Hoạt động thu hút vốn viện trợ nước ngoài và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Tài liệu Hoạt động thu hút vốn viện trợ nước ngoài và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: ... Ebook Hoạt động thu hút vốn viện trợ nước ngoài và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động thu hút vốn viện trợ nước ngoài và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Để tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá (CNH- HĐH) đất nước thì vốn là một yếu tố quan trọng, một điều kiện không thể thiếu được nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, nền kinh tế còn thiếu vốn nghiêm trọng và tiết kiệm trong nước còn quá thấp thì bổ sung nguồn vốn đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài là quan trọng- chủ yếu là vốn ODA và FDI. Trong đó ODA là nguồn vốn rất quan trọng, đây là nguồn vốn của các chính phủ, các quốc gia phát triển, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ với mục tiêu trợ giúp cho các nước đang phát triển, nguồn vốn này có những ưu đãi nhất định, do đó trong giai đoạn đầu của công cuộc CNH, các nước đang phát triển thường coi ODA là một “giải pháp cứu cánh” để vừa khắc phục tình trạng thiếu vốn trong nước vừa tạo ra cơ sở vật chất ban đầu nhằm tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi để kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp FDI, đồng thời tạo điều kiện đầu tư trong nước phát triển và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn ODA trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp để khai thông và tăng cường thu hút nguồn vốn này. Đến nay nước ta đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 24 nhà tài trợ song phương, 15 nhà tài trợ đa phương và hơn 300 tổ chức phi chính phủ. Với ý nghĩa thiết thực và tầm quan trọng của nguồn vốn ODA em xin chọn đề tài: “Hoạt động thu hút vốn viện trợ nước ngoài và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”. Chương I: GIỚI THIỆU VỀ NGUỒN VỐN VIỆN TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC ODA KHÁI NIỆM ODA Nguồn vốn ODA- hay còn gọi là viện trợ phát triển chính thức được viết tắt là: “Official Development Aid” là khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất,thời gian ấn hạn và trả nợ của chính phủ các nước phát triển,các cơ quan chính thức thuộc các tổ chức quốc tế. Từ cách hiểu như vậy ta nhận thấy nguồn vốn ODA được chia làm 2 loại : viện trợ không hoàn lại và ODA với khoản vay ưu đãi. Vốn viện trợ không hoàn lại Theo thông tư số 32/2005/T-T-BTC ngày 26/4/2005 về việc hướng dẫn chế độ quản lí tài chính nhà nước đối với nguồn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài quy định: đó là các khoản viện trợ giúp không phải hoàn trả dưới hình thức tiền hiện vật,tri thức từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, các tổ chức kinh tế khoa học hoặc cá nhân người nước ngoài trực tiếp cho các hội hoặc thông qua các hội được kí kết chính thức giữa 2 bên và được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với ODA là loại viện trợ không hoàn lại này thường là hỗ trợ kĩ thuật, chủ yếu là chuyển giao công nghệ, kiến thức,kinh nghiệm, thông qua các hoạt động của chuyên gia quốc tế. Có khi viện trợ này là các loại viện trợ nhân đạo như: lương thực,thuốc men, hay các hoạt động khác nên chúng khó huy động vào mục đích đầu tư phát triển. Them vào đó các khoản viện trợ này thương kèm theo những điều kiện về tiếp nhân đơn giá mà nước chủ nhà có vốn chủ động sử dụng thì chưa chắc đã phải chấp nhận những điều kiện như vậy hoặc sử dụng với đơn giá thanh toán cao gấp 2-3 lần. Vì vậy khi sử dụng vốn ODA cho không cần thiết phải thận trọng. 2. ODA với khoản vay ưu đãi Đó là những khoản vay và sẽ được trả dưới hình thức tiền, hiện vật…của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài… của các nước được kí kết giữa 2 bên với nhau. Khoản vay ưu đãi này được sử dụng cho mục tiêu đầu tư phát triển và được thể hiện dưới các khía cạnh như lãi suất thấp,thời gian vay dài và thời gian ấn hạn từ khi vay đến lúc trả khá dài. Lãi suất của các khoản vay ưu đãi thường thấp, chẳng hạn như ODA Nhật Bản cho Việt Nam vay năm 1992 tính bằng hàng hóa trị giá 45,5 tỉ Yên với lãi suất 1%, hay khoản vay ngân hàng thế giới cho dự án cải tạo quốc lộ 1A không lãi suất, chỉ chịu mức phí 0,75%. Thứ hai là thời gian vay dài: Nhật Bản cho Việt Nam vay trong thời gian 30 năm, còn ngân hàng thế giới thì thời gian vay là 40 năm. Thứ ba là thời gian ấn hạn từ khi vay cho đến khi trả vốn gốc đầu tiến khá dài, thông thường 5-10 năm trở lên, Nhật Bản ấn hạn là 10 năm. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUỒN VỐN ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA có những đặc điểm chủ yếu sau: @ Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Tuy nước chủ nhà có quyền quản lý sử dụng vốn ODA, nhưng thông thường danh mục dự án ODA phải có sự thoả thuận với các nhà tài trợ. @ Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. Tuy vậy nếu quản lý và sử dụng vốn ODA kém hiệu quả sẽ có nguy cơ gánh nặng nợ nần trong tương lai. @ Các nước nhận vốn ODA phải hội đủ một số những điều kiện nhất định mới được nhận tài trợ. @ ODA chủ yếu dành hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, như giao thông vận tải, giáo dục, y tế... @ Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương (bao gồm: Tổ chức thuộc tổ chức LHQ, liên minh châu Âu, IMF, WB, ADB,...) và các tổ chức viện trợ song phương. @ ODA phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị và quan điểm chính trị của các nước viện trợ và các nước nhận viện trợ. @ Có sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn ODA. NHỮNG TÁC ĐỘNG KHễNG MONG MUỐN CỦA VIỆN TRỢ ODA. Mặc dù có sự ưu đói về lói suất ( dao động từ 0.75-2%/năm ), ưu đói về thời gian õn hạn ( 8-10 năm ), ưu đói về lộ trỡnh trả nợ ( 30-40 năm ) nhưng cái giá phải trả cho những ưu đói này là những ràng buộc tương đối khắt khe : các điều kiện liên quan đến vấn đề chính trị, hoặc các nước nhận ưu đói phải tham gia ủng hộ các nước viện trợ cho nước mỡnh tại cỏc diễn đàn quốc tế ,hoặc tại các cuộc họp của liên hợp quốc, tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường, cỏc ràng buộc về mua sắm hàng hoỏ và dịch vụ tư vẩn trong khuõn khổ cỏc chương trỡnh dự ỏn ODA, nhiều dự ỏn đầu tư bị sai lệch về sự ưu tiờn ( cỏi mà bờn cho vay muốn nhiều trường hợp lại khụng phải là cỏi mà bờn nhận vốn ưu tiờn đầu tư ). Vỡ vậy để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này các nước tiếp nhận viện trợ cũng cần phải có sự tiếp nhận cú chọn lọc với thiệt thũi ớt nhất, cần phải xem xột dự ỏn trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ cú khi cũn gõy lóng phớ tài nguyờn, nhõn lực và cú thể trở thành gỏnh nặng nợ nần lõu dài cho nền kinh tế, mà cụ thể chính là thế hệ mai sau của chúng ta phải chịu. Điều này có hàm ý rằng, ngoài nhưng yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, cũn cần cú nghệ thuật thoả thuận, để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc. Cần phải quán triệt quan điểm mà đại diện chính phủ Việt Nam phát biểu tại hội nghị các nhà tài trợ cho các nước đang phát triển tổ chức tại Pari “ Điều quan trọng là các nguồn vốn bên ngoài được sử dụng có hiệu quả. Chính phủ chịu trách nhiệm điều phối và sử dụng viện trợ nước ngoài với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam sẽ là người chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này không được sử dụng có hiệu quả ” CÁC HÌNH THỨC CHỦ YẾU CUNG CẤP VỐN ODA: Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA được cung cấp dưới các dạng như sau: @ Hỗ trợ cán cân thanh toán: Gồm các khoản ODA được cung cấp dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hoá để hỗ trợ ngân sách của chính phủ. @ Hỗ trợ theo chương trình: Gồm các khoản ODA được cung cấp để thực hiện một chương trình nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp các dự án thực hiện trong một thời gian xác định và địa điểm cụ thể. @ Hỗ trợ kỹ thuật: Đây là các khoản ODA hỗ trợ phát triển thể chế, tăng cường năng lực của các cơ quan Nhà nước, chuyển giao công nghệ, thộng qua cung cấp chuyên gia, cung cấp trang thiết bị nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ tại nước nhận vốn hỗ trợ hoặc ở nước ngoài, hỗ trợ nghiên cứu điều tra cơ bản (lập quy hoạch nghiên cứu khả thi). Một dự án hỗ trợ kỹ thuật có thể bao gồm một hoặc tất cả các nội dung trên. @ Hỗ trợ theo dự án: ODA được cung cấp để thực hiện dự án xây dựng cơ bản bao gồm xây lắp trang thiết bị hoặc chỉ đơn thuần cung cấp trang thiết bị. Trong nội dung dự án xây dựng cơ bản có thể bao gồm cả nhiệm vụ tư vấn , đào tạo cná bộ Việt Nam tại chỗ hoặc gửi ra nước ngoài. V.NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ CÁC NHÀ VIỆN TRỢ XÁC ĐỊNH MỨC VIỆN TRỢ. Thứ nhất, đó là sự an toàn của vốn đũi hỏi mụi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không gặp những rủi ro do các yếu tố chính trị xó hội hay mụi trường kinh doanh gây ra. Gắn liền với đó là năng lực tăng trưởng của nền kinh tế hay tốc độ tăng trưởng GDP, tức là nền kinh tế có thể chủ động kiểm soát được quá trỡnh tăng trưởng, chủ động tái lập được những trạng thái cân bằng mới và đó cũng đồng thời là việc tạo ra cơ sở cho sự ổn định lâu dài. Thứ hai, đó là yêu cầu về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tối thiểu đủ để chủ nợ thu hồi lại vốn. Việc xuất khẩu đóng một vai trũ hết sức quan trọng bởi nếu một nước đảm bảo được tốc độ tăng trưởng trong xuất khẩu tốt thỡ nước đó mới có thể có khả năng thu ngoại tệ về để trả nợ cho chủ đầu tư được. Do đó chỉ tiêu về xuất khẩu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến lượng tài trợ ODA. Thứ ba, mức viện trợ ODA cũn phụ thuộc vào bản chất chớnh trị, vào mối quan hệ chớnh trị, vào quan điểm chính trị của nước viện trợ và các nước nhận viện trợ. thứ tư, đó là các số liệu về tỡnh hỡnh nợ nước ngoài của quốc gia nhận viện trợ, hay chính là khả năng trả nợ của quốc gia đó.Đây không những là chỉ tiêu để xác định mức viện trợ ODA mà cũn là cơ sở để các nước nhận viện trợ quyết định mức viện trợ mà mỡnh cần. Chương II HOẠT ĐỘNG THU HÚT VỐN VIỆN TRỢ Ở VIỆT NAM BỐI CẢNH KINH TẾ ĐẤT NƯỚC TA THỜI GIAN QUA Đất nước ta đã từng trải qua một thời gian dài, nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Do cơ chế quản lí kém hiệu quả, nạn quan liêu bao cấp đã hạn chế các nguồn lực của đất nước. Từ đại hội VI năm 1986, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, đưa nước ta bước vào thời kì CNH-HĐH đất nước. Để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế chúng ta phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện hệ thống chính sách quản lí kinh tế phù hợp nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển. Hiện nay trước tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để theo kịp các quốc gia phát triển. Và thực tế cho thấy chúng ta đã và đang gặt hái được những thành tựu đáng kể, đưa nước ta tiến nhanh hơn trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó chúng ta phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của chính sách quản lí tài chính đối ngoại. Thời gian qua việc chủ động thực hiện chính sách hội nhập kinh tế và xư lí tốt các mối quan hệ tài chính-tiền tệ với đối tác nước ngoài đã làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu, thu hút đáng kể vốn và công nghệ bên ngoài cho đầu tư phát triển, cải thiện tình trạng nợ nước ngoài, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh quốc gia. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, chúng ta còn gặp phải rất nhiều khó khăn như: cơ sở vật chất kĩ thuật còn nghèo nàn, trang thiết bị còn lạc hậu, thiếu thốn và đặc biệt là nguồn vốn đầu tư còn rất khan hiếm trong khi nhu cầu về vốn phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là rất lớn. Đó là một bài toán còn nan giải. Do vậy chính sách tài chính đối ngoại của chúng ta thời gian qua chủ yếu tập trung vào hoạt động thu hút nguồn vốn nước ngoài, trong đó có hoạt động thu hút và sư dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA) của chính phủ. Trong những năm qua vốn ODA đã trở thành nguồn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, chiếm tỉ trọng 11% trong tổn vốn đầu tư toàn xã hội. Việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm (2001-2005) đã đánh dấu 1 giai đoạn hợp tác chặt chẽ và hiệu quả giữa Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, đồng thời mở ra 1 thời kì mới đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa và tiếp tục nhận sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng các nhà tài trợ trong công cuộc đổi mới toàn diện, sơm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. CÁC CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM THU HÚT VỐN ODA Sau hơn 1 thập kỉ được huy động để phục vụ công cuộc phát triển của đất nước, nguồn vốn ODA đã đem lại những thành tựu bước đầu quan trọng. Hàng trăm dự án ODA đã được đưa vào thực hiện với tổng số vốn được kí kết với các nhà tài trợ (tính đến hết năm 2004) lên đến 22,19 tỉ USD, đạt khoảng 77,1 %tổng vốn ODA đã cam kết. Tống số vốn giải ngân qua các năm từ 1993 đến 2004 đạt khoảng 14,116 tỉ USD. Đồng thời tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA cũng được nhận định là đã có những bước tiến triển khá, năm sau cao hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giải ngân hàng năm. Nhiều dự án ODA đã hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần tăng trưởng kinh tế,xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam. Để đạt được các thành tựu kể trên, bằng việc xây dưng các chính sách đúng đắn về thu hút ODA và tạo ra một môi trường pháp lí phù hợp, chính phủ Việt Nam chứng tỏ được vai trò quản lí nhà nước của mình trước cộng đồng các nhà tài trợ. Điều này được thể hiện ở chỗ : 1. Về môi trường pháp lí : Trong thời gian qua bắt đầu tư năm 1993, năm có sự kiện đánh dấu Việt Nam chính thức nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế thông qua hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam ( hội nghị Pari 1993), nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút, quản lí và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, chính phủ đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lí cho việc quản lí nguồn vốn này. Bắt đầu từ nghị định 20/CP ban hành năm 1994, tiếp đó là nghị định 87/CP năm 1997 và hiện nay là nghị định 17/2001/NĐ-CP ban hành năm 2001, chính phủ đã 3 lần ban hành các văn bản khung pháp lí cao nhất cho hoạt động thu hút, quản lí và sử dụng nguồn vốn quan trọng này. Đây cũng chính là 3 lần khuôn khổ pháp lí cơ bản cho hoạt động quản lí nhà nước về nguồn vốn ODA được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện biến đổi của thực tế tiếp nhận và quản lí nguồn vốn ODA. Xét riêng về nghị định sỗ 17/2001/NĐ-CP, đây là văn bản được cộng đồng tài trợ quốc tế đón nhận và ủng hộ mạnh mẽ nhất từ trước đến nay. Sự tiến bộ của nghị định 17 thông qua vieec khác phục các điểm yếu của các văn bản trước đó và bổ sung các điểm mới phản ánh các nguyên tắc, quan điểm hiện đại trong quản lí và tiếp nhận nguồn vốn này như: công khai, minh bạch, tinh thần làm chủ, quan hệ đối tác và hài hòa thủ tục đã đánh dấu 1 bước phát triển về chất so với các văn bản khung trước đây về việc thu hút, quản lí và sử dụng ODA. Bên cạnh văn bản khung này chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp quy khác nhằm quản lí và hỗ trợ hoạt động quản lí nhà nước ở các khía canh khác nhau trong lĩnh vực sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Trong số này có các van bản về quy trình rút vốn ODA, thuế giá trị gia tăng, quy chế chuyên gia nước ngoài áp dụng đối với các dự án sử dụng vốn ODA. Ngoài ra, do ODA được coi là một nguồn vốn của ngân sách nhà nước,việc sử dụng nguồn vốn ODA cũng phải tuân theo các quy định chung của nhà nước Việt Nam đấu thầu và quản lí đầu tư và xây dựng trong trường hợp các quy định này không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. 2. Các hoạt động hỗ trợ trong công tác quẩn lý nhà nước về ODA Song song với việc kiện toàn về mặt pháp lí,chính phủ Việt Nam cũng đã tiến hành một loạt các hoạt động tích cực, góp phần hỗ trợ công tác quản lý ODA như: Chính phủ đã có sự phối hợp với các nhà tài trợ tổ chức hội nghị liên quan đến thể chế ODA,các hội nghị kiểm điểm tình hình thực hiện các dự ấn đầu tư sử dụng ODA.Sau hội nghị lầ thứ nhất về quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA nhằm xác định và tháo gỡ các vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình dự án ODA tổ chức tại Đồ Sơn, hải phòng ngày 12-tháng 4-2000; tiếp đó ngày 31-8-2001, hội nghị lần thứ hai với nội dung trdax được tổ chức tại Hà Nội nhằm cập nhập và đánh giá tình hình thực hiện các biện pháp đã đề ra để cải tiến quá trình thực hiện vốn ODA. Nguyên tắc và nội dung của việc phân cấp trong quản lý nguồn vốn ODA ở mọi ngành ,mọi cấp từ TƯ đến địa phương đã được xác định rõ ràng hơn về quyền hạn và trách nhiệm của từng đưn vị tham gia. - Chính phủ chỉ đạo kịp thời và cụ thể việc thu hút và sử dụng ODA,như đảm bảo vốn đối ứng,vấn đè thuế VAT đối với các chương trình, dự án ODA,nhờ vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình ,dự án ODA đã được tháo gỡ.Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA được quan tâm.bộ kế hoạch và đầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi chặt chẽ tình hình thực hiện các dự án ODA,đặc biệt là đối với khoảng 40 dự án ODA có qui mô lớn,nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn gây nên sự chậm trễ trong quá trình thực hiện dự án. - Hệ thống thông tin về ODA đang từng bước hình thành theo hướng chuẩn hóa phục vụ cho công tác phân tích và đánh giá dự án.Theo tinh thần NĐ 17/2001/CP, mỗi cơ quan quản lý, thực hiện các chương trình dự án ODA từ TƯ đến địa phương sẽ phải thành lập đơn vị chuyên trách về theo dõi và đánh giá dự án. Tuy nhiên công tác này mới được triền khai ở một số cơ quan tổng hợp và quản lý dự án, chưa phát triển thành một hệ thống thông tin bao quát được toàn bộ hoạt động tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam. - Năng lực thực hiện và quản lý các chương trình,dự án ODA đã có các tiến bộ. Bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau và qua thực tế thực hiện dự án, nhiều cán bộ của Việt Nam từ cấp cơ quan quản lý vĩ mô tới các ban quản lý dự án đã làm quen và tích lũy được kinh nghiệm thực hiện và quản lý nguồn vốn ODA. - Công tác điều phối cũng ngày càng tiến bộ. Để định hướng vào việc thu hút và sử dụng ODA tập trung cho các mục tiêu phát triển ưu tiên của chính phủ, ngoài chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000, chính phủ đã xây dựng các chương trình đầu tư công cộng (PIP), quy hoạch tông thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kì 1996-2010, quy hoạch thu hút và sử dụng ODA phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1996-2000 và định hướng tới năm 2010 và quan trọng gần đây nhất là thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (CPRGS). Hiện nay, một số nhà tài trợ đã bày tỏ mong muốn được coi đây là cơ sở để kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn tài trợ của mình liên quan tới xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Tuy vậy công tác quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam còn có những mặt yếu kém và đứng trước những khó khăn, thách thức, nhất là các khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện, theo dõi và đánh giá dự án. Để cải thiện tình hình ở các khâu yếu nói trên, trong thời gian tới chính phủ dự kiến triển khai các công tác sau: - Sớm xúc tiến xây dựng để trình ban hành một nghị định mới về tái định cư và giải phóng mặt bằng, nhằm giải quyết cơ bản những vướng mắc về vấn đề này đối với các dự án ODA có xây dựng cơ bản. - Ban hành Thông tư liên tịch Bộ kế hoạch và đầu tư – Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 4/5/2001 về những nội dung liên quan tới tài chính của các chương trình, dự án ODA. - Chính phủ Việt Nam mong muốn tiếp tục tiến trình làm hài hòa thủ tục tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.Năm vừa qua, nhóm 6 nhà tài trợ song phương châu Âu bao gồm Hà Lan, vương quốc Anh, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Phần Lan đã có sáng kiến nghiên cứu và hài hòa thủ tục giữa các nước này với thủ tục của chính phủ Việt Nam. Bên cạnh đó, ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu á (ADB) và JBIC đã và đang làm việc với chính phủ Việt Nam về hài hòa thủ tục nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện dự án. Trên cơ sở mong muốn tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA, giảm bớt các chi phí giao dịch trong việc thực hiện nguồn vốn này cũng như làm giảm nhẹ gánh nặng hành chính cho chính phủ nước tiếp nhận chính phủ, hài hòa thủ tục trong thời gian gần đây đã thu hút sự quan tâm ngày càng lớn của các nhà tài trợ ở Việt Nam. - Kiện toàn hệ thống theo dõi và đánh giá dự án từ các bộ, ngành TƯ tới địa phương nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác quản lý và theo dõi dự án. Trước mắt, trong khuôn khổ dự án hỗ trợ kĩ thuật: ”Tăng cương năng lực theo dõi và đánh giá dự án Việt Nam-Oxtrâylia” do Oxtrâylia tài trợ sẽ hình thành hệ thống thông tin quản lý (MIS) cấp quốc gia và sẽ triển khai thí điểm tại một số bộ và địa phương trong việc thu nhập và đánh giá các thông tin theo dõi dự án. Chính phủ tin tưởng rằng với sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ và các nhà hợp tác tài trợ sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển nhằm thực hiện được mục tiêu chung, cải thiện và nâng cao hiệu quả và chất lượng sử dụng ODA phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và đấu tranh chống lại đói nghèo ở Việt Nam. III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆN TRỢ VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA: 1.Tình hình thu hút vốn Năm 1993 Việt Nam chính thức nối lại quan hệ vay mượn với cộng đồng các nhà tài trợ ODA song phương (chính phủ các nước) và đa phương (ADB,WB…) sau nhiều năm gián đoạn. Từ đó đến nay Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ tích cực của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đóng vai trò quan trọng, góp phần giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân. Trong bối cảnh tình hình hiện nay khi nguồn ODA có khả năng gia tăng trong khi nhu cầu phát triển đòi hỏi nguồn lực này rất lớn, chính phủ Việt Nam cam kết hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ nâng cao hiệu quả sử dụng ODA. Tính đến năm 2001 Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác với 25 nhà tài trợ song phương: Nhật bản, Canada, Phần Lan, Hà Lan… 19 đối tác đa phương: Italy, Bỉ, úc… và hơn 350 tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO). Giai đoạn 1993-2005 tổng số vốn cam kết mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam là 32,49 tỷ USD, năm sau cao hơn năm trước và luôn luôn tạo ra những “kỉ lục”, chẳng hạn: cam kết ODA 2005 đạt 3,4 tỷ là kỉ lục từ trước tới năm 2004; cam kết ODA 2006 đạt 3,74 tỷ USD cũng là con số kỉ lục từ trước tới năm 2005… Tuy nhiên trong 2 năm 1997-1998 con số “kỉ lục” lại đi theo chiều ngược lại- âm. Nhưng đây mới chỉ là con số cam kết, vì vậy kỉ lục “dương” hay kỉ lục ”âm” chưa nói đến được mục tiêu mà Việt Nam muốn vươn tới, đó là quyết tâm hợp thức hóa số vốn cam kết bằng các hiệp định vay và giải ngân có hiệu quả. Bảng 1 Tổng số vốn mà các nhà tài trợ song phương và đa phương cam kết dành cho Việt Nam năm 2006 thông qua con đương hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là 3,74 tỉ USD. 2. Tình hình hợp thức hóa và giải ngân Tổng số vốn cam kết đã được hợp thức hóa bằng các văn bản pháp lí (hiệp định vay) giữa chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ ODA giai đoạn 1993-2003 đạt khoảng 19,5 tỉ USD/25,35 tỉ USD, chiếm 77% tổng vốn cam kết. Dựa trên con số thống kê này có thể ước tính chung tổng số vốn cam kết đã được kí kết cho cả giai đoạn 1993-2005 vào khoảng 26 tỉ USD. Như vậy khoảng cách giữa cam kết và hợp thức hóa luôn có chênh lệch : trong giai đoạn 1993-2005 là trên 6,5 tỉ USD (32,49 tỉ USD- 26 tỉ USD) và nếu tính bình quân cho cả giai đoạn thì mức chênh lệch hàng năm vào khoảng 540 triệu USD/năm. Đây là con số không nhỏ khi mà nhu cầu huy động vốn ở Việt Nam đối với thị trường vốn quốc tế thông qua con đường hỗ trợ phát triển chính thức ngày càng lớn thì hiện tượng “thừa vốn” dưới dạng cam kết vẫn luôn xuất hiện. Điều này càng rõ nét hợ khi so sánh giữa số vốn cam kết với số vốn đã thực tế giải ngân. Bảng thống kê cho thấy tỉ trọng giữa số vốn ODA đã được giải ngân so với số vốn đã cam kết dành cho Việt Nam giai đoạn 1993-2005 chỉ đạt bình quân 50%. Như vậy cần phải nhận thấy rằng tỉ lệ giải ngân vốn ODA ở nước ta thời gian qua còn ở mức thấp, nhất là ở các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi. Cụ thể tính chung trong giai đoạn từ 1993-2003 mức giải ngân vốn ODA đạt khoảng 12,5 tỉ USD, bằng khoảng 49,3% tổng lượng ODA cam kết. Còn nếu tính riêng giai đoạn 2001-2005, thì mức giải ngân ODA đạt khoảng 7,6 tỉ USD, bằng khoảng 56,1% tổng lượng ODA cam kết giai đoạn này. Nếu xét riêng từng nhà tài trợ mức giải ngân nguồn vốn ODA của mỗi nhà tài trợ cũng rất khác nhau va biến động qua từng năm tài chính, ví như, việc giải ngân các khoản vay của chính phủ Nhật Bản tài khóa 2001 là 9,8%, tài khóa 2002 là 7,2% và khoảng 12% trong năm tài khóa 2003 (tỉ lệ giải ngân này thấp hơn so với tỉ lệ giải ngân trung bình 15%/1 năm ở các nước tiếp nhận khác). Đối với vốn ODA vay ưu đãi của ngân hàng Thế giới (WB), tỉ lệ giải ngân năm 2003 đạt 14,3%, tăng so với mức 12,1% của các năm trước đó, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình 18% của khu vực. Tình hình giải ngân của các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ khác như : Ngân hàng phát triển châu á (ADB), cơ quan phát triển Pháp (AFD), ngân hàng tái thiết Đức (KFW) cũng chưa đạt được mức mong muốn. Nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu? Để tra lời câu hỏi này cần phải có một cái nhìn toàn cục về những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới việc giải ngân nguồn vốn ODA. Về phía các nhà tài trợ: vấn đề nổi cộm làm cho tiến độ giải ngân vốn của các nước tiếp nhận bị chậm chễ, đó là sự khác biệt về quy trình, thủ tục dự án của các nhà tài trợ; điều kiện cho vay của các nhà tài trợ quá khắt khe; thủ tục của các nhà tài trợ phức tạp, việc phê duyệt phải qua nhiều bước; văn phòng đại diện của các nhà tài trợ tại Việt Nam có ít thẩm quyền, phải thường xuyên xin ý kiến của các cơ quan cấp trên ở nước ngoài; việc nhà tài trợ chậm phê duyệt tài liệu đấu thầu, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ, hay một số trường hợp không có sự nhất quán trong các điều kiện đấu thầu cũng gây ra sự chậm trễ trong triển khai thực hiện. Ngoài ra có những dự án do nhiều nhà tài trợ đồng cung cấp vốn, lên thủ tục thường chồng chéo, gây khó khăn cho chủ dự án trong quá trình triển khai… Về phía Việt Nam : Với tư cách là nước tiếp nhận thì việc giải ngân nguồn vốn ODA chậm, thường chịu ảnh hưởng của các nhân tố như lượng ODA cam kết tăng đều qua các năm, trong khi đó việc chuẩn bị chương trình dự án chưa diễn ra một cách tương xứng, đồng thời chưa có những hiểu biết đầy đủ về quy chế và thủ tục cung cấp ODA của các nhà tài trợ; các điều kiện tiếp thu và sử dụng ODA trong nước còn nhiều bất cập như các quy trình, thủ tục ODA trong nước, cơ chế tài chính, nguồn vốn đối ứng, chính sách đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, quy chế đấu thầu; quy trình và thủ tục hiện hành của nhà nước ta trong việc sử dụng vốn ODA, kể cả quy trình và thủ tục giải ngân còn nhiều tầng nấc, nhiều khâu; chế độ chính sách hiện hành ở trong nước thiếu đồng bộ, nhiều điểm không phù hợp với thông lệ quốc tế;việc thay đổi thiết kế quy trình kĩ thuật khâu tổ chức đấu thầu, đàm phán bị kéo dài cũng làm cho tiến độ rút vốn bị ảnh hưởng; có nhiều trường hợp phía Việt Nam còn lúng túng trong thủ tục thanh toán, dẫn đến việc thiếu các chứng từ hoặc nội dung cần thiết… Như vậy có thể nói là có khá nhiều những nhân tố ảnh hưởng tới việc giải ngân vốn ODA. Tuy nhiên nếu xuất phát từ việc nghiên cứu tình hình giải ngân vốn ODA ở nước ta thời gian qua và qua phân tích điều kiện thực tế của các đơn vị được thụ hưởng nguồn vốn ODA, chúng tôi cho rằng phần lớn nguyên nhân làm cho việc giải ngân ODA chậm là do phía Việt Nam. Nó chủ yếu tập trung ở những điểm sau : Thứ nhất : Bước sang giai đoạn 2001-2005, nhiều dự án đầu tư quy mô lớn đang thực hiện ở giai đoạn cuối nên lượng vốn giải ngân là không lớn. Trong khi đó có khá nhiều dự án đầu tư quy mô lớn ( như dự án cầu Thanh Trì, dự án cầu Cần Thơ, cầu Bãi Cháy…) hiện lại đang ở giai ở giai đọan đầu với các công việc chuẩn bị là chủ yếu ( như giải phóng mặt bằng, chuẩn bị tài liệu đấu thầu và tổ chức đấu thầu…). Do đó đã không tạo được bước đột phá trong việc giải ngân vốn ODA trong năm 2004 như mục tiêu đã đề ra. Thứ hai : Thời gian qua, hầu hết các dự án ODA đều gặp vướng mắc về di dân, giải phóng mặt bằng. Thứ ba : Thủ tục phê duyệt thiết kế chi tiết, tổng dự toán, nội dung đấu thầu ở phía Việt Nam thường chậm trễ, không chính xác. Thứ tư : Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lí dự án chưa đáp ứng được yêu cầu do thiếu về số lượng, yếu về năng lực, thiếu tính chuyên nghiệp và chủ yếu làm kiêm nhiệm, tình trạng này đặc biệt phổ biến ở các địa phương. Thứ năm : Vấn đề tư vấn chưa được coi trọng đúng mức. Những yếu tố trên tác động rất lớn đến tiến độ giải ngân vốn ODA trong thời gian qua. Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là tại sao trong khi chỉ sử dụng hết 1/2 số vốn ODA cam kết hàng năm nhưng các nhà tài trợ ODA vẫn tiếp tục cam kết dành cho Việt Nam cao hơn so với nhu cầu thực tế mà chúng ta cân? Phải chăng các nhà tài trợ ODA thể hiện sự đồng thuận của mình đối với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam, hay họ tiếp tục cam kết làm ăn đến cùng với Việt Nam thông qua đầu tư vốn ODA để gián tiếp tạo cầu nôi cho các hoạt động đầu tư khác trong thời gian tới, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Có thể có 2 cách lí giải cơ bản sau : - Một là : Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã dành được những thành tựu to lớn về phương diện kinh tế. Bên canh đó, chỉ số tín nhiệm quốc gia ở Việt Nam không ngừng được cải thiện, nên việc đầu tư vốn ODA vào Việt Nam so với các nước đang phát triển ở khu vực châu á, châu Phi, Mĩ Latinh… sẽ mang tính khả thi hơn bởi đặc tính ổn định và khả năng sử dụng vốn ODA của Việt Nam thời gian gần đây tương đối hiệu qua. Số vốn ODA cam kết hàng năm, đặc biệt là từ các nhà tài trợ ODA song phương không ngừng tăng cao hơn so với các nhà tài trợ ODA đa phương càng minh chứng rõ nét hơn về điều này. Năm 2006 xuất hiện nhân tố tài trợ song phương mới, đó là Trung Quốc, mặc dù nước này chưa nằm trong khối các nước thường xuyên cung cấp ODA cho Thế giới (OECD). Nhân tố cung cấp ODA mới này góp phần làm cho tổng số vốn ODA cam kết hàng năm mà Việt Nam nhận được từ các nhà tài trợ tăng lên. - Hai là : Việt Nam vẫn là tiềm năng cho các nhà cung cấp ODA mở rộng các hoạt động đầu tư gián tiếp của mình đằng sau đầu tư vốn ODA. Tức là đi kèm vốn ODA, các nhà cung cấp ODA có thể cung cấp (bán) thiết bị, kĩ thuật, công nghệ,tư vấn… với “giá cao” cho các nước tiếp nhận ODA trong khuôn khổ các chương trình/dự án ODA đã được các bên hợp thức hóa bằng Hiệp định vay. Ngẫm sâu hơn có thể hiểu rằng : đây chính là một trong những hình thức thu hồi vốn hay bù đắp chi phí của các nhà cung cấp vốn ODA dành cho các nước tiếp nhận ODA một khi họ cho vay nguồn vốn này với lãi suất thấp . Như vậy , hoạt động cung cấp ODA tăng vì các hoạt động cung cấp (bán hàng hóa và dịch vụ)._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28100.doc
Tài liệu liên quan