Hoạt động Nhập khẩu của Công ty TNHH Thương Mại & Sản xuất Việt Trung, Thực trạng & Giải pháp

mở đầu Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đến nay, vấn đề hội nhập đã trở thành một xu thế phát triển tất yếu của quan hệ kinh tế hiện đại với sự tham gia của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, xuất phát từ nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp và đang trong qúa trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, Việt Nam đã gặp phải không ít những vấn đề khó khăn, thách thức. Một trong những biện pháp để cải thiện những khó khăn này là chúng ta phải

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Nhập khẩu của Công ty TNHH Thương Mại & Sản xuất Việt Trung, Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không ngừng phát triển Thương Mại Quốc tế đặc biệt là trong lĩnh vực nhập khẩu. Nhập khẩu sẽ giúp cho một quốc gia tận dụng được khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại của các nước có nền công nghiệp phát triển và khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh của nước mình, đồng thời nhập khẩu cho phép bổ sung những sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chúng không hiệu quả. Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp do đó nền thương mại nước ta hiện nay, về cơ bản là nền thương mại nhỏ và tương ứng với nó là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ở trình độ thấp, hơn nữa Đảng và Nhà nước đã đặt ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại. Vậy trước hết chúng ta phải phát triển các ngành công nghiệp nhẹ mà đặc điểm của ngành công nghiệp này là cần nhiều các phụ liệu trong đó có hoá chất. Trong khi đó ngành công nghiệp này ở nước ta hầu như chưa phát triển.Vì vậy để đáp ứng nhu cầu này không còn cách nào khác là chúng ta phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nhận thức được cơ hội quan trọng này, ngày15 tháng7 năm 2002 Công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung được thành lâp. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty là mua bán, xuất nhập khẩu hoá chất, đại lý mua bán ký gửi hàng hoá. Trong gần hai năm hoạt động, Công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung đã đạt được những thành quả nhất định, khẳng định được vị trí của mình trong lĩnh vực hoá chất. Nhưng đứng trước thực tế hiện nay. Trên thị trường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh, cả trong nước và quốc tế. Hơn nữa cộng với sự thiếu kinh nghiệm do mới thành lập và hạn chế về vốn kinh doanh. Để đứng vững trên thị trường đòi hỏi hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty phải không ngừng được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Từ những vấn đề nêu trên cộng với sự tìm tòi thực tiễn kinh doanh tại Công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung và những kiến thức Thương Mại Quốc tế mà em được học, với sự hướng dẫn của cô giáo Thạc sỹ Nguyễn Thị Liên Hương và sự giúp đỡ của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong công ty, em chọn đề tài: “Hoạt động nhập khẩu của Công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung, thực trạng và giải pháp”. Mục đích của đề tài là nhằm tìm ra những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của công ty, từ đó đề ra những giải pháp nhằm phát huy những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm trong công ty. Bố cục của chuyên đề được trình bày như sau: Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung được chia thành 3 chương. Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung. Chương III: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Thạc sỹ Nguyễn Thị Liên Hương và ban lãnh đạo cùng toàn thể nhân viên Công ty TNHH Thương Mại & SX Việt Trung đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Chương I Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp I. Khái quát chung về thương mại quốc tế. 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Thương Mại Quốc tế. 1.1 Khái niêm Thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là qúa trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi là một hình thức của các mối quan hệ xã hội, phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế có thể coi là một ngành, một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. 1.2. Nguồn gốc của Thương Mại Quốc tế. Thương Mại Quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Thương Mại Quốc tế được hình thành do: Sự phân công lao động: Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ khi ra đời nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất khép kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các nước “Những nước có điều kiện tài nguyên thiên nhiên khác nhau thì sản xuất ra các loại sản phẩm khác nhau”. Do sự chênh lệch về chi phí cơ hội của hàng hoá giữa các nước. Do đó quyết định đến sự khác biệt về chi phí tương đối để làm ra các mặt hàng. Do sự khác biệt về tính phong phú, giá cả tương đối và quyền sở hữu các yếu tố sản xuất, việc đó dẫn đến sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá giữa hai nước đây chính là nguyên nhân trực tiếp cho ra đời Thương Mại Quốc tế. Do sự khác biệt về sở thích và mức cầu. Điều đó được thể hiện rất rõ bằng những sản phẩm cụ thể ở Việt Nam mặc dù có những sản phẩm trong nước có thể được đánh giá là tốt bằng hoặc thậm trí là tốt hơn hàng ngoại nhưng nhiều người vẫn chuộng hàng ngoại, vì vậy để thoả mãn nhu cầu này người ta sẽ phải tham gia vào Thương Mại Quốc tế. Các lý thuyết thương mại quốc tế. Từ nguồn gốc của Thương Mại Quốc tế chúng ta thấy Thương Mại Quốc tế được ra đời từ rất sớm và đã có những đột phá vĩ đại. Điều đó đã được các nhà kinh tế thể hiện bằng các học thuyết của mình. Sau đây là một số các học thuyết điển hình cho sự phát triển đó. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Theo ông, khi một nước có hiệu quả lớn hơn (hay có lợi thế tuyệt đối) so với một nước khác trong việc sản xuất một loại hàng hoá nhưng lại kém hiệu quả hơn (hay có bất lợi thế tuyết đối) so với nước kia trong việc sản xuất một loại hàng hoá khác thì khi đó cả hai nước đều có thể được lợi bằng cách mỗi nước sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất loại hàng hoá mà nó có lợi thế tuyệt đối sau đó trao đổi với nước kia để có được hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối. Qua đó nguồn lực của cả hai nước sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn, sản lượng hàng hoá của cả hai nước sẽ tăng và mỗi quốc gia có thể tiêu dùng ở mức cao hơn. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối có thể giúp giải thích cho một phần nhỏ của Thương Mại Quốc tế. Tuy nhiên, lý thuyết này không thể giải thích được trường hợp tại sao Thương Mại Quốc tế vẫn có thể diễn ra khi một quốc gia có lợi thế tuyệt đối về tất cả các mặt hàng. Để khắc phục nhược điểm này của lý thuyết lợi thế tuyệt đối chúng ta cùng đến với lý thuyết lợi thế tương đối của David Ricardo. Lý thuyết lợi thế tương đối của David Ricardo. Theo Ricardo, nếu mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Nói một cách khác một quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn một cách tương đối hay giá cả thấp hơn một cách tương đôí so với quốc gia kia. Tóm lại: hai lý thuyết trên là hai lý thuyết thuộc trường phái cổ điển về thương mại quốc tế, chúng nhấn mạnh yếu tố cung, coi quá trình sản xuất trong nước là yếu tố quyết định hoạt động Thương mại quốc tế. Trong lý thuyết này, giá cả của từng mặt hàng không được biểu hiện bằng tiền, mà được tính bằng số lượng hàng hoá khác và thương mại giữa các nước được thực hiện theo phương thức hàng đổi hàng. Hạn chế cơ bản nhất của lý thuyết cổ điển về Thương mại quốc tế là ở chỗ nó được xây dựng trên cơ sở học thuyết về giá trị lao động, theo đó lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và đồng nhất trong tất cả các ngành sản xuất. Lý thuyết Heckscher - Olin (H-O) Lý thuyết H-O được xây dựng trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng (hay mức độ sử dụng) của các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố. Một mặt hàng được coi là sử dụng nhiều một cách tương đối về lao động nếu tỷ lệ về lượng lao động và các yếu tố khác (vốn, đất đai, công nghệ) sử dụng để sản xuất một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra các mặt hàng khác. Tương tự, nếu tỷ lệ giữa vốn và các yếu tố khác là lớn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao hơn. Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao động (hay về vốn) nếu tỷ giữa lao động (hay về vốn) và các yếu tố sản xuất khác của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của quốc gia khác. Về bản chất, học thuyết H-O căn cứ vào sự khác biệt về tính phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có thương mại để giải thích về nguồn gốc của Thương mại quốc tế. Sự khác biệt về giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất và giá cả tương đối của hàng hoá sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá giữa hai nước là nguyên nhân trực tiếp của Thuơng mại quốc tế. Học thuyết H-O được coi là học thuyết đại diện cho các học thuyết thuộc trường phái tân cổ điển, học thuyết H-O là học thuyết kế thừa và phát triển của các lý thuyết cổ điển. Tiếp theo các lý thuyết cổ điển và tân cổ điển là các lý thuyết mới về Thương mại quốc tế như: lý thuyết về khoảng cách công nghệ, lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm, lý thuyết thương mại nội bộ ngành.... Tóm lại: trên đây là một số lý thuyết cơ bản để cho thấy sự ra đời và phát triển của Thương mại quốc tế. 1.3. Thương mại quốc tế ở Việt Nam. Trước hết chúng ta hãy cùng xem xét xu hướng phát triển của Thương mại quốc tế hiện nay: Những năm gần đây, tốc độ phát triển của kim ngạch xuất nhập khẩu toàn thế giới tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới giai đoạn phồn thịnh những năm 1926-1929 bình quân đạt 65,9 tỷ USD/ năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới năm 1930-1933 bình quân giảm xuống còn 47,4 tỷ USD/năm, 1962 đạt 141,4 tỷ USD, năm 1980 là 2843,2 tỷ USD tăng gần 20 lần so năm 1960. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng Thương mại quốc tế đạt 10%, cao hơn 2 lần so với mức 4,3% năm 1999 và 2,5 lần so với mức 3,8 % năm 1998. Với Việt Nam thì sao chúng ta hãy cùng phân tích. Đối với nước ta hiện nay, chúng ta đang có những nhân tố tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những nhân tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Từ thực tiễn này mới đây nhất ngày 27/11/2001. Bộ chính trị ban hành nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập quốc tế, Nghị quyết này đã kế thừa, cụ thể hoá và triển khai các đường lối của Đảng đề ra từ trước tới nay'1' Nghị quyết của Đại hội VI, VII, VIII, IX của Đảng. , đồng thời đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, "là định hướng cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới"'2' Chương trình hoạt động của chính phủ thực hiện nghị quyết 07-NQ/TW . Sau gần hai mươi năm tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định: Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Cho đến nay Việt Nam đã ký 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến kích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần với các nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với trên 160 nước và nền kinh tế: thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế: là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC và hiện tham gia đàm phán để gia nhập WTO vào năm 2005. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu ngân sách Về kim ngạch xuất nhập khẩu. Bảng 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 1990-2003 Đơn vị: triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu 1990 2404 2752,4 1991 2087,1 2338,1 1992 2580,7 2540,7 1993 2986 3924 1994 4054,3 5825,8 1995 5448,9 8155,4 1996 7255,7 11143,4 1997 9185 11592,3 1998 9361 11495 1999 11523 11636 2000 14748 15640 2001 15100 16000 2002 16706 19733 2003 19800 24900 (Nguồn: tổng cục thống kê) Qua bảng trên cho ta thấy thương mại quốc tế diễn ra ở Việt Nam qua các năm có xu hướng tăng lên, để thấy rõ hơn chúng ta cùng phân tích: năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2404 triệu USD và nhập khẩu 2752,4 triệu USD thì năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đạt 15100 triệu USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17600 triệu USD), tăng mỗi năm trung bình 20% có năm tăng 30% (gấp hơn 7 lần năm 1990). Năm 2003 xuất khẩu đạt 24900 triệu USD. Xuất khẩu bình quân đầu người đạt trên 200 USD, đây là mức xuất khẩu trung bình. Bên cạnh xuất khẩu hàng hoá, xuất khẩu dịch vụ và hợp tác lao động cùng đạt mức tăng trưởng liên tục. Xuất khẩu dịch vụ giai đoạn 2001-2003 đạt khoảng 8,15 triệu USD, tăng bình quân 9,65%/ năm. Từ năm 2001 đến nay có 127 nghìn người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tăng 27% so với thời kỳ 1996-2000. Số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã tăng lên 16200 so với 495 doanh nghiệp năm 1991. Thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Đến nay nước ta đã thu hút được trên 41,538 tỷ USD vốn đầu tư từ 64 quốc gia và vùng lãnh thổ với trên 4370 dự án.... 2. Đặc điểm, vai trò của Thương mại quốc tế 2.1 đặc điểm của Thương mại quốc tế. Buôn bán quốc tế có đặc điểm là tuyến dài, diện rộng, nhiều khâu và nhiều rủi ro. Quá trình lưu thông hàng hoá từ người xuất khẩu đến tay người nhập khẩu nước ngoài cần phải qua: vận tải đường dài, qua nhiều cửa ngõ, qua các công tác có liên quan tới ngân hàng, thương kiểm, hải quan, bảo hiểm.... Hoạt động Thương mại quốc tế diễn ra trên thị trường thế giới, có thể là thị trường toàn thế giới, thị trường toàn khu vực của nước xuất khẩu hay nước nhập khẩu. Các bên tham gia Thương mại quốc tế là những người có quốc tịch ở những quốc gia khác nhau hoặc cũng có thể là người cùng quốc tịch nhưng một bên sẽ là đại diện cho một phía đối tác ở nước ngoài. Những năm gần đây, thương mại quốc tế phát triển đa dạng về hình thức như: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại các yếu tố sản xuất (vốn, sức lao động, khoa học, công nghệ). Sự phát triển của thương mại quốc tế với đặc điểm nổi bật là sự gia tăng thương mại phi hàng hoá nhanh hơn sự gia tăng thương mại hàng hoá. Hàng hóa trao đổi trong Thương mại quốc tế là hàng hoá vật chất, hàng hoá dịch vụ....trao đổi quốc tế về hàng hoá vật chất gọi là thương mại hàng hoá quốc tế, ở phạm vi quốc gia gọi là ngoại thương hàng hoá vật chất. ộ Hàng hoá vật chất là những hàng hoá tồn tại dưới dạng vật chất, định lượng được, dự trữ được trong trao đổi, người mua và người bán mua bán với nhau quyền sở hữu và sử dụng hàng hoá. Do sự cách biệt về địa lý, hàng hoá vật chất có sự di chuyển qua biên giới từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Cùng với các nghiệp vụ mua, bán hàng hoá có cả dịch vụ kèm theo như: Vận chuyển, bảo hành, bảo hiểm, thanh toán quốc tế. ộ Trao đổi quốc tế về hàng hoá dịch vụ gọi là thương mại dịch vụ quốc tế, ở phạm vi một quốc gia gọi là dịch vụ thu ngoại tệ. Hàng hoá dịch vụ là những hàng hoá tồn tại dưới dạng phi vật chất, khó định lượng được, không dự trữ được. Quá trình cung cấp diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ. Trong trao đổi người bán và người mua mua bán với nhau quyền sử dụng hàng hoá dịch vụ. Do có sự cách biệt về địa lý người cung cấp và người nhận dịch vụ, hàng hoá dịch vụ có thể di chuyển hoặc không di chuyển qua biên giới. Luật áp dụng trong thương mại quốc tế là các tập quán quốc tế, các điều ước quốc tế, luật của nước nhập khẩu, nước xuất khẩu ... Tiền tệ trong thương mại quốc tế thường không phải là tiền mặt mà tồn tại dưới hình thức là các phương tiện thanh toán như thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, hối phiếu kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ....và là ngoại tệ đối với ít nhất một bên. Phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế: phương thức thanh toán là cách thức người bán thực hiện để thu tiền và người mua thực hiện để trả tiền.Trong thương mại quốc tế có rất nhiều phương thức thanh toán như: phương thức chuyển tiền, phương thức ghi sổ, phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ... Hàng hoá trong thương mại quốc tế là hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn của quốc gia nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và tiêu chuẩn quốc tế về hàng hoá đó. Hàng hoá trong thương mại quốc tế có sự các biệt về điều kiện địa lý do đó để thực hiện hợp đồng cần phải vận chuyển qua nhiều phương tiện vận chuyển và qua nhiều quốc gia khác nhau, đồng nghĩa với nó là phải thực hiện thủ tục hải quan tại mỗi quốc gia mà nó đi qua. 2.2 Vai trò của Thương mại quốc tế. 2.2.1 Đối với doanh nghiệp. Thương mại quốc tế là một bộ phận của nền kinh tế liên quan đến quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước với nhau, cho nên trước hết nó thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Thông qua Thương mại quốc tế, các doanh nghiệp có thể phát triển hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô và đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh nhằm tạo cho doanh nghiệp đạt được sự tăng trưởng bền vững. Thương mại quốc tế nâng cao vị thế của doanh nghiệp tạo thế và lực cho doanh nghiệp không những ở thị trường trong nước, mà cả thị trường quốc tế thông qua việc mua bán hàng hoá ở thị trường trong và ngoài nước, cũng như việc mở rộng các quan hệ bạn hàng. Ngoài ra Thương mại quốc tế có vai trò điều tiết, hướng xản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2.2 Đối với nền kinh tế quốc dân. Thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với phát triển nền kinh tế của các nước thể hiện: Thương mại quốc tế mở rộng khả năng sản xuất: do sự phân công lao động trên phạm vi quốc tế, do việc chuyên môn hoá nên các nước chỉ tập trung vào sản xuất các mặt hàng có lợi thế hơn so với nước khác, từ đó tận dụng được nguồn nội lực một cách tối đa. Do đó hiệu quả sản xuất được nâng cao. Thương mại quốc tế mở rộng khả năng tiêu dùng, khi chưa có Thương mại quốc tế các nước chỉ tiêu dùng trong đường giới hạn khả năng sản xuất của mình. Khi có Thương mại quốc tế nhờ có nó làm cho công việc trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước giúp cho các nước có thể tiêu dùng bên ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất của mình. Thương mại quốc tế là động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng: trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất muốn phát triển, sản phẩm phải được tiêu thụ. Thương mại quốc tế tạo điều kiện dịch chuyển công nghệ mới, phương pháp tổ chức quản lý kinh doanh mới giữa các quốc gia... làm cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao. Thương mại quốc tế khuyến kích và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư quốc tế. Vì cùng với luồng vốn nước ngoài vào thường kèm theo kỹ thuật công nghệ mới, các chuyên gia điều hành có kinh nghiệm tổ chức và quản lý. Thương mại quốc tế là vũ khí chống độc quyền, bởi vì chúng đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước tăng cường sức mạnh kinh tế để đối phó cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài. Ngoài ra thương mại quốc tế cũng góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. II Hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp. 1 Sự cần thiết của hoạt động nhập khẩu. 1.1 Khái niệm về nhập khẩu. Nói đến Thương mại quốc tế chúng ta không thể không nói đến nhập khẩu, nhập khẩu là hoạt động gắn liền với Thương mại quốc tế. Theo quan điểm hiện nay, nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá được sản xuất ở nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc để tái xuất khẩu nhằm mục đích thu lợi nhuận. Hoạt động nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa quốc gia với nền kinh tế thế giới. Hàng hóa nhập khẩu có thể là hàng hoá hữu hình: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng. Hàng hoá nhập khẩu có thể là hàng hoá vô hình: các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các thiết bị lắp ráp máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác. 1.2 Vai trò của hoạt động nhập khẩu. 1.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân. Như ở trên ta đã nói nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của Thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và xuất khẩu. Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hóa mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Làm được như vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa hoạc kỹ thuật, trong điều kiện nước ta hiện nay, vai trò nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất: Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nước. Điều này rất đúng với Việt Nam và các nước đang phát triển, khi trong nước chưa sản xuất được máy móc thiết bị để phục vụ cho quá trình sản xuất trong nước thì phải nhập khẩu để phục vụ cho quá trình sản xuất công nghiệp và xây dựng. Nhập khẩu dây chuyền thiết bị hiện đại đòi hỏi có một đội ngũ lao động điều khiển máy móc thiết bị đó, do đó đội ngũ lao động kỹ thuật trong nước cũng được nâng cao trình độ kỹ thuật. Thứ hai: Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế. Nhập khẩu cùng với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện nâng cao đời sống nhân dân. Nhập khẩu sẽ mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia, khi một quốc gia nhập khẩu một mặt hàng nào đó mà quốc gia đó không sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng khan hiếm, thì người tiêu dùng quốc gia đó vẫn có khả năng tiêu dùng những sản phẩm đó hoặc quốc gia có sản xuất sản phẩm đó thì người tiêu dùng sẽ có cơ hội lựa chọn những sản phẩm nội và sản phẩm ngoại và tìm ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu của mình, thông qua đó nhập khẩu sẽ giúp một quốc gia ổn định gía cả thị trường, hạn chế tình trạng leo thang giá cả, buộc các doanh nghiệp nội địa phải không ngừng cải tiến công nghệ và thay thế nguồn nguyên vật liệu truyền thống bằng các nguyên vật liệu thay thế có giá rẻ hơn, tạo ra tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Thứ ba: Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Ta biết rằng tài nguyên thiên nhiên ở mỗi nước khác nhau, có những loại tài nguyên có ở nước này nhưng lại không có ở nước khác trong khi đó để sản xuất ra một loại sản phẩm cần rất nhiều nguyên vật liệu khác nhau do đó nhập khẩu sẽ giải quyết được yếu tố đầu vào cho sản xuất. Nhập khẩu giúp quốc gia giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập cho người lao động, chúng ta nhập khẩu là nhập khẩu những loại nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất do đó tạo thêm được công ăn việc làm cho người lao động. Máy móc thiết bị mà chúng ta nhập khẩu là những máy móc thiết bị hiện đại do đó làm tăng năng suất lao động giảm chi phí sản xuất từ đó lợi nhuận tăng lên dẫn đến thu nhập của người lao động tăng lên. Vì vậy, nhập khẩu góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp hạn chế được các tệ nạn xã hội bằng cách tạo ra thu nhập ổn định cho người lao đông, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Thứ tư: Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu và tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu còn tạo ra sự liên kết giữa nền kinh tế trong nước và kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho sự phân công lao động và hợp tác quốc tế, khai thác được lợi thế so sánh trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất quốc tế. Chuyên môn hoá sản xuất quốc tế tạo ra cơ hội cho sự phát triển lực lượng sản xuất, hợp tác quốc tế là điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất, khai thác được lợi thế nhờ qui mô sản xuất. Giá thành sản phẩm cũng được giảm xuống, chất lượng sản phẩm được nâng cao. Hơn nữa các quốc gia lại đạt được những lợi ích không nhỏ trong việc tận dụng lợi thế tương đối của mình. 1.2.2 Đối với doanh nghiệp nhập khẩu. Doanh nghiệp nhập khẩu ở đây được xem xét dưới hai hình thức đó là: Doanh nghiệp thương mại là: doanh nghiệp mua hàng về sau đó bán cho thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu, đối với doanh nghiệp này hàng hoá mua về cũng chính là hàng hoá bán ra, ở doanh nghiệp này hầu như không có hoạt động sản xuất, nếu có chỉ là các hoạt động sản xuất trong khâu lưu thông như: bao gói, phân loại, bảo quản...Phần lợi nhuận mà các doanh nghiệp thương mại có được từ các sản phẩm nhập khẩu chính là phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán nhiều khi phần lợi nhuận này còn lớn hơn nhiều so với lợi nhuận từ hoạt động sản xuất. Doanh nghiệp sản xuất là: doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá dưới dạng nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm để tạo ra sản phẩm mới của doanh nghiệp rồi bán ra thị trường. Trong doanh nghiệp này tối ưu hoá hoạt động sản xuất nhằm thu lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp sản xuất, hay nói cách khác làm thế nào để giảm được chi phí là vấn đề sống còn của tất cả các doanh nghiệp sản xuất. Để giải quyết được vấn đề này chúng ta hãy xem xét đến vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp sản xuất. Thông qua nhập khẩu các doanh nghiệp sản xuất có được: máy móc thiết bị tiên tiến, nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng cao hơn. Từ đó, nâng cao được năng suất lao động và các sản phẩm sản xuất ra sẽ có giá thành thấp hơn, chất lượng cao hơn. Tóm lại: nhập khẩu phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ làm kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế có sự độc quyền của sản phẩm nội địa các cán bộ lãnh đạo của các doanh nghiệp không phải lo lắng cạnh tranh sản phẩm của mình, nhưng khi doanh nghiệp cạnh tranh với sản phẩm ngoại thì đòi hỏi các doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp sản xuất phải cạnh tranh nhiều hơn, buộc họ phải tìm cách hạ thấp giá thành sản phẩm của mình, do đó các cán bộ làm công tác kinh doanh phải thực sự năng động sáng tạo thì mới đảm bảo cho sản phẩm của mình một chỗ đứng vững trên thị trường nội địa. 2 Các loại hình nhập khẩu. 2.1 Nhập khẩu trực tiếp. Khái niệm: nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu của một doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp phải: trực tiếp nghiên cứu thị trường, ký kết và thực hiện hợp đồng. Tự tính toán chi phí, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, đảm bảo nhập khẩu đúng mặt hàng đăng ký. Đồng thời hoạt động nhập khẩu này phải phù hợp với luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Đặc điểm của hình thức nhập khẩu trực tiếp là: Khi sử dụng hình thức này, đòi hỏi các doanh nghiệp nhập khẩu phải nghiên cứu kỹ thị trường trong nước và quốc tế, tính toán chính xác, tuân thủ đúng chính sách, pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp làm các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng....Và phải bỏ vốn để kinh doanh nhập khẩu. Vì vậy các cán bộ kinh doanh nhập khẩu trực tiếp phải là người có kinh nghiệm, có kiến thức, không ngừng học hỏi. Trong hoạt động nhập khẩu trực tiếp người mua và người bán trực tiếp tiếp xúc với nhau do đó dễ dàng dẫn đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu nhầm đáng tiếc, giảm được chi phí trung gian (nhiều khi chi phí này rất lớn dẫn đến người kinh doanh phải chia sẻ lợi nhuận), có điều kiện xâm nhập thị trường. Độ rủi ro của hình thức nhập khẩu trực tiếp cao hơn các hình thức nhập khẩu khác. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, trước khi ký hợp đồng nhập khẩu trực tiếp hàng hoá từ nước ngoài về thông thường chúng ta phải ký hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước trước (đối với doanh nghiệp thương mại), hoặc tính toán kỹ nhu cầu cho sản xuất sản phẩm (đối với doanh nghiệp sản xuất). 2.2 Nhập khẩu uỷ thác. Khái niệm: nhập khẩu uỷ thác là hoạt động giữa một đơn vị đặt hàng gọi là bên uỷ thác giao cho đơn vị gọi là bên nhận uỷ thác, tiến hành nhập khẩu một số lô hàng nhất định. Bên nhận uỷ thác phải ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu với danh nghĩa của mình nhưng bằng chi phí của bên uỷ thác. Đặc điểm của hình thức nhập khẩu uỷ thác là: Đối với hình thức này, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhận uỷ thác sẽ không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không cần quan tâm đến thị trường tiêu thụ cho hàng hoá mà chỉ cần đại diện cho bên uỷ thác tiến hành giao dịch, đàm phán, ký kết hơp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường đối với đối tác nước ngoài khi có tổn thất về hàng hoá. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì đại diện các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, không phải chịu thuế doanh thu. Khi nhập uỷ thác thì các doanh nghiệp này phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng mua hàng hoá với nước ngoài, một hợp đồng uỷ thác với nhà uỷ thác. 2.3 Nhập khẩu đối lưu. Khái niệm: nhập khẩu đối lưu trong Thương mại quốc tế là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Đặc điểm của hình thức nhập khẩu đối lưu là: Hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu trong hình thức này không phải là thu về khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá, dịch vụ khác có giá trị tương đương. Trong quá trình buôn bán, ký hợp đồng, thanh quyết toán vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá chung. Người nhập khẩu cũng đóng vai trò người xuất khẩu. 2.4 Tạm nhập tái xuất. Khái niệm: tạm nhập tái xuất là xuất khẩu hàng đã nhập khẩu về trong nước bán cho nước khác, không qu._.a chế biến, cũng có thể là hàng nhận từ nước ngoài giao lại cho người mua ở nước khác, không phải đưa qua chế biến. Đặc điểm hình thức tạm nhập tái xuất là: Giao dịch này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất. Thanh toán trong hình thức này thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng. Kinh doanh tái xuất đòi hỏi sự nhạy bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán. 2.5 Nhập khẩu liên doanh. Khái niệm: nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó ít nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, hướng hoạt động này sao cho có lợi cho tất cả các bên, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ. Đặc điểm hình thức nhập khẩu liên doanh là: Mỗi doanh nghiệp tham gia liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm mà mỗi bên phải gánh chịu tỷ lệ với số vốn góp. Việc phân chia chi phí, nộp thuế hay chia lợi nhuận cũng theo tỷ lệ góp vốn đã thoả thuận. Trong liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu nhưng khi hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp trong liên doanh phải ký hai hợp đồng: hợp đồng với đối tác nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác. 3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu. 3.1 Nhân tố chủ quan Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp như: Trình độ quản lý: mọi hoạt động kinh doanh đều là sự kết hợp chặt chẽ của con người và công việc. Nhưng con người ở đây không thể hoạt động một cách độc lập, mà họ phải hoạt động phối hợp với nhau mới có thể thực hiện được mục tiêu chung. Qua đây cho ta thấy trình độ quản lý có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, nếu trình độ quản lý cao, công tác quản lý tốt thì sự phối hợp của các đối tượng quản lý sẽ nhịp nhàng, từ đó tiết kiệm được thời gian, tiền bạc và ngược lại nếu trình độ quản lý kém thì sẽ không phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo của người lao động, do đó sẽ giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh và gián tiếp làm ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu. Đội ngũ lao động: đội ngũ lao động có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động nhập khẩu, nếu nhiều lao động quá thì thời gian không làm việc của người lao động nhiều. Hay nói cách khác, số lượng lao động dư thừa so với khối lượng công việc thì tất nhiên hiệu quả của hoạt động là không cao, còn nếu lượng lao động thiếu so với khối lượng công việc thì làm cho công việc bị trì trệ, không trôi chảy do đó làm giảm hiệu quả của công việc. Vì vậy cần phải xác định một lượng lao động vừa đủ. Khả năng tài chính: đối với hoạt động nhập khẩu, tình hình tài chính ảnh hưởng tới: khối lượng nhập khẩu, giá trị hàng nhập khẩu và ảnh hưởng tới uy tín của công ty trên thị trường nhập khẩu. Uy tín và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: Uy tín của doanh nghiệp: nhờ có uy tín mà nhiều doanh nghiệp đã có những cơ hội kinh doanh với các hãng nước ngoài bằng cách chiếm dụng vốn. Khả năng cạnh tranh: nếu hàng hoá mà có khả năng cạnh tranh trên thị trường do đó nó sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu còn ngược lại nếu hàng hoá mà không có khả năng cạnh tranh trên thị trường thì nó sẽ không khuyến kích hoạt động nhập khẩu hàng hoá đó. Phương thức nhập khẩu của doanh nghiệp: tuỳ vào phương thức nhập khẩu của doanh nghiệp mà nó cũng ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu. Nếu là nhập khẩu trực tiếp thì khối lượng lớn, nếu là nhập khẩu qua trung gian thường là những hàng hoá có khối lượng ít. Hệ thống cơ sở vật chất của doanh nghiệp: có tác động không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu của chính doanh nghiệp. Khi mà doanh nghiệp có đầy đủ cơ sở hạ tầng tốt để phục vụ cho quá trình kinh doanh của mình thì vấn đề dự trữ và bảo quản hàng hoá nhập về không còn là điều đáng lo ngại. Qua đó tác động đến vấn đề nguồn đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Giúp doanh nghiệp không còn phải lo nghĩ đến việc hàng nhập về sẽ bị hư hỏng hoặc phải lo đi thuê nơi cất giữ và bảo quản hàng hoá. Việc nhập khẩu qua đó diễn ra một cách thông suốt tránh mang lại cho doanh nghiệp những chi phí không cần thiết. 3.2 Nhân tố khách quan. Quan hệ cung cầu: Trước hết cần phải biết rõ tình hình cung toàn bộ, tính ra được số lượng cung, tức là cần xác định: khối lượng toàn bộ hàng hoá bán ra hiện nay trên thị trường để có kế hoạch nhập khẩu hợp lý. Từ những thông tin về những hàng hoá đang bán, cần xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Người tiêu dùng hiện nay là ai, lý do mua hàng của khách hàng là gì? từ đó doanh nghiệp có kế hoạch nhập khẩu. Thị trường đầu vào: một nhân tố nữa ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp là thị trường đầu vào. Bởi vì thị trường đầu vào quyết định đến khối lượng mua của doanh nghiệp, nếu thị trường đầu vào mà sẵn có thì hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn và ngược lại sẽ khó khăn hơn thậm chí còn không thể thực hiện được hoạt động nhập khẩu. Các nhân tố kinh tế đó là: tốc độ phát triển kinh tế và lạm phát. Nền kinh tế đang ở giai đoạn hưng thịnh, phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng cao (thể hiện GDP) sẽ tạo điều kiện cho gia tăng khối lượng và chất lượng hàng nhập khẩu. Còn lạm phát, nó ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả hàng hoá trong nước, do đó nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái là: giá cả một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia. Hay tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa loại tiền tệ của hai nước với nhau. Tỷ giá hối đoái tăng tức là số lượng tiền nội địa đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng sẽ có tác dụng kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Yếu tố chính trị: chẳng có doanh nghiệp nào dại gì mà lại đi nhập khẩu hàng hoá của một quốc gia có yếu tố chính trị không ổn định vì như vậy rủi ro đối với hàng hoá của họ là rất cao hoặc yếu tố chính trị còn được thể hiện ở trên khía cạnh là quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu. Khi mà hai nước có quan hệ chính trị tốt đẹp sẽ thúc đẩy hoạt động mua bán, do đó sẽ thúc đẩy xuất nhập khẩu. Yếu tố tự nhiên, công nghệ: với một quốc gia chưa phát triển thì họ mong muốn nhập khẩu được máy móc công nghệ hiện đại, còn với một quốc gia phát triển họ sẽ nhập khẩu nguyên liệu ở dạng thô về để sản xuất, một phần dùng để tiêu dùng trong nước, phần còn lại xuất lại cho nước xuất khẩu. Môi trường văn hoá và phong tục tập quán: trên thế giới có rất nhiều nền văn hoá khác nhau, một số quốc gia sẽ nhập khẩu hàng hoá để bổ sung hay thay thế cho việc tiêu dùng trong nước. Mặc dù nhu cầu của người tiêu dùng ở mỗi quốc gia là rất đa dạng và phong phú, nhu cầu đó phải phù hợp với văn hoá và phong tục tập quán của dân tộc đó hay nói cách khác thị hiếu, hành vi của người tiêu dùng thường được gắn liền với thuần phong mĩ tục. Chính vì vậy, môi trường văn hoá, phong tục tập quán là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cơ chế quản lý đối với hoạt động nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp không những chịu sự điều chỉnh của luật quốc tế và của các quốc gia khác có liên quan, mà nó còn phải tuân thủ một cách vô điều kiện và nó thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền ở mỗi nước. III Nội dung của hoạt động nhập khẩu. 1 Nghiên cứu thị trường. ớ ý nghĩa của việc nghiên cứu thị trường: vấn đề nghiên cứu thị trường là việc làm đầu tiên rất cần thiết đối với bất cứ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường trong nhập khẩu là qúa trình điều tra để tìm hiểu triển vọng mua hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, nó là qúa trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó rút ra kết luận. Để đi đúng hướng, công tác nghiên cứu thị trường cần trả lời những câu hỏi sau: Nước nào là thị trường có triển vọng nhất? Khả năng về số lượng bán ra? Nên chọn thị trường nào cho phù hợp? 1.1 Nội dung nghiên cứu thị trường. ớ Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Trước hết cần xác định toàn bộ hàng hoá bán ra hiện nay trên thị trường đối với một sản phẩm tương tự, tách biệt được những phần nhập ngoại và phần sản xuất trong nước của nước mà doanh nghiệp định hoặc đang nhập khẩu: Gía trung bình của sản phẩm tương tự; Sản phẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường; Tình hình cạnh tranh trên thị trường; Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường như: luật pháp, văn hoá.... ớ Nghiên cứu cầu và sự biến động của thị trường. Phân tích cầu thị trường đối với nhà nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là một trong các yếu tố quyết định tới giá nhập khẩu, giá đầu vào của kinh doanh nhập khẩu. Phân tích cầu đòi hỏi: Tìm hiểu xem người tiêu dùng hiện nay là ai. Họ được phân nhóm như thế nào, nhóm xã hội; nghề nghiệp.... Nhịp điệu mua hàng, nghĩa là mức sôi động của thị trường, xem xét thị trường mà doanh nghiệp hướng tới có nhiều người mua không?, họ đến từ những quốc gia nào?, nếu thị trường sôi động thì doanh nghiệp phải chấp nhận mức giá nhập khẩu cao hơn. Sản phẩm định kinh doanh hoặc đang kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm. Lý do mua của những người “cùng cảnh ngộ” với mình là gì?, mua để kinh doanh hay để tiêu dùng. Trong những người mua đó, có những ai là mua với mục đích kinh doanh? ớ Nghiên cứu về giá cả hàng hóa trên thị trường và sự biến động của giá cả. Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là một vấn đề rất quan trọng, đối với bất cứ một đơn vị kinh doanh nhập khẩu nào, đặc biệt là các đơn vị mới bắt đầu kinh doanh, chưa đủ mạng lưới nghiên cứu cung cấp thông tin, cũng như thiếu cán bộ am hiểu công tác này. Gía cả hàng hoá trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới. Và có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một số loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Trong thực tiễn kinh doanh Thương mại quốc tế có thể coi những giá sau đây là giá quốc tế. Đối với hàng hoá không có trung tâm giao dịch truyền thống trên thế giới, thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc những nước nhập khẩu chủ yếu biểu thị bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Đối với hàng hóa thuộc đối tượng buôn bán ở các sở giao dịch hoặc ở các trung tâm bán đấu giá thì có thể tham khảo giá ở các trung tâm giao dịch đó. Đối với máy móc thiết bị rất đa dạng, việc xác định giá cả quốc tế tương đối khó khăn. Vì vậy trong thực tế chủ yếu căn cứ vào giá cả của các hãng sản xuất và mức cung trên thị trường. Giá cả trên thị trường thế giới biến động rất phức tạp. Có lúc tăng, giảm, cá biệt có trường hợp ổn định, nhưng nói chung xu hướng đó có tính chất tạm thời. Sở dĩ có điều đó là do : Nhân tố chu kỳ: tức là sự vận động có tính chất quy luật. Sự vận động có tính chất quy luật của các nước thường làm thay đổi quan hệ cung-cầu, do đó làm biến đổi dung lượng thị trường và tác động đến giá cả. Nhân tố lũng đoạn và giá cả: đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành và biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo các xu hướng khác nhau, nó phụ thuộc vào đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán. 1.2 Phương pháp nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu tại bàn. Về cơ bản nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, xuất bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những doanh nghiệp mới bước vào kinh doanh. Tuy nhiên nó gặp phải một số hạn chế như chậm, mức độ tin cậy có hạn nếu như không muốn nói là thấp. Kết quả có được từ phương pháp này cần được bổ sung bằng nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Đây là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường và thường được dùng bổ sung cho phương pháp nghiên cứu tại bàn, vì chỉ thông qua nghiên cứu tại hiện trường mới có được thông tin mới nhất từ đó có sự điều chỉnh thường xuyên. Phương pháp này thường được thực hiện chủ yếu qua trực quan và qua tiếp xúc với thương nhân và người tiêu dùng. Đây là việc làm phức tạp và tốn kém về chi phí hơn nhiều so với phương pháp trước và không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. Do mức độ khó khăn, phức tạp như vậy, phương pháp này đòi hỏi phải xây dựng một kế hoạch chi tiết để thực hiện. Phương pháp thử. Phương pháp thử là: phương pháp áp dụng cho việc mua thử một loại sản phẩm nào đó sau đó tiến hành bán cho khách hàng dùng thử để đánh giá chính xác về chất lượng hàng hoá đã nhập khẩu hoặc qua chế biến, chế tạo trên cơ sở đó lập ra kế hoạch kinh doanh cho đơn vị mình. 2 Lựa chọn đối tác giao dịch. Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh lựa chọn thị trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng điều kiện như nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị kinh doanh trong giai đoạn chuẩn bị là lựa chọn khách hàng. Bước 1: Tiến hành điều tra khách hàng. Để lựa chọn khách hàng, không nên căn cứ vào lời quảng cáo, tự giới thiệu, mà cần tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính, lĩnh vực kinh doanh và uy tín của họ trong kinh doanh. Vậy để tiến hành điều tra khách hàng người ta thường áp dụng hai phương pháp chủ yếu sau: điều tra qua tài liệu báo chí và điều tra tại chỗ. Bước 2: Căn cứ vào các chỉ tiêu để lựa chọn đối tác giao dịch như: Tình hình sản xuất kinh doanh của đối tác, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của đối tác; Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật; Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng giành lấy độc quyền về hàng hoá; Uy tín của bạn hàng. Tóm lại: trong lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn đối tác trực tiếp tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn làm ăn với đối tác mới mà chưa có kinh nghiệm. 3 Lập phương án kinh doanh. Trên cơ sở những kết quả thu được trong qúa trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án kinh doanh này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Vậy việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau: ớ Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân: trong bước này, người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi khó khăn trong kinh doanh. ớ Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan. Đề ra mục tiêu: những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh luôn luôn là mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng, với giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào thị trường nào.... Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này là công cụ để đạt tới mục tiêu đề ra. Những biện pháp này có thể bao gồm biện pháp trong nước và cả biện pháp nước ngoài. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của một hoạt động kinh doanh được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau. Tóm lại: về đại thể, nội dung phương án kinh doanh thường bao gồm những điểm sau: nhận định tình hình hàng hoá, thị trường và khách hàng; nhận định tình hình, dự đoán xu hướng thị trường và thương nhân, mục tiêu; biện pháp, hành động cụ thể; sơ bộ đánh giá hiệu quả. 4 Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu. 4.1 Các phương thức giao dịch mua bán. Trong Thương mại quốc tế, đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm và kỹ thuật tiến hành riêng. Căn cứ vào mặt dự định nhập khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch, mà doanh nghiệp chọn phương thức giao dịch phù hợp. Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản nhất. Giao dịch trực tiếp: là phương thức giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc trực tiếp (hoặc thông qua thư từ, điện tín...) Giao dịch gián tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán giao dịch với nhau thông qua trung gian. Những trung gian này có thể là môi giới hoặc đại lý. Môi giới là những trung gian mua bán nhưng không sở hữu hàng hoá, không bỏ vốn, không chịu trách nhiệm vật chất nếu người mua hoặc người bán vi phạm thoả thuận. Còn đại lý là những pháp nhân hoặc tự nhiên nhân được người uỷ thác giao cho thực hiện một hay một số công việc, thay mặt cho người uỷ thác. Buôn bán đối lưu: là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Mục đích của xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ không phải là thu về khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá, dịch vụ khác có giá trị tương đương. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, và phẩm chất có thể thay thế được cho nhau. Đấu thầu quốc tế: là một phương thức mua hàng hoá mang tính chất đặc biệt, trong đó người gọi thầu nêu trước điều kiện mua hàng để người dự thầu báo giá, những điều kiện về kỹ thuật, công nghệ của hàng hoá bán cùng một số điều kiện khác. Người gọi thầu sẽ chọn mua của người nào có hàng hoá đáp ứng nhu cầu và giá cả hợp lý. Đấu giá quốc tế: là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức định kỳ hoặc không định kỳ ở những địa điểm nhất định, tại đó người bán trưng bày hàng hoá, người mua tự do xem xét, tự do trả giá. Người bán sẽ bán cho người trả giá cao nhất. Và do đó, đây là phương thức khai thác cạnh tranh của người mua. Hay nói cách khác, với mục đích giá cao, thị trường đấu giá là của người bán. Giao dịch tại hội chợ triển lãm: Hội chợ là một thị trường hoạt động định kỳ hoặc không định kỳ được tổ chức tại một địa điểm nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá, khách hàng xem xét và nếu thoả thuận được thì ký hợp đồng mua. Triển lãm là nơi giới thiệu những thành tựu của nền kinh tế quốc dân hoặc một ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật. 4.2 Đàm phán trong kinh doanh. Khái niệm: đàm phán trong kinh doanh Thương mại quốc tế là bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau nhất trí hay thoả hiệp giải quyết những vấn đề về kinh doanh có liên quan. Sự cần thiết của đàm phán trong kinh doanh: trong cuộc sống của chúng ta giải quyết các công việc thường liên quan đến nhiều người. Con người khi sinh ra đến trưởng thành rồi già lão, giai đoạn nào cũng phải đem sức lực, trí tuệ vào các cuộc đàm phán. Bất cứ công việc gì liên quan đến người thứ hai đều phải tiến hành đàm phán. Trên thương trường các doanh nhân vừa hợp tác với nhau vừa cạnh tranh với nhau, sự xung đột lớn nhất giữa những người kinh doanh là xung đột về lợi ích vật chất. Điều hoà các lợi ích của chủ thể hoạt động trên thương trường vừa là yêu cầu khách quan để tồn tại vừa là cơ sở hợp tác liên minh. Đàm phán là con đường tốt nhất để điều hoà mâu thuẫn lợi ích vật chất và giải quyết mâu thuẫn giữa các bên. Các hình thức đàm phán: Đàm phán có thể được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau như qua thư tín, điện thoại, gặp gỡ trực tiếp.... Mỗi loại hình đều có đặc trưng, ưu nhược điểm riêng, tuỳ theo từng hợp đồng mà các doanh nghiệp sử dụng các hình thức đàm phán cho phù hợp. 4.3 Ký kết hợp đồng. Sau khi hai bên đàm phán đã đạt được sự nhất trí chung họ tiến hành đi đến ký kết hợp đồng. Hợp đồng nhập khẩu là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là Bên nhập khẩu một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; Bên Mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng. Về hình thức của hợp đồng nhập khẩu, theo thông lệ quốc tế hợp đồng có thể được thể thiện bằng văn bản, lời nói hoặc sự mặc nhiên, còn theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp đồng phải được thoả thuận bằng văn bản. Vậy tại sao Việt Nam chúng ta lại phải quy định hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản vì: trong kinh doanh Thương mại quốc tế giữa các nước với nhau, sự khác nhau về chính trị, văn hoá, luật pháp, tôn giáo, tập quán. Điều này làm cho hai bên rất dễ hiểu nhầm về nhau. Không chỉ vậy, hiểu nhầm về ngôn ngữ thống nhất đã dùng trong văn bản hợp đồng. Mặt khác, dù đã bàn bạc, thoả thuận với nhau nhưng nếu không có hợp đồng thì nhiều khi vẫn bị các bên huỷ bỏ cam kết hoặc tuỳ tiện suy nghĩ theo cách có lợi cho bản thân mình. Việc ký kết hợp đồng là việc cam kết giàng buộc trách nhiệm mang tính chất pháp lý giữa đôi bên và nó là cơ sở duy nhất để giải quyết tranh chấp sau này nếu có. Về nội dung của hợp đồng có rất nhiều điều khoản. Tuỳ theo mặt hàng mua bán giữa đôi bên. Song có 6 điều khoản được xem là bắt buộc với hợp đồng Thương mại quốc tế là: điều khoản tên hàng; điều khoản số lượng; điều khoản quy cách, chất lượng; điều khoản giá cả; điều khoản địa điểm và thời gian, phương thức giao nhận; điều khoản về thanh toán. 5 Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Quy trình thực hiện hợp đồng sau khi được ký kết có thể được tóm tắt qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Qui trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu Xin giấy phép (nếu cần) Mở L/C Đôn đốc giao hàng Làm thủ tục hải quan Mua bảo hiểm (nếu có) Thuê tàu (nếu có) Tiếp nhận và kiểm tra Thủ tục thanh toán Xử lý tranh chấp (nếu có) Vậy qui trình nhập khẩu có thể được diễn giải như sau: Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu (nếu có) Đây là tiền đề quan trọng nhất để thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nó sẽ tạo điều kiện tốt hơn về mặt pháp lý cho việc tiến hành các khâu tiếp theo. Theo Quyết định số 46/QĐ-CP ngày 4/4/2001 (cụ thể hóa của Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 31/7/1998), về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá của thời kỳ 2001-2005. Theo quyết định này hàng hoá được chia thành 3 nhóm: hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu: hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của bộ Thương Mại: hàng hoá được phép xuất nhập khẩu ngoài (hạn ngạch). Về phân công cấp phép: đối với hàng hoá cấm nhập, cấm xuất, nếu cần nhập hoặc xuất thì phải xin phép Chính phủ và Chính phủ là người trực tiếp cấp phép (Thủ tướng): đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện, do Bộ thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành xem xét, nhưng cuối cùng Bộ thương mại vẫn là người quyết định cho phép hay không cho phép: đối với hàng hoá xuất nhập khẩu mang tính nhạy cảm, trước khi cấp phép, Bộ thương mại phải xin ý kiến Chính phủ. Về thủ tục xin cấp phép: trước tiên doanh nghiệp phải làm theo một mẫu in sẵn đính kèm với bản sao hợp đồng nhập khẩu và bản sao thư tín dụng (nếu có): một phiếu hạn ngạch (nếu mặt hàng nhập khẩu bị quản lý bằng hạn ngạch) hoặc bản trích sao kế hoạch nhập khẩu đã được đăng ký và gửi lên cơ quan quản lý cấp phép. Về thời gian cấp phép: đối với hàng hoá cấm xuất nhập khẩu thì không quy định thời gian, còn đối với hàng xuất nhập khẩu có điều kiện thì nhân viên thụ lý hồ sơ phải trả lời sau 3 ngày đối với những hồ sơ cần sửa đổi bổ sung và những hồ sơ không cấp phép. Nếu hồ sơ là hợp lệ thì phải cấp phép trong vòng 7 ngày. Bước 2: mở thư tín dụng (L/C). Nếu hợp đồng nhập khẩu qui định thanh toán bằng L/C thì sau khi người bán thông báo đã sẵn sàng thì bên nhập khẩu phải mở L/C. Về mặt thời gian, nếu hợp đồng không qui định gì thì phụ thuộc vào thời gian giao hàng thông thường L/C được mở vào khoảng 15-20 ngày trước thời hạn giao hàng. Trình tự mở L/C: chuẩn bị hồ sơ gồm: đơn xin mở L/C, bản sao hợp đồng nhập khẩu ... đến Ngân hàng xin mở L/C. Bước 3: đôn đốc giao hàng. Người nhập khẩu phải đôn đốc hướng dẫn người xuất khẩu làm nhiệm vụ giao hàng kịp thời. Bước 4: thuê tàu lưu cước. Việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào các căn cứ sau: những điều khoản của hợp đồng mua bán, đặc điểm hàng hoá mua bán và điều kiện vận tải. Và người nhập khẩu tiến hành thuê tàu trong trường hợp nhập khẩu theo điều kiện nhóm E, F trong incoterms 2000. Tuỳ theo đặc điểm khối lượng của hàng hoá nhập khẩu mà người ta có thể thuê các loại tàu: Tàu chợ: tàu chợ là tàu chạy thường xuyên trên một tuyến đường nhất định, ghé qua những cảng nhất định theo một lịch trình định trước. Tàu chuyến: tàu chuyến là tàu kinh doanh chuyên chở hàng hoá trên biển không theo một lịch trình định trước. Nó thường hoạt động chuyên chở hàng hoá trong một khu vực địa lý nhất định và theo một yêu cầu của người thuê tàu. Thuê tàu chuyến là người chủ tàu cho người chủ hàng thuê toàn bộ chiếc tàu để chuyên chở một khối lượng hàng hoá nhất định, giữa hai hay nhiều cảng và được hưởng tiền cước thuê tàu do hai bên thoả thuận. Thuê tàu định hạn: là hình thức thuê tàu mà chủ tàu cho người đi thuê thuê cả con tàu chở hàng hoá và khai thác con tàu để lấy cước trong thời gian nhất định. Với mỗi hình thức thuê tàu khác nhau chúng có quy trình thuê tàu riêng nhưng nhìn chung chúng đều bao gồm các bước sau: bước 1: chủ tàu có thể tự mình đứng ra thuê hoặc qua môi giới. bước 2: người môi giới chào tàu hoặc thông báo lịch tàu chạy. bước 3: người môi giới đàm phán với hãng tàu. bước 4: người môi giới thông báo kết quả đàm phán với chủ hàng. bước 5: chủ hàng tiến hành đưa hàng lên tàu. bước 6: chủ hàng nhận được giấy chứng nhận của chủ tàu. Bước 5: mua bảo hiểm. Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường có nguy cơ rủi ro, tổn thất cao. Bởi vậy trong thương mại quốc tế bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh mua bảo hiểm phải làm hợp đồng với công ty bảo hiểm. Tuỳ theo hợp đồng nhập khẩu mà người nhập khẩu có thể mua bảo hiểm năm, tháng, chuyến...Người nhập khẩu phải mua bảo hiểm cho hàng hoá khi họ nhập khẩu theo điều kiện nhóm E, F, C (trừ CIF, CIP) và trước khi mua bảo hiểm người nhập khẩu cần nghiên cứu kỹ 3 điều kiện bảo hiểm A, B, C. Xem xét đặc điểm tính chất của hàng hoá nhập khẩu, loại tàu vận chuyển và luồng tàu để dự đoán các rủi ro có thể xảy ra. Bước 6: làm thủ tục hải quan. Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia, để xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan gồm các bước chủ yếu sau: Khai báo hải quan: chủ hàng phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Xuất trình hàng hoá: hàng hoá phải xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra. Hải quan đối chiếu hàng hoá trong tờ khai với thực tế để quyết định có cho hàng hoá qua biên giới hay không. Thực hiện các qui định của hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu: sau khi kiểm tra giấy tờ, hàng hoá, hải quan quyết định có cho hàng hoá qua biên giới hay không, hoặc qua với điều kiên chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định của hải quan. Nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Sau khi viêc thông quan được thông suốt, cơ quan hải quan sẽ thông báo nộp thuế nhập khẩu. Doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế đúng số lượng và thời gian qui định. Bước 7: tiếp nhận và kiểm tra hàng hoá. Nhận hàng: có thể thực hiện trực tiếp hoặc uỷ thác đối với nhập khẩu hàng hoá bằng đường sắt. Còn nhận hàng với hãng tàu thì theo Nghị định 200/CP ngày 31/12/1993, mọi việc giao nhận hàng hoá đều phải uỷ thác qua cảng. Các cơ quan vận tải, ga cảng phải có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu từ các phương tiện vận tải vào ra cảng, xếp dỡ, bảo quản, lưu kho, lưu bãi và giao hàng cho đơn vị kinh doanh nhập khẩu hoặc giao cho đơn vị đặt hàng theo lệnh của đơn vị kinh doanh nhập khẩu đã nhập hàng đó. Đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải ga cảng về giao nhận hàng cuối cùng là thanh toán chi phí. Kiểm tra chất lượng hàng hoá: khi nhận hàng phải kiểm tra số lượng, chất lượng hàng hoá thực giao, so sánh nó với số lượng và chất lượng trong các chứng từ hàng hoá. Nếu thấy sai phạm thì phải báo ngay cho người xuất khẩu biết. Bước 8: thủ tục thanh toán: tuỳ theo điều khoản thanh toán trong hợp đồng mà người ta tiến hành thanh toán. Trong trường hợp các bên thoả thuận với nhau sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, bên nhập khẩu cần kiểm tra kỹ lưỡng bộ chứng từ nhận hàng do bên xuất khẩu chuyển cho qua ngân hàng để tránh trường hợp đã chấp nhận thanh toán trong khi không nhận được hàng do sai sót của bộ chứng từ. Bước 9: khiếu nại (nếu có). Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nai. 6 Đánh giá hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Đánh giá hiệu quả của hoạt động nhập khẩu là khâu cuối cùng trong nội dung của hoạt động nhập khẩu và nó có vai trò đặc biệt quan trọng, qua đó cho ta thấy được những khuyết điểm, sai lầm, ưu nhược điểm và nguyên nhân của nó. Đánh giá giúp cho nhà nhập khẩu có hoạt động nhập khẩu sau tốt hơn hoạt động nhập khẩu trước. Sau đây là một số chỉ tiêu quan trọng: Doanh thu nhập khẩu là: toàn bộ giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người mua đã thanh toán và chấp nhận thanh toán. Chi phí lưu thông hàng hoá nhập khẩu là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu như chi phí mua hàng, vận chuyển, bảo quản, phân loại, đóng gói hàng hoá ... Lợi nhuận nhập khẩu là: một khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán sau khi trừ đi các chi phí có liên quan. Chỉ tiêu so sánh doanh thu bán hàng nhập khẩu ở trong nước với chi phí nhập khẩu tính ra đồng nội tệ tính theo tỉ giá hiện hành. Trên cơ sở đ._.cũng như các quy tắc trong thương mại quốc tế. Hiện tại công ty chưa có một phòng riêng chuyên nghiên cứu về thị trường mà công việc này vẫn do phòng kinh doanh phụ trách, do vậy công ty nên thành lập một phòng marketing riêng. Cơ cấu tổ chức của phòng tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động của công ty. Công việc nghiên cứu thị trường này có thể tiến hành như sau: Đối với thị trường nước ngoài: đây cũng chính là thị trường đầu vào của công ty, việc nghiên cứu thị trường này của công ty gặp rất nhiều khó khăn do phải nghiên cứu tại thị trường nước ngoài. Hơn nữa đây là thị trường rất rộng lớn, ngôn ngữ, tập quán kinh doanh khác nhau do đó khi tham gia đàm phán phải để ý đến các vấn đề sau: Nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường nhập khẩu nhằm xác định rõ thị trường nào có triển vọng trong kinh doanh. Qua đó trả lời các câu hỏi như: thị trường đó có thể cung ứng được số lượng hàng hoá là bao nhiêu, số lượng hàng hoá thường xuyên có trên thị trường, giá cả có ổn định hay không, điều kiện thanh toán có thuận lợi không....Từ đó công ty có thể thiết lập hệ thống văn phòng đại diện ở các thị trường quan trọng để thu thập các thông tin về những biến động trên thị trường đó. Đối với thị trường trong nước: đây là thị trường tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu chính của công ty. Do đó công việc nghiên cứu này được tiến hành một cách dễ dàng hơn bằng các nghiệp vụ như: phỏng vấn, dùng các bảng câu hỏi hay việc thu thập qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách báo, ti vi... Công việc nghiên cứu thị trường này phải đạt được các mục tiêu sau: Nắm được nhu cầu tiêu dùng trong nước để xác định lượng tiêu thụ tối ưu mà người tiêu dùng chấp nhận tại mức giá công ty đưa ra. Tìm hiểu kỹ các đối thủ cạnh tranh, khả năng cung cấp, khả năng sản xuất trong nước về mặt hàng mà công ty sẽ nhập khẩu. Tìm hiểu kỹ các chính sách của Nhà nước về mặt hàng mà công ty nhập khẩu. Xác định thời điểm tốt nhất để nhập khẩu hàng hoá vào thị trường trong nước. Vì theo đánh giá lượng hàng nhập khẩu của công ty thường bị chững lại trong quí II do vậy công ty không nên nhập khẩu hoặc dữ trữ quá nhiều hàng để bán trong quí II. Tóm lại: để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường công ty phải không ngừng hoàn thiện các chính sách Marketing, tuyển chọn kỹ các nhân viên Marketing giỏi về chuyên môn và có kinh nghiệm tiếp thị, sáng tạo để phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty. Ngoài ra việc nghiên cứu thị trường đầy đủ sẽ giúp cho công ty thẩm định lại kế hoạch nhập khẩu. Vì giá cả mặt hàng nhập khẩu là một trong các yếu tố xác định lượng hàng nhập khẩu của công ty, là cơ sở tính toán lợi nhuận của từng thương vụ. 4 Mở rộng thị trường nhập khẩu. Để hoạt động kinh doanh nhập khẩu diễn ra trong điều kiện thuận lợi ngoài việc nghiên cứu kỹ thị trường trong nước thì công ty cần phải có nhiều nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Do đó, vấn đề mở rộng quan hệ với các bạn hàng hay nói cách khác là mở rộng thị trường nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng đối với công ty. Ngoài các thị trường truyền thống như : Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Công ty cần phải xúc tiến hơn nữa trong việc mở rộng thị trường sang các nước có nền công nghiệp phát triển và các nước trong khu vực. Để tiến hành được hoạt động mở rộng thị trường thì cần phản làm các bước công việc sau: bước 1: thông tin về đối tác và thị trường. Thông tin có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Có thể nói nhờ có thông tin mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh được. Do vậy trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu thông tin vô cùng quan trọng. Để có được thông tin ta tiến hành bằng cách: Điều tra nghiên cứu thị trường. Để tiếp cận và hoà nhập với thị trường quốc tế thì công tác thông tin về thị trường, về đối tác phải thực hiện hoàn chỉnh thì mới đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thuận lợi, tận dụng được cơ hội tránh rủi ro. Do mỗi nước có đặc điểm riêng nên phải thu thập những thông tin cần thiết về thị trường. Công tác điều tra nghiên cứu thị trường nhập khẩu cần bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Điều tra nghiên cứu cầu về hàng hoá nhập khẩu của thị trường đó; Điều tra quan hệ cung cầu của thị trường; Điều tra nghiên cứu giá cả thị trường hàng hoá quốc tế. Như ở trên đã nói, trong công tác nghiên cứu thị trường công ty cần có những cán bộ chuyên sâu, có khả năng phân tích và đưa ra những nhận định chính xác trên cơ sở lập kế hoạch về nhu cầu nhập... Nghiên cứu đối tác: việc nghiên cứu tình hình thị trường sẽ giúp cho công ty lựa chọn được thị trường nhập khẩu, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kết quả kinh doanh còn phụ thuộc vào đối tác kinh doanh với mình. Vì vậy công ty cần tìm hiểu kỹ các đối tác khi có quan hệ làm ăn với họ về các vấn đề sau; Tình hình sản xuất kinh doanh của họ để từ đó có thể thấy được khả năng đáp ứng nguồn hàng lâu dài , thường xuyên. Khả năng về vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật.. bước 2: Lựa chọn thị trường phù hợp. Sau khi nghiên cứu thị trường và thu thập thông tin, công ty sẽ tiến hành lựa chọn thị trường và bạn hàng để nhập khẩu. Hiện tại công ty đang chọn cho mình những thị trường và bạn hàng truyền thống để có những ưu đãi về giá, chất lượng hàng hoá ...đây chính biểu hiện của việc ngại tìm kiếm đối tác mới, thị trường mới. Vậy trong thời gian tới công ty nên quan hệ với các thị trường và bạn hàng khác nhằm tạo ra khả năng lựa chọn dễ dàng khi mối quan hệ với bạn hàng truyền thống bị vướng mắc. 5 Đào tạo đội ngũ nhân viên. Với sự phát triển của ngành công nghệ thông tin như hiện nay thì giao dịch đàm phán thậm chí cả ký kết hợp đồng có thể diễn ra một cách đơn giản nhanh chóng... Chính vì vậy việc đào tạo đội ngũ nhân viên trong công ty là một việc hết sức cần thiết và cấp bách trong thời gian tới và công việc này phải được tiến hành một cách thường xuyên và liên tục vì: Con người là yếu tố quyết định sự thành bại ở bất kỳ một tổ chức kinh tế xã hội nào. Nhập khẩu là một hoạt động kinh tế hết sức phức tạp nó không chỉ ảnh hưởng tới lợi ích riêng của doanh nghiệp mà nó còn ảnh hưởng tới lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải có trình độ cao và có khả năng thích ứng với sự biến động của thị trường. Nói cách khác, một đội ngũ nhân viên kinh doanh mạnh phải là một đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời thị trường quốc tế về hàng hoá mà công ty cần nhập khẩu, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất, để từ đó có biện pháp đàm phán thích hợp. Đồng thời họ phải nắm bắt được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi giá cả của thị trường cũng như nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó, để có một chiến lược dự trữ hàng nhập khẩu hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy muốn có một đội ngũ nhân viên kinh doanh giỏi thì mỗi nhân viên tham gia vào quá trình kinh doanh nói chung và quá trình nhập khẩu nói riêng trước hết phải là những người giỏi chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình và cũng phải giỏi về ngoại ngữ, luôn rèn luyện thói quen theo dõi ghi nhận, nghiên cứu và phân tích về hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới...Thực tế hiện nay đội ngũ cán bộ nhân viên trực tiếp tham gia vào hoạt động nhập khẩu của công ty có trình độ ngoại ngữ kém, không được đào tạo cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu. Do đó, công ty cần có những biện pháp nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên, đặc biệt là đội ngũ chuyên sâu trong công tác nghiên cứu thị trường. Công ty nên cho các nhân viên kinh doanh tham gia thêm các lớp học ngắn hạn để nâng cao thêm về nghiệp vụ chuyên môn.... 6 Mở rộng hình thức liên kết kinh tế. Liên kết kinh tế là cách thức phối hợp hoạt động để cùng trao đổi bàn bạc về các chủ trương biện pháp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nhằm thực hiện khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên kết, góp phần mở rộng thị trường đi đôi với hiệu quả kinh tế. Là một doanh nghiệp quy mô nhỏ lại mới được thành lập chưa đầy hai năm. Vì vậy, để có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường không còn cách nào khác là phải liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác. Để tăng cường công tác liên kết công ty cần chú ý đến việc tổ chức liên kết trong nước với những cơ sở sản xuất. Nhằm mục đích sẽ cung cấp cho họ một số nguyên vật liệu mà trong nước không sản xuất được như: hạt nhựa, bột PVC... để đảm bảo cho quá trình sản xuất của các nhà sản xuất được tiến hành một cách ngày càng có hiệu quả, mặt khác tạo được đầu ra ổn định cho hàng nhập khẩu của công ty. Công ty nên mở rộng hình thức liên kết với các cửa hàng, đại lý ở các tỉnh nhằm mục đích tiêu thụ hàng nhập khẩu, làm tốt công tác này giúp công ty bán hàng được nhanh hơn, làm tăng tốc độ vòng quay của vốn và tạo hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh. Liên kết với các nhà nhập khẩu giúp cho công ty có được thông tin về hàng hoá nhập khẩu để từ đó giảm thiểu được rủi ro. 7 Trong tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Hiện nay công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của công ty đã có những thay đổi đáng kể so với những ngày đầu thành lập. Nhưng công tác này chưa phải là đã hoàn thiện. Do vậy công ty cần thực hiện nhanh chóng hơn tất cả các khâu từ mở L/C, thủ tục hải quan đến tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu. Và cần nỗ lực hơn nữa để giảm thiểu các chi phí phát sinh không đáng có. Một trong những khâu cần hoàn thiện là thủ tục hải quan. Trong đó cần đẩy nhanh tốc độ của công tác áp thuế. Công ty kinh doanh nhiều mặt hàng với số lượng và chủng loại rất đa dạng với hàng nghìn loại hoá chất khác nhau, nên việc áp thuế diễn ra rất phức tạp. Để đẩy nhanh công việc này hạn chế tối đa được sự nhầm lẫn thì cán bộ làm công tác này phải được nâng cao hơn về nghiệp vụ. Một trong những cách để đẩy nhanh tốc độ của công tác áp thuế và tiết kiệm được chi phí của công việc này là công ty có thể đổi mới cách thức khai báo truyền thống bằng cách khai báo thông qua mạng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 5 địa chỉ trên internet để các doanh nghiệp khai báo thuế trực tiếp mà không cần phải khai vào tờ khai để mang đến chi cục thuế nộp. Để làm được điều này đòi hỏi người làm công tác khai báo phải có kiến thức nhất định về internet, trong khi nhân viên làm công tác khai báo ở công ty lại chưa có kiến thức về internet. Để đáp ứng được điều đó thì công ty cần phải cử nhân viên đi học các lớp ngắn hạn. Khâu thứ hai có ảnh hưởng lớn đến thời gian thực hiện hợp đồng là tổ chức tiếp nhận hàng hoá. Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện hợp đồng thì công tác này cũng phải thực hiện tốt. Trước khi tàu đến tại địa điểm giao hàng đại lý hãng tàu sẽ thông báo cho công ty biết và nhận lệnh giao hàng (D/O). Khi có D/O công ty cần nhanh chóng làm thủ tục để nhận hàng của mình nếu chậm sẽ phát sinh chi phí, đấy là chưa kể tới việc bốc hàng chậm sẽ bị chủ tàu phạt. Hiện tại công tác nhận hàng của công ty thường được uỷ thác cho người khác, điều này làm cho công việc diễn ra nhanh chóng, song lại tốn kém chi phí và không thường xuyên bám sát hiện trường, không cập nhật số liệu và không kịp thời phát hiện sai sót để có biện pháp xử lý. Hơn nữa trong việc tiếp nhận chứng từ và kiểm tra chứng từ trong công ty còn chậm và không chính xác. Vì vậy công ty nên thành lập một bộ phận chuyên về lĩnh vực tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Vấn đề thứ ba rất quan trọng trong tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu là thanh toán. Hiện tại công ty đang sử dụng các phương thức thanh toán là TT, D/P, L/C at sight. Trong đó TT, D/P là hai phương thức được công ty sử dụng nhiều nhất, từ đó làm tăng độ rủi ro đối với hàng nhập khẩu của công ty. Do đó trong thời gian tới công ty nên sử dụng phương thức thanh toán bằng L/C để giảm thiểu độ rủi ro đối với hàng nhập khẩu của công ty. Ngoài ra công ty nên thoả thuận với các hãng để được thanh toán theo phương thức L/C trả chậm, giảm được khó khăn về vốn. Công ty cũng nên cố gắng thoả thuận với ngân hàng đại diện của mình (Ngoại thương chi nhánh Hà Nội, Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Hà Nội) để có mức ký quỹ thấp hơn khi mở L/C. 8. Giảm chi phí kinh doanh nhập khẩu. Chi phí kinh doanh nhập khẩu hàng hoá là nhân tố cấu thành nên giá thành hàng hoá quyết định đến giá bán của hàng hoá, doanh thu và lợi nhuận thu được. Chi phí tăng cao sẽ đẩy giá bán của hàng hoá lên cao hoặc giảm lãi trên một đơn vị sản phẩm. Cả hai trường hợp đều làm giảm lợi nhuận của công ty. Như ta đã biết trong công ty tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu so với doanh thu nhập khẩu thấp là do chi phí nhập khẩu cao cho nên lợi nhuận thu về là thấp không tương xứng với quy mô kinh doanh của công ty. Do đó tiết kiệm chi phí, cắt bỏ những chi phí không cần thiết là việc tất yếu đối với công ty khi tham gia kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. Thông qua đó để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Vì vậy, trong quá trình kinh doanh công ty phải tìm cách giảm tối đa các chi phí có thể, giảm chi phí bằng cách tìm hiểu xem xét chi phí khâu nào là chưa hợp lý qua đó tìm nguyên nhân làm tăng chi phí để có biện pháp khắc phục kịp thời. Mặt khác, phải cải tiến các công đoạn trong quá trình kinh doanh nhập khẩu để giảm chi phí định mức. Trong kinh doanh nhập khẩu, ngoài giá vốn trong giá thành của hàng hoá còn có chi phí lưu thông, chi phí quản lý, chi phí bán hàng... mỗi loại chi phí có đặc điểm riêng cho nên biện pháp tốt nhất để giảm chi phí là ở từng khâu phát sinh. Một số biện pháp cụ thể như: Bố trí và tổ chức khâu vận chuyển, bảo quản, xếp dỡ hàng hoá một cách khoa học, chặt chẽ để giảm chi phí vận chuyển và tránh những tổn thất không đáng có đối với hàng hoá. Lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp đối với từng hợp đồng nhập khẩu và giá trị của hợp đồng. Tính toán lượng hàng hoá nhập khẩu tối ưu để tăng vòng quay của vốn đồng thời cũng phải đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá, quá trình kinh doanh của công ty. Công ty cần đặt ra mục tiêu trong thời gian tới có một kho hàng riêng, vì đặc điểm của hàng hoá kinh doanh của công ty đòi hỏi phải có một kho bảo quản cẩn thận không nên đi thuê kho như hiện nay. Tổ chức tốt khâu thu mua, tạo nguồn hàng, hoàn thiện quy trình nhập khẩu hàng hoá bằng cách nên ký các hợp đồng mua hàng dài hạn đối với những hàng hoá mà công ty có nhu cầu lớn. Hoàn thiện quy trình nhập khẩu bằng cách chuyên môn hoá các bước trong quy trình nhập khẩu như vậy sẽ giúp cho công ty có điều kiện nghiên cứu kỹ thị trường, tìm kiếm được những thị trường mới và ổn định. 9 Đẩy mạnh tiêu thụ hàng nhập khẩu. Để có thể tồn tại và đứng vững được trên thị trường không còn cách nào khác là công ty phải tiêu thụ được hàng hoá. Như vậy, bán hàng là khâu cuối cùng có ý nghĩa quyết định đến doanh thu và lợi nhuận của công ty. Vì vậy cần phải đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá bằng cách: Xác định giá bán hợp lý bằng cách đưa ra mức giá ổn định và phù hợp với túi tiền của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến bán hàng bằng cách mở một văn phòng tư vấn cho khách hàng về các loại hoá chất, có các chương trình khuyến mại giảm giá. III Một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước. 1 Về chính sách tỷ giá. Nhà nước nên sử dụng một chính sách tỷ giá linh hoạt lấy việc ổn định giá thực tế làm mục tiêu điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa. Đây là cơ sở để thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế, khuyến khích hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế và đẩy nhanh sự phát triển nền kinh tế. 2 Về thuế. Thuế nhập khẩu: thuế nhập khẩu là một trong những công cụ quản lý nhập khẩu của Nhà nước đối với hàng hoá nhập khẩu nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Nếu như chúng ta quá lạm dụng chính sách này sẽ gây thiệt hại cho xã hội trên cả hai phương diện: Thứ nhất: thiệt hại về mặt tiêu dùng. Thuế làm cho người tiêu dùng mua ít đi do phải trả giá cao hơn. Thứ hai: thiệt hại về mặt sản xuất. Thuế làm cho các nguồn lực sẽ không được phân bố đều cho các hoạt động sản xuất (hoạt động sản xuất bao gồm sản xuất để tiêu dùng và sản xuất để xuất khẩu), dẫn đến sự thiếu hụt yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất làm cho hoạt động sản xuất trở lên kém hiệu quả. Thiệt hại trên hai phương diện chưa phải là duy nhất. Thuế còn là nguyên nhân phát sinh sự thiếu hiệu quả trong các ngành công nghiệp trong nước do được bảo hộ, làm suy giảm tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế của các nhà sản xuất trong nước. Hơn nữa, khi Việt Nam chính thức thực hiện các cam kết với các tổ chức quốc tế như: AFTA, WTO... và các hiệp định song phương giữa Việt Nam và các nước thì công cụ thuế quan không còn phù hợp với tính chất bảo hộ nền sản xuất trong nước nữa. Do vậy, Nhà nước nên sớm thay thế việc bảo hộ nền sản xuất trong nước bằng cách hỗ trợ vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đó. Thuế thu nhập doanh nghiệp: Với một nền kinh tế mở quy mô nhỏ và có trên 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, cộng với việc đánh thuế thu nhập doanh nghiệp qúa cao của Nhà nước trước đây là 32%, hiện nay còn là 27% nhưng tỷ lệ này vẫn được đánh giá là còn rất cao so với các quốc gia phát triển (mức thuế thu nhập doanh nghiệp mà các quốc gia phát triển áp dụng khoảng từ 15% -20%). Vì mức thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam quá cao đã không khuyến kích được các doanh nghiệp tham gia đóng góp vào phúc lợi xã hội, và đồng thời nó còn làm giảm tích luỹ tư bản của doanh nghiệp dẫn đến các doanh nghiệp gần như là không có cơ hội trở thành tập đoàn kinh doanh lớn ở Việt Nam và trên thế giới. Vì vậy Nhà nước nên sớm giảm tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp. 3 Về thủ tục hải quan. Hải quan là cơ quan tác động trực tiếp đến thời gian giải phóng hàng cho công ty. Thủ tục hải quan hiện vẫn chưa thực sự thông thoáng lại có sự điều chỉnh thường xuyên, thậm chí các văn bản hướng dẫn của cơ quan hải quan lại không thống nhất, không rõ ràng, chồng chéo lẫn nhau. Vì vậy, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Về thủ tục mở tờ khai, kiểm hoá, giám định nhận hàng, thủ tục này còn rườm rà. Đặc biệt là thủ tục kiểm tra hồ sơ của hải quan đã làm mất rất nhiều thời gian từ đó làm mất đi tính chủ động trong kinh doanh nhập khẩu của công ty, dẫn đến công ty thường bị sai phạm với khách hàng về thời gian giao nhận làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty đối với khách hàng, hơn nữa mất đi cơ hội kinh doanh nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay. Cần phải giản tiện thủ tục hải quan, để rút ngắn thời gian thực hiện hợp đồng, từ đó tăng vòng quay của vốn, tăng hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Tư cách của cán bộ hải quan, cán bộ hải quan còn có sự hạch sách quan liêu đã gây không ít khó khăn cho hoạt động nhập khẩu của công ty. Một điều đáng lưu ý nữa là bộ máy của cơ quan hải quan hiện vẫn còn cồng kềnh, làm việc kém hiệu quả, thậm chí có lúc làm việc chưa đúng nghĩa vụ. Vì vậy trong thời gian tới tổng cục hải quan lên tổ chức các lớp giáo dục đạo đức cho cán bộ nhân viên của mình. 4 Chiến lược nhập khẩu của Nhà nước. Cho đến nay, mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng để dần dần hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nhưng vẫn còn nhiều tồn tại do nguyên nhân khách quan và chủ quan. Các điều chỉnh về cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nói chung và quản lý nhập khẩu nói riêng tỏ ra thiếu chiến lược lâu dài. Nhà nước nên công bố những định hướng trong ngắn hạn cũng như dài hạn về một số lĩnh vực như đầu tư cho cơ sở hạ tầng, các định hướng trong hoạt động nhập khẩu. Như thế các doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong chiến lược kinh doanh cho phù hợp với các chủ trương chính sách của Nhà nước. Bên cạnh đó Nhà nước có thể lập ra các trung tâm nghiên cứu, thu thập thông tin từ phía các bạn hàng của Việt Nam nhằm giúp các doanh nghiệp trong nước tiết kiệm được chi phí, giảm thiểu được rủi ro. 5 Một số kiến nghị khác. Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, Nhà nước cần phải có cơ chế và một số biện pháp hỗ trợ cần thiết Cơ chế quản lý hàng nhập khẩu. Giai đoạn hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là hết sức quan trong bởi nước ta chưa có các tập đoàn đủ lớn để có thể tự tiến hành việc khắc phục những trở ngại, khó khăn lớn vượt xa khả năng tài chính của công ty. Dựa trên quan điểm chung hiện nay là kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, để tạo điều kiện cho công ty phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động nhập khẩu, Nhà nước cần có một số sửa đổi trong cơ chế quản lý hàng nhập khẩu như sau; Nhà nước cần thay đổi thủ tục hành chính trong việc thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá bằng cách nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách ngày một thông thoáng và ổn định. Đồng thời, Nhà nước cần có biện pháp tăng cường kiểm soát việc thực hiện các chính sách ở các đơn vị quản lý Nhà nước. Tăng cường tín dụng nhập khẩu cho các doanh nghiệp. Tín dụng nhập khẩu là rất cần thiết và hữu ích cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu như công ty. Nhà nước cần có những giải pháp, những chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp vay mượn tín dụng thông qua nhiều hình thức. Nhà nước cần đưa ra những văn bản hướng dẫn cho các ngân hàng thương mại về sử dụng tín dụng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được thuận lợi khi lấy tín dụng từ ngân hàng, giúp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu được tốt hơn. Nhà nước nên có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá mà trong nước chưa có khả năng sản xuất và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước và cho quá trình sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách cho vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất ngân hàng hoặc bằng các hình thức khác như bảo lãnh cho công ty có thể ký kết các hợp đồng nhập khẩu. Đầu tư phát triển ngành vận tải (đặc biệt là vận tải biển). Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung nói riêng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc lựa chọn các điều kiện giao hàng trong hợp đồng thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam thường phải chọn các điều kiện giao hàng mà quyền thuê phương tiện vận tải thuộc về phía nước ngoài (như nhập khẩu theo CIF, và xuất khẩu theo FOB). Đây là các điều kiện mà phần thuê tàu và ký hợp đồng bảo hiểm thuộc về phía nước ngoài. Do đó, đã làm tăng giá cả hàng hoá nhập khẩu, làm lãng phí nguồn ngoại tệ trong nước, ảnh hưởng tới mục tiêu kinh doanh của công ty. Chính vì vậy, để doanh nghiệp nhập khẩu có thể tiết kiệm được chi phí thì Nhà nước cần có các chính sách phát triển đội tàu vận chuyển hàng hoá trong nước để có thể phục vụ nhu cầu vận tải của các doanh nghiệp nhập khẩu trong nước và giúp họ hạn chế được các rủi ro gặp phải từ phía vận chuyển. Kết luận Để có thể đưa nước ta trở thành một nước Việt Nam giàu mạnh có khả năng sánh vai cùng bạn bè quốc tế và thực hiện được chủ chương đi tắt đón đầu mà Đảng và Nhà nước đề ra thì không còn cách nào khác là chúng ta phải thực hiện hoạt động nhập khẩu, vì nếu chúng ta không nhập khẩu thì sẽ không đáp ứng nhu cầu trong nước về các loại nguyên vật liệu, vật tư, cũng như các sản phẩm hoá chất phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước.Thông qua hoạt động nhập khẩu để bổ sung những phần thiếu hụt đó. Do đó có thể thấy rằng nhập khẩu là một lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Nhập khẩu không những thể hiện khả năng phát triển về đối ngoại của một quốc gia và chi phối tiến trình hội nhập của nền kinh tế thế giới bằng cách cho phép tận dụng tối đa các nguồn lực vào quá trình thúc đẩy sản xuất trong nước cũng như quá trình ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Trong cơ chế thị trường hiện nay việc quan tâm chú trọng nâng cao kết quả kinh doanh nói chung và kết quả kinh doanh nhập khẩu nói riêng là hết sức cần thiết để phát huy toàn bộ vai trò của nó. Nhận thức được điều đó, Công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung tham gia hoạt động nhập khẩu để góp phần thực hiện chức năng quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế. Do mới thành lập, chưa có kinh nghiệm cộng với một lượng vốn ít ỏi cho nên công ty đã gặp vô vàn khó khăn. Nhưng công ty đã tồn tại và ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Với đề tài: "Hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung-thực trạng và giải pháp" em mong muốn đóng góp những nghiên cứu, tìm tòi và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thạc Sỹ Nguyễn Thị Liên Hương cùng toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Danh mục tài liệu tham khảo I Các loại sách. Giáo trình thương mại quốc tế-NXB Thống Kê. Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế-NXB Giáo Dục. Giáo trình luật thương mại quốc tế-NXB Khoa Học Kỹ Thuật. Giáo trình giao dịch và đàm phán kinh doanh-NXB Thống kê. Giáo trình kinh tế quốc tế (học viện tài chính)-NXB Tài Chính. II Các loại tạp chí. Tạp chí thương mại. Tạp chí kinh tế đối ngoại. Tạp chí con số và sự kiện. Tạp chí kinh tế phát triển. III Các loại báo. Thời báo kinh tế sài gòn. Thương Mại. IV Các văn bản pháp luật. Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998. Quyết định 46/2001/QĐ-TTG ngày 4/4/2001. Mục lục Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương I Lý thuyết chung về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. 3 I Khái quát chung về thương mại quốc tế. 3 1 Lịch sử hình thành và phát triển của thương mại quốc tế. 3 1.1 Khái niệm thương mại quốc tế. 3 1.2 Nguồn gốc của thương mại quốc tế. 3 1.3 Thương mại quốc tế ở Việt Nam. 6 2 Đặc điểm, vai trò của thương mại quốc tế. 8 2.1 Đặc điểm của thương mại quốc tế. 8 2.2 Vai trò của thương mại quốc tế. 9 2.2.1 Đối với doanh nghiệp. 9 2.2.2 Đối với nền kinh tế quốc dân. 10 II Hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp. 11 1 Sự cần thiết của hoạt động nhập khẩu. 11 1.1 Khái niệm về nhập khẩu. 11 1.2 Vai trò của hoạt động nhập khẩu. 11 1.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân. 11 1.2.2 Đối với doanh nghiệp nhập khẩu. 13 2 Các loại hình nhập khẩu. 14 2.1 Nhập khẩu trực tiếp. 14 2.2 Nhập khẩu uỷ thác. 15 2.3 Nhập khẩu đối lưu. 15 2.4 Tạm nhập, tái suất. 15 2.5 Nhập khẩu liên doanh. 16 3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu. 16 3.1 Nhân tố chủ quan. 16 3.2 Nhân tố khách quan. 18 III Nội dung của hoạt động nhập khẩu. 19 1 Nghiên cứu thị trường. 19 1.1 Nội dung nghiên cứu thị trường. 19 1.2 Phương pháp nghiên cứu thị trường. 21 2 Lựa chọn đối tác giao dịch. 22 3 Lập phương án kinh doanh. 23 4 Đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu. 23 4.1 Các phương thức giao dịch mua bán. 23 4.2 Đàm phán trong kinh doanh. 25 4.3 Ký kết hợp đồng nhập khẩu. 25 5 Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 26 6 Đánh giá hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. 30 IV Tình hình nhập khẩu của Việt Nam. 31 1 Khái quát. 31 1.1 Thành tựu và nguyên nhân. 32 1.1.1 Thành tựu. 32 1.1.2 Nguyên nhân. 32 1.2 Hạn chế và nguyên nhân. 33 1.2.1 Hạn chế. 33 1.2.2 Nguyên nhân. 33 2 Chính sách quản lý của Nhà nước. 34 2.1 Về phương diện quản lý điều hành hoạt động nhập khẩu. 34 2.1.1 Giấy phép nhập khẩu. 34 2.1.2 Quản lý ngoại tệ. 36 2.1.3 Qui định của Hải Quan. 36 2.2 Về phương diện điều tiết hoạt động nhập khẩu. 36 2.2.1 Thuế nhập khẩu. 36 2.2.2 Hạn ngạch nhập khẩu. 38 2.2.3 Biện pháp mang tính kỹ thuật. 39 Chương II Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung. 40 I Khái quát chung về công ty. 40 1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 40 1.1 Quá trình hình thành. 40 1.2 Quá trình phát triển. 40 1.3 Chức năng, nhiệm vụ của công ty. 41 1.3.1 Chức năng. 41 1.3.2 Nhiệm vụ. 41 2 Hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận trực thuộc. 42 2.1 Đặc điểm hệ thống tổ chức của công ty. 42 2.2 Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận và phong ban trong công ty. 42 2.3 Nguồn lực của doanh nghiệp. 44 3 Tình hình thực trạng kinh doanh của công ty. 45 3.1 Khái quát chung. 45 3.1.1 Mặt hàng kinh doanh. 45 3.1.2 Thị trường kinh doanh. 46 3.1.3 Quan hệ với các đối tác. 49 3.1.4 Hoạt động marketing của công ty. 49 3.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. 50 3.2.1 Hoạt động mua hàng. 50 3.2.2 Hoạt động bán hàng. 51 3.2.3 Kết quả hoạt động kinh doanh chung . 51 II Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty. 56 1 Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với hoạt động kinh doanh của công ty. 56 2 Đặc điểm hoạt động nhập khẩu của công ty. 59 3 Kết quả hoạt động nhập khẩu cảu công ty. 61 3.1 Thị trường nhập khẩu của công ty. 61 3.2 Về mặt hàng nhập khẩu của công ty. 64 3.3 Kết quả chung hoạt động nhập khẩu của công ty qua các năm. 65 3.4 Doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu của công ty qua các năm. 67 4 Phương thức nhập khẩu của công ty. 68 5 Quy trình nhập khẩu của công ty. 69 5.1 Đặc điểm của quy trình nhập khẩu của công ty. 69 5.2 Quy trình nhập khẩu của công ty. 69 III Đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty. 73 1 Những thành tựu đã đạt được. 73 2 Những mặt tồn tại và nguyên nhân. 74 2.1 Những mặt tồn tại. 74 2.2 Những nguyên nhân. 76 Chương III Những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH Thương Mại & Sản Xuất Việt Trung. 78 I Phương hướng và mục tiêu phát triển của công ty. 78 1 Kế hoạch và phương hướng thực hiện trong năm 2004. 78 2 Định hướng phát triển nguồn hàng . 79 3 Định hướng phát triển khách hàng. 80 4 Phương hướng kiện toàn bộ máy quản lý. 81 II Các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của công. 81 1 Xây dựng chiến lược nhập khẩu của công ty. 82 2 Xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp. 83 3 Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường . 84 4 Mở rộng thị trường nhập khẩu. 85 5 Đào tạo đội ngũ nhân viên. 87 6 Mở rộng hình thức liên kết kinh tế. 88 7 Trong tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 88 8 Giảm chi phi hoạt động nhập khẩu. 90 9 Đẩy mạnh tiêu thụ hàng nhập khẩu. 91 III Một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước. 91 1 Về chính sách tỷ giá. 91 2 Về thuế. 91 3 Về thủ tục hải quan. 92 4 Chiến lược nhập khẩu của Nhà nước. 93 5 Một số kiến nghị khác. 93 Kết luận. 95 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0441.doc
Tài liệu liên quan