Hoạt động gia công Xuất khẩu tại Công ty Cổ phần vật tư & giầy dép Xuất khẩu Hải Hưng

Danh mục các chữ viết tắt AFTA _ Asean Free Trade Area _ Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á APEC_ Asia- Pacific Economic Cooperation _ Hội nghị hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương HS_ Harmonized System _ Hệ thống hài hoà về mã và miêu tả hàng hoá WTO_ World trade Organization _Tổ chức thương mại quốc tế GSP_ Generalised System of Preferenc e_Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập EU_ Euro Union _ Liên minh châu âu FDI _ Forgein Direct Invesment_ Đầu tư trực tiếp nước ngoài NAFTA _ Nort

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động gia công Xuất khẩu tại Công ty Cổ phần vật tư & giầy dép Xuất khẩu Hải Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h American Free Trade Area _ Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ PNTR _ Permament Normal Trade Relations _ Qui chế thương mại bình thường vĩnh viễn BTA _ Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ GDP _ Gross Domestic Product_ Tổng thu nhập quốc nội Lời nói đầu Tính cấp thiết của chuyên đề: “Hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng” Khi xu thế hội nhập với khu vực và thế giới diễn ra ngày càng nhanh và qui mô ngày càng rộng, Việt Nam một quốc gia đang phát triển đã có những bước tiến đáng kể đặc biệt trong hoạt động thương mại quốc tế để tự khẳng định mình và tham gia vào quá trình toàn cầu hoá của thế giới. Trong quá trình ấy đòi hỏi mỗi quốc gia phải không ngừng khai thác những lợi thế vốn có của mình để cạnh tranh với các quốc gia khác. Đối với Việt Nam một đất nước còn nghèo lại thiếu vốn cũng như khoa học công nghệ, trong khi đó lao động chưa chó trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, trình độ quản lý còn yếu. Ở giai đoạn hiện nay, để có thể tham gia vào thương mại quốc tế thì nước ta chủ yếu tiến hành những ngành sản xuất tận dụng được lợi thế có nguồn lao động dồi dào, đầu tư vốn ít, quay vòng vốn nhanh, tích cực thu hút đầu tư FDI để tiếp thu công nghệ và học hỏi kinh nghiệm quản lý, đó là những ngành như chế biến thuỷ sản, dệt may, giầy dép… Trong đó, ngành Da- Giầy là một trong những ngành đang được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cũng như các doanh nghiệp. Bởi đây là một ngành sản xuất hàng tiêu dùng đem lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết được nhiều công ăn việc làm và đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất nhập khẩu của đất nước. Nhưng trên thực tế do việc tìm đầu ra cho sản phẩm còn yếu cùng với sự lạc hậu về kỹ thuật nên hầu hết các doanh nghiệp giầy Việt Nam vẫn đang hoạt động ở hình thức gia công xuất khẩu là chủ yếu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu để hoàn thiện hơn hoạt động gia công sau đó chuyển nhanh sang thành hoạt động xuất khẩu trực tiếp đang là một yêu cầu cấp thiết với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Mục đích nghiên cứu Qua việc tìm hiểu nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng, một doanh nghiệp hiện đang hoạt động theo mô hình gia công xuất khẩu để có thể nắm bắt những ưu điểm của hoạt động này mang lại cho công ty nói riêng và những doanh nghiệp hoạt động theo mô hình này nói chung. Đồng thời qua đó cũng thấy được hạn chế khi duy trì tiếp phương thức gia công từ đó tìm ra những biện pháp để có thể góp phần hoàn thiện hoạt động gia công xuất khẩu lớn mạnh tạo đà bước sang sản xuất xuất khẩu . Đối tượng_phạm vi_phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hoàn thiện hoạt động gia công xuất khẩu Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề “ Hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng” chỉ đi sâu vào nghiên cứu hoạt động gia công xuất khẩu. Đây là một bộ phận nhỏ của hoạt động thương mại quốc tế và là hình thức đang được sủ dụng nhiều tại các công ty có qui mô nhỏ ở Việt Nam. Ngành nghề được nghiên cứu ở đây là ngành Da- Giầy, là một ngành có đóng góp đáng kể vào GDP hiện nay. Các biện pháp đưa ra nhằm hoàn thiện cho công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng cũng như những công ty có phương thức kinh doanh tương tự. Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp điều tra thu thập thông tin, phỏng vấn trực tiếp, thống kê, phân tích tổng hợp để đưa ra các kết luận và các nhận xét. Ý nghĩa chuyên đề Chuyên đề nghiên cứu về một hoạt động đang được áp dụng khá phổ biến trong hầu hết các doanh nghiệp sản xuất Da- Giầy hiện nay. Do vậy nó có ý nghĩa trong việc cung cấp những giải pháp giúp công ty có thể áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, và đây cũng là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên những người muốn tìm hiểu về hoạt động gia công xuất khẩu. Kết cấu của chuyên đề Chuyên đề có kết cấu gồm 3 phần: Chương1. Lý luận chung về hoạt động gia công xuất khẩu của các ngành Da- Giầy trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Chương 2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng Chương 1. Lý luận chung về hoạt động gia công xuất khẩu của ngành Da- Giầy trong tiến trình hội nhập Hội nhập kinh tế quốc tế Khi xu thế hội nhập đang ngày càng trở nên phổ biến thì không có một lý do gì mà một quốc gia lại đứng ngoài sân chơi đó. Việc hàng loạt các hiệp định song phương đa phương đã được ký kết, cùng với việc mở rộng phạm vi của các liên kết quốc tế đã cho thấy không khí sôi động của quá trình hội nhập. Và khi các quốc gia xoá nhoà dần biên giới tạo điều kiện thuận lợi hơn cho giao thương thì làm cho kinh tế toàn cầu tăng trưởng. Đánh giá về tình hình kinh tế thế giới năm 2005, các tổ chức kinh tế quốc tế đều thống nhất nhận định: mặc dù bị ảnh hưởng của giá dầu mỏ tăng cao kỷ lục, thiên tai, lãi suất tăng và tình trạng mất cân đối về thương mại toàn cầu…song kinh tế thế giới vẫn tiếp tục đà tăng trưởng đặc biệt trong những tháng cuối năm. Đó là do các quốc gia trên thế giới đều hiểu muốn tăng trưởng phải tham gia vào tiến trình hội nhập, nhận thức được điều này các quốc gia luôn đẩy mạnh hoạt động ngoại giao để có thế gia nhập các tổ chức như WTO, APEC hay các liên kết khu vực như NAFTA, AFTA…về cơ bản cuối cùng cũng để phát triển hoạt động thương mại và đầu tư của nước mình. Xét riêng về hoạt động thương mại quốc tế khi các quốc gia giảm bớt các rảo cản thương mại kỹ thuật, tạo điều kiện về thủ tục hành chính cũng như ưu đãi về thuế sẽ làm cho thương mại phát triển theo xu hướng hợp tác. Vậy có phải chỉ những nước mạnh có tiềm lực về kinh tế có thể tạo được thuận lợi cho các quốc gia khác thì mới tham gia được vào quá trình hội nhập đó? Thực tế đã chỉ ra tất cả các quốc gia đều có thể tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá do mỗi quốc gia đều có lợi thế tương đối riêng của mình. Gia công xuất khẩu là một ví dụ điển hình cho thấy các quốc gia đang phát triển cũng có thể tham gia vào tiến trình hội nhập chung của thế giới. Khi các nước mạnh giàu có về tài chính cũng như có trình độ khoa học công nghệ cao có thể dễ dàng thu hút đầu tư cho phát triển sản xuất ngành công nghệ cao, thì những ngành sản xuất hàng tiêu dùng hàng sinh hoạt sẽ được chuyển dần sang những nước phát triển ở mức độ thấp hơn. Những nước này có lợi thế tương đối về nguồn lao động còn yếu về trình độ cũng như năng lực chuyên môn nhưng lại có giá rẻ. Chính vì thế, những công việc không đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao như dệt may, giầy da…là những công việc rất phù hợp. Bên cạnh vấn đề việc làm thì đây là cơ hội cho các quốc gia này có thể tiếp cận với môi trường kinh doanh quốc tế. Thông qua hình thức liên doanh liên kết với các đối tác bên nước ngoài qua đó có thể học hỏi được kinh nghiệm trong tìm thị trường tiêu thụ cũng như thị trường nguyên liệu cho sản xuất. Từ đó sau khi tham gia gia công xuất khẩu trong một thời gian nhất định, khi đã có đủ tiềm lực các doanh nghiệp nhân gia công thuê có thể tự đứng gia tham gia vào quá trình kinh doanh quốc tế. Hoạt động gia công xuất khẩu và vai trò của hoạt động gia công xuất khẩu 1.2.1. Khái niệm Gia công là hoạt động theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất. Khi hoạt động gia công vượt khỏi phạm vi quốc gia thì được gọi là gia công quốc tế. Gia công quốc tế là biến lao động tại chỗ thành nguồn thu ngoại tệ, đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ do tiền công (phí gia công) đem lại. Vì vậy suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là lao động dưới dạng sử dụng (được thể hiện trong hàng hoá), chứ không phải là xuất khẩu công nhân ra nước ngoài. Gia công quốc tế nảy sinh do sự phát triển kinh tế của các nước không đồng đều, bên cạnh các nước có tiềm lực kinh tế mạnh, khoa học kỹ thuật phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao, cũng còn nhiều nước nghèo chậm phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp nên hình thức gia công xuất khẩu được sử dụng rộng rãi. Hoạt động gia công xuất khẩu nảy sinh từ nhu cầu của hai bên. Một bên cần lao động với tiền lương thấp, một bên có sẵn lao động giá rẻ nhưng lại thiếu vốn, thiếu công nghệ kỹ thuật, chưa có thị trường tiêu thụ. Vì vậy, có xu hướng chuyển dịch việc sản xuất những mặt hàng cần nhiều lao động từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Đặc điểm, vai trò hoạt động gia công xuất khẩu Hoạt động gia công xuất khẩu có 4 đặc điểm chủ yếu sau: Có sự xuất hiện của các nguyên vật liệu được nhập khẩu từ nước ngoài về, nước nhận gia công có thể nhận cả máy móc, thiết bị, công nghệ, nước đặt gia công có thể gửi kỹ thuật viên, chuyên gia sang kiểm tra giám sát. Hàng hoá sản xuất ra để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu không dùng cho tiêu dùng nội địa, như vậy gia công xuất khẩu gắn liền với việc xuất và nhập khẩu hàng hoá. Việc sản xuất hàng hoá phải theo đơn đặt hàng của bên đặt gia công. Bên nhận gia công phải tuân theo yêu cầu của bên đặt gia công về chủng loại, số lượng, kiểu dáng, mẫu mã, kích thước, chất lượng sản phẩm một cách nghiêm ngặt. Lợi nhuận của gia công xuất khẩu chính là tiền công sau khi trừ đi các chi phí gia công. Vai trò của hoạt động gia công xuất khẩu: Đối với bên đặt gia công: Việc thuê nước ngoài gia công cho mình có thể tìm kiếm được nguồn lao động giá rẻ cho sản xuất thay thế cho nguồn lao động giá cao trong nước, có thể phát triển được sản xuất, thu được lợi nhuận, chuyển giao được công nghệ sang các nước kém phát triển. Đối với các nước nhận gia công: Nhận gia công thuê cho nước ngoài trước hết giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động phổ thông giúp giảm bớt vấn đề thất nghiệp. Bên cạnh đó các nước này có thể tiếp thu được kinh nghiệm trong sản xuất cũng như việc tiếp cận thị trường, là bước đầu giúp các doanh nghiệp còn chưa đủ điều kiện tiến hành sản xuất xuất khẩu. Những hình thức gia công xuất khẩu Gia công quốc tế là một hoạt động của thương mại quốc tế, căn cứ vào một số tiêu thức nhất định mà người ta phân ra làm nhiều hình thức gia công khác nhau, thông thường người ta lấy công đoạn sản xuất làm căn cứ chính. Theo công đoạn sản xuất người ta chia gia công quốc tế thành 3 hình thức: Một là, gia công chi tiết: Bên nhận gia công sẽ gia công một chi tiết sản phẩm mà bên đặt gia công yêu cầu. Bên đặt gia công sẽ là bên giao nguyên liệu và mẫu chi tiết, sau đó nhận chi tiết hoàn thành từ phía nhận gia công. Hai là, gia công hoàn chỉnh sản phẩm: Bên nhận gia công nhận nguyên liệu chính, phụ (nếu có) và tiến hành từ công đoạn đầu tiên đến công đoạn cuối cùng để tạo sản phẩm hoàn chỉnh, sau đó đóng gói, kẻ ký hiệu mã (nếu có) rồi chuyển giao cho bên đặt gia công, theo hợp đồng đặt gia công. Hình thức này áp dụng với hàng hoá thông dụng, không phải là mũi nhọn hiện thời của bên đặt gia công và bên nhận gia công có đầy đủ năng lực để hoàn chỉnh sản phẩm. Ba là, gia công đảm nhận công đoạn: Bên nhận gia công sẽ gia công một phần sản phẩm cho bên đặt gia công (có thể là công đoạn còn lại của sản phẩm, hoặc một phần công đoạn trong quá trình chế tạo sản phẩm). Sau khi hoàn thành các công đoạn cần gia công, bên nhận gia công sẽ giao lại các sản phẩm cho bên đặt gia công. Hình thức này thường áp dụng với những hàng hoá mà bên nhận gia công không có khả năng đảm nhận sản xuất toàn bộ sản phẩm hoặc tên sản phẩm gắn liền với danh tiếng của công ty đặt gia công. Đây là hình thức khai thác triệt để lợi thế của bên đặt gia công về nhập khẩu sản xuất, giá lao động rẻ, trình độ tay nghề đủ để gia công tốt phần công đoạn đó. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động gia công xuất khẩu Là một bộ phận của thương mại quốc tế hoạt động gia công xuất khẩu chịu tác động của rất nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố vĩ mô như môi trường sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đến những yếu tố vi mô đó là nội bộ sản xuất của công ty, không chỉ là những tác động của môi trường nội địa mà còn có tác động của các quốc gia khác trên thế giới. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Môi trường doanh nghiệp được hiểu là tổng hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội, chính trị kinh tế, tổ chức và kỹ thuật, các tác động, các mối liên kết diễn ra bên trong bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó bao gồm cộng đồng các doanh nghiệp có các mối liên hệ với nhau và các mối liên hệ này phải được giải quyết theo những quan điểm truyền thống của một quốc gia, một cộng đồng người. Mỗi doanh nghiệp tồn tại trong một môi trường kinh doanh nhất định và chịu sự tác động của môi trường kinh doanh đó. Tuy nhiên, khi phát triển đến một mức độ nào đó thì doanh nghiệp tác động trở lại môi trường kinh doanh. Hoạt động gia công quốc tế là một bộ phận của thương mại quốc tế. Chính vì vậy môi trường kinh doanh ở đây không đơn giản là trong nội bộ một quốc gia mà lớn hơn nó chịu tác động của nhiều yếu tố như khác biệt về luật pháp, văn hoá, tập quán kinh doanh…Trong đó hai yếu tố công nghệ và pháp luật là hai yếu tố tác động nhiều nhất đến hoạt động này. Những quốc gia có công nghệ cao thường là những nước đặt gia công và là những nước chủ động tìm được thị trường do vậy mà thường nhận được khoản lợi nhuận lớn hơn, ngược lại những nước nhận gia công thường là những nước có trình độ công nghệ kém hơn chỉ tiến hành nhập nguyên liệu và sản xuất theo các mẫu đơn đặt hàng có sẵn chính vì vậy mà chỉ được hưởng một khoản phí gia công theo một tỷ lệ nhất định thường là rất thấp. Các yếu tố khác như chính trị như các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và nhà nước các qui định về thuế, về hải quan…đều tác động đến hoạt động này. Ví dụ như qui định về thủ tục hải quan mà đơn giản thì sẽ khiến các doanh nghiệp nước ngoài có thể dễ dàng hơn trong việc chuyển nguyên liệu sang hay nhập hàng về vì vậy thúc đẩy hoạt động gia công phát triển. Những thủ tục hành chính phức tạp hay chính sách không thông thoáng để khuyến khích các nhà đặt gia công sẽ làm giảm số lượng đơn hàng. Yếu tố văn hoá gồm những yếu tố như : nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính, thói quen, phong tục…thường thì tác động nhiều hơn đến bên đặt gia công vì họ thường là bên nghiên cứu về các loại kiểu dáng, mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Do vậy, bên nhận gia công chỉ bị ảnh hưởng gián tiếp. Các nhân tố thuộc nội bộ công ty Nếu các nhân tố bên ngoài công ty quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp thì các nhân tố bên trong quyết định tiềm lực của doanh nghiệp đó. Nó quyết định đến khả năng chịu rủi ro cũng như khả năng nắm bắt các cơ hội trong kinh doanh đặc biệt là kinh doanh xuất khẩu. Các nhân tố này bao gồm: Năng lực sản xuất và trình độ công nghệ, tình hình nhân sự, tình hình Marketing, tình hình tài chính. Năng lực sản xuất và trình độ công nghệ : Đây là điều kiện để công ty gia công có thể có được chi phí rẻ hơn, tăng lợi nhuận và tăng qui mô sản xuất. Nếu một công ty có dây chuyền sản xuất hiện đại có khả năng tăng năng xuất thì sẽ tạo được ra nhiều việc làm hơn cho công nhân đem về nguồn lợi nhuận lớn hơn do vậy tăng sức mạnh cho công ty là điều kiện để công ty có thể chuyển tiếp sang xuất khẩu trực tiếp. Tình hình nhân lực: Phản ánh thực tế về số lượng cũng như trình độ của cán bộ công nhân viên của công ty. Hiệu quả của công việc tốt hay không thì cần phải xem xem người tiến hành công việc đó như thế nào. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh buôn bán xuất nhập khẩu thì nhân lực còn phải cần những người thực sự có trình độ, kinh nghiệm trong việc ký kết các hợp đồng giao dịch. Việc nhận gia công tuy ít đòi hỏi đến khả năng trên nhưng nếu nước nhận gia công mà không tiếp tục tiếp cận và học hỏi thì sẽ mãi mãi ở vị trí của nước nhận gia công thuê cho nước ngoài, và cũng khó nhận được những hợp đồng đặt hàng. Có thể nói yếu tố nhân lực là yếu tố đánh gía sự năng động của một doanh nghiệp. Tình hình Marketing: Ngày nay khi một doanh nghiệp bắt tay vào kinh doanh luôn luôn có ý thức phải gắn kinh doanh của doanh nghiệp mình với thị trường. Bên cạnh những yếu tố như nhân lực, tài chính, quản lý sản xuất thì chức năng Marketing là một chức năng không thể tách rời bởi nó là chức năng kết nối hoạt động của doanh nghiệp với thị trường. Trong hoạt động gia công , bên đặt gia công thường là bên chú trọng nhiều hơn đến hoạt động này, tuy vậy bên nhận gia công cũng phải chú trọng vì nếu không liên kết tốt với thị trường thì khó nhận được nhiều đơn hàng dành cho sản xuất. Do vậy, doanh nghiệp đặt hàng luôn phải nghiên cứu xem nhu cầu của người tiêu dùng là gì để có chiến lược sản phẩm cụ thể còn bên nhận gia công thì nghiên cứu cùng công nghệ đó mình có thể đáp ứng được cho sản xuất của đối tác nào để tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng nhận gia công. Tình hình tài chính: Được phản ánh qua các chỉ số doanh thu, lợi nhuận, tài sản…là nhân tố phản ánh thực lực của doanh nghiệp. Nếu tài chính của doanh nghiệp đủ mạnh sẽ có thể đầu tư tốt hơn cho dây chuyền công nghệ để sản xuất, sẽ có điều kiện tạo mức sống tốt hơn cho lao động, đồng thời cũng tạo được niềm tin cho phía đối tác khi tiến hành ký kết các hợp đồng. Vị trí ngành Da- Giầy trong nền kinh tế quốc dân 1.3.1. Vị trí ngành Da- Giầy trong nền kinh tế Trong giai đoạn hiện nay ngành Da- Giầy có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc điểm của ngành là sử dụng nhiều lao động, khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, có lợi thế xuất khẩu và thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Hơn nữa đây lại là ngành công nghiệp nhẹ có tỷ suất đầu tư vốn ít khả năng quay vòng vốn nhanh, công nghệ không phải đầu tư quá nhiều nên có thể tạo tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế. Nước ta mới trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập muốn phát triển kinh tế mà tiềm lực còn chưa mạnh để phát triển những ngành công nghiệp cao ngay lập tức thì Da- Giầy với những ngành Dệt may, Thuỷ sản là những ngành cần phát triển với phương châm lấy ngắn nuôi dài, vừa chạy tắt vừa đón đầu. Có như vậy mới có thể nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động gia công xuất khẩu chỉ là một hoạt động nhỏ trong các hoạt động thương mại quốc tế, tuy vậy những quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì đây lại là hoạt động có ý nghĩa khá quan trọng. Những ngành như may mặc hay da- giầy của nước ta là những ngành có đóng góp không nhỏ vào GDP nhưng chủ yếu đang hoạt động theo hình thức gia công xuất khẩu. Hiện có một số doanh nghiệp có ty đã có một số công ty có thương hiệu như công ty Giầy Thượng Đình, Thuỵ khuê, Giầy Hà Nội…nhưng mới chỉ gây dựng được thương hiệu trong nước, chưa khẳng định được vị tri của mình trên thế giới. Ta vẫn sản xuất ra hàng hoá xuất đi nước ngoài nhưng với nhãn hiệu là của các nước khác. Trước hết, tình hình đó phản ánh tình trạng Việt Nam chưa có được hình ảnh trong con mắt của thị trường quốc tế, chưa có được uy tín để đối tác tự tìm đến ta ký kết các hợp đồng bởi họ chưa có sự tin tưởng vào chất lượng cũng như khả năng cung ứng hàng hoá của ta. Do vậy, hình thức gia công là hình thức được các nước này lựa chọn khi tham gia kinh doanh với ta. Hiện tại, hình thức này tuy giá trị kinh tế đem lại chưa thực sự cao như tự sản xuất xuất khẩu nhưng nó góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế- chính trị của đất nước. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu giầy dép của toàn ngành Da - Giầy VN năm 2006 đạt 3,59 tỷ USD tăng 20% so với năm 2005 với sản lượng xuất khẩu 579 triệu đôi giầy dép các loại. Túi cặp xuất khẩu đạt trị giá 503 triệu USD tăng 7 % so với năm 2005. Giầy thể thao vẫn là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt nam với 381 triệu đôi, trị giá 2,63 tỷ USD chiếm 73 % tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, giầy nữ với số lượng 87 triệu đôi đạt trị giá 538 triệu USD chiếm gần 15% . Giầy vải vẫn tiếp tục được duy trì , đặc biệt các loại giầy vải cao cấp thêu, in nổi và các loại giầy vải có mũ từ da được nhiều khách hàng quan tâm. Năm 2006 đạt 25 triệu đôi, trị giá 217 triệu USD chiếm 6,4 % tổng kim ngạch. Tuy số lượng giầy vải không tăng so với 2005 song giá trị XK lại lớn hơn, điều đó cho thấy DN Việt nam đã XK giầy vải cao cấp thay thế các loại giầy vải thấp cấp như trước đây. Các loại khác như: dép đi trong nhà, sandal, dép đi biển đạt 75 triệu đôi, trị giá 202 triệu USD chiếm 5,6% tổng kim ngạch XK. Đến hết năm 2006, toàn ngành đã trang bị trên 750 dây chuyền đồng bộ sản xuất các loại giầy dép hoàn chỉnh với công suất 715 triệu đôi/năm. Cụ thể vị trí ngành Da- Giầy Việt Nam được khẳng định qua sự đóng góp của ngành vào tổng kim ngạch xuất khẩu. Biểu đồ 01. Tỷ trọng ngành Da- Giầy Việt Nam trong Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2006 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành Da- Giầy Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu dùng Da- Giầy: Những nhân tố ảnh hưởng đến tiêu dùng giầy dép là: Giá bán, mức thu nhập bình quân đầu người, uy tín sản phẩm, kiểu dáng chất lượng…Có thể thấy giầy dép là một sản phẩm tiêu dùng thiết yếu nhưng cũng là một sản phẩm thời trang cho nên tuỳ vào từng loại có kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng khác nhau mà giá bán của sản phẩm đó khác nhau. Từ đó ảnh hưởng đến tâm lý và phân tầng người tiêu dùng. Những người có thu nhập cao sẽ lựa chọn những sản phẩm có chất lượng tốt giá cao còn những người có thu nhập thấp sẽ lựa chọn những sản phẩm có giá cả vừa phải. Nếu xem xét tiêu dùng ra thị trường nước ngoài thì yếu tố uy tín nhãn hiệu hay có thể gọi là thương hiệu và quan hệ thương mại là hai yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất. Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất Sản xuất chịu tác động của rất nhiều yếu tố nhưng nổi bật nên các yếu tố: vốn, công nghệ, và lao động. Ở nước ta do chủ yếu sản xuất theo mô hình gia công là chính và chưa chủ động được nguồn nguyên liệu do vậy yếu tố nguyên liệu tác động không nhiều nhưng trong tương lai khi chuyển sang tự sản xuất thì đây lại là một yếu tố quan trọng. Vốn với ngành Giầy dép không đòi hỏi nhiều nhưng phải đủ cho quay vòng sản xuất.Công nghệ cao hay thấp ảnh hưởng đến năng suất lao động ảnh hưởng sự phát triển của ngành. Lao động không đòi hỏi tinh xảo khéo léo và thời gian đào tạo dài. Một số thị trường Da- Giầy của Việt Nam trên thế giới 1.4.1. Thị trường Mỹ Mỹ là nước có nền kinh tế phát triển lớn nhất và cùng là nước tiêu dùng lớn nhất trên thế giới. Đối với giầy dép một năm người dân Mỹ tiêu dùng 35 tỉ USD trong đo 35% là giầy thể thao, lượng tiêu thụ 7 đôi/người/năm. Nhưng do giá nhân công ở Mỹ quá cao và chủ yếu 80% dân só Mỹ hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ vì vậy giầy dép chủ yếu trên thị trường này là nhập nhập khẩu. Trong đó 76% là dép nam và 90% dép nữ. Năm 2002 Mỹ nhập 1.898 triệu đôi (15,079tỷ USD) đến năm 2003 tăng 2 tỷ đôi năm 2004 là 2,124 triệu đôi đến năm 2006 tăng lên 2.478 triệu đôi, tăng trưởng bình quân đạt 4% năm. Sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Việt Nam tiếp tục gia tăng với kim ngạch XK năm 2006 đạt 802 triệu USD tăng 30% so với năm 2005, chủ yếu do các công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh, một vài công ty lớn của Việt Nam gia công xuất khẩu những thương hiệu lớn như NIKE, Addidas, Rebook…và XK qua hệ thống kênh phân phối chính của Mỹ, một số các DN có quy mô nhỏ tự sản xuất mẫu mã và chào hàng trực tiếp tới các nhà nhập khẩu qua các hội chợ triển lãm tại Mỹ hiện đang bước đầu triển khai song kết quả vẫn còn rất hạn chế. Các sản phẩm xuất khẩu chính vào thị trường này là giầy thể thao, giầy da nam nữ, dép đi trong nhà, dép đi biển. v.v...Năm 2005, Việt Nam chỉ giữ ở vị trí thứ 4, cách xa vị trí thứ 3 của Braxin trong bảng xếp hạng các nước đạt kim ngạch xuất khẩu giày dép lớn nhất sang Mỹ. Với mức tăng 34,4% về kim ngạch trong 9 tháng năm 2006, Việt Nam vượt qua Braxin dành vị trí thứ 3, đạt kim ngạch 726 triệu USD. Nhiều chuyên gia dự báo, hết năm 2007, Việt Nam sẽ đứng ở vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng, chỉ sau Trung Quốc Biểu đồ 02. Các nước xuất khẩu giầy vào thị trường Mỹ Người tiêu dùng Mỹ không khó tính, sử dụng nhiều chủng loại giầy dép khác nhau với yêu cầu tiện lợi thời trang và có độ bền cao nhưng ưa giảm giá. Hiện Việt Nam là một quốc gia xuất khẩu Giầy dép khá lớn vào thị trường Mỹ đặc biệt kể từ khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký kết và khi Mỹ thông qua PNTR cho Việt Nam thì kim ngạch buôn bán hai nước tăng lên đáng kể. Trong tương lai đây là một thị trường tiềm năng lớn của ngành giầy da Việt Nam bởi Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 2% thị phần nhập khẩu giầy của Mỹ. Thị trường EU Eu là cộng đồng kinh tế do 6 nước thành viên ban đầu sáng lập ra sau đó tăng lên thành 15 nước đến tháng 5 năm 2004 thì EU mở rộng ra thành 25 nước. Đây là thị trường tiêu thụ đồ da lớn nhất trên thế giới chiếm 30% lượng giầy dép xuất khẩu toàn cầu. Người tiêu dùng EU tiêu thụ 1,6 tỷ đôi giầy dép các loại hàng năm, bình quân 4,3 đôi một người một năm. Trong đó thị trường nội địa cung ứng được khoảng 30% còn lại nhập khẩu. Trung Quốc là nước xuất khẩu giầy dép lớn nhất vào EU chiếm 46,9% về lượng và 28,3% về giá trị. Việt Nam chiếm 19,6% về lượng và 28,3% về giá trị. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt nam dẫn đầu vẫn là các nước EU, trước đây xuất khẩu giầy dép của Việt nam vào thị trường này chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả ngành. Nhưng sang đến năm 2006 mặc dù tổng lượng xuất khẩu của ngành sang EU có tăng nhưng chỉ chiếm 50% tổng kim ngạch của ngành Da- giầy do ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá với giầy dép có xuất xứ từ Việt Nam vào thị trường này.Tuy nhiên, sau khi có phán quyết cuối cùng của liên minh Châu âu là áp thuế chống bán phá giá 10% đối với giầy mũ da xuất xứ Việt nam trong khi Trung quốc chịu mức 16,5% thì tình hình xuất khẩu đã dần ổn định, khách hang đã quay trở lại Việt nam để đặt hang vì vậy kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành năm 2006 vẫn đạt chỉ tiêu như kế hoạch đề ra. Bảng 01. Lượng giầy của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU qua các năm ĐVT: 1000 đôi Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Lượng giầy Việt Nam xuất khẩu sang EU qua các năm 217.044 234.700 264.421 268.701 294.212 329.517 461.324 Nguồn: Shoeinfonet.com Theo bảng số liệu ta có thể thấy lượng giầy dép xuất khẩu giầy của Việt Nam sang EU có xu hướng liên tục tăng với tốc độ bình quân đạt 1,1% đặc biệt từ sau năm 2004 thì tốc độ tăng cao hơn hẳn. Năm 2000 lượng giầy xuất khẩu đạt 217.044 nghìn đôi nhưng đến năm 2006 thì đã đạt 461.321 nghìn đôi tăng gấp 2,12 lần. Biểu đồ 03. Lượng giầy xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đến năm 2006 217.004 234.7 264.421 268.701 294.212 329.517 461.324 0 50 100 150 200 250 300 350 400 450 500 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tuy nhiên sự gia tăng còn ở mức độ chậm chưa có sự đột biến cho nên các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đẩy mạnh việc thâm nhập vào thị trường này nhiều hơn nữa. Anh và Đức là thị trường phổ biến tiêu thụ nhiều giầy dép nhất. Khách hàng ở thị trường này đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang nhiều khi yếu tố thời trang còn quan trọng hơn giá cả. Khác với thị trường Mỹ là thị trường tiêu thụ giầy thể thao lớn thì thị trường EU lại có xu hướng tiêu dùng giầy vải. Xu hướng này ngày càng tăng và tỉ lệ thuận với nhu cầu tiêu dùng giầy dép hàng năm ở EU. Thị hiếu của người tiêu dùng Eu luôn thay đổi, đặc biệt là về mẫu mốt. Và một điều quan trọng là người dân EU thích tiêu dùng những hàng đã có thương hiệu. Hiện các nước Hàn Quốc, Đài Loan là những nước nhập khẩu giầy dép của Việt Nam rồi tái xuất sang EU, hay nói cách khác Việt Nam chủ yếu xuất khẩu gián tiếp sang EU. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và doanh nghiệp sản xuất giầy cần chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực tiếp thị, tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang EU, chủ động tìm kiếm đối tác và bạn hàng. Thị trường Nhật Bản Với dân số trên 130 triệu dân và thu nhập bình quân đầu người cao hàng năm Nhật Bản nhập một số lượng giầy dép khá lớn khoảng 350 triệu đôi, trung bình 3 đôi/ người/ năm. Giá lao động rất cao nên hầu như việc sản xuất giầy dép ở Nhật được dịch chuyển sang các quốc gia Đông Á lân cận. Năm 2000 Nhật Bản nhập 15.469 triệu đôi, năm 2001 nhập 16.331 triệu đôi, năm 2002 nhập 16.885 triệu đôi đến 2006 nhập 18468 triệu đôi. Đây là thị trường có nhiều tiềm năng vì thị phần của Việt Nam tại đây rất thấp. Đứng đầu là Trung Quốc chiếm 68,7% thị phần nhưng giá trị kim ngạch thì chỉ đạt ½ kim ngạch của Ý do Trung Quốc theo đuổi chiến lược giá rẻ. Đây là thị trường khá khó tính yêu cầu chất lượng, chủng loại, màu sắc, chất liệu, sinh thái và nhiều ràng buộc khác. Nhưng khi giầy dép Việt Nam đã thâm nhập được vào thì khả năng phát triển rất cao. Thị trường Nhật với thị phần xuất khẩu chiếm hơn 3% vào năm 2006 vẫn duy trì ở mức như những năm trước đây, các đối tác Nhật đang có xu hướng tìm kiếm các đối tác thuộc da và sản xuất giầy tại Việt nam. Một số thị trường khác Đài Loan, Hồng Kông , Hàn Quốc và một số nước như Thái Lan, Malaysia…đầu năm 90 đã có sự chuyển dịch ngành Da- Giầy sang Việt Nam và một số nước lân cậ. Những nước này trở thành thị trường tiêu thụ là cầu nối giữa các nước Việt Nam, Indonexia sang các nước Mỹ, EU, Nhật Bản. Những nước này, trước kia cũng sản xuất để xuất khẩu nhưng khi kinh tế phát triển đã trở thành những nhà tiêu dùng trung gian, hiện hầu hết đều thuê nước ngoài gia công sản xuất và phát triển theo những xu hướng mới như Đài Loan trở thành trung tâm thiết kế mẫu mốt của châu Á nhất là giầy nữ. Hàn Quốc phát triển mạnh về kiểu dáng giầy thể thao. Việt Nam hiện đang là đối tác gia công thuê cho những nước này. Thông qua việc gia công thuê Việt Nam có thể tiếp cận được với cách sản xuất, thiết kế và kinh nghiệm trong tiếp cận thị trường từ đó tiến hành sản xuất xuất khẩu trực tiếp. Chương 2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng 2.1. Tổng quan về công ty 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần vật tư và giầy dép x._.uất khẩu Hải Hưng (Trước khi cổ phần hoá là công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng), được thành lập ngày 15/12/1968. Lúc đầu công ty có tên gọi là chi cục vật tư Hải Hưng trực thuộc Tổng cục vật tư với 150 cán bộ công nhân viên. Nhiệm vụ chính của công ty là cung ứng thường xuyên, có kế hoạch vật tư kỹ thuật cho các đơn vị sản xuất trong và ngoài tỉnh. Năm 1971 Chi cục vật tư Hải Hưng đổi tên thành công ty vật tư kỹ thuật Hải Hưng bao gồm 6 phòng ban, 5 cửa hàng và 5 trạm cung ứng vật tư nhằm phân phối kinh doanh, cung ứng vật tư kỹ thuật được Bộ vật tư cung cấp cho các đơn vị sản xuất đông thời làm nhiệm vụ hạch toán kinh tế, quản lý vật tư tài sản và lao động để phục vụ đầy đủ kịp thời và kinh tế nhất cho sản xuất. Năm 1980 Công ty vật tư trực thuộc liên hiệp cung ứng vật tư khu vực III Bộ vật tư . Năm 1985 Bộ vật tư giải thể liên hiệp cung ứng vật tư khu vực III , công ty kỹ thuật Hải Hưng trực thuộc Bộ vật tư. Năm 1991 do sát nhập 3 Bộ: Vật tư, Ngoại thương, Thương nghiệp, công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng trực thuộc Bộ thương Nghiệp. Năm 1992 Bộ thương nghiệp đổi tên thành Bộ thương mại và công ty cổ phần vật tư Hải Hưng trực thuộc Bộ thương mại. Năm 1986 cùng với việc chuyển đổi sang cơ chế quản lý kinh tế mới, công ty đổi tên thành công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng. Lúc này công ty chuyển đổi sang cơ chế quản lý từ cung ứng, phân phối theo kế hoạch vật tư kỹ thuật sang tự chủ hạch toán sản xuất kinh doanh với chức năng chính là : Chủ động khai thác thị trường vật tư hàng hoá kim khí cung ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho sản xuất, xây dựng đời sống xã hội, đảm bảo yêu cầu về chất lượng, số lượng, chủng loại. Chủ động hạch toán kinh doanh đảm bảo yêu cầu bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh có lãi, nộp đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước, đảm bảo việc làm và đời sống cho cán bộ công nhân viên. Tham gia vào ổn định giá cả vật tư kim khí trên thị trường, góp phần ổn định tình hình kinh tế- chính trị- xã hội, tổ chức quản lý và an toàn tài sản, vật tư tiền vốn lao động. Năm 1994 Công ty ký hợp đồng với đối tác nước ngoài là Hàn Quốc tiến hành sản xuất kinh doanh giầy vải phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đến năm 1997 do khủng hoảng tài chính mà đối tác nước ngoài phá sản làm cho công ty gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, hàng trăm cán bộ công nhân viên công ty đã quyết tâm chuyển hướng sản xuất từ giầy vải phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước sang sản xuất và gia công giầy thể thao cho đối tác nước ngoài là công ty GINFUN TRADING CO., LTD của Đài Loan. Trong năm 2005, Công ty đang tiến hành xây dựng thêm 9000 m2 nhà xưởng mua sắm thêm một dây chuyền sản xuất giầy thể thao đồng bộ, xây dựng khu nhà ăn cho công nhân viên. Điều đó cho thấy công ty ngày càng khẳng định được mình trên thị trường số lượng đơn đặt hàng tăng nhanh. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ nên số lượng đơn đặt hàng giữa các mùa không đều nhau, có thời điểm phải làm tăng ca kéo dài. Đơn vị cần có sự bố trí công việc hợp lý hơn giữa các đơn đặt hàng trong các mùa vụ. Việc nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới (gia nhập tổ chức WTO, và diễn đàn hợp tác kinh tế APEC..) đã khiến cho việc cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng thêm gay gắt. Hầu hết các doanh nghiệp đều gặp rất nhiều khó khăn trong việc thích nghi với môi trường kinh doanh mới, một môi trường kinh doanh mà họ phải cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp khác nhau trên thị trường không có sự bảo hộ của nhà nước như trước đây. Công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng cũng như các doanh nghiệp khác phải đối mặt với những thách thức của thị trường do đó phải tự đứng vững bằng chính đôi chân của mình. Năm 2005, cùng với xu thế tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, theo chủ trương của Đảng, nhà nước, Bộ thương mại có quyết định 4099 QĐ-BTM tiến hành chuyển đổi công ty sang hình thức công ty cổ phần. Sau khi tiến hành cổ phần hoá Tên công ty: Công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng Tên tiếng anh: HAI HUNG MATERIALS AND SHOES EXPORT JOINT STOCK COMPANY Viết tắt: HMSC Địa chỉ: Đường Quán Thánh- Phường Bình Hàn- Thành phố Hải Dương- Tỉnh Hải Dương Điện thoại: 0320.852352/ 853372/ 855660/ 853490 Fax: 0320.850878. Hiện công ty có 1 dây chuyền sản xuất giầy vải 1 dây chuyền sản xuất giầy thể thao đồng bộ, 570 lao động sở hữu 1800 m2 đất có 2,979 tỷ đồng là vốn lưu động. 2.1.2. Chức năng nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của công ty Chức năng chính của công ty là: Mua bán vật tư tổng hợp: kim khí, hoá chất, (được nhà nước cho phép), thiết bị điện, phụ tùng thay thế, vật liệu xây dựng. Mua bán máy móc, thiết bị cho xây dựng, vận tải Xây dựng công trình, nhà ở, nhà xưởng, trang trí nội thất công trình Sản xuất gia công và mua bán giầy dép vật tư dùng cho sản xuất giầy dép Cho thuê văn phòng nhà xưởng… Trong đó sản xuất giầy dép xuất khẩu vẫn chức năng chính của công ty. Cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty Sơ đồ 01. Cơ cấu tổ chức của công ty ĐH Cổ đông Ban giám đốc Ban kiểm soát Hội đồng Quản Trị Phòng tổ chức hành chính Phòng kế toán tài vụ Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu Xưởng cơ khí tổng hợp Xưởng pha cắt chuẩn bị Xưởng may mũ giầy Xưởnggò ráp hoàn chỉnh Bộ máy tổ chức Công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng sau khi tiến hành cổ phần hoá như sau: Hội đồng quản trị gồm có 7 người, ban kiểm soát có 3 người gồm 1 tổng giám đốc 1 phó tổng giám đốc 1 kế toán trưởng. Trong đó tổng giám đốc là người được giao trách nhiệm pháp nhân. Các đơn vị trực thuộc gồm có: Phòng tổ chức, hành chính (cả bảo vệ), phòng kế toán tài vụ, phòng xuất nhập khẩu, xưởng cơ khí tổng hợp, xưởng pha cắt - chuẩn bị, xưởng may mũ giầy, xưởng gò ráp hoàn chỉnh. Đại hội cổ đông: Đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan có thẩm quyền cao nhất công ty. Đại hội có quyền quyết định các loại cổ phần và tổng số cổ phần chào bán. Bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên HĐQT, thành viên ban kiểm soát, quyết định sửa đổi bổ sung điều lệ của công ty, thông qua báo cáo tài chính hàng năm, thông qua định hướng phát triển công ty, quyết định tổ chức lại, giải thể công ty. Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển công ty. Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần chào bán của từng loại. Quyết định đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty. Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ, thông qua hợp đồng mua bán, vay cho vay và các hợp đồng khác có giá trị lớn hơn hoặc bằng 50% tổng giá trị tài sản trong báo cáo gần nhất. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và những người quản lý quan trọng khác. Ban kiểm soát: Gồm có 3 thành viên do Đại hội đồng cổ đông bầu và bãi nhiệm với đa số phiếu đại diện cho số cổ phần. Ban kiểm soát bầu 1 người làm Trưởng Ban kiểm soát. Ban kiểm soát có quyền kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong ghi chép sổ sách kế toán và báo cáo tài chính. Thẩm định báo cáo tài chính của Công ty. Thông báo Hội đồng quản trị, báo cáo Đại hội đồng cổ đông về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Tổng giám đốc: Tổng giám đốc là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước HĐQT và trứơc pháp luật về thực hiện các quyền và ghĩa vụ được giao. Phòng Tổ chức hành chính: Phòng tổ chức hành chính quản lý nhân sự, điều phối bố trí lao động, chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên công ty như tổ chức ăn trưa, ăn ca, điều dưỡng, du lịch, chăm sóc sức khoẻ, lên kế hoạch sản xuất điều hành chung, tham mưu cho Tổng giám đốc về phương pháp tổ chức công ty. Phòng kế toán, tài vụ: Phòng tài chính kế toán tổ chức hạch toán, thực hiện các chế độ của Nhà nước, tổng hợp số liệu , cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về công tác hạch toán kế toán cho thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, cho nhu cầu quản lý, quản lý các hoạt động tài chính, giám sát hiệu quả sử dụng vốn của công ty, xây dựng kế hoạch tài chính, thanh quyết toán lương, thuế, lập kế hoạch thanh quyết toán. Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu: Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu nghiên cứu khảo sát thị trường, xây dựng các chiến lược Marketing, xây dựng định mức, kế hoạch xuất nhập khẩu hàng hoá, vật tư nguyên phụ liệu. Thực hiện vệc bán hàng mở rộng thị trường kinh doanh, quảng cáo sản phẩm, tham mưu cho Tổng giám đốc về chiến lược sản xuất kinh doanh. Xưởng cơ khí tổng hợp: Sửa chữa, bảo dưỡng, thay thế trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất, đảm bảo điện nước cho sản xuất cũng như sinh hoạt của cán bộ công nhân viên và ngươì lao động trong công ty. Xưởng pha cắt chuẩn bị: Tiến hành chuẩn bị nguyên phụ liệu, pha cắt các loại nguyên liệu dùng cho sản xuất đảm bảo cho sản xuất được liên tục. Xưởng may: Tiến hành may mũ giầy và các công đoạn, chi tiết khác của đôi giầy. Xưởng gò ráp, hoàn chỉnh: Tiến hành gò ráp lắp gép các chi tiết của đôi giầy thành một đôi giầy hoàn chỉnh, đóng gói bảo quản sản phẩm đúng kế hoạch. Hiện công ty đang có 570 cán bộ công nhân viên trong các phòng ban và lao động làm việc. Trải qua 38 năm xây dựng và trưởng thành với muôn vàn khó khăn thử thách có những lúc tưởng chừng như không thể đứng vững nổi. Dù vậy, được sự quan tâm xủa các cấp chính quyền từ TW đến địa phương, đặc biệt là Bộ vật tư sau này là Bộ thương mại cùng với sự phấn đấu không biết mệt mỏi của tầng lớp các thế hệ lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên công ty, công ty vật tư cổ phần giầy dép xuất khẩu Hải Hưng đã vượt qua khó khăn và phát triển. Mặc dù, mới chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần do vậy công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn thử thách, tuy nhiên với nỗ lực phấn đấu của tập thể công ty đã dần đi vào ổn định và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. 2.2. Tình hình sản xuất gia công xuất khẩu giầy của công ty Sản xuất gia công giầy dép xuất khẩu là ngành nghề thu hút lao động (hàng ngàn lao động một doanh nghiệp). Trên địa bàn tỉnh Hải Dương có rất nhiều công ty sản xuất giầy dép với qui mô tương đối lớn giải quyết công việc cho lao động trẻ tại các vùng nông thôn của các huyện trong tỉnh. Đây là ngành nghề cần ít vốn đầu tư thu hồi vốn nhanh, rủi ro ít. Công việc tương đối đơn giản nên không tốn nhiều thời gian đào tạo nhân công, không đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật quá cao. Chính điểm này rất phù hợp vời tình hình lao động chung của tỉnh cũng như lao động chung của Việt Nam có lực lượng dồi dào nhưng trình độ thấp. Tuy nhiên, thuận lợi như vậy nhưng không phải là không có những khó khăn, ngành nghề giầy dép là ngành nghề mà có khá nhiều nước sản xuất do đó việc phải cạnh tranh với các quốc gia khác có công nghệ tốt và lao động tương đối lành nghề như Thái Lan, Trung Quốc…đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải hết sức nỗ lực. Cùng với đó là sự thiếu kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế cho nên các doanh nghiệp Việt Nam nói chung thường bị kiện bán phá giá, bị áp dụng hạn ngạch. Và điều cần bàn ở đây là hầu hết các doanh nghiệp Giầy ở Việt Nam cũng như công ty đều phải lựa chọn hình thức gia công sản xuất cho các đối tác nước ngoài, tất yếu đem đến là lợi nhuận sẽ không cao. Bởi các doanh nghiệp này đều tiến hành sản xuất trong tình trạng thiếu vốn thiếu công nghệ, không tự tìm được thị trường cho xuất khẩu…Đứng trước khó khăn đó công ty đã trải qua 10 năm sản xuất gia công xuất khẩu cho đến nay mới được vài năm ổn định và phát triển và đang dần từng bước phát triển khẳng định mình. Trong tương lai không xa với sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước và chính quyền địa phương cũng như sự nỗ lực cố gắng của tập thể công nhân viên cán bộ công ty, công ty sẽ tiếp tục mở rộng nâng cao sản xuất để thu được nhiều lợi nhuận hơn nữa để có điều kiện chăm lo đến đời sống của lao động công ty cũng như tạo thêm được công ăn việc làm giúp ổn định cho lao động địa phương. 2.2.1. Các nguồn lực sản xuất 2.2.1.1. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng bao gồm thiết bị sản xuất, nhà xưởng và các khu phục vụ cho sản xuất. Hiện trạng cơ sở hạ tầng của công ty còn nhiều hạn chế, máy móc còn nghèo nàn lạc hậu, qui trình công nghệ còn giản đơn. Nhà xưởng được xây dựng từ những năm 1968 ở tình trạng cũ, đã có sửa chữa cải tiến nhưng chưa tương xứng với các doanh nghiệp khác như công ty giầy Hải Dương hay công ty giầy Cẩm bình ở trên địa bàn tỉnh. Trong hệ thống các văn phòng đã được trang bị cơ sở vật chất tương đối để phục vụ cho quá trình quản lý điều hành như điện thoại, máy fax, máy tính có kết nối mạng. Thiết bị dây chuyền tại các phân xưởng sản xuất chủ yếu là thiết bị của Hàn Quốc và Đài Loan được sử dụng từ những ngày đầu thành lập. Theo khảo sát có thể thấy được đa phần máy móc của công ty đã lạc hậu, giá trị còn lại thấp, tỷ lệ dây chuyền phục vụ cho sản xuất còn thấp. Chính vì vậy khó có thể phát triển mở rộng sản xuất nếu như máy móc không được đầu tư cải tiến. Điều này đã đem lại những bất lợi cho công ty như việc đáp ứng những đơn đặt hàng với số lượng lớn, không đảm bảo về mặt chất lượng. Tình hình máy móc như vậy cũng không dễ dàng khi triển khai việc cải tiến mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu thị trường. Máy móc cũ nên năng suất lao động khôgn cao, cơ cấu không đồng bộ vì vậy hiệu quả sử dụng thấp. Hầu hết máy móc của công ty đang sử dụng là máy móc cũ từ công ty vật tư tổng hợp cũ, sang đến năm 2005 công ty đã dành cho đầu tư máy móc bằng một dây chuyền sản xuất hiện đại của Ý để phục vụ tốt hơn cho việc sản xuất các đơn hàng. Bảng 02. Tình hình máy móc thiết bị của công ty đến năm 2006 STT Chủng loại máy móc - thiết bị Nước sản xuất Số lượng Giá trị còn lại (%) 1 Máy bàn 1 kim Hàn Quốc 115 45 2 Máy bàn 2 kim Hàn Quốc 30 50 3 Máy bàn 2 kim Đài Loan 34 15 4 Máy trụ 1 kim Hàn Quốc 50 75 5 Máy trụ 2 kim Liên Xô 5 33 6 Máy Zíc Zắc Nhật 9 35 7 Máy chặt Đài Loan 10 50 8 Máy dập Hàn Quốc 15 42 9 Máy gấp mép Nhật 5 35 10 Máy xén Tiệp Khắc 4 40 11 Dây chuyền mũ giầy HC Liến Xô 1 65 12 Dây chuyền bồi vải cắt viền Đài Loan 1 70 13 Máy cắt vòng Đài Loan 2 37 14 Dây chuyền giầy thể thao Italy 1 95 Nguồn: Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu công ty Cũng trong năm 2005 công ty bỏ vốn xây dựng thêm 900 m2 nhà xưởng và xây dựng thêm một nhà ăn phục vụ cho công nhân viên trong công ty. Việc đầu tư mở rộng xưởng sản xuất, máy móc, cũng như nhà ăn đã tạo điều kiện cho sản xuất phát triển nhưng đó cũng chỉ là những bước đầu, bởi do nguồn vốn ít nên sự đầu tư còn tương đối hạn chế. Những năm tiếp theo công ty có chủ trương tiếp tục đầu tư cho cơ sở hạ tầng có thể mở rộng thêm chủng loại sản phẩm để tăng hiệu quả kinh tế. 2.2.1.2. Vốn Vốn là nhân tố quan trọng trong sản xuất của một doanh nghiệp. Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên hoàn. Da- Giầy là một ngành không đòi hỏi vốn đầu tư lớn nên hầu hết các nước nghèo như nước ta hiện nay đều có thể dễ dàng phát triển ngành công nghiệp này so với ngành công nghiệp nặng như chế tạo máy móc…đầu tư rất lớn mà thời gian thu hồi vốn lâu. Bảng 03. Tổng hợp nguồn vốn của công ty Đơn vị: 1000 đồng Nguồn vốn 2002 2003 2004 2005 2006 Vốn cố định 4.339.930 4.442.530 4.882.110 3.721.935 4.469.658 Vốn lưu động 1.286.820 1.688.820 178.325 1.842.200 2.979.772 Vốn đầu tư–xây dựng cơ bản 15.675 17.500 21.400 1.242.180 32.385 Vốn khác 4.007.230 4.094.340 5.314545 4.663.945 4.859.772 Tổng 9.649.655 10.243.190 10.396.380 11.470.240 12.309.152 Nguồn: Phòng kế toán tổng hợp công ty Qua bảng trên ta thấy tỉ lệ vốn cố định của công ty trên tổng nguồn vốn không cao, vì trước năm 2005 công ty vẫn còn là doanh nghiệp nhà nước, hầu hết nguồn vốn cố định là do nhà nước cấp và bàn giao, tỷ lệ vốn cố định thấp nên việc dành đầu tư cho cơ sở hạ tầng trang thiết bị cho sản xuất là tương đối thấp. Vốn lưu động của công ty có tăng nhưng chưa cao so với mức giá cả trên thị trường. Công ty hoạt động theo hình thức nhập nguyên liệu giao thành phẩm nên lượng vốn lưu động như vậy có thể gọi là tạm ổn định còn nếu hoạt động theo mua nguyên liệu và bán thành phẩm hay tự sản xuất để xuất khẩu thì nguồn vốn như vậy không đủ cho quá trình sản xuất. Tổng nguồn vốn của công ty có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng cò chậm. Riêng năm 2005 do công ty tiến hành xây dựng thêm nhà xưởng và nhập thêm máy móc công nghệ nên lượng vốn dành cho xây dựng đầu tư tăng vọt lên so với các năm, các năm khác chỉ dưới 40 triệu nhưng đến năm 2005 tăng vọt lên 1,2 tỷ đồng. Nhưng sang năm 2006 tổng nguồn vốn vẫn có xu hướng ổn định ở nguồn vốn cố định và nguồn vốn lưu động. 2.2.1.3. Lao động Lao động là một yếu tố quan trọng trọng việc phát triển công nghiệp Da- Giầy, dù được công nghiệp hoá nhưng đây vẫn là một ngành sử dụng nhiều lao động. Thời gian qua, công ty chủ yếu gia công theo các đơn hàng từ EU, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. Hàng hoá sang các nước này đều yêu cầu một chất lượng cao thậm chí đòi hỏi trong cả các công đoạn sản xuất. Bất lợi của công ty là chưa có chứng chỉ ISO 9000, hay chứng nhận công nhận tiêu chuẩn chất lượng được thừa nhận nên thường bị ép gía gia công. Thực tế giá trị mà công ty nói riêng cũng như các doanh nghiệp khác kinh doanh trong lĩnh vực gia công giầy xuất khẩu chỉ được hưởng 20-30% giá trị lợi nhuận thật.Chính do lợi nhuận không cao và cũng do đặc thù sản xuất nên lao động hoạt động trong ngành hầu hết là lao động không có trình độ cao.Tại công ty 60% lao động chỉ tốt nghiệp lớp 9 còn lại 40% lao động tốt nghiệp lớp12. Lao động được đào tạo chuyên môn hầu như không có, chủ yếu những công việc đòi hỏi chuyên môn tay nghề thì đều do chuyên gia nước ngoài của phía đối tác đảm đương. Việc thiết kế các mẫu mã kiểu dáng cho sản phẩm đều do bên đối tác cung cấp bởi trong công ty không có phòng ban làm nhiệm vụ thiết kế cũng như không có nhân lực trong lĩnh vực này. Công ty thu hút lao động chủ yếu ở địa phương đặc biệt là lao động tại các huyện lân cận như Thanh miện, Gia Lộc, Kinh Môn…Hình thức đào tạo chủ yếu là học nghề theo hình thức đào tạo tại doanh nghiệp vừa học vừa làm. Trong thời gian đầu công nhân vẫn được hưởng mức lương thử việc vì thế tạo điều kiện cho công nhân tích cực tham gia làm việc và học tập. Tính đến năm 2005, lao động của công ty gồm 570 người, trong đó lao động gián tiếp là 55 người còn 515 người làm lao động trực tiếp. Nhân viên văn phòng chiếm tỷ lệ tương đối cao nhiều lúc chưa phát huy hết khả năng nhân viên, mặc dù đã chuyển đổi sang công ty cổ phần nhưng do vẫn bị ảnh hưởng bởi thói quen sản xuất cũ như nhân viên chưa thực sự lao động vì sự tồn tại và phát triển của công ty, còn chưa năng động xông xáo với công việc. Bộ máy tổ chức còn kồng kềnh kém hiệu quả, nên hiệu quả công việc chưa cao. Cán bộ lãnh đạo của công ty hiện đang có sự thay đổi, từ khi chuyển sang hình thức cổ phần công ty đồng thời có sự thay đổi nhân sự kể cả trong ban quản trị. Hiện cán bộ mới là người có tài năng, có óc tổ chức tốt, nhạy bén với thời cuộc, có tính chủ động và sáng tạo, nhưng kinh nghiệm quản lý còn chưa cao đặc biệt là uy tín và khả năng thuyết phục mọi người không được bằng cán bộ có thâm niên công tác. Lao động của công ty vấp phải một tình trạng là luôn có sự thay đổi, tạo ra trở ngại lớn cho sản xuất. Phần lớn nguyên nhân là do lương cho người lao động chưa thực sự giữ chân người lao động. Thời gian đầu họ từ nông thôn ra chưa quen với cuộc sống mới đây là những công việc phù hợp với trình độ của họ, nhưng khi đã thích nghi một cách tương đối họ chuyển sang những công việc tạo thu nhập khá hơn. Đó là xu hướng tất yếu nhưng việc lao động biến đổi như vậy làm ảnh hưởng đến việc phân bố dây chuyền sản xuất, làm giảm chất lượng sản phẩm. Lao động lành nghề của công ty chỉ đạt 15% đó là tỷ lệ thấp, thu nhập của công nhân cũng chỉ đạt khoảng 700.000- 900.000 một tháng, tuỳ vào thời gian làm việc. Với mức lương đó và giá cả đang ngày càng tăng như hiện nay thì đảm bảo mức sống tốt cho lao động tại địa bàn tỉnh cũng khó chứ chưa kể đến lao động xa nhà ở các vùng nông thôn lân cận phải chi phí cho thuê nhà, sinh hoạt cũng như đóng góp về gia đình. Vì vậy, mục tiêu trong tương lai của công ty là phải đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng được uy tín trong hoạt động gia công xuất khẩu. 2.2.1.4. Công nghệ Công nghệ là nhân tố quan trọng mang ý nghĩa quyết định sự sống còn của doanh nghiệp hiện nay. Công nghệ ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng tức là bao gồm công cụ, phương tiện cũng như qui trình sản xuất. Muốn tăng năng suất lao động, muốn tạo ra được sản phẩm có chất lượng tốt, để nâng cao được hiệu quả kinh doanh không thể sản xuất với một dây chuyền công nghệ lạc hậu có từ cách đây 3-4 chục năm. Chính vì lý do đó khi vừa tiến hành cổ phần lãnh đạo công ty những người có tầm nhìn mới đã nhanh chóng tiến hành sắm sửa dây chuyền công nghệ tiên tiến của Ý một trong những quốc gia có vị trí cao trong công nghệ sản xuất giầy. Hiện công ty chỉ gia công hai mặt hàng chủ yếu là giầy vải và giầy thể thao. Trong đó dây chuyền sản xuất giầy vải đã cũ chỉ có dây chuyền sản xuất giầy thể thao là mới được trang bị thêm. Hiện công ty có khoảng 179 máy bàn kim chủ yếu là của Hàn Quốc và Đài Loan. Trong đó máy bàn một kim có nhiều nhất vì đây là công cụ dùng cho hầu hết các loại sản phẩm, nhưng giá trị còn lại khoảng 45%. Các loại máy móc khác như máy cắt vòng, máy chặt, máy zíc zắc, trụ có giá trị sử dụng cũng chỉ hơn 30%. Ngoài dây chuyền công nghệ hiện đại mới nhập từ Ý thì hầu như công nghệ chỉ sử dụng được thêm 5 năm nữa là hoàn toàn lạc hậu so với thế giới cũng như các nước trong khu vực . Hiện trạng công nghệ của công ty chưa cao so với các công ty trong địa bàn tỉnh nhưng cũng đáp ứng đầy đủ các đơn hàng do phía đối tác yêu cầu. Nhưng với mục tiêu tự sản xuất xuất khẩu trong tương lai, phải chủ động tìm thị trường, phải liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm, phải thay đổi kiểu dáng mẫu mã thì khó lòng đáp ứng được với tình hình công nghệ của công ty hiện nay. Việc gia công thuê cho nước ngoài giúp công ty có thể tiếp cận với thị trường nước ngoài một cách gián tiếp qua sản phẩm, bên cạnh đó việc liên doanh với đối tác cũng tạo cho doanh nghiệp cơ hội được tiếp cận với qui trình sản xuất hiện đại cách tổ chức và quản lý cũng như qui trình sản xuất tiên tiến. Sơ đồ 02. Qui trình công nghệ sản xuất giầy Kho nguyên liệu May Kho thành phẩm Đóng gói và kiểm tra Gò ráp Mài đế Bồi Chặt Như vậy có thể thấy với qui trình tỉ mỉ khép kín từ lựa chọn nguyên liệu phù hợp từ kho đến cắt rồi may tiếp đến là gò ráp hoàn chỉnh sản phẩm, cuối cùng sản phẩm được đưa vào kiểm tra rồi mới tiến hành đóng hộp. Sản phẩm của giai đoạn trước đồng thời là đầu vào cho giai đoạn sau một cách liên tục, nếu sản xuất theo qui mô lớn việc luân chuyển liên tục chuyên môn theo từng khâu như vậy đảm bảo tốc độ sản xuất nhanh cho ra lượng sản phẩm lớn tiết kiệm được kho bãi. Tóm lại, với qui trình sản xuất như hiện nay công ty chủ động từng bước đổi mới công nghệ máy móc thì việc đảm bảo chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động sẽ được thực hiện một cách dễ dàng. 2.2.2. Thực trạng xuất khẩu của công ty 2.2.2.1. Giá trị kim ngạch xuất khẩu Trải qua 10 năm hoạt động trong lĩnh vực gia công xuất khẩu giầy công ty đã dần từng bước đi vào ổn định thoát khỏi khủng hoảng kể từ sau năm 1997. Đặc điểm công ty là gia công để xuất khẩu nên kết quả hoạt động này cũng đồng thời là kết quả sản xuất kinh doanh. Sau khi trở thành công ty cổ phần thì uy tín của công ty ngày càng được khẳng định. Công ty thường nhập hầu như toàn bộ nguyên vật liệu cho sản xuất từ Đài Loan tiến hành sản xuất thành thành phẩm sau đó xuất trực tiếp sang các thị trường như Mỹ, EU…theo đơn hàng mà công ty Ginfun đã ký kết. Sau đó tiến hành nhận tiền trực tiếp hoặc nhận bằng thanh toán. Nguyên liệu thừa thì lưu kho tiếp tục dùng cho lô hàng sau, các máy móc thiết bị cần thiết sản xuất cho loại hàng hoá riêng biệt thì được chuyển sang để sản xuất nhưng không tính vào giá trị xuất nhập khẩu, sau khi sản xuất hết thì nó được vận chuyển trở lại Đài Loan hoặc nếu bên phía Việt Nam có nhu cầu mua thì công ty Đài Loan tiến hành chuyển giao. Thường thì bên đối tác tạm ứng trước một khoản tiền để cho ta nhập nguyên liệu nhưng hàng hoá sau khi được thanh toán sẽ do bên đối tác nhận tiền sau đó mới thanh toán cho ta. Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty được thể hiện qua bảng số liệu sau Bảng 04. Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty qua các năm ĐVT:1000 USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Xuất khẩu 4.121,07 4.479,564 4.606,11 5.066,72 5.168,055 5.718.47 9.002,752 Nhập khẩu 2.677,29 2.458,686 1.952,81 2.733,934 2.788,612 3.652,19 4.350,278 Tổng kim ngạch 6.798,36 6.938,250 6.558,92 7.800,654 7.956,667 9.370,66 13.353,03 Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu công ty Qua bảng số liệu trên có thể thấy kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty có chiều hướng gia tăng. chỉ sau 5 năm mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của đã tăng lên gấp đôi. Mặc dù do các yếu tố như giá cả của nguyên vật liệu, giá chi phí sản xuất tăng, giá nhân công tăng, do ảnh hưởng chung của xu thế tăng giá của giá xăng dầu trên thế giới nhưng không phải đó là nguyên nhân làm tăng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu. Sự thể hiện giá nguyên liệu gia tăng vào năm 2005 mặc dù giá trị xuất khẩu tăng cao hơn hẳn so với các năm trước nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu không tăng lên so với năm 2004 nhiều lắm, năm 2006 giá nguyên vật liệu cho sản xuất là cao nhất nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng tăng lên đáng kể gấp 2,2 lần so với năm 2000. Từ đó có thể thấy giá trị nguyên liệu nhập vào tăng lên một phần do xu thế chung một phần do quá trình sản xuất phát triển lượng hàng xuất khẩu gia tăng mạnh. Để có thể thấy rõ hơn xu thế tăng trưởng trong xuất khẩu của công ty ta có thể theo dõi ở biểu đồ sau. Biểu đồ 04. Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty đến hết năm 2006 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 8000 9000 10000 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Năm 1000 USD Xuất khẩu Nhập khẩu Biểu đồ thể hiện rõ xu thế tăng của kim ngạch xuất khẩu giầy và nhập khẩu nguyên liệu. Từ năm 2000 đến 2005 thì tốc độ tăng của nhập khẩu nguyên vật liệu và tốc độ xuất khẩu giầy luôn tỷ lệ thuận nhưng năm 2005 tốc độ tăng của nguyên liệu vẫn như mọi năm có độ thoải thì đường biểu hiện xuất khẩu dốc hẳn lên. Điều đó chứng minh rằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng là do lượng hàng xuất khẩu tăng lên thể hiện sự phát triển trong sản xuất, điểm mốc là năm 2005 bởi đây là năm có sự đầu tư lớn cho qui mô nhà xưởng cũng như máy móc dây chuyền sản xuất. Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu khá khả quan và trong những năm tiếp theo chắc chắn kim ngạch sẽ còn cao hơn nữa. 2.2.2.2. Chủng loại mặt hàng giầy da xuất khẩu Chủng loại mặt hàng gia công xuất khẩu của công ty không được đa dạng do công ty chỉ tập trung sản xuất giầy thể thao bên cạnh đó có sản xuất thêm giầy vải. Các mặt hàng như xăng đan, túi, cặp, hay giầy bóng mặc dù có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu vốn có trong sản xuất giầy vì có chất liệu tương tự nhưng công ty không có thiết bị máy móc chuyên dụng. Hơn nữa, phía đối tác cũng không đặt hàng. Việc chuyên môn hoá vào một loại sản phẩm giúp công ty có thể có khả năng chuyên sâu trong sản xuất, tạo ra những sản phẩm tốt hơn. Tình hình công ty thực tế vốn ít và cũng không thể tự tìm thị trường cho mình ở những mặt hàng như cặp, túi, mũ…và tiềm lực yếu nên công ty theo đuổi chiến lược chuyên môn hoá sản xuất. Trước mắt giải quyết tốt các đơn hàng kịp thời đúng thời hạn , đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo uy tín trong lĩnh vực gia công, có thể tiếp nhận nhiều đơn hàng từ đó mới có khả năng đa dạng mẫu mã sản phẩm cũng như đa dạng chủng loại sản phẩm. Hiện nay công ty sản xuất 4 loại sản phẩm khác nhau với các chất liệu từ da, giả da, vải với rất nhiều kiểu dáng khác nhau. Trong đó phổ biến hơn cả vẫn là các loại giầy nam nữ làm từ da và giả da, chất liệu vải được sử dụng nhiều cho lô hàng xuất sang thị trường châu âu. Kiểu dáng mẫu mã của các loại sản phẩm khá đa dạng và phong phú ví dụ như với giày nam được sản xuất trên chất liệu da có 47 kiểu dáng khác nhau, giầy nữ có 69 kiểu dáng khác nhau. Dép trên hai chất liệu da và giả da có tổng thể 110 kiểu dáng. Bảng 05. Chủng loại sản phẩm các mặt hàng của công ty Chiều dài chủng loại sản phẩm Chiều rộng danh mục sản phẩm Da Giả Da Vải Giầy nữ x x x Giầy nam x x x Giầy trẻ em x x x Dép x x Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu công ty 2.2.2.3 Thị trường xuất khẩu của công ty Trước năm 1997 công ty liên doanh với một công ty Hàn Quốc sản xuất giầy vải là chủ yếu dành cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu một phần sang thị trường EU. Sang đến năm 1997 công ty chuyển sang liên doanh với công ty Ginfun của Đài Loan và tiến hành sản xuất giầy thể thao. Thông qua công ty này công ty xuất khẩu sang một số nước ở EU như Anh , Đức, Italia,và một số nước khác như: Mỹ, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Thị trường của công ty còn nhiều hạn chế, những bạn hàng này đều phải qua trung gian, việc xuất khẩu của công ty tương đối lệ thuộc vào phía đối tác. Theo điều khoản liên kết của hai phía công ty và Ginfun, ngoài các đơn hàng bên đối tác đặt mua thì công ty có thể chủ động tìm thị trường và tiến hành sản xuất xuất khẩu. Nhưng hầu hết thì doanh thu của công ty có được đều từ việc gia công thuê cho bên Đài Loan. Bởi rất nhiều nguyên nhân như việc không có nguyên liệu sản xuất đáp ứng cho sản xuất, việc tự tìm thị trường và ký kết đơn hàng không thực hiện được do công ty chưa thực sự có uy tín đối với nước ngoài. Quy mô doanh nghiệp nhỏ việc thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại gặp khó khăn vốn doanh nghiệp còn phải trang trải cho việc xây dựng và đầu tư vì cơ sở hạ tầng hầu hết đều trong tình trạng lạc hậu. Tuy vậy, nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty vẫn liên tục tăng qua các năm.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0444.doc
Tài liệu liên quan