Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa: Thực trạng và giải pháp: ... Ebook Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa: Thực trạng và giải pháp

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1710 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ ******************** CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Đề tài: Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa: }Thực trạng và giải pháp ~ GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : TS. TẠ VĂN LỢI SINH VIÊN THỰC HIỆN : ĐỖ BÍCH HẰNG LỚP : KINH DOANH QUỐC TẾ A KHÓA : 46 HỆ : CHÍNH QUY Hµ Néi – 04/2008 MỤC LỤC Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, sơ đồ, biểu đồ Danh mục các từ viết tắt -----˜™----- NHCT : Ngân hàng Công thương NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng nhà nước CBCNV : Cán bộ công nhân viên TƯ : Trung ương VNĐ : Việt Nam đồng TDTTNK : Tín dụng tài trợ nhập khẩu CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa TSĐB : Tài sản đảm bảo Danh mục các bảng, sơ đồ, biểu đồ -----˜™----- Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công thương Đống Đa -------------¯¯------------- Bảng 2.1 : Nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương Đống Đa năm 2005 – 2007 Bảng 2.2 : Giá trị và tỷ trọng nợ vay của Chi nhánh (2005 – 2007) Bảng 2.3 : Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại năm 2005- 2007 Bảng 2.4 : Doanh số thanh toán qua Chi nhánh năm 2005 – 2007 Bảng 2.5 : Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh năm 2005 – 2007 Bảng 2.6 : Cơ cấu dư nợ TDTTNK theo loại tiền Bảng 2.7 : Cơ cấu dư nợ TDTTNK theo mặt hàng của NHCT Đống Đa năm 2004 – 2007 Bảng 2.8 : Tỷ trọng nợ quá hạn trong cho vay nhập khẩu tại NHCT Đống Đa năm 2004 – 2007 Bảng 2.9: Doanh số thanh toán nhập khẩu và mua bán ngoại tệ tại NHCT Đống Đa năm 2004 – 2007 --------------¯¯------------- Biểu đồ 2.1: Nợ được thu hồi và nợ xấu của NHCT Đống Đa năm 2005 – 2007 Biểu đồ 2.2: Số tài khoản tiền gửi tại NHCT Đống Đa năm 2005 – 2007 Biểu đồ 2.3: Số thẻ phát hành của Chi nhánh NHCT Đống Đa Biểu đồ 2.4: Quy mô tín dụng tài trợ nhập khẩu của NHCT Đống Đa năm 2004 – 2007 Biểu đồ 2.5: Cơ cấu tài trợ theo thời hạn Biểu đồ 2.6: Cơ cấu tài trợ theo loại tiền Biểu đồ 2.7: Cơ cấu tài trợ theo thành phần kinh tế Biểu đồ 2.8: Dư nợ tài trợ nhập khẩu có tài sản đảm bảo Biểu đồ 2.9: Doanh số cho vay mở L/C Biểu đồ 2.10: Doanh số cho vay chuyển tiền trực tiếp thanh toán cho nước ngoài --------------¯¯------------ LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển đất nước, nhập khẩu trở thành hoạt động tất yếu khách quan. Hoạt động nhập khẩu tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp đầu vào và tiêu thụ các yếu tố đầu ra cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cùng với những lợi ích mang lại từ giao thương quốc tế thì sự cạnh tranh gay gắt trên một thị trường rộng lớn đòi hỏi các nhà nhập khẩu phải tìm kiếm một sự hỗ trợ rất lớn về mặt tài chính cũng như về mặt kỹ thuật từ các ngân hàng thương mại để bảo đảm hạn chế rủi ro phát sinh và đủ khả năng tiến hành một thương vụ quốc tế được an toàn bởi các hoạt động nhập khẩu luôn ẩn chứa nguy cơ dẫn đến rủi ro và thất bại. Do vậy để đáp ứng nhu cầu vốn và nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp, các ngân hàng đã tiến hành nhiều hoạt động cải tiến và đa dạng hóa các hình thức tài trợ nhập khẩu. Với 20 năm hoạt động, Chi nhánh NHCT Đống Đa đã góp phần tích cực thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; không ngừng phấn đấu vươn lên, khẳng định được vị trí là một trong những Chi nhánh lớn mạnh của NHCT Việt Nam, có bước phát triển và tăng trưởng nhanh, đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt hoạt động kinh doanh - dịch vụ ngân hàng; phát triển đồng đều cả kinh doanh đối nội và kinh doanh đối ngoại, có uy tín với nhiều khách hàng, doanh nghiệp lớn. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng của nghịêp vụ tín dụng, hoạt động tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa đã diễn ra rất sôi động. Chi nhánh đã thực sự trở thành nguồn hỗ trợ đắc lực giúp các doanh nghiệp nhập khẩu thực hiện tốt thương vụ của mình. Tuy nhiên do sự cạnh tranh khốc liệt từ các ngân hàng và do tính chất phức tạp của hoạt động nhập khẩu nên việc mở rộng và phát triển của Ngân hàng Công thương Đống Đa gặp phải không ít khó khăn và bộc lộ nhiều hạn chế. Xuất phát từ thực tế trên, em đã lựa chọn đề tài “Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 2.1. Mục đích nghiên cứu: Dựa vào việc xác định bản chất và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động nhập khẩu, đề tài hướng tới việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Qua đó thấy được những thành công và hạn chế của Ngân hàng trong hoạt động, từ đó đưa ra những giải phát triển hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong tương lai. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa những vấn đề lí luận chung về tín dụng tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng thương mại Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, từ đó đánh giá những mặt được, mặt hạn chế cũng như những nguyên nhân tồn tại trong hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại NHCT Đống Đa Trên cơ sở định hướng về hoạt động nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2010 và mục tiêu phương hướng của Ngân hàng Công thương Đống Đa, đề tài đề xuất các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng trong thời gian tới 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu vào các vấn đề sau: - Về hoạt động : tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng - Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2004 đến năm 2007 - Giác độ nghiên cứu : Cấp doanh nghiệp 4. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở kiến thức học ở trường và qua sách báo, em đã vận dụng một số phương pháp sau đây trong việc nghiên cứu đề tài: - Phương pháp thu thập số liệu: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa. - Phương pháp phân tích thống kê. - Phương pháp so sánh sự biến động của dãy số qua các năm. 5. Kết cấu của bài viết: Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành 3 chương: Chương I: Những vấn đề lí luận chung về hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân Hàng Công thương Đống Đa Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa CHƯƠNG 1 Những vấn đề lí luận chung về hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại 1.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại: 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng ngân hàng: 1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng: Trên thực tế có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tín dụng. Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định sẽ quay trở về với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Như vậy tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay với người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, hàng hóa. Nếu tiếp cận khái niệm tín dụng theo chức năng hoạt động của một ngân hàng thì tín dụng được hiểu là giao dịch về tài sản giữa Ngân hàng thương mại và khách hàng, trong đó NHTM chuyển giao tài sản cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, khách hàng có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho NHTM khi đến hạn thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng trở thành loại hình tín dụng phổ biến, vì đối tượng cho vay ở đây là tiền tệ nên tính linh hoạt của nó rất cao, đồng thời vì ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên có thể cung cấp cho khách hàng với quy mô lớn, thời hạn phù hợp và có khả năng tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất, thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tư trung, dài hạn, đáp ứng các nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mua sắm tài sản cố định...Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân. 1.1.1.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng: Bên cạnh những đặc điểm cơ bản của tín dụng thì tín dụng ngân hàng còn có các đặc điểm mang tính chất đặc thù so với các loại tín dụng khác. Điều này được thể hiện trên các mặt: - Về hình thức biểu hiện: Hoạt động tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ. Do đặc tính về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, để tập trung được lượng vốn lớn từ nhiều chủ thể, cũng như phân phối đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thái tiền tệ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. - Chủ thể trong tín dụng ngân hàng: Ngân hàng thương mại đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là chủ thể đi vay trong khâu huy động, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối cho vay. - Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hòan toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa: xuất pháp từ đặc điểm tín dụng ngân hàng được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa, giá trị của món tín dụng có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục những hạn chế của tín dụng thương mại, mở rộng cung ứng vốn cho các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển. 1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng: Có thể nói sự ra đời của tín dụng là một yêu cầu tất yếu khách quan, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện qua các mặt sau: * Tín dụng đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, góp phần thúc đẩy sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững, tăng cường tính linh hoạt của nền kinh tế: Trong quá trình hoạt động sản xuất không phải bất cứ lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình, nên để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, doanh nghiệp thường tìm đến ngân hàng để nhận được sự tài trợ về nguồn vốn. Hoạt động tín dụng ngân hàng phá bỏ các giới hạn về khả năng vốn của doanh nghiệp, cá nhân, với chức năng tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ thuật và công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo khả năng và khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh vực tiềm năng, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. * Tín dụng góp phần mở rộng quy mô lưu thông hàng hóa và tiết kiệm chi phí lưu thông hàng hóa : Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ hữu cơ giữa sản xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội. Nó làm cho lưu thông hàng hóa mở rộng thị trường trong và ngoài nước Thông qua cơ chế thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng, và các phương tiện thanh toán: séc, thương phiếu, hối phiếu... tín dụng giúp cho việc dịch chuyển các quỹ tiền dưới dạng chuyển khoản luôn thuận tiện, nhanh chóng và an toàn hơn so với vận chuyển tiền mặt, làm giảm giao dịch tiền mặt nên có thể tiết kiệm được một khoản chi phí cho việc lưu thông tiền mặt, hạn chế hiện tượng “nền kinh tế tiền mặt”. Nhờ đó có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. * Tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước tăng cường sự quản lý đối với hoạt động tài chính: cân đối thu chi ngân sách, góp phần điều chỉnh lượng tiền cung ứng trong lưu thông, khắc phục tình trạng lạm phát tiền tệ, ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả, bảo đảm sự cân đối tìên hàng, giữ cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và kiểm soát thị trường giá cả và sức mua của đồng tiền. Đồng thời tài trợ cho các ngành lĩnh vực then chốt vươn ra thị trường nước ngoài, nâng cao sự cạnh tranh cho nền kinh tế. 1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng: Việc phân loại tín dụng ngân hàng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Sau đây là một số cách phân loại phổ biến ở các Ngân hàng thương mại: - Căn cứ nghiệp vụ ngân hàng thương mại: + Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hòan trả cả gốc lẫn lãi. + Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn của NHTM được thực hiện dưới hình thức khách hàng sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho NH để nhận một khoản tiền thấp hơn mệnh giá của thương phiếu. + Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. + Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. - Căn cứ vào thời hạn cho vay: + Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sủ dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. + Cho vay trung hạn: Theo quy định của NHNN Việt nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn: chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. + Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới... - Căn cứ mục đích cho vay: bất động sản, công nghiệp và thương mại, nông nghiêp, du học, mua xe... + Cho vay bất động sản là loại tín dụng cho vay liên quan đến việc mua sắm, xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. + Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ + Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, nhiên liệu, lao động... + Cho vay du học, cho vay mua xe: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền ( xe, du học...) - Căn cứ vào xuất xứ tín dụng : + Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng + Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán - Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: + Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ 3, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. + Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ 3. 1.2. Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng thương mại: 1.2.1. Khái niệm về tài trợ nhập khẩu Trong hoạt động ngoại thương của mỗi nước, để thực hiện thành công nghiệp vụ xuất nhập khẩu, bên cạnh những vấn đề về chất lượng và cạnh tranh trong việc xuất nhập khẩu sản phẩm, một vấn đề nữa mà chúng ta cần phải quan tâm là sự tài trợ về mặt tài chính của ngân hàng phục vụ cho hoạt động này. Tài trợ của ngân hàng thương mại về bản chất là khoản tín dụng được cấp bởi ngân hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng tham gia tài trợ chỉ với một số vốn chiếm tỉ lệ nhất định trong tổng vốn cần thiết cho dự án hoặc thương vụ, phần vốn còn lại phải là vốn của doanh nghiệp. Tài trợ ngoại thương bao gồm các hoạt động mang tính chất tài trợ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu trong quá trình giao dịch ngoại thương. Tài trợ nhập khẩu là một bộ phận trong hoạt động tài trợ ngoại thương của các ngân hàng thương mại. Về hình thức, tài trợ nhập khẩu là các khoản ngân hàng cho người nhập khẩu vay với mục đích bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp để họ có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng ngoại thương đã kí với người xuất khẩu, trong đó kì hạn tài trợ gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ nhập khẩu. Đối tượng được tài trợ nhập khẩu là nhu cầu về tiền của các nhà nhập khẩu để thanh toán cho bên xuất khẩu trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Thời hạn tài trợ thường là ngắn hạn. Các tổ chức nhập khẩu muốn được tài trợ cũng phải có một số điều kiện nhất định như có giấy phép kinh doanh, nhập khẩu mặt hàng được phép nhập theo quy định của pháp luật và một số yêu cầu về khả năng tài chính để đảm bảo việc hoàn trả nợ vay. 1.2.2. Vai trò của tài trợ nhập khẩu Trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, vấn đề mở rộng và phát triển thương mại quốc tế ngày càng trở nên tất yếu và cấp bách đối với các quốc gia. Để đảm bảo cho hoạt động thương mại quốc tế đạt hiệu quả, cần thiết phải có sự hỗ trợ về mặt tài chính và kĩ thuật từ phía các ngân hàng. Vai trò đó được biểu hiện rõ nét ở: 1.2.2.1. Đối với Ngân hàng thương mại Tài trợ của ngân hàng trong lĩnh vực nhập khẩu là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh bởi vì: Thứ nhất, thời gian tài trợ ngắn hạn do gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ. Thời gian thực hiện thương vụ đối với người nhập khẩu là thời gian kế từ lúc nhận hàng tại cảng cho đến khi bán hết hàng và thu tiền về. Kì hạn tài trợ ngắn phù hợp với kì hạn huy động vốn của ngân hàng thương mại thường là dưới 1 năm. Điều này giúp ngân hàng tránh được rủi ro về thanh khoản Thứ hai, tài trợ nhập khẩu đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, đồng vốn tài trợ gắn liền với thương vụ. Ví dụ như trong một số trường hợp vốn tài trợ được ngân hàng thanh toán thẳng cho bên thứ 3 mà không thông qua bên xin tài trợ như thanh toán tiền hàng nhập khẩu ...Việc làm này sẽ hạn chế được tình trạng sử dụng vốn sai mục đích, tránh được rủi ro tín dụng Thứ ba, tài trợ nhập khẩu nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Đối với người nhập khẩu trong trường hợp tài trợ, ngân hàng sẽ buộc người nhập khẩu tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại ngân hàng. Do vậy nguồn thu để trả các khoản tài trợ được ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng xoay vốn của doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi dễ xảy ra rủi ro. Thứ tư hoạt động tài trợ nhập khẩu mang lại một nguồn thu lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng thông qua các khoản lãi và phí dịch vụ. Tài trợ nhập khẩu cũng là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển các loại hình dịch vụ khác của ngân hàng như thanh toán quốc tế hay kinh doanh ngoại hối. Nhờ đó mà ngân hàng vừa đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh. Mặt khác hoạt động tài trợ nhập khẩu cũng là giải pháp hữu hiệu tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng được quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài, nâng cao vị thể cũng như uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính nói riêng và thị trường kinh tế quốc tế nói chung, góp phần thực hiện chủ trương đường lối đối ngoại của nhà nước. 1.2.2.2. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu: Không chỉ có vai trò đối với ngân hàng thương mại mà tín dụng tài trợ nhập khẩu còn có vai trò đối với doanh nghiệp nhập khẩu: Trước hết, sự tài trợ của ngân hàng là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Tài trợ nhập khẩu của ngân hàng giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn. Có những thương vụ trong ngoại thương đòi hỏi nguồn vốn rất lớn mà vốn lưu động của doanh nghiệp không đủ để thanh toán tiền hàng thì khoản tài trợ của ngân hàng là giải pháp hiệu quả giúp nhà nhập khẩu thực hiện được những hợp đồng dạng này. Thứ hai, tín dụng tài trợ nhập khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thương mại quốc tế. Có vô vàn rủi ro về kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hóa... không thể lường trước được khi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động ngoại thương. Những rủi ro tiềm tàng này luôn đe dọa đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, khi các ngân hàng cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu, doanh nghiệp sẽ hạn chế rủi ro trên thị trường, đồng thời cũng ngân hàng cũng đã gánh chịu một phần rủi ro từ nhà nhập khẩu chuyển giao sang. Tuy nhiên để nhận được những hình thức tài trợ này thì doanh nghiệp phải đáp ứng những yêu cầu chặt chẽ của ngân hàng. Thứ ba, tài trợ nhập khẩu góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình đàm phán kí kết, thực hiện hợp đồng. Thông qua hoạt động tài trợ, doanh nghiệp nhập khẩu nhận được vốn của ngân hàng để thực hiện được thương vụ mua những lô hàng lớn, giá cả phải chăng. Trên thực tế, việc ngân hàng thường tham gia tài trợ các dự án với quy mô nhỏ và vừa, thời gian thu hồi vốn không quá dài như thay đổi dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển được quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Thứ tư, hoạt động tài trợ nhập khẩu góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong kinh doanh. Các ngân hàng cho ra đời hình thức tài trợ dưới dạng bảo lãnh - một loại tín dụng rất phổ biến ngày nay khi mà môi trường kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn trôi chảy, quan hệ được với khách hàng lớn và có tầm cỡ thế giới, từ đó nâng cao hiệu quả và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Phát hành chứng thư bảo lãnh tức là ngân hàng đã thay mặt doanh nghiệp đứng ra đảm bảo khả năng hoàn thành nghĩa vụ trong hợp đồng đã kí kết của doanh nghiệp. Nhận được sự bảo lãnh của ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng lớn, có uy tín trong và ngoài nước đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã tôn thêm được hình ảnh của mình, tăng thêm niềm tin với bạn hàng, giành được ưu thế cạnh tranh từ các đối thủ. 1.2.2.3. Đối với nền kinh tế đất nước: Tài trợ nhập khẩu là nhân tố quan trọng làm tăng hiệu quả ngoại thương, góp phần khai thác lợi thế so sánh của đất nước và tăng kim ngạch xuất nhâp khẩu, cải thiện cơ cấu mặt hàng nhập khẩu theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu thiết bị công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, tài trợ nhập khẩu của ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho hàng hóa nhập khẩu theo yêu cầu của thị trường được lưu thông trôi chảy, thực hiện thường xuyên, liên tục, góp phần tăng tính năng động của nền kinh tế, ổn định thị trường. Ngoài việc tài trợ vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhập khẩu dây chuyền công nghệ máy móc thiết bị phát triển phục vụ sản xuất, tài trợ nhập khẩu còn giúp doanh nghiệp tăng năng hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm, và góp phần nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho đời sống và sinh hoạt của nhân dân. Chính sự phát triển đó của doanh nghiệp sẽ tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Ngoài ra, tài trợ nhập khẩu của ngân hàng nếu được thực hiện tốt sẽ giúp ngân hàng và doanh nghiệp mở rộng mối quan hệ, nâng cao uy tín trên thị trường thế giới. Từ đó vị thế của quốc gia trên thương trường quốc tế cả về kinh tế và chính trị sẽ được củng cố. Đồng thời góp phần phục vụ chương trình phát triển kinh tế đất nước, thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra. Nói tóm lại, tài trợ nhập khẩu của ngân hàng đã mang lại cho doanh nghiệp, đất nước và cả chính bản thân ngân hàng những lợi ích không nhỏ. Đây là một giải pháp tất yếu và vô cùng hữu ích trong rất nhiều giải pháp từ nhiều phía khác nhau. Thông qua hoạt động này doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngân hàng có thể mở rộng và quan hệ với các doanh nghiệp và các ngân hàng nước ngoài, từ đó tạo nên những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. 1.2.3. Các phương thức tín dụng tài trợ nhập khẩu Hoạt động ngoại thương càng phát triển thì các hình thức thanh toán càng đa dạng và tất yếu dẫn đến sự đa dạng trong hoạt động cho vay nhập khẩu. Dưới đây là các phương thức tín dụng tài trợ nhập khẩu phổ biến của các Ngân hàng thương mại hiện nay: 1.2.3.1.Cho vay mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu Phương thức tín dụng chứng từ là một thỏa thuận trong đó ngân hàng (Ngân hàng phát hành L/C) theo yêu cầu của khách hàng mở L/C sẽ trả tiền cho bên thứ 3 hay bất cứ một người nào khác theo lệnh của người thứ 3 đó khi đã chấp nhận thanh toán hay mua hối phiếu sau khi đã xuất trình đủ các chứng từ quy định. Trong trường hợp khách hàng không đủ tiền thanh toán có thể yêu cầu ngân hàng cho vay khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp cho nhà nhập khẩu này được đảm bảo bằng bộ chứng từ hàng hóa (L/C). Việc mở thư tín dụng đã thể hiện sự tài trợ cho nhập khẩu. Ngân hàng phát hành L/C có thể miễn cho các doanh nghiệp không phải kí quỹ 100%. Sự tài trợ này cũng giúp cho các doanh nghiệp không bị ứ đọng vốn trong thời gian chứng từ luân chuyển vì trong thực tế thời gian mở thư tín dụng đến khi thanh toán xong là khoảng thời gian khá dài. 1.2.3.2. Bảo lãnh: Đây là hình thức tín dụng qua cam kết bằng phát hành thư bảo lãnh hay mở L/C trả chậm, kí bảo lãnh trên hối phiếu nhận nợ nước ngoài, thanh toán hối phiếu khi đến hạn. Bảo lãnh là một trong những hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng nhưng khi sử dụng trong hoạt động nhập khẩu nó trở thành một trong những hình thức tài trợ nhập khẩu 1.2.3.3. Tín dụng ứng trước cho nhà nhập khẩu: Khi người xuất khẩu giao hàng xong, xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng phát hành để được thanh toán mà người nhập khẩu chưa có tiền hoặc chưa có đủ tiền thì khoản tín dụng ứng trước của ngân hàng sẽ giúp người nhập khẩu có thể thanh toán và nhận hàng. Sau đó nhà nhập khẩu phải thu hồi vốn bằng việc bán hàng hóa đó và trả nợ ngân hàng. Khi nhà nhập khẩu xin cấp tín dụng ứng trước, những giấy tờ có giá theo lệnh hay bộ chứng từ hàng hóa đều là vật bảo đảm tín dụng. Ngoài ra nhà nhập khẩu còn phải xuất trình cho ngân hàng một bản kế hoạch về việc bán lô hàng đã nhận trong thương vụ này. 1.2.3.4. Chấp nhận của Ngân hàng: Đối với hối phiếu có kì hạn sẽ được ngân hàng phía nhà nhập khẩu đóng dấu chấp nhận thanh toán. Khi nhà xuất khẩu có nhu cầu về vốn, Ngân hàng nhập khẩu sẽ trả tiền (có chiết khấu cho bên bán và giữ lại hối phiếu). Khi đáo hạn thì sẽ thu tiền từ nhà nhập khẩu. Đây là hình thức ngân hàng đã cấp một khoản tín dụng cho người nhập khẩu. Hối phiếu này có thể được bán trên thị trường hoặc chiết khấu tại ngân hàng. 1.2.3.5. Tín dụng chấp nhận hối phiếu của nhà nhập khẩu: Nhà nhập khẩu kí hợp đồng tín dụng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ. Hối phiếu này do Chi nhánh ở ngân hàng nước ngoài (ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) phát hành và chuyển đến cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu dùng hối phiếu này chiết khấu nhận tiền tại Ngân hàng phục vụ mình. Đến hạn thanh toán trên cơ sở chuyển vốn từ tài khoản của người nhập khẩu hoặc từ Ngân hàng nhập khẩu. 1.2.3.6. Tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp: Đây là hình thức vay vốn dựa trên cơ sở hợp đồng hàng hóa với lệnh trả tiền từ khoản vay được chuyển trả cho bên xuất khẩu. 1.2.4. Các nhân tố tác động đến hoạt động tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng thương mại: Cũng như các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại, hoạt động tài trợ nhập khẩu chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Những nhân tố này có thể đẩy mạnh hoặc hạn chế hoạt động cho vay nhập khẩu của Ngân hàng. 1.2.4.1. Nhân tố chủ quan: * Về phía Ngân hàng thương mại: + Bộ máy tổ chức quản lý và quy trình nghiệp vụ Hoạt động của ngân hàng có thuận lợi và đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc đến bộ máy tổ chức quản lý và quy trình nghiệp vụ được thực hiện trong ngân hàng. Bộ máy tổ chức và quy tình nghiệp vụ tinh gọn, phù hợp sẽ nâng cao chất lượng thẩm định, hạn chế rủi ro trong công tác tín dụng + Quy mô và cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng: Quy mô và cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực tài trợ nhập khẩu của ngân hàng. Bởi vậy những ngân hàng có quy mô lớn sẽ có nhiều ưu thế trong hoạt động cho vay nhập khẩu và ngược lại. Mặt khác nếu nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn thì sẽ hạn chế việc cho vay trung – dài hạn. Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền cũng ảnh hưởng tới hoạt động cho vay nhập khẩu. Nếu nguồn vốn của ngân hàng có nhiều ngoại tệ thì ngân hàng sẽ thuận lợi hơn trong việc cung ứng vốn cho hoạt động nhập khẩu. Do đó để thực hiện tốt hoạt động tài trợ nhập khẩu thì ngân hàng phải có tiềm lực về nguồn vốn lớn mạnh. + Mạng lưới chi nhánh và chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng Mạng lưới chi nhánh là nơi đầu tiên khách hàng tiếp xúc với ngân hàng và là nơi thu hút khác hàng nên ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng có mạng lưới chi nhánnh hiện đại và rộng khắp sẽ tạo cho khách hàng sự tin tưởng và thuận lợi khi giao dịch và sử dụng các sản phẩm ngân hàng, giúp cho ngân hàng có thể tìm hiểu kỹ về nhu cầu vay vốn, hướng dẫn thủ tục cho vay và thực hiện tốt công tác marketing với khách hàng cũng như giám sát tình hình thực hiện khoản vay của khách ._.hàng. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng cũng quyết định đến hiệu quả tài trợ nhập khẩu. Nếu cán bộ tín dụng có năng lực và đạo đức nghề nghiệp, thông thạo nghiệp vụ ngoại thương, hiểu được quy định pháp luật quốc tế trong hoạt động nhập khẩu, phong tục tập quán của các nước, có khả năng giám sát, xử lý và phân tích tín dụng tốt sẽ đưa ra quyết định cho vay chính xác, hạn chế rủi ro cho ngân hàng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tài trợ nhập khẩu của ngân hàng. + Công nghệ ngân hàng: Công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng. Ngày nay, khi xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu thì các ngân hàng luôn cố gắng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Trước hết công nghệ hiện đại cho phép ngân hàng đơn giản hóa các thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ vay vốn, từ đó tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Mặt khác hoạt động tài trợ nhập khẩu có liên quan đến yếu tố nước ngoài, bởi vậy công nghệ hiện đại giúp ngân hàng nắm bắt được thông tin về thị trường nước ngoài nhanh chóng, chính xác, thu thập, và quản lý thông tin về khách hàng hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó đưa ra các quyết định xử lý, quyết định cho vay hiệu quả, hạn chế tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích và giảm tổn thất cho ngân hàng, đồng thời tăng khả năng tiếp cận và đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. * Về phía doanh nghiệp: + Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp nhập khẩu Ngân hàng chỉ có thể cho vay được vốn khi khách hàng có nhu cầu. Nếu nhu cầu của khách hàng lớn thì ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng quy mô tài trợ của mình và ngược lại. + Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm tàng: Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm tàng cho biết hiệu quả phương án sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Mỗi khoản vay đều được sử dụng vào một mục đích nhất định. Khi xem xét cho vay, ngân hàng sẽ đánh giá hiệu quả của phương án sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ cho vay khi phương án đó khả thi và hiệu quả. + Năng lực kinh doanh, trình độ quản lý cũng như khả năng am hiểu pháp luật, thị trường quốc tế sẽ giúp doanh nghịêp tránh được rủi ro như nhập khẩu hàng không đủ phầm chất, không tiêu thụ được cũng gây ảnh hưởng đến hiệu quả của ngân hàng khi tài trợ cho doanh nghiệp. + Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường: Phương án sử dụng hay tiêu thụ hàng nhập khẩu có phù hợp với nhu cầu thị trường, có triển vọng và có sức cạnh tranh trên thị trường hay không sẽ ảnh hưởng đến quyết định tài trợ của ngân hàng. + Hành vi đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tài trợ nhập khẩu của ngân hàng.Nếu doanh nghiệp có phẩm chất không tốt, chây ì cố tình không trả nợ hoặc giả mạo các chứng từ để có được sự tài trợ sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng. 1.2.4.2. Nhân tố khách quan * Chính sách nhập khẩu của nhà nước Bất kì sự thay đổi nào trong chính sách nhập khẩu của Nhà nước đều ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, từ đó tác động đến nhu cầu vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp này. Khi chính sách được định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và thế giới, nó sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu tiếp cận thị trường thương mại quốc tế, đáp ứng nhu cầu thị trường, mở rộng thị phần, tăng thu nhập từ đó gia tăng nhu cầu vay vốn của ngân hàng. Ngược lại, khi chính sách này không phù hợp, nó sẽ hạn chế hoạt động nhập khẩu và làm cho hoạt động cho vay nhập khẩu của ngân hàng cũng bị thu hẹp. * Biến động về kinh tế, chính trị trong nước và thế giới : sẽ khiến cho hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp gặp khó khăn và bị đình trệ, nhu cầu nguồn vốn giảm, nguồn vốn tài trợ của ngân hàng bị hạn chế, hoạt động ngân hàng trong đó có hoạt động tài trợ nhập khẩu bị thu hẹp. * Sự hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống luật pháp: tác động trực tiếp đến hoạt động tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng cả về quy mô và chất lượng. Vì hoạt động tài trợ nhập khẩu liên quan đến quy ước, thông lệ và tập quán kinh tế quốc tế về hợp đồng nhập khẩu, thanh tóan quốc tế, tín dụng chứng từ... Do đó hệ thống luật pháp hoàn chỉnh sẽ tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và giải quyết tranh chấp, rủi ro trong hoạt động tài trợ nhập khẩu của ngân hàng được hạn chế, chất lượng tài trợ được nâng cao. * Sự thay đổi tỷ giá : ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tài trợ nhập khẩu của ngân hàng thương mại. Nếu tỷ giá trong nước giảm tức là đồng ngoại tệ mất giá so với đồng nội tệ, lúc đó hàng hóa trong nước sẽ đắt một cách tương đối so với hàng hóa nước ngoài. Do vậy sẽ khuyến khích nhập khẩu hàng hóa và hạn chế xuất khẩu, kéo theo hoạt động tài trợ nhập khẩu của ngân hàng được mở rộng. Trong hoạt động nhập khẩu các bên thường thanh toán bằng ngoại tệ mạnh như USD, EUR... Vì vậy khi rủi ro tỷ giá hối đoái xẩy ra không chỉ gây nhiều tổn thất cho các doanh nghiệp, làm mất khả năng thanh toán cho ngân hàng, mà còn gây tổn thất cho kinh doanh của ngân hàng bởi vì trong hoạt động tài trợ nhập khẩu các ngân hàng thường cho vay bằng ngoại tệ. 1.3. Sự cần thiết của hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu: Trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế xã hội hiện nay, một nền kinh tế muốn phát triển không thể chỉ khép mình trong buôn bán nội địa mà phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng, theo hướng đa phương hóa thị trường trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền của nhau. Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương và đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Cụ thể là: - Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước, nhập khẩu để bổ sung các hàng hóa trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu; nhập khẩu còn để thay thế, những hàng hóa mà nếu sản xuất trong nước sẽ không mang lại hiệu quả cao. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. - Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hóa đất nước, đuổi kịp các nước tiên tiến, bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định. - Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của người dân vì nhập khẩu vừa thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, và tạo việc làm ổn định cho người lao động - Nhập khẩu có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Điều này thể hiện ở chỗ xuất khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng sản xuất được ra nước ngoài, đặc biệt là nước đối tác mà mình đã nhập hàng của họ. Do vậy có thể nói nhập khẩu tạo ra sự liên kết hợp tác giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp đầu vào và tiêu thụ các yếu tố đầu ra cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc tế. Để thực hiện thành công một thương vụ nhập khẩu, các nhà nhập khẩu phải tiến hành phân tích nhu cầu thị trường, kí kết hợp đồng, thực hiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng trước khi người xuất khẩu giao hàng như mở L/C, thah toán tiền hàng, cung cấp phương tiện vận chuyển hàng hóa ( phụ thuộc vào điều kiện giao hàng ), nhận hàng, tiêu thụ hàng hóa... Trong khi đó không phải lúc nào các doanh nghiệp nhập khẩu, ngay cả những doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh cũng có đủ nhu cầu vốn tương ứng với những chi phí phát sinh trong tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh hàng hóa. Cho nên các nhà nhập khẩu không chỉ dựa vào khả năng vốn của mình để có thể thực hiện trôi chảy tất cả các công đoạn của quá trình nhập khẩu hàng hóa, họ cần sự giúp đỡ tài trợ của ngân hàng. Không những vậy, bên cạnh những khó khăn thông thường như kinh doanh trong nội địa, các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu còn phải đương đầu với những nguy cơ xuất phát từ những yếu tố đặc thù trong giao thương quốc tế về thời gian thực hiện giao dịch, khoảng cách địa lý, về loại đồng tiền thanh toán và những biến động về tỉ giá hối đoái, về sự khác biệt trong luật lệ, tập quán kinh doanh và các quy định điều tiết giữa các chính phủ. Do đó, các ngân hàng không những cần hỗ trợ về mặt tài chính (cấp tín dụng) để hoàn tất nghĩa vụ thanh toán và sản xuất trong kinh tế đối ngoại mà còn cần hỗ trợ về mặt kĩ thuật, bảo đảm quá trình thanh toán cho những hoạt động chu chuyển với nước ngoài, đồng thời đảm nhận những rủi ro gắn liền với những hoạt động đó. Hoạt động ngoại thương càng phát triển thì các hình thức thanh toán càng đa dạng và tất yếu dẫn đến sự đa dạng trong hoạt động tài trợ nhập khẩu. Vai trò của Ngân hàng lúc này hết sức quan trọng để góp phần thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế. Ngân hàng phải nắm được hướng đi của các nhà hoạt động kinh doanh nhập khẩu và tạo điều kiện giúp đỡ họ. Chẳng hạn đối với một nhà kinh doanh nhập khẩu, khối lượng ngoại tệ của họ chưa dồi dào, thị trường hàng hóa dịch vụ đòi hỏi sự cạnh tranh tích cực, đó sẽ là nguyên nhân mà nhà nhập khẩu đi tìm nguồn vốn tài trợ để thực hiện nhập khẩu máy móc thiết bị đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm Như vậy tín dụng tài trợ nhập khẩu tồn tại như là một yêu cầu cần thiết, khách quan trong vai trò quan trọng của mình đối với hoạt động nhập khẩu cũng như nền kinh tế. Với sự phát triển ngày càng phong phú và da dạng của các hình thức tài trợ nhập khẩu mà ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn và kĩ thuật giúp cho các doanh nghiệp nhập khẩu thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình, giảm bớt rủi ro trong giao dịch mua bán giữa các nước với nhau. Từ đó có thể khẳng định rằng để có thể tạo điều kiện tốt hoạt động nhập khẩu diễn ra trôi chảy, bên cạnh vấn đề cốt lõi là chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm, cần đặc biệt quan tâm đến hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhập khẩu, trong đó không thể không chú trọng đến phát triển hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu của ngân hàng thương mại. 1.4. Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu : Về nhập khẩu thì nhìn chung các nước phát triển một mặt chủ trương sản xuất những hàng hóa và dịch vụ gì nước khác không sản xuất nổi và tập trung vào những ngành cần nhiều công nghệ tinh vi phức tạp nhưng cũng đem lại nhiều lợi nhuận nhất, mặt khác khuyến khích việc nhập khẩu hàng hóa rẻ tiền cần nhiều sức lao động, nhằm hạ giá thành đối với các sản phẩm tiêu dùng, đáp ứng phần lớn nhu cầu người nghèo và tầng lớp trung lưu, đồng thời góp phần kiềm chế lạm phát. Với chủ trương đó, các ngân hàng lớn của một số nước phát triển đã thực hiện tài trợ có hiệu quả cho các nhu cầu nhập khẩu cần thiết của nước mình. Sau đây là kinh nghiệm về hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu của một số ngân hàng lớn trên thế giới: 1.4.1. Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ (EXIMBANK) Ngân hàng xuất nhập khẩu của Mỹ được thành lập từ năm 1934 và được thiết lập dựa trên luật hiện hàng năm 1945 để cung cấp tài chính và hỗ trợ cho xuất nhập khẩu của Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay Mỹ đang nối lại các mối quan hệ buôn bán với nhiều nước trên thế giới, nhập khẩu càng được xem như yếu tố cần thiết góp phần nâng cao mức sống của người dân, đặc biệt là những người nghèo và quan trong hơn nữa là nó giúp kiềm chế lạm pháp. EXIMBANK thực hiện bảo lãnh những khoản vay vốn lưu động cho doanh nghiệp nhập khẩu Mỹ, bảo lãnh những khoản vay thanh toán hoặc cho vay để ứng trước tiền hàng cho những người cung cấp hàng hóa dịch vụ. Để khuyến khích việc nhập khẩu hàng hóa rẻ tiền cần nhiều sức lao động, nhằm hạ giá thành đối với các sản phẩm tiêu dùng, tạo thêm nhiều lựa chọn hơn, nhiều sự cạnh tranh mạnh hơn, EXIMBANK đang tập trung vào những lĩnh vực thực phẩm, tiêu dùng như đẩy mạnh nhập khẩu từ các nước Châu Á – Thái Bình Dương và các nước Châu Mỹ La Tinh, chống lại mạnh mẽ việc bao cấp trong buôn bán của các Chính phủ khác, tạo môi trường thuận lợi cho nhập khẩu những hàng hóa và dịch vụ hữu ích. EXIMBANK đóng vai trò trung tâm trong chính sách nhập khẩu của Chính phủ nhằm: Thứ nhất, làm cho hàng hóa nhập khẩu của Mỹ trở nên đa dạng hơn, từ đó đa dạng hóa nền kinh tế và tăng tính năng động cho mỗi ngành sản xuất cũng như từng doanh nghịêp Hoa Kì Thứ hai, tăng cường cơ hội cũng như phạm vi lựa chọn cho người tiêu dùng Hoa Kì. Thứ ba, tăng cường cạnh tranh giữa doanh nghiệp Hoa Kì và doanh nghiệp nước ngoài, tiến tới cải thiện công nghệ quản lý, công nghệ kỹ thuật và cuối cùng giảm giá bán cho người tiêu dùng. Thứ tư, tạo đối trọng nhằm gây sức ép để các nước đối tác mở cửa thị trường cho sản phẩm của Hoa Kì Thứ năm, kết hợp chặt chẽ với chính sách quân sự và ngoại giao tạo thành công cụ gây sức ép trong quan hệ đối ngoại, điển hình là các công cụ trừng phạt hoặc trợ giúp kinh tế. EXIMBANK cung cấp 2 loại dịch vụ chính nhằm hỗ trợ cho các nhà nhập khẩu Mỹ: - Bảo lãnh những khoản vay cho các tổ chức tín dụng cung cấp tài chính cho những nhà nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Mỹ - Cho vay trực tiếp đối với những nhà xuất khẩu nước ngoài Sự hỗ trợ tài chính của EXIMBANK nhằm mục đích trợ giúp trường hợp rủi ro chính trị và rủi ro thương mại cản trở việc cung ứng vốn của tư nhân, phục vụ cho lợi ích của quốc gia, cụ thể là phục vụ người tiêu dùng và phát triển các ngành kĩ thuật cao, từ đó tối ưu hóa cơ cấu nền kinh tế. 1.4.2. Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc: Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc cấp tài trợ cho doanh nghiệp trong nước dưới dạng tín dụng thuê mua nhằm giúp cho các doanh nghiệp có được máy móc thiết bị mà không cần phải có ngay vốn. Thay vì cần vốn để mua tài sản thì doanh nghiệp thuê tài sản đó từ ngân hàng và trả một khoản phí định kì hàng tháng hay hàng quý. Với phương thức này doanh nghiệp có thể lựa chọn máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu của mình. Sau thời gian thuê doanh nghiệp có quyền lựa chọn gia hạn thêm thời gian thuê hoặc lựa chọn mua lại tài sản. Ngoài ra Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn quốc còn có chương trình tái tài trợ là chương trình cấp tín dụng trung và dài hạn cho các ngân hàng nước ngoài có uy tín, các ngân hàng này sẽ dùng nguôn tài trợ này để cấp các khoản cho vay trung và dài hạn cho người nước ngoài để mua tư liệu sản xuất của Hàn quốc chế tác. Trình tự giao dịch khởi đầu bằng việc mhà nhập khẩu nước ngoài trình đơn yêu cầu tài trợ cho ngân hàng bản xứ. Theo yêu cầu của Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc, người nhận thực sự khoản vay này phải là một doanh nghiệp nhà nước người mua và phải đặt cọc 15% giá trị hợp đồng trước khi giao hàng. 1.4.3. Ngân hàng Đức: Ngân hàng Đức cấp tín dụng đặt hàng dành cho người đặt hàng là tín dụng dành cho người nước ngoài đặt mua hàng hóa hoặc các lao động dịch vụ trong nước nhằm thanh toán cho hàng hóa và các dịch vụ này. Đây là hình thức tài trợ nhập khẩu cho nước ngoài đồng thời Đức muốn khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu của nước mình. Một trong những hình thức tín dụng cho khách hàng nhập khẩu là các Ngân hàng Đức kí hiệp định khung với các Ngân hàng và Chính phủ nước ngoài đồng ý cung ứng cho các Ngân hàng và Chính phủ nước này những khoản tín dụng riêng nhằm tài trợ cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, hàng hóa dây chuyền công nghệ từ Đức. Hình thức này có ưu điểm sau với nhà xuất khẩu và nhập khẩu : - Đối với nhà xuất khẩu: + Tránh được rủi ro vì ngưng trệ thanh toán do ảnh hưởng về kinh tế, chính trị ở nước ngoài. + Tránh được khó khăn đối với cán cân thanh toán, giữ được khả năng tín dụng của mình + Cạnh tranh với đối thủ ở nước ngoài. - Đối với nhà nhập khẩu: + Có thể thanh toán từng phần cho cả công trình, thiết bị đã nhập khẩu. Đồng thời có thể thanh toán từ lợi nhuận của các sản phẩm đã làm ra từ các công trình thiết bị đó. + Nhà nhập khẩu giữ được vồn và ngoại tệ cho nước mình + Có thể tận dụng được lãi suất thuận lợi ở nước xuất khẩu. Đây là hình thức tài trợ cung cấp những khoản tín dụng cho những nước đang phát triển và những nước có hoạt động ngoại thương do Nhà nước quản lý để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của nước mình, do vậy hình thức xuất nhập khẩu theo hiệp định khung có một điều kiện tối thiểu là 60% giá trị hàng hóa phải được sản xuất hoặc có xuất xứ từ nước tài trợ Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển và một số ngân hàng thương mại lớn lớn trên thế giới, ta thấy rằng Chính phủ các nước này đã tạo ra được một môi trường pháp lý tương đối ổn định, các chính sách tài chính tiền tệ của nhà nước đã tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhập khẩu hoạt động với hiệu quả cao nhất. Ngân hàng thương mại tài trợ nhập khẩu là một công cụ trong chính sách kinh tế đối ngoại của các nước lớn có nền kinh tế phát triển, nó đóng vai trò trung tâm trong việc làm cho nhập khẩu nước đó đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng của người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó tiến tới xuất khẩu các sản phẩm ra thị trường thế giới. Như vậy chương 1 đã luận giải những vấn đề chung nhất về các vấn đế về tín dụng tài trợ nhập khẩu của ngân hàng thương mại cũng như sự cần thiết phải tăng cường hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu và đưa ra một số kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động này. Đây là căn cứ quan trọng cho việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa trong chương 2. CHƯƠNG 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân Hàng Công thương Đống Đa 2.1. Khái quát về Ngân hàng Công thương Đống Đa 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT Đống Đa: Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa là một đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc Ngân hàng công thương (NHCT) Việt Nam, có doanh số hoạt động lớn trong hệ thống NHCT Việt Nam và trên địa bàn thành phố Hà Nội. Cho đến nay, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có lịch sử hình thành và phát triển 20 năm với những thay đổi về tên gọi và cơ quan quản lí như sau: Năm 1959 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa được hình thành từ phòng Công thương nghiệp Ô chợ Dừa, sau đó đổi tên thành Chi điếm nghiệp vụ Ngân hàng nhà nước (NHNN) quận Đống Đa, hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Lúc đó chi nhánh có trụ sở tại 237 Khâm thiên – Hà Nội với tổng số cán bộ công nhân viên khoảng 50 người. Năm 1972 – 1987: Chi điếm ngân hàng nhà nước khu phố Đống Đa được đổi tên thành Chi nhánh ngân hàng nhà nước khu phố Đống Đa, có chức năng như một ngân hàng trung ương cơ sở, hoạt động vừa mang tính kinh doanh vừa mang tính quản lý nhà nước. Năm 1988: Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam có sự thay đổi lớn, chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, Chi nhánh nghiệp vụ ngân hàng nhà nước khu phố Đống Đa cũng được chuyển đổi thành NHCT quận Đống Đa trực thuộc NHCT thành phố Hà Nội theo Nghị định 53/HĐBT về “Đổi mới hoạt động Ngân hàng”. Năm 1993 Hệ thống NHCT thực hiện đổi mới về cơ cấu tổ chức, theo đó NHCT thành phố Hà Nội bị xóa bỏ, và Chi nhánh NHCT Đống Đa trở thành Chi nhánh NHCT cấp 1 trực thuộc NHCT Việt Nam. Hiện nay Chi nhánh có trụ sở chính tại 187 Nguyễn Lương Bằng – Đống Đa, và 2 phòng giao dịch tại 2 phường Kim Liên và Cát Linh, với mạng lưới huy động vốn rộng khắp gồm 34 quỹ tiết kiệm tại 15 phường. Từ khi thành lập đến nay, 20 năm đi vào hoạt động, Chi nhánh đã phải đương đầu với nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh, với trên 70 Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động trên cùng địa bàn Hà Nội. Thoát ra từ cơ chế cũ, bước đầu không tránh khỏi những khó khăn trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ tiền tệ, nhưng Chi nhánh không chịu khuất phục trước bất kì khó khăn nào. Bằng ý chí vươn lên của tập thể Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của NHCT Việt Nam, NHNN thành phố Hà Nội, của các cấp các ngành, chính quyền địa phương, Chi nhánh NHCT Đống Đa đã từng bước giành lại thế chủ động, hòa nhập với cơ chế thị trường mở cửa, nâng cao năng lực cạnh tranh, đứng vững và ngày càng phát triển nhanh chóng, ổn định, toàn diện, kết quả hoạt động kinh doanh không ngừng tăng trưởng đã góp phần vào sự nghiệp phát triển của ngành trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.Thu nhập từ dịch vụ ngân hàng từ chỗ chỉ chiếm 1% tăng lên gần 10% trong tổng thu nhập NHCT Việt Nam và ngày càng có uy tín được nhiều bạn hàng đánh giá cao. Trong những năm qua Chi nhánh liên tục được mở rộng về quy mô hoạt động, về tổ chức bộ máy và mạng lưới trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng, phát triển các dịch vụ để đáp ứng một cách tối ưu nhất các yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Sau một thời gian triển khai chương trình hiện đại hóa ngân hàng, chuyển từ chương trình cũ sang hệ thống INCAS, Chi nhánh đã nhanh chóng áp dụng công nghệ mới vào trong giao dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiến tới gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi. Đối với khách hàng, Chi nhánh đã có những đổi mới trong chính sách khách hàng hợp lý như hình thức khuyến mãi, quà tặng, tạo nên tâm lý thoải mái, an toàn đối với khách hàng, qua đó kích thích và thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng. Với những thành tích xuất sắc trong hoạt động nên Chi nhánh đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1995, Huân chương lao động hạng Hai năm 1998, Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2002. Đặc biệt trong năm 2003 Chi nhánh đã được trao tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”. Chi nhánh luôn đề ra mục tiêu :}Kinh tế phát triển, an toàn vốn, thực hiện đúng pháp luật, lợi nhuận hợp lí ~ với phương châm “ Tiếp Tục đổi mới, nâng cao trách nhiệm, phục vụ tốt khách hàng”. 2.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHCT Đống Đa: Với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn nhàn rỗi và cho vay bằng nội tệ và và ngoại tệ để phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật, trong những năm qua Chi nhánh đã đa dạng hóa hình thức kinh doanh hoạt động bằng nhiều cách, cụ thể như sau: 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn (Mở tài khoản và nhận tiền gửi): Mở tài khoản và nhận tiền gửi miễn phí, tiền gửi không kì hạn và có kì hạn của cá nhân và các tổ chức kinh tế, xã hội trong nước bằng đồng Việt Nam Nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kì hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ Phát hành kì phiếu, trái phiếu Rút tiền gửi tự động, thanh toán hóa đơn trên máy ATM, thẻ tiền mặt Gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi tại các điểm giao dịch một cửa của Chi nhánh và trong hệ thống nhanh chóng, chính xác, an toàn. 2.1.2.2. Hoạt động tín dụng: Cho vay ngắn hạn Cho vay trung và dài hạn Đồng tài trợ cho vay hợp vốn đối với những dự án có quy mô lớn và thời gian hoàn vốn dài Bảo lãnh: Bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, vay vốn với bảo lãnh của bên thứ 3, bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh giao nhận hàng… Các chương trình vay vốn ưu đãi 2.1.2.3. Dịch vụ kho quỹ Nhận thu, kiểm đếm tiền mặt tại các Điểm giao dịch, Phòng giao dịch của Chi nhánh và Trụ sở của khách hàng Nhận và giữ tiền và các giấy tờ quan trọng 2.1.2.4. Hoạt động thanh toán quốc tế: Thư tín dụng (L/C): NHCT Đống Đa phát hành, thông báo, xác nhận, chiết khấu và thanh toán thư tín dụng Nhờ thu (Collection): Nhờ thu trả ngay (D/P), nhờ thu trả chậm (D/A) Nhận và phát hành các loại bảo lãnh với nước ngoài Chuyển tiền bằng điện (TTR) Dịch vụ nhận và chi trả kiều hối Thanh toán thẻ tín dụng, séc du lịch, … Dịch vụ ngoại hối Dịch vụ mua bán ngoại hối giao ngay (Spot) Dịch vụ mua bán ngoại hối kì hạn Dịch vụ mua bán ngoại hối giao ngay (Swap) 2.1.2.5. Dịch vụ thanh toán điện tử: Các tổ chức kinh tế và cá nhân có thể nộp tiền mặt vào bất cứ điểm giao dịch nào của Chi nhánh NHCT Đống Đa hoặc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như Séc, UNT, UNC, TTD… Chi nhánh sẽ thực hiện chuyển tiền qua hệ thống thanh toán nhanh nhất cho khách hàng. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức nhân sự của NHCT Đống Đa 2.1.3.1. Về nhân sự: NHCT ĐĐ có tổng số 281 cán bộ, trong đó lực lượng nữ cán bộ chiếm tỉ lệ 80% trong tổng số CBCNV, có phòng nghiệp vụ 100% cán bộ nữ. 5 đồng chí trong Ban lãnh đạo Chi nhánh thì cả 5 người đều là nữ. Về trình độ học vấn có 35 thạc sĩ, 16 người đang học cao học, 230 đại học, tất cả đều có thể sử dụng và vận hành máy tính phục vụ cho công tác. Để có thể đảm đương mọi vị trí công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, các cán bộ của Chi nhánh luôn được tạo điều kiện học tập, tham gia các khóa đào tạo, đào tạo lại, nâng cao nhận thức chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Với tuổi đời trung bình trẻ, lại được trang bị đầy đủ các kiến thức cần thiết và có nhiều kinh nghiệm thực tế, đây thực sự là một nguồn lực đáng quý của Chi nhánh trên con đường phát triển trong tương lai. Do đó NHCT ĐĐ là một trong những đơn vị được NHCT Việt Nam lựa chọn để áp dụng công nghệ hiện đại hóa ngân hàng sớm nhất bằng chương trình OSFA giao dịch một cửa hiện nay, toàn hệ thống NHCT ĐĐ áp dụng chương trình INCAS giúp cho các giao dịch được thực hiện nhanh chóng, thuận tiện, khách hàng có thể gửi tiền một nơi và rút ở bất cứ nơi nào trong hệ thống NHCT trên toàn quốc. 2.1.3.2. Bộ máy tổ chức: (Sơ đồ 1.1) Chi nhánh NHCT Đống Đa bao gồm có 12 phòng ban được đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Ban giám đốc, đó là: Phòng tổ chức hành chính, Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ, Phòng khách hàng số 1, Phòng khách hàng số 2, Phòng khách hàng cá nhân, Phòng quản lý rủi ro, Phòng quản lý nợ có vấn đề, Phòng kế toán, Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu, Phòng tiền tệ kho quỹ, Phòng thông tin điện toán, Phòng tổng hợp tiếp thị. Ngoài ra Chi nhánh còn có 2 phòng giao dịch, 34 quỹ tiết kiệm, 2 điểm giao dịch mẫu, 9 máy ATM nằm rải rác trên địa bàn quận Đống Đa. Các phòng ban này đều được chuyên môn hóa theo chức năng và nghiệp vụ cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ, ăn khớp với nhau tạo ra sự đồng bộ, nhịp nhàng trong quá trình hoạt động của Ngân hàng. GIÁM ĐỐC Phó GĐ 4 Phòng Kế toán Phòng khách hàng số 2 Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ Phòng quản lí nợ có vấn đề nhân Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng Tổ chức- Hành chính Phòng thông tin điện toán Cho vay các nhân Huy động vốn S¬ ®å 1.1: C¬ cÊu tæ chøc cña Ng©n hµng C«ng th­¬ng §èng §a Phó GĐ 3 Phó GĐ 2 Phó GĐ 1 Phòng giao dịch Cát Linh Phòng giao dịch Kim Liên Phòng thanh toán XNK Phòng tổng hợp tiếp thị Phòng quản lý rủi ro Phòng kháchhàng số 1 Phòng khách cá nhân 34 Quỹ tiết kiệm Quỹ tiết kiệm số 1 à Quỹ tiết kiệm số 34 ( Nguån : Phßng tæ chøc – Hµnh chÝnh Ng©n hµng C«ng th­¬ng §èng §a – N¨m 2007) 2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa (2005 - 2007) Năm 2007, quá trình hội nhập và gia nhập WTO của Việt Nam đã đem lại nhiều kết quả, phát triển kinh tế của Việt Nam đã lên đến đỉnh cao nhất trong 10 năm qua với mức tăng trưởng 8,5%, xuất khẩu tăng 20% và vốn đầu tư nước ngoài đạt số vốn cam kết 20,3 tỷ USD, mức cao nhất kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài. Đi đôi với lợi ích đạt được, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước nhiều thách thức. Năm 2007, lạm phát tăng cao lên mức 2 con số, một số mặt hàng tăng giá rất cao như thực phẩm, năng lượng, sắt thép, phân bón, vàng và sự mất giá của đồng đô la Mỹ đã gây nhiều khó khăn cho nền kinh tế nói chung và hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng. Trong lĩnh vực ngân hàng, mở cửa và hội nhập đã tạo nên sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên địa bàn Đống Đa, một loạt các chi nhánh của các Ngân hàng thương mại nhà nước, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh đã được mở. Tình hình trên cũng ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Chi nhánh. 2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn: Trước sức ép về nhu cầu vốn, các NHTM trên địa bàn liên tục mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động cùng với việc tăng lãi suất huy động, kết hợp với nhiều chính sách khuyến mại chăm sóc khách hàng hấp dẫn nhằm thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, chênh lệch lãi suất huy động giữa các NHTM nhà nước và các NHTM cổ phần luôn ở mức cao đã gây nhiều khó khăn cho NHCT ĐĐ. Với những tình hình trên, Chi nhánh luôn đặt công tác huy động vốn là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài và tập trung tăng trưởng bền vững nguồn vốn huy động, triển khai kịp thời và làm tốt công tác tuyên truyền về chương trình huy động của NHCT Việt Nam, đưa ra các biện pháp tích cực như: đổi mới, chuẩn hoá phong cách giao dịch, đưa ra nhiều hình thức huy động vốn hấp dẫn, đa dạng chủ động tìm kiếm nguồn vốn, phối hợp với ban quản lí dự án để thu tiền đền bù của các dự án đường Hào Nam - phường Ô Chợ Dừa, duy trì quan hệ với khách hàng truyền thống, tích cực thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi và tổ chức thu nhận tiền mặt vào các ngày nghỉ cho các đơn vị có nhiều tiền mặt…Nhờ các biện pháp trên cùng với sự cố gắng, nỗ lực, nguồn vốn huy động của Chi nhánh đã tăng trưởng liên tục với tốc độ nhanh và vững chắc. Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2007 (bao gồm cả VNĐ và Ngoại tệ) đạt 4502 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 17% số tuyệt đối tăng 652 tỷ đồng, so với kế hoạch đạt 107% tăng 302 tỷ đồng Bảng 2.1: Nguồn vốn huy động của NHCT ĐĐ từ 2005 đến 2007 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % 1. Tiền gửi tiết kiệm 1.700 50,45% 1.852 49,51% 1.854 40,97% 2. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 1.420 42,14% 1.503 40,18% 2.324 51,36% 3. Kì phiếu 250 7,42% 386 10,32% 347 7,67% Tổng 3.370 100% 3.741 100% 4.525 100% Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của CN NHCT Đống Đa (2005 – 2007) Về cơ cấu vốn huy động: trong năm 2007 nguồn vốn huy động của doanh nghiệp tăng trưởng mạnh, đạt 2.324 tỷ đồng tăng 858 tỷ đồng (tương ứng 68%) so với năm 2006, nguồn vốn từ dân cư (bao gồm tiền tiết kiệm và kì phiếu) đạt 1.911 tỷ đồng, tăng 91,8% so với năm 2006. Chi nhánh đã thu hút được tiền gửi lớn của Công ty Tài Chính Dầu khí, Công ty Tài chính Bưu điện, Tổng công ty Bưu chính viễn thồng Việt Nam, Bảo hiểm xã ._. biến động tỷ giá trên thị trường. Và cuối cùng là khách hàng có cơ hội được sử dụng các dịch vụ do bên thứ ba cung ứng như quản lý hàng tại kho, bảo hiểm, vận tải với các điều kiện ưu đãi hơn khi có ngân hàng giúp sức. - NHCT ĐĐ cần tăng cường thực hiện các nghiệp vụ tín dụng nhập khẩu hiện có theo hướng an toàn sinh lời cho ngân hàng trên cơ sở tạo điều kiện cấp vốn tốt hơn nữa cho doanh nghiệp nhập khẩu. Trong hình thức tín dụng mở L/C cho nhà nhập khẩu, đặc biệt là L/C trả chậm, NHCT ĐĐ nên giảm bớt tỷ lệ kí quỹ bắt buộc đối với những hợp đồng nhập khẩu hiệu quả của những khách hàng có khả năng tài chính tốt, ngay cả những L/C mà người hưởng lợi yêu cầu phải có xác nhận của ngân hàng phát hành. Vì trên thực tế, khi đồng ý xác nhận L/C với tỷ lệ kí quỹ thấp nghĩa là ngân hàng đã cấp một khoản tín dụng cho nhà nhập khẩu. NHCT Đống Đa cũng cần phải tăng cường thực hiện cấp tín dụng ứng trước cho doanh nghiệp nhập khẩu nhằm tăng cường hiệu quả cho việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu cùng là tăng khả năng thu được tiền hàng từ nhà nhập khẩu của ngân hàng. 3.3.1.3. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng tài trợ nhập khẩu: Tín dụng tài trợ nhập khẩu là hoạt động chiếm tỷ lệ 30% trong hoạt động tín dụng của NHCT ĐĐ. Vì vậy chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng cho hoạt động nhập khẩu, tăng trưởng tín dụng lành mạnh là một đòi hỏi khách quan với NHCT ĐĐ. Trước thực tế về công tác thẩm định tín dụng nhập khẩu hiện nay, NHCT ĐĐ cần thực hiện những biện pháp cụ thể sau nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng của công tác này: Thứ nhất, NHCT ĐĐ cần thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng để có thể đánh giá chính xác về : tư cách pháp lý của khách hàng, uy tín và khả năng phát triển của khách hàng, tính khả thi của phương án kinh doanh, tình hình tài chính và tình hình công nợ của khách hàng dựa và kết quả kinh doanh những năm trước...NHCT ĐĐ có thể tham khảo thông tin về khách hàng từ nhiều nguồn khác nhau như : từ sổ sách lưu trữ tại ngân hàng, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, Internet, ti vi...) hay từ đối tác của khách hàng vay vốn, từ doanh nghiệp cùng ngành nghề với khách hàng... NHCT ĐĐ phải luôn cập nhật thông tin về khách hàng, từ đó phát hiện kịp thời các dấu hiệu rủi ro và áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp, có những quyết định hợp lý tiếp theo đối với khách hàng. Ngoài ra NHCT ĐĐ cần chủ động tìm đến khách hàng chứ không chỉ tìm hiểu khách hàng khi họ có nhu cầu về vốn để tránh gặp phải những thông tin sai lệch do khách hàng muốn vay vốn. Thứ hai, cán bộ tín dụng của NHCT ĐĐ phải sâu sát hơn với tình hình thực tế của những kế hoạch kinh doanh nhập khẩu xin vay vốn, thực hiện kiểm tra chặt chẽ các khoản vay. Thứ ba, NHCT ĐĐ phải chú trọng đầu tư nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng, thường xuyên cập nhật cho họ những kiến thức về pháp luật, kinh tế đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám sát hoạt động của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng trong lĩnh vực nhập khẩu phải nắm vững nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ ngoại thương, nghiệp vụ thanh toán quốc tế, có trình độ tiếng Anh và khả năng tư duy phân tích tốt, có hiểu biết về chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nắm được tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới. 3.3.1.4. Tăng cường thu hút dự trữ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp nhập khẩu: Để đảm bảo việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, NHCT ĐĐ cần có chính sách huy động nguồn vốn trong và ngoài nước có hiệu quả: - Đối với khách hàng là các doanh nghiệp nhập khẩu: Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nhập khẩu sử dụng vốn trên tài khoản một cách linh hoạt đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ kịp thời để thanh toán, chi trả tiền vật tư, hàng hóa phục vụ cho hoạt động; Ngân hàng có chính sách ưu đãi về phí trong các giao dịch quốc tế cho doanh nghiệp, hoặc tư vấn cho khách hàng từ khâu kí kết hợp đồng để giảm rủi ro trong buôn bán thương mại và thanh toán quốc tế. - Đối với khách hàng là tầng lớp dân cư: Ngân hàng cần đưa thêm các đặc tính chuyển nhượng được giữa các cá nhân vào một số công cụ huy động trung và dài hạn, tạo dần thói quen mua bán, cất giữ và chuyển đổi các sản phẩm ngân hàng tài chính. Để giảm bớt thủ tục khi người dân đến gửi tiết kiệm ngoại tệ dưới hình thức sổ tiết kiệm như hiện nay, NHCT ĐĐ có thể đưa ra hình thức tài khoản tiết kiệm. Với hình thức này, việc nhận và chi trả tiền gửi sẽ được nhanh chóng, thuận tiện và an toàn hơn. - Đối với khách hàng là người nước ngoài và Việt kiều: Để thu hút nguồn ngoại tệ của những khách hàng này, NHCT ĐĐ cần tăng cường quảng cáo, hướng dẫn khách hàng có nhu cầu nhận tiện lựa chọn hình thức chuyển tiền phù hợp để thông tin cho người thân ở nước ngoài. Trong họat động kiều hối, ngân hàng cần tổ chức thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, phí dụch vụ hợp lý để họ có thể bán cho ngân hàng số ngoại tệ mà họ có được, hoặc ngân hàng có thể ấn định tỷ giá mua kiều hối và ngoại tệ của khách hàng cao hơn tỷ giá mua chính thức mà ngân hàng công bố. 3.3.1.5. Tăng cường hoạt động Marketing Với ưu thế là một trong những Ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên của Việt Nam, NHCT ĐĐ đã có một lượng khách truyền thống. Song, trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng thương mại như hiện nay thì việc tăng cường hoạt động Marketing là một giải pháp đáng làm tại NHCT Đống Đa nhằm mở rộng hoạt động và nâng cao số lượng khách hàng, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngân hàng. Giải pháp này cần được thực hiện nghiêm túc vì chính khách hàng là người quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu nói riêng. NHCT Đống Đa cần đẩy mạnh công tác tiếp thị, đầu tư nhiều hơn cho công tác quảng cáo hình ảnh, trên các phương tiện thông tin đại chúng về ngân hàng cũng như chất lượng, uy tín của các dịch vụ hình thức tín dụng nhập khẩu ngân hàng cung cấp đến với doanh nghiệp nhập khẩu bằng quảng cáo trên truyền hình, trên báo chí chuyên ngành, trên báo của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt nam hay trên mạng Internet. Bên cạnh đó, Ban lãnh đạo NHCT ĐĐ cần có sự quan tâm đúng mức hơn nữa cho công tác quảng cáo, thu hút khách hàng. Những chính sách khách hàng phải được ban hành và thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống, bảo đảm việc phối hợp chăm sóc khách hàng giữa các bộ phận tại chi nhánh nói riêng và trong toàn bộ hệ thống nói chung được thực hiện đồng bộ, nhất quán. Không những thu hút khách hàng bằng quảng cáo, ngân hàng còn phải là người khởi xướng quan hệ với khách hàng, chủ động duy trì các mối quan hệ đó, bởi vì kinh doanh luôn phải dựa vào thông tin, các phương tiện giao tiếp và mối quan hệ với khách hàng. Việc chủ động trong quan hệ với khách hàng còn giúp NHCT ĐĐ có được những thông tin khách quan, đáng tin cậy về khách hàng. Vì vậy trong trường hợp này, NHCT ĐĐ có thể lập một cơ sở dữ liệu về khách hàng dựa trên những thông tin mình có được, cơ sở dữ liệu này sẽ rất có ích khi ngân hàng tiến hành thẩm định chất lượng tín dụng với những khách hàng có nhu cầu vay vốn. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc khách hàng mà Chi nhánh đã đề ra. Tích cực bám sát các doanh nghiệp là các khách hàng truyền thống trong hoạt động tín dụng nhập khẩu để tiếp tục duy trì hoạt động tín dụng nhập khẩu với các doanh nghiệp này. Có các biện pháp ưu đãi đặc biệt về lãi suất và phí đối với các doanh nghiệp này. NHCT Đống Đa cần đặc biệt chú ý tới hoạt động nghiên cứu và định vị thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các ngân hàng có thế mạnh trong lĩnh vực cho vay nhập khẩu hiện nay như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu...tìm ra những điểm mạnh của họ để học tập, biết cách tránh những điểm yếu hạn chế của họ để đưa ra sản phẩm, biện pháp hoàn thiện hơn. Để nâng cao tính cạnh tranh, mở rộng thị trường, NHCT ĐĐ cần mở rộng quy mô tín dụng cho vay trong khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp trong khu chế xuất, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đa dạng hóa rủi ro tín dụng, đảm bảo sự phát triển ổn đinh, bền vững và lâu dài. NH cần lập ra chiến lược cụ thể để thực hiện kế họach trên với những mục tiêu được lượng hóa rõ ràng. NHCT ĐĐ cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác marketing, quảng cáo cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ngoài quốc doanh các dịch vụ mình cung cấp, đồng thời giới thiệu chủ trương chính sách tín dụng hướng tới các doanh nghiệp này của ngân hàng. NHCT ĐĐ cần thể hiện quan tâm đến các doanh nghiệp này bằng cách tổ chức những Hội nghị khách hàng cho khối doanh nghiệp này như đã làm với các doanh nghiệp nhà nước. Có như vậy NHCT ĐĐ mới thu hút thêm nhiều khách hàng từ khối tiềm năng này đến với mình. 3.3.1.6. Tăng cường công tác hiện đại hóa công nghệ ngân hàng : Trước tình hình phát triển của đất nước, sự phát triển không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, thì công nghệ mới là yếu tố quyết định thắng lợi, giúp Ngân hàng thu thập được nhiều thông tin nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí, đẩy nhanh tốc độ thanh toán và lưu chuyển tiền tệ, ra quyết định đúng đắn, kịp thời, tập trung và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Do vậy Ngân hàng cần có chính sách ưu tiên, rõ ràng để đổi mới, nâng cấp cơ sở hạn tầng, trang thiết bị làm nền tảng cho các ứng dụng và dịch vụ ngân hàng, tiếp cận với những công nghệ hiện đại nhất nhằm theo kịp với công nghệ ngân hàng thế giới, góp phần tăng cường quản lý thông tin khách hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống thu thập, lưu trữ, xử lý và phân tích cơ sở dữ liệu về khách hàng, đối thủ cạnh tranh và thị trường. Điều này sẽ giúp ngân hàng có một hệ thống thông tin tập trung thuận lợi trong quá trình hoạt động. Đồng thời tổ chức các buổi tập huấn cho cán bộ ngân hàng về cách thức sử dụng, khai thác hiệu quả công nghệ mới. 3.3.1.7. Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ tín dụng Trong quá trình hội nhập quốc tế, con người là yếu tố quyết định mọi thành công. Việc đào tạo bồi dưỡng, nâng cao đội ngũ cán bộ nghiệp vụ là yếu tố rất quan trọng bởi chỉ có những con người giỏi mới thực hiện công việc hiệu quả, đưa ra những giải pháp xử lý đúng đắn, và vận hành được công nghệ hiện đại.. Do vậy ngân hàng cần thực hiện những giải pháp sau: - Tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ giúp cán bộ có đủ trình độ phù hợp với các cương vị sẽ đảm nhận. Tổ chức các khóa tập huấn nghịêp vụ, trao đổi kinh nghiệm do NHNN và các tổ chức quốc tế tổ chức cho các cán bộ giúp họ nắm bắt kịp thời những thay đổi quy định trong hoạt động ngân hàng, trên thị trường hàng hóa nhập khẩu trong nước và thế giới, những thông tin mới trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế, những dịch vụ mới hay kinh nghiệm của các ngân hàng khác để có thể chủ động trong công việc của mình. - Đào tạo hội nhập nhân viên mới, cử cán bộ giỏi ra nước ngoài đào tạo, nâng cao trình độ, học hỏi kinh nghiệm, trên cơ sở đó hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, đúc rút kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ trong nước . - Chú trọng thường xuyên việc nâng cao chất lượng các bộ tín dụng, bao gồm cả việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo từ cán bộ quản lý đến cán bộ chuyên môn nghiệp vụ phải thông thạo ngoại ngữ, am hiểu các quy định về lĩnh vực ngoại thương và thanh toán quốc tế, nắm bắt nhanh chóng xu thế và sự biến đổi của thị trường thế giới. Phải bố trí đủ cán bộ làm việc, tránh tình trạng quá tải làm ảnh hường đến chất lượng công việc và chất lượng các khoản vay. - Công tác tuyển chọn cán bộ phải công bằng, công khai, khoa học, để có được lớp người mới thực sự về chất, có năng lực toàn diện về chuyên môn và nhận thức xã hội - Áp dụng cơ chế khuyến khích vật chất đối với người lao động, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu người có trình độ, năng lực cao và cống hiến nhiều cho kết quả kinh doanh của Chi nhánh sẽ được hưởng thụ xứng đáng. 3.3.1.8. Tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu không chỉ chịu tác động của các yếu tố ở thị trường trong nước mà còn chịu biến động nhiều bởi thị trường thế giới, nên việc tài trợ cho hoạt động nhập khẩu có thể khiến ngân hàng chịu những khoản lỗ tiềm tàng vốn được tạo ra khi cấp tín dụng. Rủi ro gây ra những thiệt hại mất mát như không thu được hoặc chậm thu vốn cho vay làm giảm hiệu quả tín dụng, giảm khả năng thanh toán và cho vay mới, giảm lợi nhuận...mà ngân hàng phải gánh chịu, làm đảo lộn một phần hay toàn bộ thành quả hoạt động trong nhiều năm cuả ngân hàng. Do vậy việc đánh giá đúng những rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu, đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra là một việc làm vô cùng cần thiết đối với NHCT ĐĐ. Cụ thể ngân hàng cần: - Đánh giá khả năng kinh doanh, khả năng thanh toán, khả năng thu lãi và khả năng tự tài trợ, khả năng tăng trưởng trong phương án vay vốn của doanh nghiệp. - Nghiên cứu đa dạng hóa đưa ra nhiều hình thức tài sản đảm bảo mới nhằm nâng cao tỷ trọng dư nợ cho vay nhập khẩu có tài sản đảm bảo, tạo ra sự an toàn hơn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng như: tăng quỹ bù đắp rủi ro, xác định mức tín dụng, tài sản thế chấp, cầm cố. - Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ bằng nhiều hình thức: tự kiểm tra, kiểm tra chéo giữa các bộ phận, nâng cao vai trò trách nhiệm của hậu kiểm. Đặc biệt là cán bộ cần làm đúng quy trình nghiệp vụ, khi linh cảm có rủi ro cần kiểm tra và báo cáo lãnh đạo, chú ý đến cảnh báo của NHNH, NHCT để có biện pháp phù hợp tránh những hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động tài trợ nhập khẩu nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung - Tích cực tìm biện pháp giải quyết thu hồi các khoản nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro. Phối hợp chặt chẽ giữa phòng Quản lý nợ có vấn đề và các phòng khách hàng để đưa ra biện pháp thu nợ cụ thể đối với từng khách hàng. Kiên quyết giảm và tiến tới ngừng cho vay đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, làm ăn không hiệu quả. - Thường xuyên cập nhật liên tục các văn bản quy chế mới liên quan đến hoạt động tài trợ nhập khẩu coi đó làm cơ sở để các cán bộ đưa ra quyết định cho vay hợp lý, chính xác. 3.3.2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp nhập khẩu: Bên cạnh những giải pháp trên nhằm tăng cường hoạt động cho vay nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa, thì các doanh nghiệp nhập khẩu cũng cần có những giải pháp để phối hợp cùng ngân hàng thực hiện hiệu quả hợp đồng nhập khẩu: 3.3.2.1. Về việc quản lý và điều hành vốn vay trong doanh nghiệp nhập khẩu: Để tiến hành sản xuất kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng, một điều không thể thiếu đối với các doanh nghiệp là vốn. Bên cạnh vốn tự có bao gồm vốn điều lệ, các loại quỹ và lợi nhuận chưa chia, doanh nghiệp còn phải sử dụng vốn đi vay để tiến hành kinh doanh. Các doanh nghiệp nhập khẩu trước khi ra quyết định vay hay không vay vốn ngân hàng cần phải trả lời các câu hỏi: liệu lợi nhuận dự tính của dự án đầu tư hay thương vụ sắp tới có đủ bù đắp chi phí tiền vay đồng thời đảm bảo tỷ lệ lãi cho doanh nghiệp hay không?...Nếu câu trả lời là có thì doanh nghịêp mới có thể tiến hành vay . Như vậy điều hành và quản lý vốn vay là việc phân tích, tính toán, dự toán làm sao biết chắc được là dự án có lợi nhuận đủ lớn, sau đó mới tìm kiếm các nguồn tín dụng tài trợ với lãi suất và điều kiện cho vay chấp nhận được. Bên cnạh đó, doanh nghiệp cũng phải biết cân bằng giữa tỷ lệ nợ và vốn tự có. Nếu vay quá nhiều sẽ dẫn đến mất nguy cơ thanh toán và dự án đầu tư không hiệu quả. Nếu vay quá ít hoặc không dám vay thì sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Do vậy các doanh nghiệp phải dựa trên chính thực lực của mình và nhu cầu hiện tại để đưa ra quyết định vay đúng, và phải quản lý vốn vay sao cho vốn vay được sử dụng đúng mục đích. 3.3.2.2. Về việc lập kế hoạch chi tiết: Thông qua việc lập kế hoạch doanh nghiệp nhập khẩu mới có thể dự tính cụ thể khoản tiền vốn cần thêm đủ để có thể triển khai dự án nhập khẩu và bước đầu có thể tạo lập những khoản thu nhập cho doanh nghiệp, đó là cơ sở để xác định khả năng chi trả tiền vay của doanh nghiệp sau này. Lập kế hoạch không chỉ là bước quan trọng giúp doanh nghiệp thành công trong kinh doanh mà còn là điều kiện để ngân hàng đưa ra quyết định cho vay hay không. Do đó doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam cần đầu tư các nguồn lực xưng đáng để lập ra một kế họach vay chi tiết và kĩ lưỡng trên cơ sở thực tế hoạt động kinh doanh và tiềm năng của dự án nhập khẩu. 3.3.2.3.Về việc quản lý tài chính: Các doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng nên thực hiện kế toán doanh nghiệp theo một chuẩn mực kế toán và thực hiện kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập. Việc làm này tạo cho doanh nghịêp có một tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh. Vì thực chất, dù có vay được vốn mà tình hình tài chính không tốt, tình hình quản lý vốn không hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ lại tiếp tục làm ăn kém hiệu quả với đồng vốn đi vay. Cho nên việc kiểm toán các báo cáo tài chính là điều cần thiết, đặc biệt là trong quá trình hội nhập. 3.3.2.4. Về trình độ nghiệp vụ của các cán bộ thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu: Các cán bộ trực tiếp thực hiện nhập khẩu cho doanh nghiệp mình cần phải được nâng cao những hiểu biết về quy trình kỹ thuật nghiệp vụ nhập khẩu, thanh toán quốc tế, đặc biệt là trong phương thức thanh toán bằng L/C. Đây là phương thức thanh toán dựa trên sự phù hợp của bộ chứng từ với L/C, nên việc mở L/C và lập chứng từ cần phải được tiến hành cẩn thận, kĩ lưỡng, có lợi cho mình. Thêm nữa, những cán bộ thực hiện nhập khẩu cần phải nắm được những quy định chính sách của Nhà nước về hoạt động kinh doanh nhập khẩu , thường xuyên tiếp cận với kỹ thuật và tài liệu mới về ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, về thị trường và bạn hàng, về tình hình cung cầu, thông thạo tiếng Anh để đáp ứng yều cầu công việc... Tất cả sẽ hỗ trợ cho công tác đàm phán, kí kết, giúp doanh nghiệp có được những hợp đồng có lợi, phù hợp với thực lực. Bên cạnh một số giải pháp trên, các doanh nghiệp nhập khẩu Việt nam còn phải tự tìm cho mình các giải pháp để nâng cao và giữ uy tín trong kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. 3.3.3. Kiến nghị 3.3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước Để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng thương mại nói chung và NHCT Đống Đa nói riêng, Nhà nước và các Bộ ban ngành có liên quan cần có những giải pháp sau: - Hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hoạt động tín dụng nhập khẩu của các ngân hàng thương mại: Muốn phát triển hoạt động kinh doanh dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng cần phải có một hành lang pháp lý thông thoáng, hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, rõ ràng và khuyến khích phát triển. Do vậy để có thể phát triển hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu thì Chính phủ và các Bộ ngành liên quan phải cùng phối hợp thực hiện những biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này. - Có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những hàng hóa trong nước đã đủ khả năng sản xuất. Có chính sách hợp lý, giám sát chất lượng hàng nhập khẩu, nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu, hiệu quả, hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ nhập hàng nước ngoài. Chỉ nên nhập khẩu những máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại, những hàng hóa thiết yếu mà trong nước không sản xuất được. - Nhà nước cần có chính sách bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhập khẩu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng và đảm bảo an toàn cho ngân hàng, cần thành lập công ty bảo hiểm nhập khẩu để giảm rủi ro cho nhà nhập khẩu Việt Nam cũng như ngân hàng cấp tín dụng cho hoạt động nhập khẩu. - Nhà nước cần tăng cường thực hiện công tác giám sát chất lượng hàng nhập khẩu để nhập khẩu có hiệu quả, đồng thời giám sát nội bộ và kiểm toán với doanh nghiệp nhập khẩu. Đây là biện pháp lành mạnh hóa tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở cho ngân hàng thẩm định dự án hiệu quả, tránh rủi ro tín dụng cho ngân hàng, là biện pháp ngăn chặn nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu. - Có chính sách khuyến khích, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng cho mọi thành phần kinh tế trong việc tiếp cận các nhân tố đầu vào và nhận hỗ trợ đầu tư kinh doanh từ phía Nhà nước để có thể tham gia vào hoạt động nhập khẩu máy móc dây chuyền thiết bị, hàng tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế, sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Bên cạnh tài sản đảm bảo thì thông tin về khách hàng là trong những điều quan trọng nhất đối với ngân hàng khi quyết định cấp tín dụng cho họ. Do vậy Nhà nước cần đảm bảo nguồn tin và thống nhất hệ thống thông tin về các doanh nghiệp nhập khẩu Việt nam bằng việc: + Thành lập một tổ chức tín dụng độc lập cung cấp các nguồn tin chính thống về các doanh nghiệp nhập khẩu tại Việt Nam giúp ngân hàng phân tích xử lý thông tin về khách hàng tốt hơn, qua đó tăng tính an toán chính xác cho việc ra quyết định cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. + Tăng cường sự hỗ trợ từ trung tâm thông tin thương mại của Bộ thương mại cũng như phòng thương mại và công nghiệp Việt nam về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp, tư vấn về giá để đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, nhằm tránh cho nhà nhập khẩu bị mua đắt, chất lượng kém, không sử dụng được, như vậy cũng tránh cho ngân hàng bị tăng khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi từ hoạt động cho vay - Phát triển mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là mậu dịch quốc tế. Xây dựng cơ cấu hợp lý giữa xuất khẩu và nhập khẩu, trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, đáp ứng đầu đủ các nhu cầu nhập khẩu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp quốc kế dân sinh. 3.3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chủ quản quản lý trực tiếp các hoạt động của ngân hàng, bởi vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay, để có thể tạo điều kiện tốt nhất cho các ngân hàng thương mại nói chung tận dụng mọi cơ hội có được để phát triển hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu, Ngân hàng Nhà nước cần có những chỉ đạo, chính sách quy định cụ thể rõ ràng sau: - NHNN cần sớm hoàn thiện hệ thống các quy định trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng như: ban hành những văn bản hướng việc cấp tín dụng của ngân hàng thương mại dựa vào hiệu quả dự án và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp xin vay vốn bên cạnh việc dựa vào tài sản đảm bảo chẳng hạn như quyền hạn của ngân hàng thương mại nếu rủi ro trong kinh doanh xảy ra và khách hàng không trả được nợ, khách hàng vay không có tài sản đảm bảo có nghĩa vụ gì với ngân hàng nhằm đảm bảo tính an toàn cho ngân hàng... Bởi về mặt nguyên tắc, khả năng sinh lời của vốn vay mới là yếu tố quyết định, còn tài sản đảm bảo chỉ có giá trị tham chiếu. - Có chính sách để các ngân hàng thương mại có thể tạo lập nguồn tài chính từ tích lũy nội bộ và các nguồn tài trợ quốc tế để đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ ngân hàng - Xây dựng và điều chỉnh chính sách tỷ giá linh hoạt và mềm dẻo với thị trường theo từng giai đoạn, nới lỏng biên độ dao động, không trực tiếp ấn định giá mà chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô trên thị trường ngoại hối để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế, sử dụng các công cụ lãi suất để điều tiết thị trường tiền tệ. - Đa dạng hóa các loại ngoại tệ, chống tình trạng đô la hóa trên thị trường, đa dạng hóa các phương tiện thanh toán quốc tế, các hình thức giao dịch như mua bán giao ngay, mua có kì hạn, mua bán quyền chon, hoán đổi ngoại tệ. - Tăng cường sự phối hợp giữa NHNN với các ngân hàng thương mại, Bộ Công thương, Tổng cục hải quan để hoàn thiện hơn cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp nhập khẩu tại Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN. 3.3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam Nhằm hỗ trợ, thúc đẩy, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại các chi nhánh phát triển, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần: - Chỉ đạo các bộ phận nghiệp vụ đẩy nhanh tốc độ xét duyệt và đảm bảo hạn mức phê duyệt đáp ứng nhu cầu thực tế, giúp khâu giải ngân của chi nhánh không bị gián đoạn. Tiến tới trao quyền chủ động tối đa cho Chi nhánh, đảm bảo không để bất cứ khách hàng nào đang có quan hệ tín dụng với NHCT lại bỏ đi vì lí do cơ chế tín dụng và chất lượng phục vụ. NHCT Việt Nam. - Cải tiến quy trình thanh toán quốc tế, hoàn thiện chương trình hiện đại hóa, giao cho Chi nhánh mức ủy quyền và tự chịu trách nhiệm để mở rộng diện xử lý điện tự động, không qua kiểm soát của TW, đẩy nhanh tốc độ giao dịch - Có cơ chế khuyến khích đối với Chi nhánh và cán bộ hoàn thành tốt công tác kinh doanh đối ngoại, tạo nhiều nguồn ngoại tệ cho NHCT, đảm bảo động lực để thu hút những chuyên gia giỏi làm việc tại ngân hàng. - Mở rộng và tăng hiệu quả hợp tác với các ngân hàng đại lý, hỗ trợ cho các chi nhánh và các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu hiểu biết rõ hơn về ngân hàng nước ngoài và đối tác kinh doanh. - Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động tiếp thị, khuyến mãi theo đề nghị thực tế của chi nhánh để chi nhánh có điều kiện mở rộng hoạt động tiếp thị marketing, tăng cường huy động vốn và tiếp cận thêm với nhiều doanh nghiệp nhập khẩu có tình hình tài chính tốt về giao dịch mở L/C, thanh toán hàng nhập khẩu và vay vốn tại chi nhánh. Trên cơ sở định hướng về hoạt động nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2010, cũng như mục tiêu phương hướng của NHCT Đống Đa trong hoạt động cho vay nhập khẩu, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm phát triển hoạt động tín dụng nhập khẩu ở NHCT Đống Đa. Tuy nhiên các giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ nhất quán mới đạt hiệu quả cao và không gây lãng phí. KẾT LUẬN Trong điều kiện hội nhập quốc tế và thương mại toàn cầu như hiện nay, vấn đề giao thương quốc tế và hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng trở nên phổ biến và mở rộng không ngừng. Cùng với phát triển xuất khẩu, nhu cầu nhập khẩu những hàng hóa, máy móc thiết bị cần thiết cho việc sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế cũng cần quan tâm để có thể tập trung vốn vào sản xuất những loại hàng hóa là thế mạnh của mình. Trước yêu cầu đó, các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng đã thực sự phát huy vai trò là các trung gian tài chính của mình, đáp ứng tốt nhu cầu về vốn của nền kinh tế. NHCT Đống Đa đã thực sự đem lại cho các nhà nhập khẩu sự hiểu biết về kĩ thuật và chỗ dựa tài chính vững chắc quan trọng đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu của họ được thông suốt, an toàn, hiệu quả, đóng góp vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Song do gặp nhiều khó khăn nên Chi nhánh còn tồn tại một số hạn chế trong hoạt động tài trợ nhập khẩu. Vì vậy thông qua chuyên đề em xin đề xuất một số giải pháp giúp Chi nhánh hoàn thiện và phát triển hơn nữa hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và củng cố uy tín của mình trên thị trường quốc tế trong xu thế cạnh tranh hiện nay. Tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng nói chung và hoạt động tài trợ nhập khẩu nói riêng còn nhiều vấn đề phức tạp, điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, vì vậy chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót . Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô để em có thể hoàn chỉnh kiến thức phục vụ cho công việc sau này. Tài liệu tham khảo -----˜™----- 1. Giáo trình Kinh doanh quốc tế, tập 2 – PGS.TS Nguyễn Thị Hường – Nhà xuất bản Lao động xã hội 2. Giáo trình Kinh tế quốc tế - PGS.TS Đỗ Đức Bình, TS Nguyễn Thường Lạng – Nhà xuất bản Khoa học và kĩ thuật 3. Giáo trình Ngân hàng Thương mại – PGS.TS Phan Thị Thu Hà – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội năm 2007 4. Giáo trình Nghiệp vụ Thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo – Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội năm 2005 5. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ - GS. TS Lê Văn Tư - Nhà xuất bản thống kê năm 2000 6. Nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế - GS.TS Lê Văn Tư – Nhà xuất bản Thống kê 7. Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng – TS. Nguyễn Minh Kiều – Nhà xuất bản Tài chính năm 2007 8. Giáo trình Tín dụng Ngân hàng – Học viện Ngân hàng – Nhà xuất bản thống kê 9. Giáo trình Thanh toán và Tín dụng quốc tế – Đại học thương mại – Nhà xuất bản Thống kê 10. Nhập môn tài chính – tiền tệ – PGS. TS. Sử Đình Thành – TS. Vũ Thị Minh Hằng – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 11. Sổ tay Tín dụng – Ngân hàng Công thương Việt Nam – năm 2007 12. Các báo cáo tổng kết kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa năm 2004 – 2007 13. Website của Ngân hàng Công thương Việt nam www.icb.com.vn 14.Website Ngân hàng Nhà nước Việt nam www.sbv.gov.vn 15. Luận án Tiến sỹ, Luận văn Thạc sỹ và Luận Văn tốt nghiệp các khóa trước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc -------ÐÑ------- NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Ngân hàng Công thương Đống Đa xác nhận đã tiếp nhận sinh viên Đỗ Bích Hằng, lớp Kinh doanh quốc tế 46A, khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân về thực tập từ ngày 01/01/2008 đến ngày 27/04/2008. Trong thời gian thực tập tại Phòng Khách hàng số 1, sinh viên Đỗ Bích Hằng đã chấp hành tốt các quy định của Ngân hàng Công thương Đống Đa cũng như của Phòng Khách hàng số 1, có tinh thần học tập tốt, chịu khó nghiên cứu tìm hiểu, học hỏi từ các cán bộ và các tài liệu của Ngân hàng về lĩnh vực mà sinh viên quan tâm. Với việc thực hiện đề tài “Hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa: Thực trạng và giải pháp”, sinh viên đã cố gắng phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu này tại Ngân hàng trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong tương lai. Đánh giá chung: Sinh viên Đỗ Bích Hằng đã hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp. Hà Nội, ngày 2 7 tháng 04 năm 2008 Xác nhận của NHCT Đống Đa NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26368.doc