Hoạt động tín dụng - Tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

LỜI NÓI ĐẦU Trong bất kỳ một nền kinh tế phát triển sôi động nào, vốn bao giờ cũng là nguồn lực khan hiếm. Vì vậy sử dụng có hiệu quả nguồn vốn là mục tiêu của bất kỳ nhà quản lý kinh tế nào, dù ở tầm vĩ mô hay vi mô. Tín dụng, nhất là trong nền kinh tế thị trường, là một trong những hình thức sử dụng vốncó hiệu quả nhất. Nó giúp cho nguồn vốn luôn luôn vận động, có mậưt kịp thời ở những nơI, những lúc cần thiết, như mạch máu vận hành cơ thể kinh tế. Tín dụng nói chung, tín dụng ngân hàng nói

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động tín dụng - Tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riêng ra đời có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế. Nó góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển vổn trong nền kinh tế, giải quyết mâu thuẫn vốn có của quá trình táI sản xuất xã hội, trong thực tế cùng một lúc có những chủ thể thừa vốn, cũng có những chủ thể thiếu vốn cần có vốn để đáp ứng những khoản chi tiêu hây kinh doanh của mình. Tình trạng này nếu không được giải quyết nhanh thì nó sẽ làm cho quá trình sản xuất bị ngưng trệ, nền kinh tế kém phát triển. Ngày nay, trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, tín dụng dường như dã đáp ứng được những nhu cầu bức xúc về vốn đó. Còn ở nước ta, sau cuộc khủng hoảng kinh tế, gặp rất nhiều khó khăn. Năm 1999 là mốc đánh dấu nền kinh tế bắt đầu phục hồi và vượt qua nhiều thử thách do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế, hạn hán, lũ lụt liên tiếp xảy ra. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta còn gặp những khó khăn như: sức hấp thụ vốn nền kinh tế không tốt, sản phẩm kém sức cạnh tranh, khu vực dịch vụ tăng chậmcác doanh nghiệp trong nước bộc lộ nhiều yếu kém, đầu tư nước ngoài giảm sút, sự mất cân đối mang tính cơ cấu ngày càng rõ nét, chỉ số hàng tiêu dùng giảm rõ rệt. Đứng trước tình hình như vậy, chính sách tiền tệ nới lỏng được thực hiện, tín dụng ngân hàng được ưu tiên về mọi mặt để cố gắng đáp ứng tốt đòi hỏi của nền kinh tế nhưng phảI vẫn có hiệu quả. Với những vấn đề bức xúc đó, tín dụng ngân hàng luôn là vấn đề được quan tâm và đặt lên hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước ta. Bởi nếu quan hệ tín dụng mở rộng mà tỏ ra có hiệu quả thì mới góp phần kích cầu, khắc phục tình trạng giảm phát, giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bước sang thế kỷ XXI này, trong bối cảnh mới thời cơ thuận lợi, nguy cơ thách thức đan xen, sẵn sàng chuyển hoá cho nhau. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang có những bước tiến toàn diện, quan hệ tín dụng(Tín dụng ngân hàng) ngày càng trở nên hoàn thiện về mọi mặt, đẩy nhanh lộ trình hội nhạp thế giới và khu vực, phục vụ đắc lực cho quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Đứng trước tình hình đó, là một sinh viên khoa Nghiệp vụ, chuyên ngành tín dụng, để tìm hiểu thêm về hoạt động tín dụng - tín dụng ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, em đã chọn tiêu đề: “Hoạt động tín dụng - tín dụng ngân hàng ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu môn Lý thuyết tiền tệ của mình. Trong phạm vi bài viết, khái quát cho chúng ta biết những nét chung nhất về tín dụng cũng như tín dụng ngân hàng. Và đặc biệt nó cung cấp cho đọc giả những thông tin cơ sở cần thiết về tín dụng - tín dụng ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. Nội dung bài viết đề cập đến bao gồm 3 chương: Chương I: kháI quát chung về tín dụng và tín dụng ngân hàng. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam hiện nay. Chương III: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM việt nam hiện nay. Để hoàn thành bài viết này, em xin cảm ơn các thầy cô đã giúp em trong quá trình thu thập tài liệu cũng như hướng dẫn xây dựng kết cấu tiểu luận. Chương I: KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1. Cơ sở lý luận về tín dụng: 1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của tín dụng: 1.1.1. Lịch sử ra đời của tín dụng: Tín dụng, chữ cái Latinh Credittium có nghĩa là tin tưởng,tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Còn theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về sự ra đời của tín dụng. Nhưng đặc điểm chung của các ý kiến đó đều cho rằng tín dụng được ra đời từ rất sớm. Nếu có sự so sánh sự ra đời giữa tiền tệ và tín dụng thì ta có thể khẳng định rằng tín dụng có trước tiền tệ. Thật vậy cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ diễn ra quá trình trao đổi giữa H-H (gọi là trao đổi trực tiếp)góp phần thúc đẩy sự phân công lao động sản xuất và kích thích chuyên môn hoá. Song sự hạn chế trong việc trao đổi trực tiếp, đòi hỏi phải có sự trùng kép về nhu cầu giữa những người tham gia trao đổi về thời gian, đặc điểm, cũng như giá trị mang trao đổi. Khả năng trao đổi rất có hạn vì chi phí cơ hội của việc giao dịch cao, khối lượng giao dịch ngày càng nhiều. Do vậy người ta chuyển sang tín dụng gián tiếp, điều đó có nghĩa tiền tệ đã xuất hiện. Đồng thời chính sự trao đổi gián tiếp đã làm xuất hiệ các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Xã hội lúc này chia ra hai giai cấp chủ yếu, đó là: người lao động trực tiếp (là chủ yếu) và người lao động gián tiếp (là thứ yếu). Có thể nói rằng tín dụng đã mang tính chất sơ khai của nó. Sự xuất hiện tín dụng có thể do sự phân hoá giai cấp là bởi vì người lao động trực tiếp,những người đi làm thuê để kiếm thu nhập cho mình, sản phẩm mà họ làm ra phụ thuộc vào tự nhiên, sự may rủi... và họ lại phải trả một phần thu nhập của mình cho ông chủ. Do đó thu nhập của những người lao động trực tiếp này là rất thấp và bấp bênh. Đặc biệt khi mất mùa xảy ra, họ không có khoản thu nhập của mình mà vẫn phải nộp sản phẩm theo sự phân phối lại. Họ muốn tồn tại được thì phảI đi vay. Còn người lao động gián tiếp, có thể nói trong mọi điều kiện, họ là tầng lớp có thu nhập cao, không phụ thuộc vào may rủi. Và “người giầu vẫn có mong muốn làm giầu”, họ tiêu dùng không hết vẫn dư ra một lượng(không sinh lời). Vì vậy họ đã nảy sinh ý kiến là mình có thể cho vay để kiếm lợi nhuận, và họ đã trở thành chủ nhân của những món vay. Những người này có quyền quyết định tới tài sản của mình. Từ đây quan hệ tín dụng chính thức nảy sinh nhằm giảI quyết nguyện vọng chính đáng của cả người giầu lẫn người nghèo. Mà mong muốn làm giầu của con người là vô hạn, do đó quan hệ tín dụng từ khi ra đời đã không ngừng phát triển và ngày càng được mở rộng. 1.1.2. Khái niệm, bản chất của tín dụng: Từ sự ra đời trên của tín dụng, người ta có kháI niệm đơn giản về tín dụnglà: Tín dụng là những quan hệ vay mượn có sự hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, sự thoả thuận giữa người đI vay và người cho vay về số tiền vay, lãI suất, thời hạn và phương thức trả nợ(trả một lần hay trả dần). Nhưng nếu chỉ hiểu theo nghĩa đơn giản này thì tín dụng mới chỉ phản ánh ở một khía cạnh nào đó, còn mang tính chất chung chung, chưa bao trùm được cái tổng thể của tín dụng. Do vậy người ta đưa ra một khái niệm tương đối đầy đủ về tín dụng như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị(dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Như vậy, một quan hệ tín dụng phảI thoả mãn những đặc trưng sau: *Là quan hệ chuyển nhượng giá trị mang tính chất tạm thời: Sự chuyển quyền sử dụng vốn cho người sử dụng trong một thời gian nhất định, còn quyền sử dụng vốn thuộc quyền người sở hữu. Tức là trong thời gian vay, người cho vay không có quyền đòi và ngược lại, khi hết hạn cho vay nếu người đi vay không trả thì sẽ vi phạm pháp luật. *Đảm bảo tính hoàn trả về thời gian và giá trị: Đây là đặc trưng cơ bản nhất của quan hệ tín dụng, có nghĩa là nếu hết thời hạn vay người đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi. Qua đó ta khẳng định rằng tín dụng mang tính chất có hoàn trả nhưng mang tính không ngang giá (thu về khoản tiền lớn hơn khoản tiền ban đầu). Đây là dấu hiệu cơ bản để nhận biết quan hệ tín dụng. *Quan hệ tín dụng được xây dựng trên cơ sở sự tin tưởng giữa người cho vay và người đi vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng, bởi vì có tin tưởng thì họ mới cho vay, ở đây tin có nghĩa là họ sẽ thu hồi nợ là một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Tín dụng theo nghĩa rộng bao gồm hai mặt là huy động vốn và tiến hành cho vay. Trong hoạt động thực tiễn, quan hệ tín dụng được hình thành hết sức đa dạng nhưng ở bất cứ dạng nào tín dụng cũng luôn là một quan hệ kinh tế của nền sản xuất hàng hoá, nó tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của những quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Mục đích và tính chất của tín dụng do mục đích và tính chất của nền sản xuúât hàng hoá quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế của phương thức sản xuất trong xã hội đó. 1.1.3. Sự phát triển của tín dụng: * Tín dụng nặng lãi: Thời kỳ chiếm hữu nô lệ xuất hiện sự tư hữu dẫn đến quan hệ vay mượn ra đời dưới hình thức cho vay nặng lãi. Hình thức này ra đời trong điều kiện sản xuất thấp kém, có nhiều rủi ro. Vì vậy việc vay mượn xảy ra nhằm giải quyết những khó khăn cấp bách trong đời sống, chẳng hạn như mua lương thực, đóng thuế... Còn các tầng lớp khác đi vay là để giải quyết những thiếu hụt tạm thời với các nhu cầu cao. Tín dụng nặng lãi nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của người đi vay, không có tác dụng phục vụ cho sản xuất. Hình thức biểu hiện của vốn trong quan hệ tín dụng nặng lãi biểu hiện rất đa dạng. Ví dụ cho vay bằng tiền, thu nợ bằng tiền; cho vay bằng tiền thu nợ bằng hiện vật. Tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ chiếm hữu nô lệ với mức cung tiền nhỏ hơn rất nhiều cầu tiền. Vay với mọi giá và chưa có quy định về lãi suất. Chủ nghĩa Tư bản ra đời lạI đẩy lùi tín dụng nặng lãi, tuy nhiên nó chưa bị thủ tiêu mà vẫn tồn tại ở hàng thứ yếu. * Tín dụng trong nền kinh tế thị trường hiện đại: Trong nền kinh tế thị trường hiện đạI mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá. Các chủ thể phải tự kiếm nguồn vốn trên thị trường và tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên không phải khi nào nhu cầu về vốn tiền tệ cũng đảm bảo, nghĩa là nhu cầu giao lưu vốn xuất hiện, nhu cầu này bắt nguồn từ phía những người cần vốn và những người có vốn. Những người cần vốn là những doanh nghiệp, hộ gia đình, Chính phủ, các tổ chức kinh tế - xã hội. Đây cũng là những người có khả năng cung cấp vốn. Trong nền kinh tế, tại một thời điểm luôn có những người thừa, có những người thiếu. Vấn đề quan trọng là họ phải gặp nhau và thoả mãn yêu cầu của nhau, đồng thời vấn đề tin cậy nhau được coi là tiền đề cho quá trình giao nhận vốn. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng và phổ biến. 1.2. Sự cần thiết, chức năng và vai trò của tín dụng: 1.2.1. Sự cần thiết khách quan của quan hệ tín dụng: Nguyên nhân khách quan của sự tồn tại và phát triển quan hệ tín dụng là mâu thuẫn vốn có của quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội, đó là: Cùng một lúc có chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa một khoản vốn tiền tệ trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết thì quá trình sản xuất có thể bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn lại đang nằm im ở một chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Vốn nhàn rỗi ở các doanh nghiệp thể hiện dưới dạng quỹ khấu hao chưa dùng đến, hoặc do chênh lệch về số lượng, thời gian tiêu thụ sản phẩm và thời gian mua nguyên liệu, do những khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ trả, cac khoản phải nộp nhưng chưa đến kỳ nộp. Vốn nhàn rỗi còn xuất hiện do chênh lệch thời gian thu chi của các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội và ngân sách các cấp. Quan trọng nhất là bộ phận vốn để dành của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong khi đó chính các chủ thể kinh tế này lại phát sinh nhu cầu bổ sung vốn để mở rộng sản xuất, thực hiện thanh toán tiền hàng, mua sắm máy móc thiết bị, đảm bảo chi tiêu đúng thời hạn khi tạm thời chưa có khoản thu... Các khoản vốn nhàn rỗi tạm thời cũng như những nhu cầu vốn phát sinh rất đa dạng về thời gian, số lượng, yêu cầu tính lỏng, mức rủi ro. Sự phát triển các hình thức tín dụng phong phú cho phép thoả mãn yêu cầu chuyển nhượng vốn phức tạp này. Bằng cách đó tín dụng thực chất là chiếc cầu nối liền nhu cầu tiết kiệm với nhu cầu đầu tư của xã hội. 1.2.2. Chức năng của tín dụng: * Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả: Theo chức năng này, tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn cho xí nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, phân phối lại vốn tín dụng được thực hiện bằng hai cách là phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp là phân phối từ chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Phân phối gián tiép là việc phân phối vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian. * Chức năng tiết kiệm tiền mặt: Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng mở rộng và phát triển đa dạng, từ đó nó đã thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này sẽ làm giảm được lượng giáy bạc trong lưu thông và giảm được chi phí lưu thông giấy bạc ngân hàng. * Chức năng phản ánh một cách tổng hợp và khái quát quá trình hoạt động của nền kinh tế, Mặt khác tín dụng còn được coi là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để kiểm soát thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế. 1.2.3. Vai trò của tín dụng: Vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn quân trọng. Thông qua tín dụng các doanh nghiệp sẽ tăng vốn đầu tư cho sản xuất từ các khoản nhỏ đến các khoản lớn. Như vậy tín dụng góp phần thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Tiếp nữa, tín dụng là công cụ bình quân hoá tỷ xuất lợi nhuận giúp các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành có lợi nhuận cao, tăng khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chuyển hướng kinh doanh. Bên cạnh đó tín dụng là công cụ làm tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông. Trên đây là những vai trò của tín dụng dưới góc độ tích cực, nếu nhận thức và vận dụng sai lệch nó sẽ dẫn tới những hậu quả tiêu cực. 1.3. Các hình thức tín dụng: Việc nghiên cứu các hình thức tín dụng có thể theo các tiêu thức phân loạI về thời hạn tín dụng, chủ thể tham gia quan hệ tín dụng và tính chất luân chuyển vốn trong quan hệ tín dụng ... Cách nghiên cứu này giúp chúng ta có thể xem xét quan hệ tín dụng dưới các góc độ khác nhau và giảI thích vì sao quan hệ tín dụng lạI có thể thoả mãn nhu cầu đa dạng của các chủ thể thừa và thiếu vốn. 1.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng: Căn cứ vào thời hạn tín dụng, người ta chia tín dụng ra thành ba loại, đó là: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. * Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn là các khoản cho vay mà thời hạn không quá 12 tháng, nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ sung ngân quỹ, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu động hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Đặc điểm của loại hình tín dụng này là có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh tránh được các rủi ro về lãi suất, về lạm phát cũng như sự bất ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô. Do đó loại tín dụng này thường có lãi suất thấp hơn so với các loại tín dụng khác. * Tín dụng trung và dài hạn: Tín dụng trung và dài hạn là loại tín dụng có thời hạn dài, từ trên 1 năm đến vài chục năm (tín dụng trung hạn có thời hạn từ trên 1 năm đén 5 năm; tín dụng dài hạn có thời hạn từ trên 5 năm đến vài chục năm và dài hơn nữa). Loại hình tín dụng này thường được sử dụng để thực hiện quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc chiều sâu làm tăng mức sản xuất và của cải xã hội. Vì thời hạn dài và hiệu quả đầu tư thường là dự tính nên loại tín dụng này chứa đựng mức rủi ro cao, kể cả rủi ro cá biệt và rủi ro hệ thống. Do có mức rủi ro cao như thế nên lãi suất của nó tăng lên cùng với thời hạn vay. 1.3.2. Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn: Theo cách phân loại này, ta có hai loại hình quan hệ tín dụng là tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp. * Tín dụng trực tiếp: Tín dụng trực tiếp thể hiện quan hệ chuyển nhượng vốn trực tiếp từ người sở hữu vón sang người sử dụng vốn. Bằng cách đó người cho vay trực tiếp hưởng lợi nhuận cũng như chịu rủi ro từ khoản vốn đầu tư của mình. Điểm thuận lợi của tín dụng trực tiếp là thủ tục vay và cho vay đơn giản, thu nhập cao đối với người cho vay (không phải mất khoản chi phí cho tổ chức trung gian). Song bất lợi của loạI hình tín dụng này là rủi ro cao và tính lỏng kém. * Tín dụng gián tiếp: Tín dụng gián tiếp là quan hệ chuyển nhượng vốn gián tiếp từ người sở hữu vốn đến người sử dụng vốn thông qua các trung gian tài chính. Trong quan hệ này, người thừa vốn cho vay nhưng thông qua trung gian tài chính, hay nói cách khác, trung gian tài chính là tổ chức huy động vốn, tập trung các khoản vốn nhàn rỗi lẻ tẻ của những người tiết kiệm để tiến hành đầu tư vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Người đi vay ở đây là người sử dụng nguồn vốn của người cho vay thông qua trung gian tài chính. Thực chất ở đây, người đi vay phải chịu một mức lãi suất cao hơn bởi vì họ còn phải trả thêm một khoản chi phí cho trung gian tài chính. Loại hình tín dụng này có ưu điểm là mức rủi ro thấp và vì thông qua trung gian tài chính nên việc phân phối tài sản tốt hơn cho người cho vay, do đó nó có tính lỏng cao hơn, bởi các trung gian tài chính có khả năng thu thập và sử lý thông tin tốt hơn các nhà đầu tư cá nhân. Bên cạnh những ưu điểm đó nó còn một số hạn chế là thủ tục vay rắc rối thông qua cơ chế cho vay, khoản thu nhập đối với người cho vay thấp vì số tiền mà họ nhận được phảI chia cho ba đối tượng: người cho vay, người đi vay và trung gian tài chính. 1.3.3. Căn cứ vào chủ thể tham gia tín dụng: Với cách phân loại này, ta có các hình thức tín dụng sau: * Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá. Trong đó người cho vay là người bán chịu hàng vì đã chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng lượng giá trị hàng hoá bán chịu cho người mua. Ngược lại, thay vì việc phải trả tiền ngay, người mua được sử dụng số tiền đó trong một thời gian nhất định, phụ thuộc vào thời gian bán chịu hàng hóa. Đặc điểm: - Chủ thể tham gia trong lĩnh vực thương mại đều là những doanh nghiệp hoạt đông trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. - Đối tượng tín dụng là hàng hoá ở giai đoạn cuuôí cùng của quá trình sản xuất kinh doanh (H’). T - H ... SX ... H’ - T’ - Công cụ lưu thông là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu) - Tính chất luân chuyển vốn: trực tiếp chuyển nhượnh vốn nên nó mang đầy đủ những lợi thế và bất lợi của tín dụng trực tiếp. - Thời hạn: có thời hạn ngắn (1 tuần, 30 ngày, ... , nhỏ hơn 12 tháng), gọi là tín dụng ngắn hạn nên có quy mô nhỏ, điều kiện tín dụng và lãi suất hết sức linh hoạt. - Sự vận động và phát triển: Nó luôn luôn phù hợp với sự vận động trong quá trình tái sản xuất. - Tín dụng thương mại chỉ diễn ra trong từng nhóm các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá -Tín dụng thương mại chỉ diễn ra theo một chiều duy nhất. Ưu điểm: - Đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá. - Đáp ứng ngay nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp đI vay để duy trì liên tục quá trình sản xuất. Từ 2 ưu điểm trên ta rút ra kết luận là tín dụng thương mạI có tác dụng đẩy nhanh quá trình tuần hoàn vốn, sử dụng vốn một cách có hiệu quả, Từ đó đẩy nhanh tốc đọ tăng trưởng. - Tạo công cụ lưu thông là thương phiếu, do đó tiết kiệm điều kiện đáng kể về khối lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí lưu thông tiền mặt. - Thủ tục vay đơn giản, điều kiện vay không chặt chẽ Hạn chế: - Quan hệ tín dụng thương mại bị giới hạn về quy mô, thời hạn và phương hướng vận động: Quy mô của nó bị giới hạn trong phạm vi lượng giá trị hàng hoá được bán chịu, lượng hàng hoá này lại phụ thuộc vào quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Thời hạn cho vay phụ thuộc vào sự ngắt quãng cho phép của chu kỳ kinh doanh của người bán chịu. Còn về phương hướng vận động, nó chỉ vận động một chiều mà không có chiều ngược lại. - Với quan hệ tín dụng này, nếu khủng hoảng xảy ra ở một khâu thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống và có thể dẫn đến sụp đổ cả hệ thống. * Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay và vừa là người cho nay. Đặc điểm: Ngân hàng giữ vai trò trung gian trong việc dẫn chuyển vốn tà những người có vốn sang những người cần vốn. + Người cho vay chủ yếu là: Hộ gia đình, Chính phủ và doanh nghiệp. + Người đi vay chủ yếu là: Doanh nghiệp và Chính phủ. + Đối tượng vay là tiền tệ. + Tín dụng Ngân hàng là hình thức phổ biến nhất trong nền kinh tế thị trường. + Quy mô rất lớn. * Tín dụng Nhà nước: Tín dụng Nhà nước là quan hệ vay mượn giữa một bên là Nhà nước và một bên là những chủ thể kinh tế khác. Thông qua việc phát hành các công cụ vay nợ, tín phiếu, trái phiếu, công trái. Đặc điểm: + Chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng: Chủ thể đi vay là Nhà nước, chủ thể cho vay là các chủ thể kinh tế, xã hội khác. + Đối tượng tín dụng là hiện vật hoặc tiền tệ. + Tính chất luân chuyển vốn là tín dụng trực tiếp. + Thời hạn của quan hệ tín dụng này rất đa dạng. + Lãi suất thấp, có độ rủi ro thấp, tính an toàn cao. + Tín dụng Nhà nước trang trải các nhu cầu chi tiêu, bù đắp thâm hụt Ngân sách, huy động vốn cho các công trình, đầu tư phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là để xây dựng các công trình và cơ sở hạ tầng. + Nguồn trả chủ yếu là nguồn thu từ thuế. 1.3.4. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng: * Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Đây là loạI tín dụng được cung cấp cho các nhà doanh nghiệp để tiến hành sản xuất và kinh doanh. * Tín dụng tiêu dùng: Là những quan hệ vay mượn giữa các Ngân hàng và các đơn vị bán lẻ hàng hóa tiêu dùng thông qua hình thức trả dần hay trả chậm. Đây là tín dụng chậm, phụ thuộc vào khả năng nắm bắt nguồn thu nhập của người tiêu dùng, nó có độ rủi ro lớn và lãi suất cao. Loại hìn này khó có thể phát triển, nó phụ thuộc vào những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. 1.3.5. Căn cứ vào đối tượng tín dụng: * Tín dụng vốn lưu động: Là loạI tín dụng được cung cấp nhằm hình thành vốn lưu động của doanh nghiệp hay cho vay để bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. * Tín dụng vốn cố định: Là loạI tín dụng được cung cấp nhằm hình thành vốn cố định của doanh nghiệp. 2.Những vấn đề lý luận về tín dụng ngân hàng: 2.1. Khái niệm và bản chất tín dụng ngân hàng: Khái niệm: Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay và vừa là người cho vay. Bản chất: Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi, ở đây tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và tất cả các doanh nghiệp, cá nhân khác. Mối quan hệ tín dụng này không phải là mối quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi thiếu mà thông qua cơ quan trung gian là NHTM. 2.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng: - Chủ thể tham gia là ngân hàng và những khách hàng của ngân hàng. - Đối tượng tín dụng là tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó có quy mô nguồn vốn rất lớn - Tính chất luân chuyển là quan hệ chuyển nhượng vốn gián tiếp nên mang đầy đủ những lợi thế và bất lợi của tín dụng gián tiếp - Thời hạn rất đa dạng (chủ yếu là ngắn hạn), vì ngân hàng cũng là người đi vay, tính chất toàn là nguồn vốn tạm thời. - Sự vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng có thể có sự phù hợp với sự vận động và phát triển nền kinh tế nhưng cũng có thể không. - Sự tin tưởng trong quan hệ tín dụng ngân hàng là rất quan trọng bởi lẽ sự an toàn trong hoạt động hệ thống ngân hàng không những quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng mà có thể gây phản ứng lây lan ra nền kinh tế. 2.3. Chức năng của tín dụng ngân hàng: Cũng như phạm trù tín dụng nói chung tín dụng ngân hàng cũng có các chức năng đã đề cập ở trước. Đó là huy động vốn và cho vay vốn tiền tệ trên nguyên tắc có hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hàng, chức năng này bao gồm hai loại nghiệp vụ được tách rời ra: Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay đối với những nhu cầu đang thiếu vốn tạm thời. Đó là đặc điểm mà nhiều loại hình tín dụng khác không có. Bên cạnh đó là chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế: Khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng ngân hàng là rộng lớn hơn so với các hình thức tín dụng khác. Bởi vì, bên cạnh quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng còn có quan hệ với tiền tệ, thanh toán với họ. Các mối quan hệ này bổ sung cho nhau tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng so với các doanh nghiệp khác. Tín dụng ngân hàng cũng để Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh tế xã hội. 2.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng: Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng đóng một vai trò quan trọng được biểu hiện cụ thể như sau: Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung điều hoà nguồn vốn giữa các chủ thể kinh tế. Điều này được thể hiện ở việc vốn tiền tệ được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Từ đó có thể thấy tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy sự tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá và chu chuyển tiền tệ. Tín dụng ngân hàng cũng là công cụ chủ yéu để tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh tế then chốt và các ngành, các vùng kinh tế kém phát triển. Muốn phát triển phải có vốn, có công nghệ, mà ở các vùng kém phát triển thì chỉ có tìm đến tín dụng ngân hàng là thuận lợi nhất, tín dụng ngân hàng cũng giúp cho các ngành kinh tế then chốt có được lượng vốn đủ lớn để áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại đẩy nhanh tốc độ phát triển. Vì nguyên tắc có hoàn trả cả vốn và lãi của tín dụng ngân hàng nên nó góp phần tác động tới các đơn vị sử dụng nguồn vay vốn ngân hàng có hiệu quả. Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng cũng thúc đẩy sự mở rộng và phát triển ngành ngoạI thương và góp phần bình ổn giá cả trong nền kinh tế Một vai trò quan trọng nữa của tín dụng ngân hàng là “tạo tiền trong nền kinh tế” thông qua bội số tiền gửi. 2.5. Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng: Thực chất là quản lý tiền cho vay của hệ thống NHTM. Tiền cho vay có một vai trò hết sức quan trọng, chiếm một tỷ lệ quy mô lớn trong tổng số tài sản có của NHTM. Tiền cho vay thông thường là khoản mục có tỷ lệ sinh lời cao đồng thời có mức rủi ro cao nhất. Nó là khoản quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM, do đó cần quản lý chặt chẽ khoản mục này. 2.5.1. Lựa chọn và giám sát: Qúa trình lựa chọn: các hoạt động của ngân hàng của các cán bộ tín dụng diễn ra trước khi cho vay vốn. Trong quá trình lựa chọn đòi hỏi các cán bộ của ngân hàng một số điều sau: + Phải thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết từ phía khách hàng, thông tin xoay quanh dự án đầu tư, phải phân tích thẩm định lại các dự án đầu tưtrong đó thẩm định về lĩnh vực tài chính là quan trọng nhất. Xem xét dự án đó có khả thi hay không, có hiệu quả hay không, nắm vững thông tin đầu vào và đầu ra. + Khả năng tài chính của khách hàng đó như thế nào (phải biết được báo cáo thu nhập chi tiêu, lỗ lãi của doanh nghiệp, công ty đó như thế nào; phải biết được bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp đó). + Hiểu được tư cách của khách hàng đó như thế nào (được thể hiện trong quan hệ giữa khách hàng hay doanh nghiệp đó với khách hàng hay doanh nghiệp khác). + Xử lý được nguồn thông tin về thu nhập và phải phân loại ra thành nhóm ngân hàng có thể cho vay được và nhóm ngân hàng không thể cho vay được. + Ngân hàng cần phải tiến hành ký kết các hợp đồng tín dụng: lãi suất, thời hạn, số tiền vay và mục đích vay, ... Qúa trình giám sát: là các hoạt động của các cán bộ tín dụng đối với người vay sau khi đã cho vay, với mục đích để người vay sử dụng vốn ngân hàng có hiệu quả, đúng mục tiêu. Nếu người vay không thực hiện đúng những điều kiện đã cam kết thì ngân hàng có quyền thu hồi vốn để bảo toàn đồng vốn của mình. Đây là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất đối với hoạt động tín dụng. 2.5.2. Quan hệ lâu dài với khách hàng: Thực chất là hoạt động chiến lược khách hàng của NHTM. Đối với NHTM, chữ tín đối với khách hàng được đặt lên hàng đầu. NHTM phải giữ cho được những khách hàng truyền thống của mình, đồng thời thu hút những khách hàng mới. Nếu mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài tin tưởng lẫn nhau thì hai bên đều có lợi. Lợi ích của ngân hàng là tiết kiệm được các chi phí về thu thập, xử lý thông tin và giám sát khách hàng; từ đó là tăng lợi nhuận và thu nhập của ngân hàng nếu các yếu tố khác không đổi. Còn lợi ích của khách hàng là được vay vốn với ưu đãi hơn về lãi suất (vì khách hàng quen thuộc thì rủi ro thấp) và có thể vay dễ dàng hơn. 2.5.3. Thế chấp tài sản: Ngân hàng muốn khoản cho vay của mình có thể đảm bảo và lợi tức, lãi suất được thu hồi một cách đầy đủ, đảm bảo tín dụng bằng cách đưa ra thế chấp tài sản. Đây là một điều kiện ràng buộc các doanh nghiệp, khách hàng phải thực hiện dự án sao cho có hiệu quả. Ngân hàng chỉ cho vay với một tỷ lệ nhất định /giá trị tài sản thế chấp. Tỷ lệ này tuỳ thuộc vào uy tín của khách hàng và tài sản thế chấp như thế nào. Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY. Trong thời gian qua, gắn với sự đổi mớivà thành tựu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, sự đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam cũng đạt được những bước tiến mới. Trước đây là hệ thống ngân hàng một cấp với hình thức cấp phát tín dụng, nay đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp là quản lý Nhà nước và kinh doanh đầu tư tín dụng theo đúng nghĩa của nó đáp ứng được nhu cầu lớn về vốn phát triển của nền kinh tế, đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Sau 10 năm qua, hệ thống NHTM đã không ngừng được củng cố và phát triển góp phần đẩy lùi lạm phát phi mã, ổn định giá cả đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô làm nòng cốt trong huy động vốn, phục vụ có hiệu quả nhu cầu kinh tế, xã hội, xoá đói giảm nghèo, cảI thiện đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đầy khó khăn và thử thách của cơ chế thị trường, rồi nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp, đa._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0895.doc
Tài liệu liên quan