Hoạt động Nhập khẩu của Công ty Cổ phần tập đoàn vật liệu điện & cơ khí - Thực trạng & Giải pháp

Tài liệu Hoạt động Nhập khẩu của Công ty Cổ phần tập đoàn vật liệu điện & cơ khí - Thực trạng & Giải pháp: MỤC LỤC 2.2.3 - Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí trong những năm gần đây: 40 2.3 – Tình hình nhập khẩu của EMJ từ 2005 - 2007 41 2.3.1 - Kim ngạch nhập khẩu. 41 2.3.2 - Mặt hàng nhập khẩu của công ty. 43 2.3.3 - Thị trường nhập khẩu của công ty. 44 2.3.4 - Hình thức nhập khẩu. 45 2.4 - Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của EMJ. 47 2.4.1 - Thực trạng công tác nghiên cứu thị trường phục vụ hoạt động nhập khẩu của EMJ. 47 2.4.2 - Thực... Ebook Hoạt động Nhập khẩu của Công ty Cổ phần tập đoàn vật liệu điện & cơ khí - Thực trạng & Giải pháp

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Nhập khẩu của Công ty Cổ phần tập đoàn vật liệu điện & cơ khí - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trạng công tác xây dựng chiến lược phục vụ nhập khẩu của EMJ. 48 2.4.3 -Thực trạng thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu của EMJ. 48 2.5 – Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu của EMJ. 51 2.5.1 - Mặt mạnh. 51 2.5.2 - Mặt yếu. 51 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI EMJ 53 3.1 – Phương hướng nhập khẩu của công ty trong giai đoạn 2008 – 2010. 53 3.1.1 - Mục tiêu về kim ngạch nhập khẩu. 53 3.1.2 - Về thị trường nhập khẩu. 53 3.1.3 - Về mặt hàng nhập khẩu. 53 3.1.4 - Về phương thức bán hàng 54 3.1.5 - Chiến lược phát triển con người. 54 3.2 – Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại EMJ. 55 3.2.1 - Những giải pháp chủ yếu. 55 3.2.2 - Điều kiện thực hiện các giải pháp. 61 KẾT LUẬN 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64 DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU Sơ đồ 1.2.3: Quy trình triển khai thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu của doanh nghiệp. 15 Sơ đồ 2.1.5: Cơ cấu tổ chức của EMJ 29 Bảng 2.2.1a: Danh mục mặt hàng kinh doanh chính của EMJ: 32 Bảng 2.2.1b: Tình hình thị trường tiêu thụ khu vực miền Bắc 36 Bảng 2.2.2: Cơ cấu lao động của EMJ theo trình độ học vấn 39 Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động của EMJ theo trình độ học vấn 40 Bảng 2.2.3 : Kết quả kinh doanh của EMJ trong những năm gần đây 41 Bảng 2.3.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của EMJ 2005 – 2007 42 Bảng 2.3.2: Cơ cấu hàng nhập khẩu của công ty 2005 – 2007 43 Bảng 2.3.3 : Thị trường nhập khẩu của EMJ 44 Bảng 2.3.4: Kim ngạch nhập khẩu của EMJ theo phương thức nhập khẩu 46 Biểu đồ 2.3.4: Kim ngạch nhập khẩu của EMJ theo phương thức nhập khẩu 46 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, sự phát triển của khoa học công nghệ đã kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh quốc tế. Hoạt đông buôn bán xuất nhập khẩu diễn ra sôi động giữa các quốc gia. Mặc dù trên thế giới các nước đều muốn tăng cường xuất siêu, hạn chế nhập siêu, nhưng nhập khẩu vẫn là một hoạt động tất yếu và không thể thiếu đối với mỗi quốc gia. Ở cấp độ doanh nghiệp, đặc biệt là với doanh nghiệp thương mại nói riêng thì hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng bởi nó giúp doanh nghiệp có nguồn hàng để bán, đa dạng hoá và bổ sung những mặt hàng mà doanh nghiệp muốn kinh doanh nhưng trong nước chưa có điều kiện để sản xuất. Với tầm quan trọng của hoạt động nhập khẩu, trên cơ sở nghiên cứu lý luận đã được học tại trường, kết hợp với cơ sở thực tiễn quan sát được tại Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện & Cơ khí ( EMJ ) cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo – PGS. TS Nguyễn Xuân Quang, sự giúp đỡ của các anh chị tại phòng kinh doanh nói riêng và của công ty nói chung nên em chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí - Thực trạng và giải pháp ” 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu để phân tích, đánh giá hoạt động nhập khẩu của EMJ trong thời gian qua và từ đó đưa ra một ssố giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại EMJ trong thời gian tới. 3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại EMJ. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nhập khẩu là một hoạt động phức tạp và rộng lớn. Tuy nhiên do thời gian và trình độ của bản thân còn hạn chế nên trong đề tài này em chỉ tập trung vào hoạt động nhập khẩu của doanh ngiêp thương mại, cụ thể ở đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại EMJ. 5. Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp nhiều phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh thông qua các số liệu thu được để thấy sự tăng giảm của các chỉ tiêu trong từng thời kỳ. 6. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài hai phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 chương chính: Chương I: Lý luận cơ bản về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiêp thương mại. Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của EMJ từ 2005 – 2007. Chương III:Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại EMJ. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI 1.1 – Vai trò và bản chất của nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại. 1.1.1 - Vai trò của nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Đặc trưng của doanh nghiệp thương mại là mua để bán, mua ở nơi này bán ở nơi khác, mua của người này bán cho người khác, nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Do đó việc mua hàng từ các đối tác, các nhà cung cấp trong nước cũng như việc nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với công tác tạo nguồn hàng của doanh nghiệp thương mại. Như vậy, vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp thương mại thể hiện ở những điểm sau: - Thứ nhất: Giúp doanh nghiệp có nguồn hàng khi những loại hàng hoá đó trong nước không thể sản xuất được. - Thứ hai: Việc nhập khẩu hàng hoá giúp doanh nghiệp thương mại có thể đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ kinh doanh cùng ngành nghề. - Thứ ba: Nếu doanh nghiệp có chiến lược đúng đắn, phù hợp như tìm được đối tác tốt, nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước có nhu cầu với giá cả hợp lý thì khả năng kiếm được lợi nhuận sẽ lớn, từ đó hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại sẽ được nâng cao. 1.1.2 - Bản chất của hoạt động nhập khẩu ở doanh nghiệp thương mại. Thực chất hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp thương mại là việc doanh nghiệp mua hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài theo nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như nhu cầu của thị trường trong nước nhằm tìm kiếm lợi nhuận. 1.1.3 – Các hình thức nhập khẩu chủ yếu của doanh nghiệp. a. Nhập khẩu trực tiếp. Theo phương thức nhập khẩu này, các doanh nghiệp trực tiếp giao dịch với nhau. Việc mua và bán hàng không ràng buộc với nhau, bên mua chỉ có thể mua mà không thể bán và ngược lại. Bên bán ( bên xuất khẩu) và bên mua ( bên nhập khẩu) thường phải trải qua quá trình giao dịch và thương lượng cới nhau về các điều kiện giao dịch, khi các điều kiện được hai bên nhất trí thì có thể tiến tới kí kết hợp đồng. Theo phương thức này doanh nghiệp sẽ phải tự tiến hành nghiên cứu kỹ thị trường, đối tác trong nước và ngoài nước cũng như các yếu tố về giá cả, luật pháp, tập quán kinh doanh… và phải tự tính toán các chi phí, chịu trách nhiệm về mọi rủi ro sảy ra về nguồn vốn mình bỏ ra. Thông thường doanh nghiệp chỉ phải lập một hợp đồng ngoại thương với đố tác nước ngoài, còn hợp đồng bán hàng trong nước sau khi nhập khẩu hàng hoá sẽ được tiến hành riêng rẽ sau đó. Ưu điểm của nhập khẩu theo phương thức trực tiếp là nó cho phép người nhập khẩu nắm được chính xác thông tin về các nguồn cung trên thị trường. Nhưng có nhược điểm là chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài cao nên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường không thể sử dụng phương thức nhập khẩu này. Ngoài ra, để thực hiện tốt giao dịch theo phương thức này đòi hỏi phải có đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi. b. Nhập khẩu uỷ thác. Đây là hình thức nhập khẩu được thực hiện nhò sự giúp đỡ của bên thứ ba, người thứ ba này sẽ được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến hiện nay là đại lý và môi giới. Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp muốn nhập khẩu hàng hoá nào đó nhưng không đủ điều kiện để nhập khẩu các mặt hàng đó, họ sẽ uỷ thác cho doanh nghiệp khác có chức năng tiến hành hoạt động nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Doanh nghiệp nhận uỷ thác ( bên thứ ba) sẽ phải trực tiếp tiến hành đàm phán với doanh nghiệp nước ngoài để nhập khẩu hàng theo yêu cầu của bên uỷ thác. Theo phương thức này doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải thực hiện hai hợp đồng : Hợp đồng mua bán hang hoá với đối tác nước ngoài và hợp đồng nhận uỷ thác của bên uỷ thác. Vì phương thức này được thông qua bên thứ ba ( các trung gian ), đó là những người am hiểu về thị trường, pháp luật, tập quán buôn bán của địa phương nên họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và hạn chế được những rủi ro cho nhà nhập khẩu. Họ thường có cơ sở vật chất, nghiệp vụ nhất định nên doanh nghiệp sẽ giảm bớt được chi phí vận tải, tìm hiểu thị trường… Tuy nhiên phương thức nhập khẩu này là làm mất sự liên hệ trực tiếp của nhà nhập khẩu với thị trường và phải chia sẻ một phần lợi nhuận cho các trung gian. c. Nhập khẩu liên doanh. Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp ( trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đưa ra các biện pháp liên quan đến nhập khẩu để hai bên đều đạt được lợi ích. Với hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp không tự chủ như nhập khẩu trực tiếp nhưng lại chịu ít rủi ro hơn vì vốn, trách nhiệm, quyền hạn đều được phân bổ cho các bên. Trên thực tế bên nào có nghiệp vụ, kinh nghiệm, bạn hàng giao dịch sẽ có quyền nhập khẩu trực tiếp. Trong thực tế ở nước ta hiện nay nhiều doanh nghiệp muốn tham gia nhập khẩu trực tiếp để giám sát nhưng không đủ hoàn toàn mọi điều kiện nên phương thức này vẫn thường được sử dụng. d. Nhập khẩu tái xuất. Đây là hình thức nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ mà để xuất khẩu trở lại sang nước khác. Mục đích của phương thức này là mua rẻ hàng hoá ở nước này , bán đắt ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn so với số vốn bỏ ra lúc đầu. Vì vậy phương thức này luôn thu hút 3 đối tác ở 3 nước khác nhau tham gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất. Khi thực hiện nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toàn bộ chi phí từ tổ chức, giao dịch đàm phán, gặp gỡ, cho đến các chi phí giao nhận hàng, với mỗi đối tác xuất khẩu và đối tác nhập khẩu để đảm bảo sao cho hoạt động mua bán có lãi. Doanh nghiệp nước tái xuất sẽ phải ký 2 hợp đồng: hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng nhập khẩu và không phải chịu thuế suất nhập khẩu đối với mặt hàng kinh doanh. e. Buôn bán đối lưu: Đây là phưong thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, nhà nhập khẩu đồng thời là nhà xuất khẩu, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Ở phương thức này, mục đích của xuất khẩu không phải là để thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá khác có giá trị tương đương. f. Đấu giá quốc tế: Đây là phương thức mua bán đặc biệt, được tổ chức một cách thường xuyên hoặc không thường xuyên. Tại đó, ngườu bán ( nhà xuất khẩu ) trưng bày hàng hoá, giới thiệu hàng hoá để người mua ( nhà nhập khẩu ) xem xét, đánh giá và trả giá. Cuối cùng hàng sẽ được bán cho người trả giá cao nhất. g. Đấu thầu quốc tế: Là phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua ( tức người gọi thầu ) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán ( người dự thầu ) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn mua của người bán giá rẻ nhất với điều kiện tín dụng phù hợp nhất. Tóm lại, trong hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức đều có những đặc thù riêng, có ưu nhược diểm khác nhau. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, mỗi doanh nghiệp cần tuỳ vào điều kiện kinh doanh của mình mà có sự lựa chọn các phương thức giao dịch thích hợp đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất cho mình. 1.2 – Các nội dung cơ bản trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp 1.2.1 - Nghiên cứu thị trường tìm khiếm nguồn hàng và đối tác cho hoạt động nhập khẩu: a. Khái niệm thị trường. “ Thị trường của doanh nghiệp thương mại là một hay nhiều nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự nhau và những người bán cụ thể nào đó mà doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua hàng hoá, dịch vụ để thoả thoả mãn nhu cầu của khách hàng ” ( Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại – PGS.TS Hoàng Minh Đường, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc). b. Các phương pháp nghiên cứu thị trường. Doanh nghiệp có thể sử dụng 2 phương pháp sau đây để nghiên cứu thị trường: ♣. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Đây là phương pháp thu thập thông tin trực tiếp từ thị trường để tiến hành phân tích chúng, từ đó đưa ra kết luận bằng cách: điều tra phỏng vấn, qua các bảng hỏi, thư góp ý, quan sát, ghi chép… Theo phương pháp này các thông tin thu được là những thông tin sơ cấp, thường chưa qua xử lý; phải qua tổng hợp, phân tích. Nhược điểm của phương pháp này là chi phí cao, nhưng có ưu điểm là thông tin chính xác, cập nhật, không bị lạc hậu. ♣. Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Là phương pháp thu thập thông tin thông qua các kênh gián tiếp, trên các phương tiện thông tin đại chúng, các số liệu niên giám thống kê, các báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền… Nghiên cứu tại bàn thu được các thông tin thứ cấp. Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm thời gian thu thập, xử lý dữ liệu, chi phí thấp. Nhưng có nhược điểm là thông tin tổng quát, đôi khi lỗi thời. Các doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường sẽ tuỳ vào điều kiện và mục đích của mình để lựa chọn phương pháp nghiên cứu cho phù hợp hoặc có thể kết hợp cả 2 phương pháp để có thể đạt được hiệu quả cao nhất. c. Nội dung của công tác nghiên cứu thị trường. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nói chung và các doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng thì việc nghiên cứu thị trường nước ngoài để tìm ra nhà cung cấp những mặt hàng mà doanh nghiệp cần có ý nghĩa rất quan trọng. Khi nghiên cứu thị trường đầu vào, doanh nghiệp nhập khẩu cần xác định lượng cung mặt hàng mình cần mua trên thị trường đó. Doanh nghiệp còn phải nghiên cứu giá cả của các lô hàng cần nhập khẩu vì giá cả là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sinh lợi trong hạot động kinh doanh cả doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cần phân tích các yếu tố khác của thị trường như: Quan hệ chính trị giữa 2 nước, thể chế tài chính, văn hoá kinh doanh, văn hoá tiêu dùng… ở các thị trường mà mình muốn nhập khẩu. d. Lựa chọn đối tác. Lựa chọn đối tác là khâu rất quan trọng. doanh nghiệp có thể làm ăn với nhau lâu dài hay không tuỳ thuộc vào khâu này. Doanh nghiệp nhập khẩu có thể thông qua các tổ chức, cơ quan, dịch vụ, các website, hay tự tìm hiểu để xác định tư cách pháp nhân của đối tác. 1.2.2 - Xây dựng chiến lược, kế hoạch và lập phương án nhập khẩu. Sau khi nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp đã có các thông tin về đối tác, về các mặt hàng cần nhập khẩu. Tuy vậy để kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp cần phải tiến hành xây dựng chiến lược, phương án nhập khẩu một cách cẩn trọng với các công việc cụ thể sau: a. Xác định mục tiêu chiến lược: Mục tiêu của chiến lược chính là những con số cụ thể mà doanh nghiệp mong muốn đạt được trong các giai đoạn cụ thể và trong cả quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp cần đặt ra các mục tiêu về doanh thu, lợi nhuận, thị phần, vị thế của doanh nghiệp… khi xác định các mục tiêu cần đảm bảo tinh khoa học, tính đồng bộ, tính linh hoạt, tính khả thi, tính cụ thể, tính nhất quán. Đặc biệt mục tiêu phải phù hợp với điều kiện thực tế và nguồn lực của doanh nghiệp. b. Xác định chính sách, điều kiện nhập khẩu. Là việc xác định tư tưởng chỉ đạo trong quá trình đám phán và trong quá trình thực hiện hợp đồng về sau của doanh nghiệp. doanh nghiệp sẽ xác định chính sách nhập khẩu của mình với các đối tác có thể lâu dài hay chỉ tạm thời mang tính phi vụ. c. Lập kế hoạch, phương án kinh doanh. Phương án kinh doanh nhập khẩu là tài liệu thể hiện đề xuất phương án nhập khẩu mặt hàng nào đó với các biện pháp thực hiện cụ thể, các chỉ tiêu đánh giá trên cơ sở một số chỉ tiêu định tính và định lượng, thể hiện được mức độ khả thi của các phương án đó như: đặc điểm mặt hàng kinh doanh, đặc điểm của đối tác, cùng với các chỉ tiêu cụ thể về doanh thu, lợi nhuận, chi phí… phương án kinh doanh thường do bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp lập ra và trình lên lãnh đạo của doanh nghiệp, nếu được chấp nhận sẽ được đưa vào thực thi. Kế hoạch kinh doanh là bản mô tả tổng quát những mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp để đạt được các mục tiêu đó. Có kế hoạch kinh doanh thì hoạt động của doanh nghiệp mới đi đúng hướng, tránh được những nguy cơ về rủi ro, tổn thất có thể sảy ra. Kế hoạch kinh doanh cũng cần đảm bảo tính đồng bộ, tính khoa học, tính nhất quán, tính khả thi. d. Lựa chọn phương thức nhập khẩu. Doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu các phương thức nhập khẩu hiện nay, phân tích ưu nhược điểm của từng phương thức. Sau đó căn cứ vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp để lựa chọn phương án nhập khẩu phù hợp. Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nguồn vốn hạn chế, gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin, tiếp cận thị trường thì nên chọn phương thức nhập khẩu uỷ thác sẽ có lợi hơn. Ngược lại những doanh nghiệp có những khả năng về tài chính cao, có đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi thì có thể lựa chọn phương thức nhập khẩu trực tiếp. 1.2.3 - Triển khai thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu của doanh nghiệp. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu thực chất là người kinh doanh vận dụng các nghiệp vụ ngoại thương để thực hiện hợp đồng nhập khẩu đã kí. Tuỳ thuộc vào phương thức thanh toán, điều kiện mua bán mà các bước của hoạt động này có thể khác nhau nhưng nhìn chung gồm các bước sau đây: a. Xin giấy phép nhập khẩu. Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lí nhập khẩu. Vì vậy, sau khi kí hợp đồng nhập khẩu doanh nghiệp phải xin giấy phép để được thực hiện hợp đồng đó. Nếu mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp là hàng hoá quản lý bằng hạn nghạch thì doanh nghiệp phải căn cứ vào nhu cầu và khả năng của mình rồi lập văn bản trình lên cơ quan có thẩm quyền để xin giấy phép nhập khẩu đối với một số hàng hoá nhất định trong thời gian nhất định. Nếu là những mặt hàng không thuộc diện quản lý bằng hạn nghạch nhưng là mặt hàng nhập khẩu trong khuôn khổ nghị dịnh thư hay hiệp định ký kết của Chính phủ thì không cần phải xin giấy phép nhập khẩu. Để xin giấy phép nhập khẩu doanh nghiệp cần phải xuất trình bộ hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau: - Đơn xin giấy phép, phiếu hạn nghạch(nếu là hàng hoá thuộc diện quản lý bằng hạn nghạch). - Hợp đồng uỷ thác nhập khẩu(nếu doanh nghiệp lựa chọn phương thức nhập khẩu uỷ thác). - Các chứng từ liên quan. Bộ hồ sơ xin giấy phép nhập khẩu, phải được gửi về Bộ Thương Mại ( nay là Bộ Công Thương ), đối với những hàng hoá thông thường. Còn đối với hàng hoá đặc biệt có sự quản lý về chuyên môn thì sẽ được gửi cho các cơ quan quản lý chuyên nghành tương ứng. b. Làm thủ tục ban đầu thanh toán quốc tế. Tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên trong hợp đồng về phương thức thanh toán mà doanh nghiệp nhập khẩu phải tiến hành các công việc thanh toán theo quy định. Nếu trong hợp đồng, hai bên thoả thuận thanh toán bằng phương thức chuyển tiền và người mua phải trả trước một phần tiền hàng theo quy định thì doanh nghiệp phải đến ngân hàng chuyển số tiền trả trước cho nhà xuất khẩu. Nếu hai bên quy định việc thanh toán được thực hiện theo phương thức đổi chứng từ trả tiền ngay thi doanh nghiệp sẽ phải đến ngân hàng được chỉ định trong hợp đồng để ký biên bản ghi nhớ về việc thanh toán và chuyển đủ số tiền vào ngân hàng để lập tài khoản tín tác thanh toán cho người bán. Còn nếu hợp đồng xuất nhập khẩu quy định việc thanh toán bằng L/C thì doanh nghiệp sẽ đến ngân hàng để làm các thủ tục mở L/C. c. Thuê phương tiện vận tải. Thông thường hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng đường biển vì chuyên chở hàng hoá bằng tàu có thể chở được với khối lượng lớn, cước phí lại rẻ. Tuỳ vào phương thức giao nhận mà nghĩa vụ thuê tàu sẽ do người xuất khẩu hay người nhập khẩu đảm nhận. Doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thuê tàu nếu hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết theo các điều kiện nhóm E, F (Incoterm 2000). Khi thực hiện nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải doanh nghiệp cần thực hiện những nghiệp vụ cụ thể như: Liên hệ với các đại lý để thuê phương tiện vận tải, lấy bản đăng ký, xem xét lịch tàu, bảng giá cước phí và các nghiệp vụ khác. Sau đó lựa chọn chuyến tàu, hãng tàu, điền vào mẫu đăng ký thuê tàu, xác nhận với hãng tàu, tổ chức giao nhận hàng, lấy giấy biên bản để đổi lấy vận đơn. Cuối cùng thanh toán cước phí và nhận vận đơn. d. Mua bảo hiểm cho hàng hoá. Hàng hoá trên đường vận chuyển có thể gặp những rủi ro, tổn thất. Do đó việc mua bảo hiểm cho hàng hoá là rất cấn thiết, đặc biệt khi hàng hoá nhập khẩu có giá trị lớn thì việc mua bảo hiểm càng có ý nghĩa quan trọng. Đối với nghiệp vụ này, cũng tuỳ vào phương thức giao nhận, điều kiện vận tải quy định trong hợp đồng mà nghiệp vụ này sẽ do bên xuất khẩu hay bên nhập khẩu thực hiện. khi lựa chọn điều kiện bảo hiểm thì phải căn cứ vào: điều khoản hợp đồng, tính chất hàng hoá, tính chất bao bì, phương thức và loại tàu chuyên chở để lựa chọn loại hình bảo hiểm phù hợp. Khi mua hàng hoá theo các điều kiện EXW, FCA, FAS, FOB, CFR, CFT thì doanh nghiệp nhập khẩu cần phải thực hiện nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá. e. Làm thủ tục hải quan. Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, bắt buộc doanh nghiệp phải làm thủ tục hải quan cho hàng hoá của mình. Đây là biện pháp để nhà nước có thể kiểm tra các luồng hàng hoá được nhập khẩu vào trong nước. Việc làm thủ tục hải quan yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện qua 3 bước chủ yếu sau: - Thứ nhất: Khai báo hải quan Doanh nghiệp phải khai báo và nộp hồ sơ hải quan gồm: tờ khai nhập khẩu, hoá đơn thương mại, bản sao vận đơn đường biển, phiếu đóng gói hàng hoá, hợp đồng nhập khẩu, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu ( nếu nhập khẩu theo phương thức uỷ thác ), giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá và một số loại chứng từ khác tuỳ thuộc vào mặt hàng nhập khẩu. - Thứ hai; doanh nghiệp phải đưa hàng hoá đến địa điểm quy định để tiến hành kiểm tra. Chủ hàng là người chịu các chi phí cho khâu kiểm tra này. - Thứ ba; sau khi kiểm tra xong, nếu hàng hoá và giấy tờ hợp pháp thì doanh nghiệp tiến hành nộp thuế nhập khẩu, nếu chưa phù hợp với các yêu cầu về thủ tục hải quan của nhà nước thì doanh nghiệp phải điêu chỉnh lại cho phù hợp. f. Các hoạt động giao nhận, xếp dỡ và lưu kho. Các cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho. Doanh nghiệp nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị uỷ thác để: ký kết hợp đồng với cơ quan vận tải về việc giao nhận hàng từ tàu nước ngoài về, cung cấp các tài liệu về việc giao nhận, thông báo hoặc tiếp tục thuê phương tiện vận chuyển về doanh nghiệp đặt hàng, theo dõi và đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản cần thiết của việc giao nhận hàng; thanh toán cho các cơ quan vận tải các khoản cước phí giao nhận, bốc dỡ, bảo quản, vận chuyển hàng hoá. g. Kiểm tra hàng nhập khẩu, khiếu nại ( nếu có ). Những hàng hoá nhập khẩu cần phải được kiểm tra kĩ càng. Nghiệp vụ kiểm tra bao gồm: phá bỏ các kẹp chì hàng hoá, tiến hành kiểm tra toàn bộ hoặc hoặc kiểm tra đại diện đối với hàng hoá, lập các biên bản hàng hoá nhập khẩu, tập hợp và lưu giữ hồ sơ về hàng nhập khẩu. Nếu quá trình kiểm tra hàng hoá phát hiện có bất kỳ hư hỏng, mất mát, vi phạm gì người nhập khẩu có quyền khiếu nại đối với người bán, người chuyên chở hoặc bến cảng… việc khiếu nại được tiến hành theo những quy định của pháp luật. h. Thanh toán hợp đồng. Sau khai tiếp nhận hàng hoá xong và xử lý các sai sót phát sinh, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ tiến hành thanh toán nốt số tiền còn lại của hợp đồng. Tuỳ theo các phương thức thanh toán đã thoả thuận trong hợp đồng mà doanh nghiệp nhập khẩu tiến hành các bước thanh toán khác nhau. Hiện nay, các hợp đồng ngoại thương được thanh toán chủ yếu theo các phương thức: trả tiền mặt, chuyển tiền, ghi sổ, thanh toán tín dụng chứng từ ( L/C ). Có thể sơ đồ hoá các bước trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu như sau: Sơ đồ 1.2.3: Quy trình triển khai thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu của doanh nghiệp. Làm thủ tục ban đầu thanh toán quốc tế Mua bảo hiểm cho hàng hoá Thanh toán hợp đồng Xin giấy phép nhập khẩu Thuê phương tiện vận tải Kiểm tra hàng nhập khẩu, khiếu nại(nếu có) Giao nhận, xếp dỡ, lưu kho hàng hoá Làm thủ tục hải quan 1.2.4 - Kiểm soát và điều chỉnh hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. a. Đánh giá hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Trước khi quyết định có điều chỉnh hoạt động nhập khẩu của mình hay không thì doanh nghiệp cần phải tiến hành đánh giá hoạt động nhập khâủ trên các tiêu chí đánh giá cơ bản sau: +. Khối lượng và danh mục hàng hoá nhập khẩu trong kỳ. Doanh nghiệp dùng phương pháp thống kê xem trong kỳ doanh nghiệp đã nhập khẩu về tất cả bao nhiêu mặt hàng? Với tổng khối lượng là bao nhiêu? Sau đó, doanh nghiệp phải tiến hành so sánh với các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra để đánh giá tỷ lệ hoàn thành kế hoạch mà doanh nghiệp đạt được, so sánh với chỉ tiêu cùng kỳ năm trước để thấy tốt độ tăng so với kỳ trước. Trong đó: Qi : là khối lượng hàng của mặt hàng i nhập khẩu trong kỳ n: là số mặt hàng nhập khẩu trong kỳ Q: là tổng khối lượng hàng nhập khẩu trong kỳ Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch = Qtt x 100% Qkh Trong đó: Qtt: Tổng khối lượng hàng hóa thực tế nhập khẩu trong kỳ Qkh: Tổng khối lượng hàng hóa nhập khẩu theo kế hoạch Tốc độ tăng (giảm) = Q1 x 100% Q0 Trong đó: Q1: Tổng khối lượng hàng nhập khẩu kỳ này Q0: Tổng khối lượng hàng nhập khẩu kỳ trước đó +. Kim ngạch nhập khẩu trong kỳ Kim ngạch nhập khẩu trong kỳ chính là giá trị của các lô hàng mà doanh nghiệp nhập khẩu về ( tính bằng đơn vị ngoại tệ ). Nó được tính như sau: Kim ngạch nhập khẩu = Trong đó: Qi: tổng khối lượng mặt hàng i nhập khẩu trong kỳ Gi: giá mặt hàng i nhập khẩu trong kỳ n: số mặt hàng nhập khẩu trong kỳ Tương tự như trên, doanh nghiệp cũng phải so sánh kim ngạch nhập khẩu mà doanh nghiệp thực hiện được với kim ngạch nhập khẩu theo kế hoạch xem doanh nghiệp có thực hiện đúng kế hoạch hay không? Và so sánh với kim ngạch nhập khẩu của kỳ trước để xem doanh nghiệp nhập khẩu có tăng (giảm) không? Tăng (giảm) bao nhiêu phần trăm? Nguyên nhân do đâu? Tỷ lệ thực hiện kế hoạch kim ngạch nhập khẩu: H = Kim ngạch nhập khẩu thực hiện Kim ngạch nhập khẩu kế hoạch Hoạt động nhập khẩu của công ty sẽ được coi là hiệu quả nếu H >=1 +. Thị trường nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp trong kỳ Thị trường nhập khẩu đối với những doanh nghiệp nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng. Thông thường, trong kế hoạch nhập khẩu từ đầu kỳ doanh nghiệp thường đặt các mục tiêu cụ thể về thị trường như: số lượng thị trường nhập khẩu, số lượng nhà cung ứng trên thị trường, đối với từng mặt hàng… Vì vậy, cuối kỳ doanh nghiệp cũng phải tiến hành đánh giá xem số lượng các nhà cung ứng đối với từng mặt hàng, đối với tất cả các mặt hàng có tăng lên hay không? Thị trường nhập khẩu của doanh nghiệp có được mở rộng hay bị thu hẹp lại? Để từ đó còn đánh giá được các công tác trong nghiên cứu mở rộng thị trường, cũng như các công tác khác có đạt hiệu quả không? +. Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu: Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả trực tiếp của hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu này cho biết số nội tệ thu được là bao nhiêu khi bỏ ra những đơn vị ngoại tệ nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu = Tổng thu nhập bán hàng nhập khẩu (nội tệ) = xVNĐ Tổng chi phí nhập khẩu (ngoại tệ) 1USD Nếu tỷ suất ngoại tệ NK > tỷ giá hối đoái thì nhập khẩu có lãi, hoạt động nhập khẩu được coi là hiệu quả. Nếu tỷ suất ngoại tệ NK < tỷ lệ hối đoái thì hoạt động nhập khẩu là không có hiệu quả. +. Lợi nhuận đạt được so với kế hoạch và cùng kỳ năm trước Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Lợi nhuận được tính như sau: LN = DT – CP Trong đó: LN: là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong kỳ DT: là tổng doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong kỳ CP: là tổng chi phí thực hiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu Nếu mang lợi nhuận đó so sánh với lợi nhuận mà doanh nghiệp đặt ra trong kế hoạch thì sẽ biết doanh nghiệp có hoàn thành kế hoạch về lợi nhuận không và so sánh với cùng kỳ năm trước để biết xem doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn không. Đó là một số chỉ tiêu chủ yếu cơ bản đánh giá hiệu quả của hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Căn cứ vào các chỉ tiêu này và các chỉ tiêu kế hoạch cũng như so sánh với các kỳ trước để xem doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hay không? Nguyên nhân nào? để rút ra những kinh nghiệm, bài học cho kỳ kinh doanh sau. b. Điều chỉnh hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Trên cơ sở những đánh giá ở trên, doanh nghiệp có thể thấy được hoạt động nhập khẩu của mình có hiệu quả hay không. Nếu thấy chưa hiệu quả doanh nghiệp cần điều chỉnh hoạt động nhập khẩu của mình như: thay đổi thị trường nhập khẩu, thay đổi khối lượng hàng hoá nhập khẩu, thậm chí chuyển hướng kinh doanh nhập khẩu sang những mặt hàng khác. Còn ở trong nước doanh nghiệp có thể điều chỉnh giá bán hàng nhập khẩu của mình sao cho phù hợp với chi phí nhập khẩu đã bỏ ra, điều chỉnh phương án kinh doanh, cách thức bán hàng. 1.3 – Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. 1.3.1 - Nhân tố khách quan. a. Chế độ chính sách và luật pháp. Mỗi quốc gia đều có chính sách nhằm đưa mọi hoạt động vào khuôn khổ và phục vụ mục đích lâu dài của mình. Rõ ràng hoạt động ngoại thương, một hoạt động khá phức tạp, có tác động rất lớn đến quan hệ đối ngoại nói chung cũng như kinh tế đối ngoại. Các chủ thể hoạt động kinh doanh luôn phải tuân thủ quy định và luật pháp, những quy định có tính cưỡng chế. Nguồn luật ở đây gồm có: luật nước nhập khẩu, luật nước xuất khẩu, luật nước thứ 3 và các tập quán quốc tế. Môi trường pháp lý tác động khá mạnh đến hoạt động này, nếu nó ổn định, đồng bộ, hoàn thiện thì sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có cơ sở vững chắc chủ động nhằm thực hiện được nguyên tắc trong quan hệ kinh tế đối ngoại đó là: bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi. Mục tiêu, chiến lược được đề ra thông qua các chính sách. Trong hoạt động ngoại thương chính sách hoạt động quản lý của mỗi nước có những đặc trưng riêng. Có những nước tập trung vào công cụ thuế quan, có những nước lại tập trung vào công cụ phi thuế quan, hạn ngạch, ngoại tệ… Tất cảc các công cụ trên đều nhằm mục đích nhập khẩu phải bảo đảm phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. Đứng ở một góc độ nào đó chắc chắn các doanh nghiệp sẽ bị ảnh hư._.ởng, có thể là khuyến khích nhập khẩu nhưng có thể là hạn chế nhập khẩu. Do đó các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những chính sách quản lý nhập khẩu của nhà nước. Kinh doanh nhập khẩu thường phải sử dụng ngoai tệ, chủ yếu là các ngoại tệ mạnh trong thanh toán. Do đó chính sách tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động này. Tỷ giá là cơ sở để xác định được giá cả hàng hoá trong nước so với giá trên thị trường quốc tế. Khi mục đích hoạt động ngoại thương khác nhau chính sách tỷ giá sẽ thay đổi cho phù hợp, tất nhiên sự thay đổi này cần phải dựa vào nhiều yếu tố. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải theo dõi, cân nhắc để đưa ra quyết định nên nhập hay hạn chế. Nền kinh tế các nước hiện nay phụ thuộc vào nhau khá lớn thể hiện ở độ mở, các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia tham gia tích cực vào hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tìm kiếm lợi ích. Ngày nay xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động, đồng thời phát huy những lợi thế của mình, của quốc gia, của khu vực. b. Văn hoá. Văn hoá là một phạm trù dùng để chỉ các giá trị, tín ngưỡng, luật lệ và thể chế do một cộng đồng người xác lập nên. Quá trình kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp đòi hỏi phải tiếp cận với những nền văn hoá xa lạ. Sự khác biệt về văn hoá sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp không am hiểu về các nền văn hoá. Am hiểu về văn hoá sẽ nâng cao khả năng đàm phán, khả năng tiếp thị sản phẩm. c. Sự biến động cuả thị trường trong nước và nước ngoài. Hoạt động kinh doanh luôn phụ thuộc vào thị trường. Hoạt động nhập khẩu không chỉ chịu sự biến động của thị trường trong nước mà còn chịu sự biến động của thị trường nước ngoài. Sự ảnh hưởng của thị trường nước ngoài thể hiện ở lượng cung, còn thị trường trong nước ảnh hưởng dến lượng cầu, nếu cung cầu không được cân đối thì chiến lược kinh doanh cũng như lợi nhuận cũng bị tác động. Các xu hướng kinh tế, chính trị, chính sách bảo hộ hay mở cửa … ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các đối tác làm cho lượng cung bị giảm sút. Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế, tài chính, bất đồng về kinh tế chính trị… đều ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh nhập khẩu. Trước khi bước vào hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp cần phải xác định được nhu cầu về mặt hàng trong nước như: giá cả, chất lượng, số lượng đồng thời phải tìm kiếm đối tác nước ngoài về khả năng cung cấp có đáp ứng được nhu cầu trong nước hay không; xác định tiềm lực về tài chính của doanh nghiệp nước ngoài ra sao để có thể hỗ trợ rủi ro về chất lượng, tạo uy tín cho mặt hàng kinh doanh được lâu dài và quan trọng nhất là khả năng sản xuất của bên nước ngoài để doanh nghiệp có thị trường nhập khẩu ổn định. Ngoài ra, sự cạnh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất trong nước đòi hỏi doanh nghiệp nhập khẩu phải rất chú ý đến những điểm mạnh của mặt hàng mà mình nhập khẩu. d. Cơ sở hạ tầng. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, sân bay, bến cảng… có tác động rất lớn đến các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu cơ sở hạ tầng tốt sẽ tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh doanh, giúp giảm được các chi phí, tiết kiệm thời gian cho hoạt động kinh doanh. e. Hệ thống tài chính, ngân hàng. Vai trò của hệ thống tài chính, ngân hàng ngày càng lớn trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc quản lý, cung cấp vốn, bảo đảm việc thanh toán một cách thuận tiện và nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động ngoại thương không thể thiếu được hệ thống này. Ngân hàng với vai trò của người bảo lãnh, bảo đảm về mặt lợi ích sẽ giúp nhà nhập khẩu thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng hơn. Ngoài ra ngân hàng còn giúp cho doanh nghiệp có được khoản tiền thông qua việc cho vay để trợ giúp về vốn cho nhà nhập khẩu. Hệ thống thông tin do ngân hàng cung cấp cho các khách hàng của mình là rất quan trọng, nó bao gồm kinh nghiệm về tài chính, về sự biến động của thị trường thế giới… Do đó ngân hàng phải đủ mạnh mới có đủ uy tín bảo lãnh trước đối tác nước ngoài, là nhà cố vấn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp. f. Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cũng có tác động tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Do hợp đồng nhập khẩu được ký kết với các doanh nghiệp trong nước từ trước, sau đó mới nhập hàng về, thời gian từ khi ký kết hợp đồng đến khi thực hiện hợp đồng thường dài, nên khi tỷ giá hối đoái tăng so với tỷ giá hối đoái trong hợp đồng nội thì doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu thiệt. 1.3.2 - Nhân tố chủ quan. a. Nhân tố con người. Bao gồm cả bộ máy quản lý và nhân viên các bộ phận. Nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp không đảm bảo sẽ ảnh hưởng xấu tới hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Buôn bán xuất nhập khẩu với những đối tác nước ngoài với những tập quán, văn hoá kinh doanh, luật pháp, hệ thống chính trị khác nhau, cùng với những phương thức giao dịch phức tạp đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm buôn bán trên thị trưòng quốc tế. Các cán bộ quản lý phải có những quyết định sáng suốt , kịp thời những phương án kinh doanh hợp lý. b. Uy tín của doanh nghiệp. Trong kinh doanh hiện nay, đặc biệt là trong buôn bán quốc tế uy tín của doanh nghiệp là yếu tố khá quan trọng, là một nguồn lực vô hình mà không phải bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng dễ dàng có được. Doanh nghiệp sẽ phải mất nhiều thời gian để xây dựng uy tín, hình ảnh của mình. một doanh nghiệp có uy tín, được các doanh nghiệp khác tin tưởng, chú trọng sẽ dễ dàng hơn trong việc nhập khẩu, đồng thời các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ không ngần ngại khi tiêu thụ hàng hoá mà doanh nghiệp đã nhập khẩu về. Đặc biệt, mối quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác, các khách hàng truyền thống có vai trò rất lớn. Nó giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình tìm kiếm nguồn hàng cũng như các khâu trong thực hiện hoạt động nhập khẩu. c. Đặc điểm mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp và khả năng tiêu thụ. Điều này muốn nói đến loại mặt hàng mà doanh nghiệp nhập khẩu, nói đến khả năng maketing, đến thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Tìm được nhà cung cấp tốt, sản phẩm tốt nhưng hoạt động kinh doanh sẽ thất bại nếu doanh nghiệp không có khả năng bán những lô hàng đã nhận về. Doanh nghiệp dựa vào đặc điểm hàng mình nhập khẩu về mà có các chiến lược phù hợp. Bán đựơc nhiều hàng công ty mới thu hồi được vốn, tái đầu tư cho nhập khẩu, tiếp tục quá trình kinh doanh. Những doanh nghiệp có khả năng tiêu thụ nội địa lớn, số vòng quay của vốn nhiều, hiệu quả sử dụng vốn cũng cao hơn, và như thế đồng nghĩa với lợi nhuận cao hơn. d. Nguồn lực tài chính. Những hàng hoá nhập khẩu thường có giá trị lớn. Nếu nguồn vốn hạn chế, doanh nghiệp sẽ không thể tiến hành hoạt động nhập khẩu những lô hàng có số lượng lớn, giá trị lớn. Đồng thời cũng không thể tự mình trực tiếp tiến hành nhập khẩu được. CHƯƠNG II PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA EMJ TỪ 2005 – 2007 2.1 – Khái quát về công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí (EMJ). 2.1.1 - Giới thiệu chung về công ty: - Tên công ty: Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và Cơ khí - Tên giao dịch: Electrical Material And Mechanical Group Joint Stock Company - Tên viết tắt : EMJ - Địa chỉ trụ sở chính : số 240 – 242 đường Tôn Đức Thắng – Quận Đống Đa – Hà Nội - Điện thoại : (84.4) 5112314, 8511918, 8513962, 8513024 - Fax : (84.4) 8512407, 8514315, 8516453 - Email : elmacoxk@hn.vnn.vn - Wedsite : www.elmaco.com.vn 2.1.2 - Tóm tắt quá trình phát triển : - Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí chính thức được thành lập từ năm 1971 theo quyết định số 820/VT-QĐ ngày 22/12/1971 của Bộ trưởng bộ Vật tư với tên gọi là Công ty Vật liệu điện, trực thuộc Tổng công ty hóa chất- vật liệu điện và dụng cụ cơ khí. - Năm 1980, Công ty là thành viên liên hiệp cung ứng vật tư khu vực 1. - Năm 1983 là thành viên liên hiệp xuất nhập khẩu vật tư. - Năm 1985 thành lập lại theo quyết định số 423/VT-QĐ ngày 19/09/1985 của Bộ trưởng bộ vật tư với tên gọi Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí. +. Thành lập các đơn vị hoạt động dịch vụ công nghiệp : Quầy thu đổi, sửa chữa động cơ điện, máy hàn điện, đội xây lắp đường dây và trạm biến áp, lắp đặt điện nội thất. - Năm 1986 : thành lập xưởng lắp ráp các khí cụ và phụ kiện đơn giản. - Năm 1987 : thành lập xưởng sản xuất vật liệu điện. - Năm 1989 : + Chính thức sử dụng tên giao dịch thương mại ELMACO và biểu trưng ELMACO. + Thành lập xí nghiệp sản xuất vật liệu điện. - Năm 1991,1992 : + Thành lập các xí nghiệp kinh doanh thương mại. + Thành lập các chi nhánh ELMACO tại các tỉnh, thành phố: Lạng Sơn, Lào Cai, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hóa, Vinh, Đông Hà, Quy Nhơn, TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu. - Năm 1993: + Thành lập lại theo quyết định số 613/TM-TCCB ngày 28/05/1993 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại.. + Thành lập xí nghiệp sản xuất máy hàn điện. + Tách xí nghiệp sản xuất vật liệu điện thành xí nghiệp vật liệu điện và xí nghiệp sản xuất dây, cáp điện và dây điện từ. - Năm 1994 : Trực thuộc Bộ Thương Mại theo quyết định số 1147/TM-TCCB ngày 16/09/1994 của Bộ trưởng Bộ Thương mại. - Năm 1997: + Tổ chức lại các đơn vị kinh doanh thương mại và các chi nhánh. + Tổ chức lại Xí nghiệp sản xuất vật liệu điện và Xí nghiệp sản xuất máy hàn điện thành xí nghiệp sản xuất thiết bị điện. + Đổi tên Xí nghiệp dây, cáp điện và dây điện từ thành nhà máy dây và cáp điện. - Ngày 19/09/2005: đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội. +Số đăng ký : 0103009097 + Tên đăng ký : Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí. + Vốn điều lệ : 30.512.000.000 (ba mươi tỷ năm trăm mươi hai triệu đồng 2.1.3 - Ngành nghề đăng ký kinh doanh của Công ty : - Kinh doanh các mặt hàng : vật liệu điện (các vật tư thiết bị truyền dẫn điện, đóng ngắt điện, đo đếm điện, các loại vật liệu cách nhiệt, cách điện, các thiết bị và dụng cụ dùng điện), dụng cụ cơ khí, thiết bị và vật liệu hàn, các sản phẩm cao su, kim khí, kim loại đen, kim loại mầu, hóa chất, vật tư thiết bị và phụ tùng phục vụ sản xuất và vật phẩm tiêu dùng; kinh doanh nhà. - Dịch vụ : Xây lắp, lắp đặt điện (đường dây và trạm đến 110 KV), xây dựng nhà, lắp đặt và trang trí nội thất, giao nhận, vận chuyển vật tư hàng hóa, cho thuê kho bãi, văn phòng, nhà xưởng, cửa hàng, dịch vụ giữ xe ôtô, xe máy và sửa chữa thay thế phụ tùng, săm lốp; Tư vấn dự án, tư vấn thầu. - Sản xuất và mua bán các loại cáp điện, dây điện, cáp viễn thông, vật tư thiết bị viễn thông, máy hàn, két bạc, quạt công nghiệp và các thiết bị cơ điện, bột và nước Bakelit, các sản phẩm chế tạo từ Bakelit, thức ăn cho gia súc, môi trường thủy hải sản, tinh bột sắn và các sản phâm từ bột sắn; cồn, rượu, phân vi sinh, nước khoáng. - Xuất nhập khẩu các sản phẩm hàng hóa Công ty kinh doanh. 2.1.4 - Chức năng, nhiệm vụ của công ty a. Chức năng : EMJ không phải là một doanh nghiệp thương mại thuần túy mà là một doanh nghiệp vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vừa hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa. Đặc điểm đó đòi hỏi EMJ phải thực hiện tốt các chức năng sau : - Kinh doanh các loại vật tư, hành hóa thuộc ngành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí. - Trực tiếp nhập khẩu các mặt hàng vật liệu điện, dụng cụ cơ khí và vật tư liên quan để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. - Trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng vật liệu điện, dụng cụ cơ khí và các sản phẩm hàng hóa khác từ đơn đặt hàng gia công hoặc thông qua góp vốn liên doanh, liên kết. - Nhận ủy thác xuất khẩu, làm đại lý, làm các mặt hàng thuộc phạm vi kinh doanh của Công ty. - Tổ chức sản xuất, gia công, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư sản xuất với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để tạo nguồn hàng xuất khẩu và phục vụ nhu cầu trong nước. b. Nhiệm vụ: Tuân thủ các chế độ, chính sách pháp luật của nhà nước có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. - Thực hiện nghiêm chỉnh các hoạt động kinh tế, hợp đồng ngoại thương đã ký kết. - Xây dựng, tổ chức và thực hiện các kế hoạc sản xuất kinh doanh của Công ty theo qui định hiện hành. - Khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn do nhà nước cấp cũng như nguồn vốn do các cổ đông đóng góp. - Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong nước và thế giới nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất trong nước và xuất khẩu. - Quản lý, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc theo quy chế hiện hành. 2.1.5 - Cơ cấu tổ chức của Công ty Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình kể từ khi cổ phần hoá EMJ đã thay đổi cơ cấu tổ chức bộ may của mình cho phù với chức năng và kinh doanh trong tình hình mới . Dưới đây là cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. Sơ đồ 2.1.5: Cơ cấu tổ chức của EMJ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN VẬT LIỆU ĐIỆN VÀ CƠ KHÍ (EMJ ) Trung tâm kinh doanh Vật liệu điện & DCCK (E1) Trung tâm tư vấn ELMACO (E3) Trung tâm kinh doanh vật tư tổng hợp (E2) Cty TNHH 1 TV điện máy ELMACO Cty TNHH 1TV VL điện và DC cơ khí tại TP Hồ Chí Minh Cty TNHH 1 TV tinh bột sắn ELMACO Cty TNHH 1 TV nước khoáng Cúc phương Cty TNHH 1 TV XNK ELMACO Cty TNHH 1TV cơ điện ELMACO Cty TNHH 1TV Dây và cáp điện ELMACO Chi nhánh Đà Nẵng Chi Nhánh Đông Hà Chi nhánh Hải Phòng Chi nhánh Quảng Ninh Chi nhánh thái nguyên Chi nhánh Hà Nam Đại Hội đồng Cổ đông Hội đồng quản trị P Kế hoạch tài chính Ban kiểm soát Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc P. Tổ chức hành chính Nhiệm vụ cụ thể của từng bộ phận được xác định như sau: - Đại hội đồng cổ đông: Là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát; quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty, thông qua báo cáo tài chính hàng năm của công ty. - Ban kiểm soát: Có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong ghi chép sổ sách kế toán và báo cáo tài chính. Thẩm định báo cáo hàng năm của công ty, kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý. Thường xuyên thong báo với HĐQT về kết quả hoạt động; tham khảo ý kiến của HĐQT trước khi trình báo cáo, quyết định và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông. - Hội đồng quản trị (HĐQT): Là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có quyền quyết định chiến lược phát triển của công ty,quyết định phương án đầu tư, giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ, thông qua hợp đồng mua bán, vay, cho vay. - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc: Ở EMJ theo điều lệ của công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc có một số chức năng nhiệm vụ sau : lập chương trình kế hoạch của Hội đồng quản trị, chuẩn bị chương trình, nội dung, các tài liệu phục vụ cuộc họp; điều hành hoạt động hàng ngày của Công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT. Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quản lý, trừ những chức danh do HĐQT bổ nhiệm, miễn nhiệm. - Phó tổng giám đốc : là người giúp TGĐ điều hành một số hoạt động của Tổng công ty theo phân công của TGĐ, chịu trách nhiệm trước TGĐ và pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Phó tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của TGĐ. - Phòng kế hoạch tài chính : có nhiệm vụ chi chép và theo dõi tình hình tài chính của Công ty, lập báo cáo tài chính, xây dựng kế hoạch tài chính và cung cấp thông tin về tài chính cho Ban giám đốc. Thực hiện các kế hoạch chi trả trong nội bộ và bên ngoài Công ty về các khoản vay nợ cũng như thanh toán hợp đồng. - Phòng tổ chức hành chính có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức lực lượng lao động, tuyển dụng, đào tạo cán bộ, giải quyết các chế động chính sách về tiền lương, Bảo hiểm xã hội cho người lao động, đồng thơi tổ chức các công tác thanh tra, kiểm tra toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết các đơn thư khiếu nại và đề xuất biện pháp xử lý lên Ban giám đốc. - Các trung tâm E1,E2,E3 có trách nhiệm giúp việc cho Ban giám đốc trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp, chi nhánh trực thuộc. Đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh lên Ban giám đốc. - Hệ thống các Xí nghiệp kinh doanh, các nhà máy sản xuất và các chi nhánh của Công ty có trách nhiệm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh theo lệnh và các quyết định của giám đốc. Đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các phó giám độc. 2.2 – Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty. 2.2.1 - Mặt hàng kinh doanh, thị trường và Đối thủ cạnh tranh: a. Đặc điểm mặt hàng kinh doanh: Đến nay, EMJ kinh doanh trên 2000 mặt hàng với hàng chục vạn quy cách khác nhau. Những mặt hàng mà EMJ kinh doanh nằm trong nhóm thiết bị điện, vật liệu điện, dung cụ cơ khí, kim khí, hóa chất, cao su, khoáng sản . Bảng 2.2.1a: Danh mục mặt hàng kinh doanh chính của EMJ: Tên hàng Loại hình Cà phê hòa tan, cà phê bột, cà phê hạt E Tùng hương E Quặng kẽm E Quặng Cromite E Quặng Titan E Quặng Zirconi E Sơn tẩm cách điện I, D Than hoạt tính E Nhựa LDPE,LLDPE, HDPE, XLPE I Nhựa PP các loại I Nhựa PS các loại, nhựa ABS I Nhựa PVC các loại I Nhựa Polycarbonat I Nhựa UREA I Nhựa Phenolic E Cao su tự nhiên I, D Ống cao su dẫn nước, dẫn khí nén I,D Dây đai truyền động bằng cao su các loại I Băng tải cao su I Lốp ô tô các loại I Bột giấy các loại I Giấy Kraft các loại I Giấy cách điện các loại I Băng tải, dây đai bằng vật liệu I Quần áo may sẵn E Các loại đá mài, đá cắt I, D Sợi, dây, vải amiant I, D Nồi nấu đồng I Sợi, vải thủy tinh I, D Phôi thép I Dây thép làm lõi que hàn I Dây thép chịu lực cho dây điện trần I Thép lá kĩ thuật điện I Đồng thỏi I Đồng dây I, M Đồng tấm, lá các loại I Dây điện trần bằng đồng bện M Niken catot I Nhôm thỏi I Nhôm lá I Dây điện trần bằng nhôm bện M Kẽm thỏi I Dụng cụ cơ khí cầm tay các loại I, D Dụng cụ cắt gọt cho dụng cụ cầm tay I, D Dao và lưỡi cắt cho máy, dụng cụ cơ khí I, D Que hàn, đây hàn và các vật liệu hàn I, D Động cơ đốt trong chạy xăng E Động cơ đốt trong chạy bằng diesel E Bơm nước và tổ máy bơm nước chạy điện I, D Quạt chống nóng, quạt thông gió M, D Máy nén khí I Pa lăng, tời, kích các loại I,D Dụng cụ cầm tay hoạt động bằng áp lực I, D Vòng bi các loại I Động cơ điện các loại I, D Tổ máy phát điện các loại I, E Máy biến áp, biến dòng I, D Dụng cụ cơ điện cầm tay I, D Máy hàn điện, hàn phơi và phụ kiện M, I, D Tụ điện I Thiết bị chuyển mạch, bảo vệ, điều khiển, tiếp nối dùng cho lưới điện trung, cao thế I, D Thiết bị chuyển mạch, bảo vệ, điều khiển, tiếp nối dùng cho lưới điện hạ thế I, D Tủ, bảng điện các loại I, D Đèn và bóng đèn các loại I, D Các loại dây điện, cáp điện, cáp tàu thủy, cáp điều khiển, cáp hàn, cáp phòng nổ, cáp đồng trục, các loại dây điện từ M, I, D Các vật liệu cách điện I, D Dụng cụ đo lường cơ khí chính xác I Máy thử độ cứng, bền, nén, đàn hồi và các đặc tính cơ học của vật liệu I, D Dụng cụ đo nhiệt độ, áp suất, độ ẩm I, D Dụng cụ đo độ nhớt, âm lượng, ánh sáng I, D Công tơ điện I, D Các thiết bị đo đếm, thử nghiệm điện I, D Trong đó: M: sản xuất D: Phân phối ( Sản phẩm do các đơn vị trong nước sản xuất, hoặc một phần từ các đầu mối nhập khẩu khác ) E: xuất khẩu I: Nhập khẩu ( bao hàm cả D ) Qua bảng trên ta thấy hàng nhập khẩu vẫn là nguồn hàng chính, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các mặt hàng kinh doanh của công ty. Những mặt hàng có kim nghạch nhập khẩu lớn là: Nhôm thỏi, kẽm thỏi, thép lá, cáp điện, giấy cách điện, que hàn. Về xuất khẩu, hiện nay những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty bao gồm: Tùng hương, cao su, quặng sắt, quặng kẽm, cáp điện, quạt điện, chấn lưu điện tử, phụ tùng phục vụ cho các máy cơ khí hoạt động trong sản xuất nông nghiệp. Chất lượng các mặt hàng xuất khẩu ngày càng được củng cố, cơ cấu và chung loại hàng hóa đa dạng hơn.Đồng thời EMJ cũng tập trung vào việc tổ chức sản xuất những mặt hàng mà mình có thế mạnh như: Dây cáp điện, Máy hàn điện, Đèn cao áp thủy ngân, Quạt chống nóng. b. Thị trường của công ty: EMJ là doanh nghiệp vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, vừa hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa, công ty thực hiện cả hai hoạt động là mua và bán. Hoạt động mua là quá trình tìm kiếm các nguồn đầu vào cho quá trình sản xuất hoặc đơn giản chỉ là hoạt động mua để bán. Hoạt động mua liên quan đến thị trường đầu vào của doanh nghiệp còn hoạt động bán liên quan đến thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào của công ty chủ yếu thông qua con đường nhập khẩu, hàng năm có đến hơn 60% hàng hóa được nhập khẩu trên tổng hàng hóa mà công ty có được. Trước năm 1989, khi điều kịên sản xuất chưa phát triển, nguồn cung cấp vật tư cơ bản cho EMJ chủ yếu là từ Liên Xô và các nước Đông Âu, từ năm 1993 trở lai đây công ty đã mở rộng quan hệ với các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước Tây Âu…thông qua các tổng công ty lớn đã từng có quan hệ trực tiếp hoặc tìm kiếm đối tác từ các thị trường này. Đến nay thị trường nhập khẩu chủ yếu của công ty là Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật, Italia. Nếu như thị trường đầu vào của công ty chủ yếu là thị trường ngoài nước thì thị trường tiêu thụ chính cuả công ty lại là thị trường trong nước. Cho đến nay,ngoài hệ thống các xí nghiệp, cửa hàng kinh doanh tại Hà Nội được tăng cường và mở rộng, EMJ đã đứng vững và tiếp tục duy trì hoạt động có hiệu quả ở các chi nhánh Thái Nguyên, Quảng Nam, Hải Phòng,Hà Nam, Đông Hà, Đà Nẵng Bảng 2.2.1b: Tình hình thị trường tiêu thụ khu vực miền Bắc Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉtrọng (%) Tổng doanh thu 161.492,92 100 201.461,321 100 1. Hà Nội 62.832,82 38,9 75.399,384 37,43 2. Bắc Giang 4.236,02 2,62 5.506,826 2,73 3. Quảng Ninh 12.116,50 7,5 14.418,635 7,16 4.Hải Phòng 15.242,00 9,44 19.816,60 9,84 5.Thái Nguyên 16.780,14 10,4 23.492,196 11,66 6.Nam Định 21.497,42 13,3 27.946,646 13,87 7.Vinh 18.400,00 13,4 21.896,00 10,87 8.Thanh Hóa 10.388,02 4,44 12.985,025 6,44 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của công ty Trong những năm gần đây công ty cũng đã chú trọng tới thị trường xuất khẩu và đã gặt hái được nhiều thành công. kim nghạch xuất khẩu tuy không chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của công ty nhưng cũng đã góp phần quan trọng giải quyết vấn đề về ngoại tệ để chi trả cho bạn hàng nước ngoài, giảm thiểu phát sinh chênh lệch tỷ giá. c. Môi trường kinh doanh của công ty: +. Khách quan: Hiện nay EMJ đang được kinh doanh trong môi trường của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, bên cạnh đó với việc nước ta hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế bằng việc tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và Thế giới như: gia nhập ASEAN,WTO…, gia nhập các diễn đàn kinh tế như: ASEM, APEC… đã tạo cho nền kinh tế của nước ta cởi mở và thông thoáng hơn. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các danh nghiệp mà trong đó có EMJ. Sự thông thoáng của cơ chế chính sách giúp EMJ có nhiều điều kiện hơn trong việc lựa chọn thị trường, bên cạnh các thị trường truyền thống công ty còn được tiếp cận, thâm nhập và mở rộng thị trường mới, điều này giúp EMJ có nhiều bạn hàng hơn, từ đó giúp công ty đa dạng hóa các sản phẩm kinh doanh của mình, tăng doanh thu tài chính; quy mô và vị thế của doanh nghiệp cũng được nâng lên. Tuy nhiên, mặt trái của sự thông thoáng về cơ chế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với EMJ cũng không nhỏ. Đó là thách thức từ các Đối thủ cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước. Khi nước ta đã gia nhập WTO, thị trường trong nước không còn là sân chơi riêng, được ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước; sản phẩm cùng loại của các công ty nước ngoài sẽ tràn vào tạo ra sự cạnh tranh gay gắt, đặc biệt nghành kinh doanh của EMJ là một trong những mặt hàng khó kinh doanh nhất Điều này đòi hỏi EMJ phải nỗ lực và không ngừng cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng các sản phẩm của mình để có thể đủ năng lực cạnh tranh và giành phần thắng trên thương trường. Bên cạnh đó EMJ đã từng vấp phải quá nhiều sự cạnh tranh không lành mạnh làm cho công ty phải thu hẹp thị phần hoặc gần như từ bỏ kinh doanh một số mặt hàng. Những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh như: Làm hàng giả, hàng kém chất lượng, không đảm bảo tiêu chuẩn, thực hiện những hành vi gian lận thương mại như giảm giá và lượng hàng nhập khẩu để trốn thuế…là một thách thức không nhỏ đối với EMJ. +. Chủ quan ► Thuận lợi: Công ty đã có kinh nghiệm kinh doanh hơn 30 năm, đã tạo dựng cho mình hệ thống khách hàng và nguồn cung cấp hàng truyên thống, đến nay Công ty đang có quan hệ với gần 1000 khách hàng trong và ngoài nước; hiện nay công ty đang kinh doanh khoảng 300 mặt hàng chính, trong đó có nhiều nghành hàng mũi nhọn đã tạ dựng được chỗ đứng vững chắc trên thương trường, có nhiều mặt hàng đại lý chính thức cho các hãng nước ngoài; thương hiệu kinh doanh EMJ đã có uy tín trên thương trường cả trong và nước ngoài. Công ty có hệ thống chi nhánh, cửa hàng và các đại lý rộng khắp trong cả nước, có các nhà máy đang và sẽ hoạt động tốt, trong đó nhà máy sản xuất dây và cáp điện ELMACO năm 2001 đã được cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO – 9002. Công ty có đội ngũ lao động có lý luận, có thực tiễn, có kinh nghiệm, gắn bó chặt chẽ với công ty và tâm huyết cho sự phát triển chung của Công ty. ► Khó khăn: Tuổi lao động bình quân của nhân viên trong công ty cao, số đông kém năng động sáng tạo, năng suất lao động chưa cao, tâm lý trâu ỳ của thời kỳ doanh nghiệp nhà nước vẫn tác động đến suy nghĩ và hành động. Lực lượng lao động trẻ thiếu nhiều người giỏi, thiếu những người được đào tạo toàn diện, thiếu những người phấn đấu không biết mệt mỏi cho sự nghiệp của bản thân cũng như Công ty. Bên cạnh đó, là một doanh nghiệp nhà nước mới được cổ phầ hóa nên Công ty phải tiếp tục xử lý một số tồn tại về tài chính của doanh nghiệp nhà nước. 2.2.2 - Đặc điểm về nhân sự của công ty Nhân tố con người đóng một vai trò quan trọng , nó là một trong những nguyên nhân có tính quyết định đến thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Nhận thức được điều này EMJ luôn chú trọng đến khâu tuyển dụng, đào tạo,bố trí lao động phù hợp với công việc, tạo điêù kiện thuận lợi cho người lao động thăng tiến trong công việc. Tính đến hết ngày 31/12/2007 tổng số lao động của Công ty là 627 người. Bảng 2.2.2: Cơ cấu lao động của EMJ theo trình độ học vấn Trình độ học vấn Số lượng Tỷ lệ (%) Trên đại học 2 0.32 Đại học 210 33.50 Cao đẳng 127 20.26 Trung cấp 146 23.29 Lao động phổ thông 142 22.63 Tổng 627 100 Nguồn : Phòng tổ chức hành chính EMJ Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động của EMJ theo trình độ học vấn 22,63% 23,29% 20,26% 33,50% 0,32% Trong đó lao động dài hạn là 494 người, lao động hợp đồng 133 người.Cũng tại thời điểm ngày 31/12/2007 thu nhập bình quân của lao động trong công ty là: 1.500.000đ. Qua bảng 3 ta thấy số lao động có trình độ Đại học chiếm tỷ lệ lớn nhất, đây là một lợi thế không nhỏ về nhân lực của EMJ. 2.2.3 - Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí trong những năm gần đây: Trong những năm gần đây, với chiến lược đa dạng hóa kinh doanh, tăng cường mở rộng thị trường dựa trên mục tiêu thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng, bằng sự nỗ lực của tập thể lao động toàn Công ty nên trong những năm qua doanh thu của doanh nghiệp đều tăng. Bảng 2.2.3 : Kết quả kinh doanh của EMJ trong những năm gần đây Đơn vị : Triệu đồng Năm Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng doanh thu 448.508,625 506.809,096 557.490,006 Chi phí giá vốn hàng bán 336.381,47 395,311,095 434.842,2 Chi phí bán hàng 22.425,431 25.340,454 29.024,3 Chi phí sản xuất 45.150.861 40.544,728 43.112,808 Chi phí QLDN 19.734,38 16.724,7 18.954,66 Lợi nhuận trướcthuế 25.116,483 28.888,119 31.556,038 Thuế thu nhập DN 7.032,615 8.088,673 8.835,691 Lợi nhuận sau thuế 18.083,868 20.799,446 22.720,347 (Nguồn : báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm ) Qua bảng 3, ta thấy tổng doanh thu và lợi nhuận của công ty đêù tăng qua các năm. Doanh thu năm 2006 tăng so với năm 2005 là: 13%, năm 2007 tăng so với năm 2006 xấp xỉ 10%. Lợi nhuận trước thuế của năm 2006 tăng so với năm 2005 là 15,02%, năm 200 tăng so với năm 2006 là: 10,9%. Điều này cho thấy quy mô hoạt động trong những năm của công ty trong những năm gần đây không ngừng tăng trưởng, nó phù hợp với mục tiêu chiến lược của công ty là “ phát triển EMJ thành tập đoàn sản xuất – thương mại – dịch vụ đa sở hữu ”. Về chi phí, cùng với sự mở rộng quy mô kinh doanh kéo theo sự tăng lên về chi phí, tổng chi phí của năm 2006 tăng 12,88% so với năm 2005, Năm 2007 tăng so với năm 2006 là: 10%. 2.3 – Tình hình nhập khẩu của EMJ từ 2005 - 2007 2.3.1 - Kim ngạch nhập khẩu. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhu cầu về năng lượng điện phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế, kéo theo đó là sự ra tăng của cầu về vật liệu điện. Tuy nhiên nghành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí là một trong những nghành hàng khó kinh doanh. Trên thị trường Việt Nam EMJ vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên với truyền thống và kinh nghiệm kinh doanh nghành hàng này trên 30 năm, ngoài việc nâng cao khả năng sản xuất trong những năm qua EMJ cũng đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu các mặt hàng trong nghành hàng mình kinh doanh để nâng cao khă năng cạnh tranh của mình cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Bảng 2.3.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của EMJ 2005 – 2007 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Kim nghạch xuất khẩu 6.335 7.285,25 8.013,075 Kim nghạch nhập khẩu 300.912,5 338.526,56 324.985,5 Tổng kim nghạch XNK 307.247,5 345.811,81 332.998,575 Nguồn: XNKD xuất nhập khẩu EMJ. Biểu đồ 2.3.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu của EMJ 2005 – 2007 Tỷ đồng Qua bảng trên ta thấy kim nghạch nhập khẩu của EMJ là rất lớn so với kim nghạch nhập khẩu của doanh nghiệp. Đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11062.doc