Hoạt động Marketing của Công ty TNHH Việt Đức

Mục lục Lời nói đầu Thực hiện chủ chương đổi mới nền kinh tế Việt Nam và từng bước hoàn thành công cuộc phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa giai đoạn 2000 - 2010; Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng củng cố xây dựng và hoàn thiện các công trình mang tầm cỡ quốc gia như xây dựng cơ sở hạ tầng từ nông thôn đến thành thị, các khu công nghiệp, khu đô thị ngày một khang trang, hiện đại. Có thể nói trong những năm gần đây đất nước ta đã thay đổi rất nhiều trong ngành xây dựng. Chính vì vậy mà n

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Marketing của Công ty TNHH Việt Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hu cầu xây dựng của nước ta hiện nay là rất lớn; các công trình xây dựng không những chỉ có các công ty xây dựng của Nhà nước đảm nhiệm, mà còn có sự đóng góp không nhỏ của các công ty xây dựng TNHH vừa và nhỏ trong cả nước, góp phần đưa đất nước Việt Nam vững mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, đem cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Một trong những Công ty TNHH vừa và nhỏ thuộc lĩnh vực xây dựng phải kể đến Công ty TNHH Việt Đức; Công ty được thành lập tháng 4 năm 2000, nhiệm vụ chính của công ty là sản xuất thành phẩm là bê tông thương phẩm, bê tông đúc sẵn để đáp ứng nhu cầu xây dựng các công trình kiên cố, hiện đại cho đất nước. Trong quá trình phát triển, nhu cầu đầu tư xây dựng ở nước ta ngày càng lớn. Bên cạnh đó, sự tăng lên của đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều cơ hội tăng trưởng và phát triển hơn nữa cho các doanh nghiệp xây dựng. Tuy nhiên, cùng với cơ chế đấu thầu, cơ hội ngày càng nhiều thì sự cạnh tranh cũng càng gay gắt và khốc liệt hơn. Tiếp nối sự tồn tại của các doanh nghiệp xây dựng cũ là sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp xây dựng với qui mô và lĩnh vực hoạt động khác nhau. Đứng trước tình hình đó, từng doanh nghiệp nếu không có sự đổi mới tương xứng về mọi mặt từ mô hình tổ chức đến phương thức kinh doanh mới mà trong đó Marketing là linh hồn của phương thức này thì khó có thể tồn tại và phát triển được. Trong thời gian thực tập em đã nghiên cứu và tìm hiểu quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Việt Đức và càng nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động Marketing. Do đó em đã mạnh dạn chọn đề tài “Hoạt động Marketing của Công ty TNHH Việt Đức” làm nội dung cho chuyên đề thực tập của mình. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần: Chương I: Công ty TNHH Việt Đức và sự cần thiết phải tăng cường hoạt động Marketing của Công ty Chương II: Thực trạng hoạt động Marketing của Công ty TNHH Việt Đức Chương III: Những giải pháp nhằm tăng cường hoạt động Marketing của Công ty TNHH Việt Đức Chương i. Công ty Tnhh việt đức và sự cần thiết phải tăng cường hoạt động marketing của công ty 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty TNHH Việt Đức Tên công ty: Công ty TNHH Việt Đức Tên tiếng Anh: Viet Duc Company Limited Trụ sở chính: Km 21 Quốc lộ 5 – Văn Lâm – Hưng Yên ĐT: 0321.994303 Fax: 0321.994304 Chi nhánh Hà Nội: Số 9 Cầu Tiên Hà Nội ĐT: 046.413222 Fax: 046.413223 Công ty TNHH Việt Đức được thành lập vào ngày 02 tháng 04 năm 2000. Trụ sở chính của Công ty: Km 21 – Quốc lộ 5A – Văn Lâm – Hưng Yên – Việt Nam. Công ty có vị trí rất thuận lợi cho việc vận chuyển và lưu thông sản phẩm. Ngành, nghề kinh doanh của Công ty là: Vận tải hàng hóa đường bộ, đường thủy; xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi; xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng; Mua bán vật tư nông nghiệp, sắt thép, vật liệu xây dựng, bất động sản, xăng dầu; mua bán bảo dưỡng và lắp ráp xe ô tô; kinh doanh dịch vụ ăn uống, du lịch, khách sạn; sản xuất bê tông thương phẩm. Hiện nay sản phẩm chính mà công ty đang sản xuất và cung cấp là bê tông thương phẩm, bê tông đúc sẵn, bê tông dự ứng lực cao cấp. Sản phẩm được sản xuất trên dây truyền với đầy đủ các thiết bị điều khiển tự động – hệ thống cân cốt liệu và nồi trộn. Các thiết bị, máy móc của công ty đều được nhập khẩu từ các nước Đức, Anh và Hàn Quốc. Công ty TNHH Việt Đức chính thức đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh từ tháng 9 năm 2000, cho đến nay công ty đã sản xuất được hơn 200.000 m3 bê tông thương phẩm. Công ty được đặt tại một vị trí thuận lợi ở tỉnh Hưng Yên – một khu công nghiệp có nhiều triển vọng. Chất lượng sản phẩm của công ty đều đạt tiêu chuẩn quốc tế như: tiêu chuẩn ASTM, ACI của Mỹ, tiêu chuẩn BS của Anh, tiêu chuẩn JIS của Nhật, tiêu chuẩn KIS của Hàn Quốc và tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam. Mục tiêu hàng đầu của Công ty là : uy tín, trung thực, hợp lý về giá cả. Vì vậy, Công ty luôn củng cố lực lượng, cải tiến, đẩy nhanh tiến trình kinh doanh, trở thành đơn vị đứng đầu ngày càng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Chiến lược phát triển của Công ty từ nay cho đến năm 2010 là: “Công ty tăng cường đầu tư theo chiều sâu trang thiết bị, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tăng cường công tác tổ chức quản lý, tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để đáp ứng với nhu cầu xây dựng hiện đại của đất nước, có năng lực vươn ra thị trường rộng lớn hơn và cạnh tranh lành mạnh để không ngừng phát triển về mọi mặt”. Tóm lại, trải qua 5 năm xây dựng và trưởng thành với nhiều khó khăn cản trở, Công ty đã đạt được những kết quả đáng khả quan góp phần tạo nên cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế nước ta. 2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty 2.1-Sản phẩm và thị trường chính của Công ty Mặt hàng chuyên cung cấp của công ty TNHH Việt Đức là bê tông thương phẩm, bê tông đúc sẵn, bê tông dự ứng lực cao cấp, nguyên vật liệu chính cho các mặt hàng đó là: cát, sỏi, xi măng, sắt, thép… Ngay từ đầu Công ty Việt Đức đã được trang bị đầy đủ và đồng bộ thiết bị sản xuất và vận chuyển bê tông từ Cộng hòa liên bang Đức. Không những thế công ty có phương tiện vận tải đồng bộ như ôtô chuyên chở vật liệu thu mua từ nhà cung cấp chính, đây cũng là một trong những yếu tố làm hạ giá thành sản phẩm. Ngày nay, không chỉ những công trình lớn cần có Bê tông thương phẩm mà các công trình dân dụng cũng ngày càng cần nhiều. Bê tông Việt Đức đã ra đời cùng tiêu chí “Chất lượng là số 1” Vì vậy, Công ty TNHH Việt Đức đã đáp ứng đầy đủ cho các công trình lớn nhưng không từ chối các công trình nhỏ (nhà ở các hộ gia đình, cơ sở hạ tầng có quy mô nhỏ…) của mọi khách hàng. Cùng với sự phát triển của xã hội, và nhu cầu xây dựng ngày càng gia tăng thì trên thị trường xuất hiện càng nhiều các công ty xây dựng.Đối thủ cạnh tranh chính của Công ty TNHH Việt Đức là Công ty kinh doanh vật tư và xây dựng; Công ty xây lắp và vật tư kỹ thuật (Tematco);Công ty TNHH Chiến Thắng;… 2.2- Đặc điểm nguyên vật liệu Nguyên vật liệu chính sử dụng cho sản xuất bê tông của Công ty, bao gồm: Xi măng, cát, đá 10mm, đá 20 mm, sắt. Căn cứ vào nhu cầu sử dụng của khách hàng thông qua hợp đồng kinh tế hàng tháng, quý do Phòng Kế hoạch sản xuất lập trình Ban giám đốc. Dựa trên tính năng, đặc điểm của nguyên vật liệu chính mà bộ phận vật tư của Công ty sẽ mua theo số lượng, chủng loại vật liệu về nhập kho, hoặc đưa ngay vào sản xuất theo yêu cầu của Phòng Kế hoạch. Xi măng, sắt: loại vật liệu này có thời hạn sử dụng, không chịu được mưa nên phải bảo quản trong kho, Công ty chỉ mua theo đơn đặt hàng và dự phòng một số lượng nhất định để nhập kho. Riêng cát, đá các loại: đặc điểm của loại vật liệu này chịu nước, số lượng sử dụng cần nhiều, thời gian sử dụng không hạn chế nên Công ty có thể mua nhập bãi với số lượng lớn. Ngoài vật liệu chính, công ty còn sử dụng 2 chất phụ gia là: Phụ gia 96, phụ gia 555 làm vật liệu phụ để tạo lên sản phẩm của Công ty. Hình thức mua vật liệu: Để giảm chi phí nguyên vật liệu đầu vào, Công ty kết hợp với một số đơn vị cung cấp vật liệu có uy tín, chất lượng đảm bảo, giá cả phù hợp. 2.3-Trang thiết bị sản xuất của công ty bao gồm: - Trạm ABE: Được nhập từ Cộng hòa liên bang Đức – trạm có hệ thống cân cốt liệu, hệ thống điều khiển tự động và nồi trộn với công suất 60m3/giờ. Công suất thực tế đạt 50m3/giờ. - Trạm ATECH: Được nhập từ Hàn Quốc – trạm cũng có đầy đủ các hệ thống điều khiển tự động, công suất thiết kế đạt 50m3/giờ. Ngoài 02 trạm trộn đặt tại Văn Lâm, Hưng Yên, công ty còn có: 01 trạm trộn đặt tại Thủy Nguyên – Hải Phòng. 01 trạm trộn đặt tại Quán Toan – Hải Phòng. 01 trạm trộn đặt tại Vĩnh Tuy – Hà Nội. 01 trạm trộn đặt tại khu công nghiệp Quế Võ – Bắc Ninh. Công ty dự kiến đến đầu năm 2006 sẽ xây dựng thêm 01 trạm trộn đặt tại thành phố Hải Dương. Như vậy, công ty sẽ có tổng số tất cả là 07 trạm trộn với tổng công suất đạt 350m3/giờ. - Xe vận chuyển và thiết bị bơm. + Xe vận chuyển bê tông: có 16 xe trở bê tông với công suất 07m3/xe. Xe bồn chở xi măng rời: có 04 xe với khối lượng xi măng là 160 tấn. + Thiết bị bơm: - Có 02 bơm cần với chiều dài 33m và 21m. - Có 02 bơm tĩnh với chiều dài tối đa là 300m. Tổng công suất bơm đạt 350m3/giờ. Phòng thí nghiệm có đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật và các kỹ thuật viên lành nghề. Các thiết bị, dụng cụ trong phòng thí nghiệm được nhập khẩu từ Italy. Phòng thí nghiệm được Bộ Xây dựng đánh giá cao và chứng nhận thẩm quyền sử dụng LAS – 343. 2.4- Đội ngũ cán bộ công nhân viên: Công ty TNHH Việt Đức có 30 nhân viên văn phòng, bao gồm: Ban giám đốc; Phòng Kinh doanh; Phòng chăm sóc khách hàng; Phòng Kế hoạch sản xuất và phòng Thí nghiệm. Với hơn 100 kỹ thuật viên và lái xe được đào tạo lành nghề và trải qua công tác thực tế nên có rất nhiều kinh nghiệm, chất lượng sản phẩm của công ty năm sau tốt hơn năm trước và luôn được khách hàng tín nhiệm. Số lượng bê tông sản xuất và tiêu thụ từ năm 2000 đến nay là hơn 200.000 m3. Để không ngừng nâng cao chất lượng cũng như số lượng sản phẩm, công ty đã đào tạo và tuyển dụng những kỹ sư đúng chuyên ngành, có kinh nghiệm và trình độ phù hợp trong nghề sản xuất bê tông; mặt khác để luôn giữ gìn uy tín cũng như sản phẩm của mình, Công ty còn hợp tác với chuyên gia nước ngoài giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh bê tông. Đây là yếu tố có tác động rất lớn tới chất lượng sản phẩm của công ty. 2.5 - Đặc điểm về nguồn vốn kinh doanh của Công ty Trong nền kinh tế trao đổi, để có các yếu tố của sản xuất doanh nghiệp phải có tiền; luôn đảm bảo có đủ và sử dụng phương tiện tài chính cần thiết có hiệu quả là điều kiện quan trọng để kinh doanh có hiệu quả. Có thể nói, một trong những thế mạnh của công ty TNHH Việt Đức đó là năng lực tài chính; Công ty TNHH Việt Đức là công ty thành viên của công ty TNHH Sơn Trường (công ty chủ quản) - công ty chuyên sản xuất bê tông đúc sẵn, với dây chuyền sản xuất tự động hiện đại nhất miền Bắc, đồng thời chuyên cung cấp thép xây dựng cho các công trình có uy tín trên thị trường - chính vì vậy công ty Việt Đức có đủ khả năng đảm bảo về tài chính. Công ty Việt Đức có vốn điều lệ là 15 tỷ VNĐ (trong đó vốn cố định là 10 tỷ đồng, vốn lưu động là 5 tỷ đồng). Tỷ trọng vốn cố định so với tổng vốn là: 10 : 15 =0.67 Tỷ trọng vốn lưu động so với tổng vốn là: 5 : 15 = 0.33 Với nguồn cung ứng vốn là 100% vốn tự có, vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn hơn so với vốn lưu động. Lý do chính là do mô hình sản xuất bê tông thương phẩm có những trang thiết bị sản xuất (trạm trộn) và phương tiện vận chuyển (xe bom, xe bơm bê tông) cần một lượng chi phí rất lớn. Tuy nhiên, nhìn chung Công ty TNHH Việt Đức cũng nắm giữ một lượng vốn lưu động tương đối lớn,nên Công ty có những lợi thế nhất định đó là Công ty hoàn toàn có thể chủ động, không bị phụ thuộc vào bên ngoài; Công ty có toàn quyền sử dụng trong dài hạn với chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Mặt khác, sự nỗ lực tự cung ứng luôn được coi là một yếu tố để người cấp vốn bên ngoài xem xét khả năng cho vay vốn và hợp tác kinh doanh. 3. Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty Bộ máy quản lý của Công ty TNHH Việt Đức được xây dựng theo mô hình trực tuyến – chức năng. Hệ thống quản trị kiểu trực tuyến – chức năng có đặc trưng cơ bản là vừa duy trì hệ thống trực tuyến, vừa kết hợp với việc tổ chức các bộ phận chức năng. Các bộ phận chức năng chủ yếu được tổ chức ở cấp doanh nghiệp. Trong đó, quyền ra mệnh lệnh quản trị thuộc cấp trưởng trực tuyến và cấp trưởng chức năng. Cách tổ chức này có ưu điểm lớn là gắn việc sử dụng chuyên gia ở các bộ phận chức năng với hệ thống trực tuyến mà vẫn giữ được tính thống nhất quản trị ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, để đạt được điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định giữa hệ thống trực tuyến và các bộ phận hoạt động chức năng. Mặt khác, chi phí kinh doanh cho hoạt động ra quyết định quản trị là lớn. Khi xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị Công ty Việt Đức đã luôn đảm bảo được tính chuyên môn hóa, tiêu chuẩn hóa, bảo đảm tính thống nhất quyền lực. Phòng Kinh Doanh Trưởng Phòng Mr Lê Xuân Quý Phòng Thí Nghiệm Mr Nguyễn Trần Tiến Đội Bơm Giám Đốc Điều Hành Ms Tạ Vũ Lan Phương Giám Đốc Sản Xuất Mr Ben Castillo Phòng Chăm Sóc Kh. Hàng Ms Nguyễn Thị Thủy Phòng Kế Hoạch Sản Xuất Phó Giám Đốc Mr Nguyễn Văn Khiên Khách Hàng Đội Xe Tổ CABIN Lái Xe Nhân Viên Kỹ Thuật Sơ đồ quy trình hoạt động sản xuất kinh doanh công ty tnhh Việt đức Giám đốc sản xuất có trách nhiệm: Ký lệnh sản xuất; Kiểm tra và điều hành sản xuất; Điều hành cấp phối bê tông; Kiểm tra điều hành sản xuất, tiến độ công việc. Phòng kinh doanh có nhiệm vụ: Nghiên cứu, khảo sát thị trường; Phân tích chọn lọc khách hàng; Phân tích, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh; Tiếp cận khách hàng; Bán hàng, ký kết hợp đồng; Chuyển giao đơn hàng cho phòng kế hoạch sản xuất, phòng khách hàng; Báo cáo hàng tuần, tháng lên Giám đốc điều hành; Lập kết hoạch phát triển kinh doanh tháng, quý, trình bản kế hoạch lên Giám đốc điều hành và Giám đốc sản xuất; Những vấn đề phát sinh thông báo trực tiếp với Giám đốc điều hành, thông tin lại cho phòng khách hàng. Phòng chăm sóc khách hàng có nhiệm vụ: Tiếp nhận thông tin, đơn hàng từ thị trường, phòng kinh doanh; Chăm sóc khách hàng, xác nhận chính xác đơn hàng; Khẳng định lại với khách hàng về thời gian, địa điểm giao hàng, số lượng, yêu cầu…; Đại diện công ty trả % hoa hồng cho khách hàng; Giải quyết những thắc mắc, khiếu nại từ phía khách hàng, cùng phối hợp với bộ phận kỹ thuật; Soạn thảo công văn, hợp đồng, lưu trữ văn bản, hợp đồng; Chuyển giao lại thông tin khách hàng cho phòng kinh doanh, phòng kế hoạch sản xuất; Chăm sóc, cám ơn khách hàng sau khi kết thúc hợp đồng; Báo cáo tiến độ công việc lên Giám đốc điều hành. Phòng kế hoạch sản xuất có nhiệm vụ: Tiếp nhận thông tin từ phòng kinh doanh và phòng khách hàng; Lập kế hoạch sản xuất; Lên dự toán chi phí sản xuất; Lên kế hoạch chuẩn bị nguyên vật liệu; Soạn thảo lệnh sản xuất, trình lên Giám đốc ký duyệt; Lên lịch thực hiện cho bộ phận giao hàng; Phân bổ công việc cho Cabin và đội xe; Báo cáo tiến độ thực hiện cho Giám đốc điều hành và Giám đốc sản xuất; Báo cáo tình hình sản xuất tuần, tháng lên Giám đốc điều hành và Giám đốc sản xuất. Phòng thí nghiệm có nhiệm vụ: Sắp xếp cho nhân viên kỹ thuật, kiểm tra độ sụt và lấy mẫu; Theo dõi, xử lý độ sụt bằng cách cho thêm phụ gia nếu cần thiết. Nhân viên phòng kỹ thuật có nhiệm vụ: Chịu trách nhiệm giao hàng; Ghi lại số bê tông đã giao (gồm cả chữ ký người nhận và hóa đơn giao hàng); Kết hợp với khách hàng hướng dẫn giao nhận hàng; Kiểm tra độ sụt và lấy mẫu theo yêu cầu. Tổ cabin có nhiệm vụ: Sắp xếp, bố trí người vận hành máy; Xá nhận lại nguyên vật liệu; Tiến hành sản xuất. Lái xe có nhiệm vụ: Vận chuyển bê tông đến công trường; Ghi nhận số bê tông được giao, yêu cầu khách hàng ký vào hóa đơn giao hàng. Đội bơm có nhiệm vụ: Chuẩn bị máy bơm (đến sớm hơn 1h để chuẩn bị); Yêu cầu khách hàng ký nhận thời gian bơm. 4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Trong những năm vừa qua, đứng trước sự biến động, bất ổn của thị trường vật liệu xây dựng nói chung cũng như thị trường bê tông thương phẩm nói riêng. Ban lãnh đạo của Công ty đã có những bước đổi mới trong công tác kinh doanh để nhằm thích ứng với tình hình mới. Nhờ vậy nên trong giai đoạn vừa qua công tác tiêu thụ sản phẩm bê tông của Công ty vẫn duy trì được mức tăng trưởng tương đối cao. (Được biểu hiện thông qua bảng 1). Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Khoản mục Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Giá trị Sản lượng (Triệu đồng) 15.660 16.140 21.830 23.940 29.640 Doanh thu (Triệu đồng) 13.975 15.500 20.040 23.000 28.640 Lợi nhuận (Triệu đồng) - - - 20 32 Thuế phải nộp NN (1.000đồng) - - - 1000 1600 Thu nhập bình quân (Triệu đồng /người/tháng) 1,34 1,38 1,40 1,42 1,50 Từ biểu trên ta thấy: Từ năm 2001 đến năm 2005, giá trị sản lượng và doanh thu năm sau luôn tăng hơn giá trị sản lượng và doanh thu năm trước.Ta có thể biểu hiện tốc độ tăng giá trị sản lượng và doanh thu bằng biểu đồ sau: Biểu đồ 1: Tốc độ tăng của giá trị sản lượng và doanh thu qua các năm 0 5000 10000 15000 20000 25000 30000 35000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Giá trị sản lượng (Triệu đồng) Doanh thu (Triệu đồng) Cụ thể, doanh thu năm 2002 tăng 9,84% so với doanh thu năm 2001; doanh thu năm 2003 so với năm 2002 là 22,65%; doanh thu năm 2004 so với năm 2003 là 12,87%; doanh thu năm 2005 tăng so với năm 2004 là 19,69%. Điều này cho thấy Công ty đã có uy tín nhất định trên thị trường trong nước, và bước đầu đã ký kết được nhiều hợp đồng. Ngoài ra, qua bảng ta thấy giá trị sản lượng trong cùng một năm luôn lớn hơn doanh thu của năm đó, nguyên nhân là do ngoài sản phẩm chính là bê tông thương phẩm ra Công ty còn sản xuất cả bê tông đúc sẵn (sản phẩm này thường xuyên được lưu kho). Nhưng nhìn chung, từ năm 2001 đến 2003, mặc dù doanh thu năm sau luôn tăng cao hơn so với doanh thu năm trước nhưng lợi nhuận mà công ty thu được là chưa có. Điều này được biểu hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2: Tốc độ tăng lợi nhuận của Công ty qua các năm 0 5 10 15 20 25 30 35 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Lợi nhuận (Triệu đồng) Nguyên nhân chính là do năm 2000 Công ty bắt đầu đi vào hoạt động, Công ty phải đầu tư một lượng tiền tương đối lớn cho cơ sở hạ tầng, mua máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất. Mặt khác, việc đầu tư đó lại hoàn toàn là do 100 % vốn tự có, không hề có nguồn vốn từ bên ngoài công ty. Chính vì vậy, mà việc lợi nhuận của Công ty còn như biểu trên là hoàn toàn chấp nhận được. Từ năm 2004 trở về đây, bên cạnh việc lượng khấu hao máy móc thiết bị và cơ sở hạ tầng đã giảm, Công ty còn không ngừng ký kết được rất nhiều hợp đồng lớn với các công ty xây dựng có quy mô lớn vì vậy những năm gần đây việc kinh doanh của Công y Việt Đức đã bắt đầu có hiệu quả, có lợi nhuận, đóng góp một khoản thu vào ngân sách Nhà nước. Thu nhập bình quân của công nhân viên trong Công ty Việt Đức cũng tăng, năm sau luôn tăng cao hơn năm trước. Được biểu hiện qua sơ đồ sau: Biểu đồ 3: Tốc độ tăng của thu nhập bình quân trên đầu người của Công nhân trong Công ty 1250 1300 1350 1400 1450 1500 1550 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Thu nhập bình quân(Triệu đồng/người/tháng) Cụ thể, thu nhập bình quân năm 2002 tăng so với thu nhập bình quân năm 2001 là 2,89%; thu nhập bình quân năm 2003 so với năm 2002 là 1,43%; Năm 2004 so với năm 2003 là 2,09%; Năm 2005 so với năm 2004 là 4,67%. Có thể thấy, nhờ việc kinh doanh có hiệu quả, nên Công ty đã đảm bảo mức thu nhập ổn định cho người lao động, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho người lao động để họ yên tâm trong công tác và gắn bó lâu dài với Công ty, giúp Công ty ngày càng phát triển. 5. Sự cần thiết phải tăng cường hoạt động marketing của công ty TNHH Việt Đức Đối tượng nghiên cứu của Marketing xây dựng là những mối quan hệ có tính phổ biến của cung, cầu về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Và sản phẩm xây dựng có những nét đặc thù so với hàng hóa thông thường. Vì thế cung cầu về sản phẩm xây dựng cũng chịu ảnh hưởng và mang những nét đặc tính riêng. Đó là lý do cần thiết khách quan dẫn đến việc nghiên cứu và tăng cường hoạt động Marketing trong các doanh nghiệp xây dựng hiện nay nói chung, và trong Công ty TNHH Việt Đức nói riêng. Mặt khác, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão. Các ngành kinh tế nói chung và ngành xây dựng nói riêng có sự biến động không ngừng. Các vật liệu mới, năng lượng mới được tìm ra thay thế những vật liệu, năng lượng cũ như công nghệ sinh học, năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử.. Trong lĩnh vực xây dựng có khoan cọc nhồi, công nghệ chất dẻo, công nghệ thép rỗng thay thế cho bê tông đặc, các vật liệu siêu nhẹ, công nghệ tin học… cũng đang được ứng dụng vào xây dựng và mang lại hiệu quả to lớn. Nó giúp giảm chi phí nguyên vật liệu đồng thời tiết kiệm được thời gian và nhân lực khiến quá trình xây dựng đạt tiến độ nhanh hơn rất nhiều. Hơn nữa, sự hội nhập kinh tế khu vực và thế giới diễn ra ngày một mạnh mẽ. Nhiều khối liên minh kiên kết ra đời. Các doanh nghiệp nhỏ liên kết thành doanh nghiệp lớn và dần hình thành những tập đoàn đa quốc gia điển hình là các công ty của Canada, Mỹ, Nhật, Singapo, Thái Lan… Nhưng không phải vì thế mà sự cạnh tranh trong lĩnh vực này giảm đi mà thậm chí còn diễn ra gay gắt hơn nhiều. Thị trường xây dựng phát triển sôi động không thể lường được. Các công ty xây dựng một khi không nắm bắt được những thông tin về thị trường, về công nghệ sẽ bị tụt hậu và dẫn tới phá sản. Marketing được ứng dụng vào lĩnh vực xây dựng với những công cụ, phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu riêng sẽ giúp các doanh nghiệp xây dựng làm chủ được hệ thống thông tin khổng lồ, những thông tin có chất nhất và cả những kỹ thuật công nghệ phù hợp trong từng hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Đồng thời sau Đại hội lần thứ VI (1986) cùng với chính sách kinh tế mở cửa của Đảng, ngành xây dựng đã từng bước được đổi mới: Hệ thống chính sách luật pháp xây dựng cũng được thiết lập và hoàn thiện. Hàng loạt các Nghị Định, Thông tư, Luật được ban hành, sửa đổi bổ sung liên tục như quy chế hoạt động và đăng ký ngành nghề tư vấn xây dựng, Thông tư hướng dẫn thực hiện các hình thức quản lý dự án đầu tư và xây dựng, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam… Đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Bây giờ, nhu cầu không còn là đủ ăn, đủ mặc nữa mà phải là ăn ngon, mặc đẹp, chỗ ở, nơi làm việc phải đầy đủ tiện nghi. Cơ sở hạ tầng như các công trình giao thông, đường sá, cầu cống, công trình công cộng buộc phải thiết lập để đáp ứng nhu cầu ngày một nâng cao. Thị trường Việt Nam khi này mới là một thị trường mang đúng nghĩa của nó, và Marketing là một công cụ quản lý không thể thiếu được trong kinh doanh xây dựng. Xuất phát từ đặc điểm của thị trường hiện tại là cung đã vượt quá cầu, nên nếu muốn tồn tại và phát triển được, Công ty không có cách nào khác là phải xây dựng được định hướng kinh doanh mới xuất phát từ thực tế của thị trường là phải bám sát khách hàng, lấy khách hàng làm trung tâm của mọi định hướng kinh doanh. Để thực hiện tốt điều này đòi hỏi Công ty cần phải tăng cường hoạt động Marketing, phải xây dựng được một phòng Marketing riêng biệt nhằm thống nhất mọi sự điều hành mọi hoạt động Marketing chứ không để tình trạng các hoạt động Marketing tổ chức nhỏ lẻ. Đó là những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự cần thiết phải tăng cường hoạt động Marketing của các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng nói chung và của công ty TNHH Việt Đức nói riêng Chương ii. Thực trạng hoạt động marketing của công ty TNHh việt đức A - Đặc điểm của kinh doanh xây dựng ảnh hưởng đến marketing xây dựng 1. Đặc điểm của kinh doanh xây dựng ảnh hưởng tới Marketing xây dựng 1.1- Đặc điểm của sản phẩm xây dựng Bên cạnh những đặc điểm chung so với sản phẩm công nghiệp, sản phẩm xây dựng cũng mang một số đặc điểm riêng biệt. Đó là: - Tính đơn chiếc: sản phẩm xây dựng thường được sản xuất theo đơn đặt hàng đơn chiếc, được sản xuất ra ở những địa điểm, điều kiện khác nhau, chi phí cũng khác nhau đối với một sản phẩm. Khả năng trùng lặp về mọi phương diện kỹ thuật, công nghệ, kỹ thuật, môi trường… rất ít ngay cả xu hướng công nghiệp hóa ngành xây dựng thì ảnh hưởng của tính đơn chiếc cũng chưa được loại trừ. - Sản phẩm xây dựng chịu ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh tế, xã hội của nơi tiêu thụ. Vì chúng bao giờ cũng gắn liền với một địa điểm nhất định nên phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương đó như địa lý, khí hậu, thời tiết, môi trường, tập tục của địa phương… Đặc điểm đó chi phối việc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh như khảo sát, thiết kế, lựa chọn phương án thi công, kết cấu công trình, điều kiện mặt bằng thi công. - Thời gian sử dụng dài, trình độ kỹ thuật cao, chi phí sản xuất sản phẩm lớn và khác biệt theo từng công trình. - Sản phẩm xây dựng thường sản xuất ra ngay tại nơi tiêu thụ ( trừ một số sản phẩm như bê tông đúc sẵn). Các sản phẩm xây dựng như sản phẩm xây lắp, bê tông thương phẩm đều được thi công tại một địa điểm mà nới đó đồng thời gắn liền với việc tiêu thụ và thực hiện giá trị sử dụng của sản phẩm. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm sẽ do người chủ sở hữu quyết định. Vì vậy, nếu định được nơi tiêu thụ sản phẩm thì đồng thời cũng xác định được nơi sản xuất sản phẩm. - Quá trình chuẩn bị đầu tư được tiến hành kỹ thể hiện ở việc nghiên cứu dự án khả thi xác định địa điểm, qui mô công trình để đưa ra phân tích các yếu tố và đánh giá ảnh hưởng của công trình xây dựng về các mặt kinh tế kỹ thuật, môi trường… - Sản phẩm có tính thời vụ khá cao. 1.2- Đặc điểm về hình thức thị trường và cạnh tranh trong kinh doanh xây dựng Sản phẩm xây dựng là sản phẩm đặc biệt, nên thị trường xây dựng cũng có những đặc điểm khác với các thị trường khác. Thị trường xây dựng không phải là thị trường được trưng bày sản phẩm ra để bán nhưng ngược lại nó cũng diễn ra rất sôi động và cũng không ít cạnh tranh. Hình thức tiếp cận giữa bên cung và bên cầu để giải quyết nhu cầu của hai bên trong ngành xây dựng chủ yếu thông qua đàm phán và đấu thầu xây dựng. Đấu thầu là một trong những hình thức cạnh tranh giữa các chủ thầu xây dựng (bên cung) và thường tiến hành dưới 2 hình thức chủ yếu: đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế. Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên nhà thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng trong đấu thầu. Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu là 5 nhà thầu) có đủ năng lực tham gia. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người co thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. Hình thức này được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: * Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu. * Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế. * Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. 1.3- Đặc điểm về quá trình tiêu thụ sản phẩm Khác với quá trình tiêu thụ sản phẩm trong công nghiệp, quá trình tiêu thụ sản phẩm xây dựng có những điểm khác biệt như sau: - Sản phẩm xây dựng nói chung là không sản xuất hàng loạt để bán (trừ trường hợp chủ thầu xây dựng là các nhà kinh doanh bất động sản xây dựng sẵn một số căn hộ để bán hoặc cho thuê) và không có giai đoạn lưu kho chờ bán. - Người mua (bên chủ đầu tư) phải tạm ứng tiền cho người bán (bên chủ thầu xây dựng) trừ trường hợp bên bán tự nguyện tạm ứng trước. - Nếu bỏ qua khâu môi giới thì quá trình mua bán nói chung xảy ra trực tiếp giữa người mua và người bán qua đấu thầu. -Số người tham gia mua bán lớn: Một bên giồm các chủ đầu tư cùng các tổ chức tư vấn, bên kia là các đơn vị tranh thầu. 1.4- Đặc điểm về giá cả sản phẩm xây dựng Giá cả của sản phẩm xây dựng có một số đặc điểm sau: - Giá cả sản phẩm xây dựng có tính cá biệt cao vì nó phụ thuộc vào điểm đặt công trình xây dựng (Cự ly vận chuyển, thủy văn,…), phương án tổ chức xây dựng công nghệ thi công, thời điểm và thời gian xây dựng, ý muốn của người có công trình xây dựng. - Không thể định sẵn giá cho một sản phẩm cuối cùng mà chỉ có thể định sẵn phương pháp tính toán giá cả, định mức và đơn giá để tính nên giá của sản phẩm xây dựng. Đồng thời trong quá trình xây dựng có thể phát sinh các chi phí mà không lường trước được. - Trong xây dựng có nhiều loại giá: giá xét thầu, giá tranh thầu, giá hợp đồng, giá thanh quyết toán công trình thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu. - Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành giá cả xây dựng do vốn ngân sách của Nhà nước cấp hoặc do vốn của doanh nghiệp tự có thông qua các định mức, đơn giá, phương pháp tính toán chi phí… 2. Marketing xây dựng và nội dung của quá trình hoạt động marketing trong doanh nghiệp xây dựng 2.1. Marketing xây dựng Marketing là một khoa học và nghệ thuật trong kinh tế thị trường. Nó không ngừng phát huy tác dụng và không ngừng được bổ sung và phát triển. Do đó nó được các tác giả, nhà khoa học đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Học viện Haminton (Mỹ) cho Marketing là hoạt động kinh tế, trong đó hàng hóa được đưa ra từ người sản xuất đến người tiêu thụ. Nhà Marketing người úc – John H.Crighton thì lại định nghĩa Marketing là quá trình cung cấp đúng kênh, luồng hàng, đúng thời gian, đúng địa điểm. Còn Phillip Kotler (Mỹ) chủ tịch hiệp hội Marketing thế giới thì lại cho rằng: “Marketing là sự phân tích, tổ chức, kế hoạch hóa và kiểm tra những khả năng thu hút khách hàng của một công ty cũng như chính sách và hoạt động với quan điểm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng đã lựa chọn. Hoạt động Marketing là một quá trình hoạt động được coi như phương tiện đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa. Hoạt động Marketing bắt đầu từ khi sản xuất ra và kết thúc khi nó bán trực tiếp cho người tiêu dùng”. Xuất phát từ những định nghĩa khoa học về Marketing ta nhận thấy Marketing là một môn khoa học xã hội vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đó là những mối quan hệ xã hội có tính phổ biến của quan hệ cung – cầu về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Xét cho cùng là quan hệ người sản xuất với người tiêu dùng, tính phổ biến của quan hệ cung cầu như vậy thực chất phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong trao đổi. Theo cách xem xét đối tượng nghiên cứu của khoa học Marketing ở trên, Marketing xây dựng là khoa học ứng dụng trong lĩnh vực xây dựng. Vì vậy cũng có thể xác định đối tượng nghiên cứu của Marketing xây dựng một cách tổng quát như sau: Marketing xây dựng là một môn khoa học ứng dụng, trước hết nó sử dụng những khái niệm, phạm trù được đề cập trong lý luận Marketing, vận dụng những phương pháp, biện pháp kỹ thuật có thể ứng dụng vào lĩnh vực xây dựng. Mặc dù vậy trên thực tế người ta vẫn thừa nhận, xây dựng là một lĩnh vực sản xuất vật chất đặc biệt, không thể sử dụng một cách thuần túy, máy móc những công cụ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0060.doc