đấu thầu xây dựng, kỹ thuật không chỉ là chỉ tiêu cơ bản đóng va trò quan trọng mà nó cũng là yếu tố cơ bản quyết định đến việc thắng thầu của DN xây dựng. Thật vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong đấu thầu xây lắp 2 túi hồ sơ thì túi hồ sơ kỹ thuật được xem xét trước và sau đó hội đồng xét thầu mới đánh giá đến túi hồ sớ tài chính (giá thầu) của các úng thầu. Đặc điểm kỹ thuật phản ánh trung thực trình độ, khả năng kỹ thuật thi công, đồng thời cũng phản ánh trình độ máy móc thiết bị và công nghệ của Công ty. Trong quá trình thi công, công tác kỹ thuật được coi trọng và thực hiện tốt sẽ giúp cho biện pháp thi công sẽ đơn giản mà vẫn đáp ứng được các yêu cầu phức tạp về kỹ thuật và mỹ thuật hiện đại nhưng với những thiết bị máy móc còn hạn chế, mặt khác nó còn giúp cho tiến độ thi công được rút ngắn mà không làm ảnh hưởng đến các yêu cầu đã đặt ra. Như vậy, qua những phân tích trên đã chứng tỏ được ảnh hưởng của đặc điểm kỹ thuật đến hiệu quả công tác đấu thầu và đây cũng là một ưu thế của Công ty và trên 20 năm kinh nghiệm với đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề đã tạo ra khả năng cạnh tranh cao cho Công ty trong những cuộc đấu thầu cũng như trên thị trường. Đặc điểm về vật tư thiết bị máy móc. Việc thi công các công trình xây dựng thì giá trị vật tư chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng giá thành của công trình. Do vậy yếu tố vật tư có vai trò không nhỏ đến việc lập dự toán đấu thầu và nhiều khi khả năng trúng thầu hay không là yếu tố vật tư quyết định. Khi mà Công ty có một nguồn vật tư ổn định, chất lượng tốt, giá rẻ hơn giá thị trường, khi tham gia đấu thầu Công ty sẽ đưa ra được mức giá rẻ hơn các ứng thầu khác do đó khả năng chúng thầu sẽ cao hơn. Một điều bất lợi cho Công ty là Công ty không trực tiếp sản xuất được các loại vật tư phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà những vật tư đó Công ty phải mua ngoài cho nên việc hạch toán và tính chi phí vật tư gặp nhiều khó khăn bởi vì công trình xây dựng thường kéo dài nên gía cả cũng có nhiều biến động theo sự biến động của Cung - Cầu của thị trường. Đây cũng là vấn đề mà nhiều Công ty trong lĩnh vực xây dựng gặp phải. Do đó việc lập giá dự toán đấu thầu của Công ty cũng có nhiều khó khăn. Trong xâydựng, thiết bị máy móc cũng dóng góp một phần không nhỏ trong việc thi công cũng như hoàn thành tiến độ công trình. Nhưng hiện nay ở Công ty Xây Dựng Số 3 trình độ máy móc đã cũ , lực lượng thì nghèo nàn , một số máy móc đã hết thời kỳ khấu hao. Trong lúc tiến độ thi công đòi hỏi phải nhanh , khẩn trương , yêu cầu ngày càng phải có nhiều máy móc tham gia thi công . Vì vậy trong điều kiện máy móc cũ , lạc hậu không đảm bảo yêu cầu thi công là một khó khăn lớn cho Công ty trong quá trình thi công cũng như trong việc tham gia đấu thầu các công trình. Từ tình hình thực tế đó Công ty cho phép các XN có thể thuê máy ngoài hoặc thông qua Công ty ký các họp đồng thuê máy ngoài trong những điều kiện cần thiết mà Công ty không đáp ứng được . Đây cũng là những giải pháp đúng đắn và cần thiết của Công ty nhưng Công ty cũng cần phải có những giải pháp mang tính chiến lược để tăng sức cạnh tranh , hiện đại hoá trong quá trình thi công và có thể tham gia ứng thầu các công trình lớn đòi hỏi cơ giới hoá nhiều . tóm lại , vật tư và thiết bị máy móc là điều cốt yếu , là tiêu chẩn để đánh giá mức độ hiện đại của Công ty nhưng với thực trạng hiện nay Công ty cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để biến nó thành thế mạnh cuả riêng mình. Sản xuất kinh doanh và sản phẩm. Như đã trình bày ở các phần trước . Công ty Xây Dựng Số 3 là một Công ty trực thuộc Bộ Xây dựng , sản phẩm của Công ty là những công trình , vật kiến trúc và nhà ở , nơi sản xuất cũng là mơi tiêu thụ . Cho đến nay Công ty Xây Dựng Số 3 đã thực hiện thi công nhiều công trình trong thành phố và các tỉnh lân cận . Các công trình Công ty đã thi công bàn giao đều đạt yêu cầu về chất lượng , kỹ , mỹ thuật được chủ đầu tư và các khách hàng đánh giá cao , tạo được ưu thế và uy tín trên thị trường . Về xây lắp , Công ty thực hiện tổ chức quản lý trong khâu XDCB chặt chẽ nhằm giảm tới mức thấp nhất sự lãng phí , mất mát góp phần không nhỏ trong việc hạ gia thành sản phẩm. Trong quá trình xây dựng Công ty thực hiện hình thức khoán sản phẩm cho người lao động . Chỉ một số công việc không thể giao khoán được thì Công ty mới thực hiện hình thức trả lương theo thời gian . Giám đốc XN và chủ nhiệm công trình là người chịu trách nhiệm chính trong việc giao khoán cho công nhân. Đó cũng là một yếu tố để Công ty có thể tiết kiệm được các chi phí không cần thiết nhằm hạ giá thành sản phẩm , nâng cao sức cạnh tranh của Công ty so với các nhà thầu khác trên thị trường . ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0119.doc
Tài liệu liên quan