Hoạt động Xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Lời mở đầu Dầu mỏ là nguồn năng lượng quan trọng của tất cả các nước. Nó đang chiếm khoảng 65% trong tổng các nguồn năng lượng toàn cầu. Về đặc điểm kinh tế, dầu mỏ là ngành phát triển nhanh và yêu cầu về vốn đầu tư rất lớn, đối với một số công đoạn trong ngành có sự rủi ro cao. Hầu hết ở các nước đặc biệt là các nước đang phát triển, dầu mỏ thường là ngành độc quyền của doanh nghiệp nhà nước hoặc một số các công ty xuyên quốc gia. Nguồn thu của ngân sách nhà nước từ ngành dầu mỏ chiếm một tỷ t

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng tương đối cao (ở Việt Nam trên 10%). Đối với Việt Nam ngành dầu khí còn mới mẻ với 25 năm tuổi. Tuy trữ lượng dầu khí ở nước ta không lớn nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, là nguồn năng lượng nguyên liệu phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã, đang ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng, bao trùm tất cả các lĩnh vực từ thượng nguồn (tìm kiếm, thăm dò, khai thác) đến hạ nguồn (hoá dầu, lọc dầu, chế biến kinh doanh các sản phẩm dầu khí). Dầu thô Việt Nam bắt đầu được khai thác vào năm 1986 tại mỏ Bạch Hổ do công ty Liên doanh Việt - Xô Petrol (Việt Nam - Liên Xô cũ) khai thác, từ đó đến nay sản lượng dầu thô Việt Nam ngày càng tăng lên đáng kể. Do ngành lọc dầu ở Việt Nam chưa phát triển (trước đây chỉ mỏ Bạch Hổ thì nay đã có 6 mỏ đang được đưa vào khai thác, làm cho sản lượng dầu thô ngày càng gia tăng, nhà máy lọc dầu số một Dung Quất đang khởi công và xây dựng đến năm 2004 mới đưa vào hoạt động) nên toàn bộ sản lượng dầu thô của Tổng công ty dầu khí được xuất khẩu hàng năm giá trị xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty đã đóng góp rất lớn trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam em đã nghiên cứu thực tiễn hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, nhằm củng cố, vận dụng kiến thức đã học vào thực tế và mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé để đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Vì thế em xin trình bày đề tài: " Hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam - thực trạng và giải pháp ". Luận văn này được chia thành 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Chương III: Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Qua luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn, và các bác, cô, chú cùng các anh chị phòng kế hoạch thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Mục lục Chương I: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu Thương mại quốc tế và vai trò của thương mại quốc tế trong nền kinh tế thị trường. I.1. Nguồn gốc và lợi ích của thương mại quốc tế. Định nghĩa: Thương mại quốc tế là quá trình phân phối và lưu thông hàng hoá và dịch vụ với các nước dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ cung cầu nhằm mục đích lợi nhuận. I.1.1. Nguồn gốc, cơ sở của thương mại quốc tế: Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội, phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế: Do quá trình sản xuất ngày càng phát triển dẫn đến sự phân công lao động ngày càng sâu và sự chuyên môn càng cao làm cho năng suất lao động ngày một tăng nhanh, hàng hoá làm ra thông qua thị trường để trao đổi lẫn nhau. Trao đổi chính là kết quả của sự phân công lao động xã hội. Do sự tồn tại khác biệt về kinh tế - sản xuất (đặc biệt vấn đề sở hữu tư liệu lao động) giữa các vùng, các nước. Điều này có sự sở hữu hàng hoá khác nhau dẫn đến sự trao đổi hàng hoá lẫn nhau thông qua thị trường. Do sự tồn tại nhu cầu rất đa dạng và phong phú của con người ở mỗi nơi, khu vực khác nhau có nhu cầu khác nhau, mà có thể khu vực đó không đáp ứng được nhu cầu mà chỉ có các sản phẩm khác, muốn thoả mãn nhu cầu thì dẫn đến trao đổi sản phẩm lẫn nhau giữa các khu vực. Do điều kiện tự nhiên địa lý của các nước khác nhau đã tạo nên những đặc sản, sản phẩm hàng hoá khác nhau rất đa dạng và phong phú, muốn thoả mãn phải thông qua hoạt động thương mại (trao đổi, mua bán). Qua các nguyên nhân trên đã cho chúng ta thấy sự tồn tại khách quan của phân công lao động xã hội dẫn đến việc phải trao đổi. Đó chính là cơ sở hình thành nên thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì một quốc gia thịnh vượng và giàu có phải có khối lượng tiền vàng lớn. Muốn có nhiều của cải phải phát triển buôn bán với các nước khác. Lý thuyết của phái trọng thương chỉ ra rằng chỉ có lợi nhuận từ sự trao đổi không ngang giá và lừa gạt giữa các quốc gia. Hay quan điểm của họ đưa ra rằng quốc gia nào xuất siêu càng nhiều thì càng có lợi, còn nhập khẩu càng nhiều thì càng có hại. Vì vậy các chính phủ đã tạo điều kiện trợ giúp cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và hạn chế hoạt động nhập khẩu thông qua việc điều chỉnh việc mua bán. Đến giai đoạn cuối họ cho rằng có thể tăng cường nhập khẩu nếu như qua đó đẩy nhanh được xuất khẩu tuy nhiên cán cân thương mại vẫn nghiêng về phía xuất khẩu. Trong tác phẩm " Của cải của các dân tộc", nhà kinh tế học Adamsmith đã đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối. Ông cho rằng nếu quốc gia A sản xuất ra hàng hoá X rẻ hơn ở quốc gia B và nếu quốc gia B sản xuất ra hàng hoá Y rẻ hơn ở quốc gia A, khi đó quốc gia B có lợi thế tuyệt đối về hàng hoá Y. Khi thương mại quốc tế xảy ra, 2 quốc gia này cùng có lợi nếu cả 2 nước cùng chuyên môn hoá vào sản xuất mà mình có lợi thế tuyệt đối. Số giờ công lao động để sản xuất ra 1 đơn vị hàng hoá Anh Mỹ Lương thực 5 3 Quần áo 2 6 Ông đưa ra mô hình trên và các giả thuyết: Cạnh tranh hoàn hảo trên tất cả các thị trường. Chi phí vận chuyển không đáng kể giữa 2 nước. Lao động là yếu tố đầu vào duy nhất có thể di chuyển được giữa các ngành trong một quốc gia nhưng không thể di chuyển giữa các quốc gia. Không có các rào cản đối với thương mại tự do. Lợi tức không đổi theo quy mô, Theo mô hình, nước Anh có lợi thế so sánh tuyệt đối về sản xuất quần áo, còn nước Mỹ có lợi thế so sánh tuyệt đối về lương thực. Chính vì lẽ đó nước Anh sẽ chuyên môn hoá vào sản xuất quần áo, Mỹ chuyên sâu vào sản xuất lương thực, thông qua trao đổi cả 2 nước đều có lợi (giả sử chỉ xem xét 2 nước trao đổi với nhau và chỉ sản xuất 2 mặt hàng lương thực và quần áo). Tuy nhiên lý thuyết so sánh tuyệt đối của ông không thể giải thích được cho trường hợp giữa 2 nước giàu và nghèo, giữa 2 nước 1 có năng suất lao động cao hơn nước kia về cả 2 mặt hàng mà thương mại quốc tế vẫn xảy ra. Nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã trả lời được câu hỏi này bằng lợi thế so sánh tương đối. Năm 1817 ông đã chứng minh được rằng các quốc gia sẽ chuyên môn hoá vào sản xuất ra hàng hoá đó có chi phí tương đối thấp hơn ở nước khác. Các giả định của ông đưa ra: Cạnh tranh hoàn hảo trên các thị trường. Chi phí vận chuyển giữa các nước là không đáng kể. Lao động là yếu tố đầu vào duy nhất có thể di chuyển được giữa các ngành sản xuất trong một nước nhưng không thể di chuyển giữa các nước. Không có cản trở nào đối với thương mại tự do. Lợi tức không đổi theo quy mô. Công nghệ ở các nước khác nhau có trình độ phát triển khác nhau. Mô hình: Số giờ lao động sản xuất ra một đơn vị sản phẩm Anh Mỹ Lương thực 5 6 Quần áo 2 12 Theo mô hình này thì ở Anh năng suất lao động của 2 mặt hàng lương thực, quần áo đều cao hơn Mỹ, hay nói cách khác Anh có lợi thế tuyệt đối về cả 2 mặt hàng này. Tuy nhiên Ricardo đã chứng minh được rằng Anh - Mỹ nếu xảy ra thương mại giữa 2 nước vẫn có lợi cho 2 bên bằng quy luật lợi thế tương đối: các nước hay cá nhân nếu chuyên môn hoá trong việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình làm ra có chi phí tương đối thấp hơn thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn. Quy luật lợi thế so sánh tương đối đã nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. LJi : chi phí sản xuất ra hàng hoá j ở nước i. Trong trường hợp này: Quốc gia A có lợi thế so sánh trong sản xuất F (lương thực). Quốc gia B có lợi thế so sánh trong sản xuất C (quần áo). Mô hình và lý thuyết so sánh tuyệt đối, tương đối của Adam smith và Ricardo chỉ giải thích được việc thương mại xảy ra giữa các nước là do sự tồn tại khác biệt về năng suất lao động. Tuy nhiên trong thế giới thực tế thương mại xảy ra không chỉ xem xét mỗi yếu tố đầu vào là lao động mà còn có các yếu tố khác như đất đai, vốn và tài nguyên khoáng sản. Thực tế cho thấy Canada xuất khẩu sản phẩm lâm sản sang Mỹ không phải vì những người công nhân làm trong ngành lâm nghiệp của Canada có năng suất lao động tương đối (so với những đồng nghiệp của họ ở nước Mỹ) cao hơn những ngành khác của Canada, mà là vì đất nước Canada thưa dân có nhiều đất rừng theo đầu người hơn nước Mỹ. Hai nhà kinh tế người Thuỵ Điển Heckscher - Oblin đẫ bổ sung bằng mô hình mới trong đó 2 ông đề cập đến hai yếu tố đầu vào là lao động và vốn với các giả thiết sau: Cạnh tranh là hoàn hảo. Chi phí vận chuyển không đáng kể. Không có rào cản đối với thương mại tự do. Lợi tức không đổi theo quy mô. Lao động là yếu tố đầu vào có thể di chuyển được giữa các nước. Công nghệ và sở thích của 2 quốc gia là như nhau. Cán cân thương mại ở 2 nước tại thời điểm trao đổi và chuyên môn hoá là cân bằng. Không có sự di chuyển các yếu tố quốc tế, chỉ có sự di chuyển giữa các yếu tố trong phạm vi quốc gia. Cả 2 đều sử dụng có hiệu quả nhất các yếu tố trong phạm vi quốc gia. (Với giả thiết chỉ xem xét thương mại xảy ra giữa 2 quốc gia và đầu vào là lao động và vốn). Hai ông đã đưa ra định lý: một nước sẽ có lợi nếu sản xuất và chuyên môn hoá những hàng hoá tương đối sẵn có các yếu tố dồi dào và nhập khẩu các hàng hoá tương đối đắt và hiếm. Hai ông cũng đưa ra lý thuyết chứng minh thương mại (có từ 2 yếu tố đầu vào trở lên) sẽ ảnh hưởng đến sự phân phối thu nhập của các ngành trong một nước. Qua các mô hình lý thuyết của các nhà kinh tế học từ cổ điển đến hiện đại đã làm sáng tỏ được nguồn gốc của thương mại quốc tế. I.1.2. Lợi ích của thương mại quốc tế: Một quốc gia không thể sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá thoả mãn nhu cầu của dân chúng, hay nếu có thể thì cũng không đem lại hiệu quả kinh tế cao. Lợi ích mà thương mại quốc tế đem lại là sự mở rộng khả năng tiêu dùng hơn những gì khi chưa xảy ra trao đổi thương mại, làm động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng tính chuyên môn hoá, làm cho sự phân công lao động ngày càng trở nên sâu sắc, nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển. I.2. Vai trò của thương mại quốc tế: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng ta tại Đại hội lần VI đã nhấn mạnh "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự phát triển KH-KT và công nghiệp hoá XHCN của nước ta tiến nhanh hay chậm phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ". Xu thế phát triển chung của nhiều nước hiện nay là thay đổi chiến lược kinh tế từ "đóng cửa" sang "mở cửa", từ chiến lược "thay thế nhập khẩu" sang "hướng vào xuất khẩu", qua đó cho thấy các quốc gia đã ngày càng chú trọng đến vai trò của thương mại quốc tế. Nền kinh tế "đóng cửa" về cơ bản là phát triển kinh tế tự cung, tự cấp, sản xuất thay thế nhập khẩu. Nét đặc trưng của nền kinh tế là sản xuất để trực tiếp tiêu dùng "tự sản, tự tiêu". Tổ chức lao động xã hội diễn ra trong một phạm vi hẹp mang nặng tính bảo thủ. Nó không phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của thế giới. Đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp là kinh tế hàng hoá. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá là cả một quá trình phức tạp lâu dài và khó khăn vì tính trì trệ, bảo thủ của nền kinh tế tự nhiên. Chính sách "đóng cửa" không thể tồn tại lâu dài được là do các nguyên nhân sau: Trong điều kiện quốc tế hoá, đời sống kinh tế ngày càng cao, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham gia vào quá trình liên kết, hợp tác quốc tế, khu vực, một chính sách "đóng cửa" không còn thích hợp với hiện nay nữa. Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh như vũ bão, nó ngày càng trở thành nhân tố quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong khi đó chính sách "đóng cửa" đã hạn chế khă năng tiếp thu kỹ thuật mới làm cho nền kinh tế phát triển chậm chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, không có công nghệ kỹ thuật hiện đại tiên tiến. Kết quả tất yếu là năng suất lao động thấp, hiệu quả kém, khả năng cạnh tranh yếu, tốc độ phát triển chậm. Hầu hết các nước nghèo, lạc hậu hay đang phát triển đều thiếu vốn cho việc đầu tư vào sản xuất. Trong khi đó quá trình phát triển nền kinh tế đòi hỏi phải nhập khẩu một khối lượng ngày càng nhiều máy móc, thiết bị và nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Nếu không phát triển thương mại quốc tế thì vấn đề thiếu hụt trong cán cân thanh toán ngày càng lớn. Thị trường trong nước thu nhỏ hẹp không đủ đảm bảo cho sự phát triển công nghiệp với quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt. Do đó không tạo nên việc làm - một vấn đề mà các nước nghèo phải quan tâm. Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách "đóng cửa" lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực mà phải tận dụng có hiệu quả quả tất cả những thành tựu về kinh tế, khoa học công nghệ của loài người đã đạt được, tận dụng tranh thủ các nguồn lực, vốn của nước ngoài để phát triển đất nước. Vai trò to lớn của thương mại quốc tế là sự thông qua trao đổi thương mại mà làm cho quá trình phân công lao động, chuyên môn hoá ngày càng trở nên sâu sắc, nó thúc đẩy cho sự phát triển của loài người ngày càng cao lên, ngày càng đáp ứng kịp thời đầy đủ những nhu cầu của con người, nâng cao khả năng sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của con người. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. II.1. Khái niệm xuất khẩu. II.1.1. Khái niệm. Hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu là 2 hoạt động chính cấu thành nên thương mại quốc tế, là hoạt động kinh doanh hàng hoá - dịch vụ giữa 1 nước với phần còn lại của thế giới. Ngày nay hoạt động xuất khẩu diễn ra rất sôi nổi và đa dạng trên thị trường quốc tế và thường được các quốc gia quan tâm nhất trong chính sách đối ngoại. Như vậy: hoạt động xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ của một nước với phần còn lại của thế giới dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ thị trường nhằm mục đích lợi nhuận. II.1.2. Nhiệm vụ của xuất khẩu. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển và ổn định thì hoạt động xuất khẩu phải thực hiện được những nhiệm vụ sau đây: Một là: phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh nhằm tạo ra cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có của đất nước. Hai là: phải ra sức khai thác mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh tương đối. Ba là: nâng cao năng lực sản suất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Bốn là: tạo ra những mặt hàng (nhóm hàng) xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường và của khách hàng về chất lượng và số lượng có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. II.2. Vai trò của xuất khẩu. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động kinh doanh xuất khẩu đóng vai trò rất lớn, cụ thể là: II.2.1. Xuất khẩu tạo nguồn chủ yếu cho nhập khẩu. Những nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (những nước chậm phát triển và đang phát triển như Việt Nam) đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến phục vụ cho quá trình cơ sở vật chất sản xuất hạ tầng của đất nước. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: liên doanh đầu tư với nước ngoài, vai nợ, viện trợ, tài trợ.... Tuy nhiên các nguồn này thường bấp bênh và biến đổi liên tục và có kèm theo những cái giá phải trả bằng cách này hay bằng cách khác. Chỉ có nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu thu về sẽ tạo điều kiện cho nhập khẩu thực hiện những chiến lược phát triển kinh tế đất nước một cách ổn định và vững chắc. II.2.2. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng ngoại. Xuất khẩu làm thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các hướng sau: Phải xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức và xuất khẩu những sản phẩm mà nước khác cần. Điều đó có tác dụng lớn đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có liên quan có cơ hội thúc đẩy sự phát triển. Bởi vì trong một nền kinh tế do sự phân công lao động cao, tạo nên một sự rằng buộc lẫn nhau giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ khi sản phẩm dệt may được xuất khẩu không chỉ trong ngành dệt sản phẩm sẽ được phát triển mà các ngành khác như: sản xuất bông, sợi nhuộm, hoá phẩm. .. sẽ cũng được phát triển theo, quy mô của những ngành này cũng được trang bị, mở rộng thêm, cơ hội tạo thêm được nhiều công ăn việc làm cho công nhân các ngành liên quan. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ và cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất khai thác tối đa sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào trong nước, thúc đẩy nhanh quá trình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Thông qua xuất khẩu thì quốc gia đó phải xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới. Bên cạnh đó phải đối đầu cạnh tranh quyết liệt về giá cả, chất lượng trên thị trường thế giới. Do đó buộc quốc gia đó phải cơ cấu tổ chức lại sản xuất cho phù hợp theo xu hướng hướng ngoại. Xuất khẩu làm cho các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới hoàn thiện công tác quản lý, sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành. II.2.3. Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Trước hết, sản xuất hàng hoá xuất khẩu thu hút nhiều nhân công các ngành từ sản xuất xuất khẩu chính đến các ngành liên quan. Có nhiều công việc dẫn đến thu nhập ổn định, dần dần từng bước nâng cao sức tiêu dùng, sâu xa hơn đã tạo thêm sự ổn định cho nền kinh tế xẫ hội. II.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác đều có sự liên quan và cho quốc gia đó ngày càng hoà đồng cùng nền kinh tế thế giới, tạo nên sự gắn bó chặt chẽ với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất ra hàng hoá xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế. .., đến lượt nó chính quan hệ đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. II.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là trao đổi hàng hoá, dịch vụ qua lãnh thổ biên giới, đối tác là những người nước ngoài có phong tục tập quán, văn hoá khác nhau hay khác nhau về quốc tịch. Hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế thực chất cũng như hoạt động kinh doanh trong nước chỉ khác chăng ảnh hưởng của các yếu tố tới kinh doanh thương mại quốc tế không những là các yếu tố trong nước mà còn ở thị trường thế giới như thông lệ quốc tế, khu vực, đồng tiền thanh toán. ... Do đó có thể thấy rằng hoạt động xuất khẩu rất phức tạp, ta có thể thấy một số các nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu như: II.3.1. Nhân tố văn hoá - địa lý: II.3.1.1. Địa lý. Tức là nghiên cứu bề mặt trái đất, khí hậu, đất, nước, con người, tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố không thể kiểm soát được đối với mỗi một doanh nghiệp. Nó tác động đến nhu cầu sử dụng hàng hoá khác nhau, tạo ra các đặc điểm hàng hoá sao cho phù hợp với từng điều kiện địa lý của từng vùng. Ví dụ các nhà sản xuất phát hiện ra rằng các thiết bị xây dựng khi sử sụng ở Mỹ đòi hỏi phải có sự thay đổi đáng kể nhằm thích ứng với điều kiện nhiệt độ cao và bụi từ sa mạc Sahara. II.3.1.2. Văn hoá. Là tất cả các tri thức, truyền thống phong tục tập quán của con người. Nền văn hoá tạo nên cách sống, sự suy nghĩ của một cộng đồng nó sẽ quyết định đến cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn. Đây chính là yếu tố tác động mạnh mẽ đến các hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Các nhà kinh doanh phải xem xét kỹ môi trường văn hoá của nước ấy trước khi đưa sản phẩm của mình vào thị trường đó. Ví dụ khi đưa sản phẩm vào thị trường Trung Đông thì sản phẩm nào có biểu tượng mẫu mà quảng cáo là hình ảnh phụ nữ thì sản phẩm đó sẽ bị lên án, bị tẩy chay ngay. II.3.2. Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền nước này được biểu hiện qua một đồng tiền của nước khác, nó là giá cả của các loại giá cả. Mỗi quốc gia đều có một đơn vị tiền riêng cho mình như Việt Nam có VNĐ, Mỹ có USD,. .. , do đó tỷ giá thể hiện sự trao đổi, sức mua giữa 2 đồng tiền, nó gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thông qua tác động đến giá cả hàng hoá dịch vụ xuất khẩu. Một chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái lên cao sẽ khuyến khích được hoạt động sản xuất nhiều hơn, hạn chế việc nhập khẩu. Vì giá cả của hàng hoá quốc gia đó sẽ rẻ đi trên thế giới, làm cho sức cạnh tranh tăng lên, khuyến khích việc mua sản phẩm của quốc gia đó. Đối với mỗi cấp cơ sở như doanh nghiệp, tỷ giá hối đoái có liên quan trực tiếp đến tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu. Nó chính là số bản tệ bỏ ra để thu về một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu thấp hơn tỷ giá hối đoái thì các doanh nghiệp mới thực hiện xuất khẩu và ngược lại. II.3.3. Cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khi một sản phẩm đưa vào thị trường để tiêu thụ thì nó đã trở thành hàng hoá và bị chi phối bởi quy luật cung cầu trên thị trường. Hàng hoá xuất khẩu cũng thế, nó bị cạnh tranh quyết liệt trên thị trường thế giới bởi các nguồn cung khác nhau. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ và cũng như sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đã làm vấn đề cạnh tranh ngày càng trở nên gay go hơn các hiện tượng cạnh tranh độc quyền, "cá lớn nuốt cá bé", "xáp nhập - thôn tính" đã trở nên phổ biến, tinh vi hơn. Chính vì vậy thường xảy ra hiện tượng tranh nhau bán, tranh nhau mua, các nước nghèo phải, đang phát triển phải chống đỡ rất khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị trường thế giới. II.3.4. Chế độ, chính sách của nhà nước (chính trị - luật pháp). Khi một sản phẩm thâm nhập vào một thị trường quốc gia khác thì nó phải tuân thủ các điều kiện về chính trị, luật pháp của quốc gia đó như sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn về điều kiện vệ sinh môi trường, các chính sách thuế quan, thủ tục hải quan, hạn ngạch, chính sách về hàng hoá cấm xuất nhập khẩu... Tất cả mọi hàng hoá không phải sẽ được nhập khẩu vào một quốc gia khác đang có nhu cầu cần được thoả mãn, mà nó phải chờ đợi xem xét quốc gia đó có cho phép sản phẩm đó có được nhập khẩu hay không, số lượng hạn chế hay tự do. II.3.5. Nguồn hàng phục vụ cho xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu có ảnh hưởng khá lớn đến công tác xuất khẩu, quy trình sản xuất phải có đầu vào và đầu ra. Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu cho thị trường đầu ra, các doanh nghiệp phải tập trung cố gắng tìm nguồn vào cho sản xuất. Doanh nghiệp sản xuất thì sự phụ thuộc ở các nguồn hàng thường ít hơn doanh nghiệp thương mại vì họ phải tổ chức đi thu gom ở nhiều nơi mới phục vụ được cho xuất khẩu. Nhiều khi nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hay kinh doanh xuất khẩu hàng hoá lại phải nhập khẩu từ bên ngoài sẽ làm cho các doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn, và phụ thuộc nhiều hơn vì thế cũng tác động đến tiến độ xuất khẩu hàng hoá. II.3.6. Hệ thống thông tin liên lạc - hệ thống ngân hàng tài chính quốc gia. Do kinh doanh thương mại quốc tế thường được tổ chức qua biên giới lãnh thổ quôc gia, đặc điểm quãng đường là xa, vì thế hệ thống thông tin liên lạc là cơ sở chính để có thể trao đổi và tìm hiểu, ký kết hợp đồng một cách nhanh chóng nhất làm rút bớt khoảng cách về không gian địa lý. Vì thế một quốc gia, hay một khu vực có hệ thống trang bị về thông tin tốt cũng gián tiếp khuyến khích thúc đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu của mình. Còn hệ thống ngân hàng tài chính thường được phát triển đi sau hoạt động xuất khẩu, nhưng nếu thiếu nó sẽ trở nên gây khó khăn cho kinh doanh xuất khẩu, vì các doanh nghiệp cần có vốn để kinh doanh, hệ thống này hoạt động tốt sẽ tạo ra sự quay vòng nhanh chóng của quá trình tái sản xuất. Bảo đảm trong công tác thanh toán quốc tế giữa các quốc gia, do sự xa cách về không gian địa lý mà các doanh nghịêp ở các quốc gia khác nhau cảm thấy sự đảm bảo an toàn trong công tác kinh doanh với nhau. II.4. Các hình thức xuất khẩu. II.4.1. Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu mà trong đó các nhà sản xuất, công ty xí nghiệp và các nhà xuất khẩu, trực tiếp kí kết hợp đồng mua bán trao đổi hàng hoá. Hình thức này không qua một tổ chức trung gian nào, có thể trực tiếp gặp nhau cùng bàn bạc thảo luận để đưa đên một hợp đồng hoặc không cần gặp nhau trực tiếp mà thông qua thư chào hàng, thư điện tử, điện thoại, fax,... cũng có thể tạo thành một hợp đồng mua bán kinh doanh thương mại quốc tế được ký kết. Ưu điểm của giao dịch trực tiếp. Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc xảy ra. Giảm được chi phí trung gian, nhiều khi chi phí này rất lớn, phải chia sẻ lợi nhuận. Giao dịch trực tiếp sẽ có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng, khắc phục thiếu sót. Chủ động trong việc chuẩn bị nguồn hàng, phương tiện vận tải để thực hiện hoạt động xuất khẩu và kịp thời điều chỉnh thị trường tiêu thụ, nhất là trong điều kiện thị trường nhiều biến động Hạn chế khó khăn của hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Đối với thị trường mới chưa từng giao dịch thường gặp nhiều bỡ ngỡ, dễ gặp sai lầm, bị ép giá trong mua bán. Đòi hỏi cán bộ công nhân viên làm công tác kinh doanh xuất khẩu phải có năng lực hiểu biết về nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ, văn hoá của thị trường nước ngoài, phải có nhiều thời gian tích luỹ. Khối lượng mặt hàng giao dịch phải lớn mới có thể bù đắp được các chi phí trong giao dịch như: giấy tờ, đi lại, điều tra, nghiên cứu thị trường. ... II.4.2. Xuất khẩu gián tiếp (xuất khẩu uỷ thác). Xuất khẩu uỷ thác gồm 3 bên, bên uỷ thác xuất khẩu, bên nhận uỷ thác xuất khẩu và bên nhập khẩu. Bên uỷ thác không được quyền thực hiện các điều kiện về giao dịch mua bán hàng hoá, giá cả, phương thức thanh toán. .. mà phải thông qua bên thứ 3 - người nhận uỷ thác. Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp không được phép kinh doanh xuất khẩu trực tiếp hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp, uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu làm dịch vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình, bên nhận uỷ thác được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Việc thực hiện xuất khẩu uỷ thác có tác dụng: Giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tìm nguồn đầu ra cho sản phẩm của mình. Giúp cho hàng hóa của doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập vào một thị trường mới mà mình chưa biết, tránh được rủi ro khi mình kinh doanh trên thị trường đó. Tận dụng sự am tường hiểu biết của bên nhận uỷ thác trong nghịêp vụ kinh doanh xuất khẩu từ khâu đóng gói, vận chuyển, thuê tàu mua bảo hiểm... sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được tiền của, thời gian đầu tư cho việc thực hiện xuất khẩu. Tuy nhiên hình thức này có những khó khăn: Mất mối liên hệ trực tiếp của doanh nghiệp với thị trường (khách hàng). Phải chia sẻ lợi nhuận. Nhiều khi đầu ra phụ thuộc vào phía uỷ thác trung gian làm ảnh hưởng đến sản xuất. II.4.3. Xuất khẩu hàng đổi hàng (buôn bán đối lưu). Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Khối lượng hàng hóa được trao đổi có giá trị tương đương. ở đây mục đích của xuất khẩu không phải thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một khối lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Vì những đặc điểm đó người ta gọi là phương thức hàng đổi hàng. Tuy tiền tệ không được thanh toán trực tiếp nhưng nó được làm vật ngang giá chung cho giao dịch này. Các bên tham gia buôn bán đối lưu phải quan tâm đến sự cân bằng trong trao đổi hàng hoá. Sự cân bằng đó thể hiện ở khía cạnh sau: cân bằng về mặt hàng, mặt hàng quý hiếm, mặt hằng tồn kho khó bán lấy mặt hàng tồn kho. II.4.4. Tạm nhập tái xuất. Tái xuất là sự tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài những mặt hàng trước đây đã nhập khẩu với điều kiện hàng hoá phải nguyên dạng như lúc đầu nhập khẩu. Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp không sản xuất được hay sản xuất được nhưng với khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu nên phải nhập từ nước ngoài vào để sau đó tái xuất. Hoạt động giao dịch tái xuất bao gồm 2 hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn lượng ngoại tệ bỏ ra lúc đầu. Các bên tham gia gồm có: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu. Tạm nhập tái xuất có thể thực hiện bằng một trong hai hình thức sau: Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu tới nước tái xuất rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền về từ nước nhập khẩu. Chuyển khẩu: được hiểu là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán hàng hoá cho một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào nước tái xuất. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền về từ nước nhập khẩu. Ưu điểm của hình thức này là tạo ra thị trường rộng lớn, quay vòng vốn và đáp ứng được nhu cầu bằng những hàng hoá mà trong nước không thể đáp ứng được, tạo ra thu nhập. Nhược điểm của hình thức này là các doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nước xuất khẩu về giá cả, thời gian giao hàng. Ngoài ra nó còn đòi hỏi người làm công tác tái xuất phải giỏi về nghiệp vụ kinh doanh tái xuất, phải nhạy bén đối với tình hình ._.thị trường và giá cả thế giới, sự chính xác chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán. Đối với Việt Nam các doanh nghiệp kinh doanh tậm nhập tái xuất với điều kiện không được kinh doanh các hàng hoá thuộc diện cấm nhập, cấm xuất và được lưu kho tại Việt Nam trong vòng 30 ngày, có thể được gia hạn thêm tối đa 3 lần mỗi lần không quá 30 ngày. II.4.5. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá. Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loại và có phẩm chất có thể thay thế được với nhau. Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập trung của quan hệ cung cầu về một mặt hàng giao dịch trong một khu vực ở một thời điểm nhất định. Do đó giá công bố tại sở giao dịch có thể xem như một tài liệu tham khảo trong việc xác định giá quốc tế. II.4.6. Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là một hình thức xuất khẩu mà trong đó một bên (gọi là bên gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (bên đặt gia công) để chế biến ra sản phẩm và giao lại cho bên đặt gia công và nhận tiền gia công. Ngày nay gia công quốc tế là hình thức khá phổ biến trong hoạt động ngoại thương ở nhiều nước. Nội dung của hoạt động xuất khẩu. III.1. Nghiên cứu thị trường tìm đối tác giao dịch. III.1.1. Nghiên cứu thị trường. Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kì công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất và lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá ở đó có thị trường. Ta cũng có thể hiểu thị trường theo 2 góc độ: thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá tiền tệ, hay cách khác thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và cung có khả năng đáp ứng. Trước đây các doanh nghiệp ít khi chú trọng đến nghiên cứu thị trường, sản xuất không xuất phát từ tín hiện thị trường mà chủ yếu chú trọng vào khâu sản xuất do đó đã xảy ra cuộc khủng hoảng thừa (1929-1930), sau đó trở đi các doanh nghiệp mới bắt đầu chú ý nhiều đến việc nghiên cứu thị trường. Để nắm vững được các yếu tố của thị trường, hiểu biết về quy luật vận động của chúng nhằm ứng xử kịp thời, mỗi nhà kinh doanh nhất thiết phải tiến hành các hoạt động về nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có rất nhiều ý nghĩa trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế đặc biệt là trong công tác xuất nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững biến động của tình hình thị trường và giá cả hàng hoá trên thế giới là những tiền đề quan trọng nhất đảm bảo cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trên thị trường thế giới có hiệu quả nhất. Công tác nghiên cứu thị trường phải trả lời một số câu hỏi quan trọng sau đây: Nước nào là nước có thị trường triển vọng nhất đối với sản phẩm của công ty. Khả năng số lượng bán ra được bao nhiêu. Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước những đòi hỏi của thị trường. Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp. Nghiên cứu thị trường còn phục vụ công tác kế hoạch của cơ quan nhà nước trong việc hoạch định chiến lược phát triển thương mại quốc tế, xác định cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu. ... Do vậy nó phải đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu thị trường thường sử dụng 2 phương pháp sau. Nghiên cứu tại bàn. Về cơ bản nghiên cứu tại bàn gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, xuất bản hay không xuất bản. Đây là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế như chậm và mực độ tin cậy thấp. Kết quả nghiên cứu tại bàn cần phải được bổ sung bằng nghiên cứu tại hiện trường. Chìa khoá thành công của nghiên cứu tại bàn là phát hiện ra các nguồn thông tin và triệt để khai thác những thông tin đó. Ngày nay trong thời đại tin học, thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả. .. rất phong phú. Trước tiên đó là các nguồn từ các tổ chức quốc tế sau: Trung tâm thương mại quốc tế (International Trade Centre - ITC). Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT). Tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD) Hội đồng kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương (ESCAP). ... Nguồn thông tin thứ 2 là các sách báo thương mại do các tổ chức quốc gia hoặc cá nhân xuất bản, đáng chú ý là những ấn phẩm sau: - Niên giám thống kê xuất khẩu của các nước. - Bản tin Reuter và các loạt mặt hàng. - Thời báo tài chính. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Về mặt trình tự nghiên cứu hiện trường có thể thực hiện sau khi đã sơ bộ phân tích đánh giá những kết quả nghiên cứu tại bàn, nghĩa là sau khi đã xử lý thông tin. Những việc thu thập và xử lý thông tin là một quá trình liên tục, nhiều khi nó xảy ra cùng một lúc, cũng như thường xuyên xử lý để có sự điều chỉnh phản ứng linh hoạt. Nghiên cứu tại bàn chủ yếu thu thập thông tin qua các nguồn đã được công khai xuất bản, còn nghiên cứu tại hiện trường chủ yếu thu thập thông tin từ trực quan và qua các quan hệ giao tiếp với thương nhân và với người tiêu dùng. Xét về tính phức tạp và mức độ chi phí, nghiên cứu tại hiện trường là một hoạt động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ làm được. Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông tin về các thị trường đã đề cập, chọn ra những thị trường có nhiều triển vọng nhất. Sau đó căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch khảo sát. Nghiên cứu hiện trường do trung tâm thương mại quốc tế hoặc do 1 hãng nghiên cứu tư nhân hoặc do thương nhân tự tiến hành. III.1.2. Nghiên cứu giá cả, xu hướng biến động giá cả. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là một vấn đề rất quan trọng đối với bất cứ một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nào, đặc biệt là các đơn vị mới bắt đầu tham gia kinh doanh, chưa đủ mạng lưới nghiên cứu cung cấp thông tin cũng như thiếu cán bộ am hiểu công tác này. Giá cả hàng hóa trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới và có ảnh hưởng đối với hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Giá cả hàng hoá xuất khẩu được hình thành dựa trên giá quốc tế và nó luôn biến động. Giá cả quốc tế có tính chất đại diện đối với mỗi loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá đó được dùng trong giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và được thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Trong thực tế người ta thường lấy giá cả của các hàng hoá ở các trung tâm thương mại lớn trên thế giới hay ở các sở giao dịch truyền thống trên thế giới làm cơ sở để định giá cho sản phẩm của mình. Tuy nhiên đối với máy móc thiết bị thường khó xác định giá quốc tế, vì vậy trong thực tế chủ yếu căn cứ vào giá cả của các hãng sản xuất và mức cung trên thị trường. Dự đoán xu hướng biến động giá cả. Xu hướng biến động giá cả của các loại hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp, có lúc tăng, có lúc giảm. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động giá cả theo từng loại hàng hoá trên thị trường thế giới phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường từng loại hàng hoá, đồng thời đánh giá chính xác các nhân tố tác động đến xu hướng biến đổi giá cả như: Nhân tố chu kỳ: tức là sự vận động có tính chất quy luật như tình hình kinh tế, chu kỳ sống của sản phẩm đó đang ở giai đoạn nào. Nhân tố lũng đoạn về giá cả (độc quyền, bán phá giá, đầu cơ. ..). Nhân tố cạnh tranh: các đối tượng tham gia vào thị trường đó như thế nào. Ngoài ra khi nghiên cứu giá cả hàng hóa ta cần phải nghiên cứu. Nhân tố tỷ giá hối đoái của đồng tiền nội tệ và ngoại tệ của các thị trường. Đông tiền tính giá có thể dùng đồng tiền của nước xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc của một nước thứ 3 nhưng đó phải là đồng tiền mạnh tự do chuyển đổi. Điều kiện cơ sở giao hàng, cũng thường đi kèm theo cách tính giá, ví dụ như giá CIF hay theo giá FOB. Phương pháp tính giá giữa 2 bên theo giá cố định hay giá có sự điều chỉnh khi thị trường có sự biến động về giá cả. Yếu tố tín dụng như trả trước, cho vay trả dần, giảm giá. ... III.1.3. Lựa chọn đối tác giao dịch và mặt hàng kinh doanh. Lựa chọn đối tác giao dịch. Trong kinh doanh thương mại quốc tế bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người quan hệ giao dịch với chúng ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán, dịch vụ kỹ thuật khi đi vào nghiên cứu đối tác giao dịch cần phải tìm hiểu rõ về: Loại hình doanh nghiệp kinh doanh của đối tác. Loại hình, phạm vi hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất khả năng tài chính, các cơ sở chi nhánh văn phòng đại diện. Thực trạng hoạt động và triển vọng trong tương lai. Năng lực kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên. Uy tín trong kinh doanh của đối tác. Về lựa chọn mặt hàng: Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường, môi trường kinh doanh, chính trị luật pháp, văn hoá doanh nghiệp phải xác định dự kiến mặt hàng nào? quy cách phẩm chất, bao bì nhãn hiệu như thế nào. ... Vấn đề khá quan trọng trong giai đoạn này là xác định số lượng xuất khẩu để đạt mục đích tối đa hoá lợi nhuận. III.2. Xây dựng phương án kinh doanh Để có phương án kinh doanh hợp lý, các cán bộ công nhân viên chuyên môn phải dựa vào các thông tin về cung cầu hàng hóa, điều kiện tài chính, quy chế chính trị, luật pháp, văn hoá, đối tác giao dịch, tâm lý tiêu dùng là những yếu tố quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế. Doanh nghiệp phải dự đoán chính xác mức giá bán là bao nhiêu? số lượng như thế nào? các biện pháp quảng cáo xúc tiến bán hàng. .. và phải đưa ra một số chỉ tiêu đánh giá như: - Thời gian hoàn vốn. - Tỷ suất ngoại tệ. - Điểm hoà vốn. - Tỷ suất lợi nhuận. Sau đó có thể dựa vào thang điểm mà lựa chọn phương án kinh doanh nào tối ưu nhất và các phương án dự phòng nếu phương án thức nhất không thực hiện được. III.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng. III.3.1. Đàm phán. Là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Trong kinh doanh thương mại quốc tế người ta thường sử dụng các hình thức sau: Đàm phán qua thư tín: ngày nayđàm phán qua thư từ và điện tín vẫn còn là một hình thức chủ yếu để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Ưu điểm của hình thức này là tiết kiệm được chi phí đi lại giao dịch và có thể giao với nhiều khách hàng trên thế giới cùng một lúc. Người viết thư có điều kiện để cân nhắc, suy nghĩ, tranh thủ ý kiến nhiều người để đưa ra các điều khoản có lợi cho mình. Tuy nhiên giao dịch qua thư tín thường mất nhiều thời gian chờ đợi và có thể bỏ lỡ cơ hội mua bán. Đàm phán qua điện thoại: việc giao dịch đàm phán qua điện thoại nhanh chóng giúp nhà kinh doanh tiến hành đàm phán một cách khẩn trương đúng vào thời cơ cần thiết. Nhưng chi phí điện thoại rất cao, các cuộc trao đổi thường bị hạn chế về mặt thời gian, các bên không thể trình bày chi tiết. Đàm phán trực tiếp: đây là hình thức giao dịch đẩy mạnh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa 2 bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại đã kéo dài quá lâu mà không đạt kết quả. Nó tạo ra sự hiểu biết và thông cảm nhau hơn, tạo nên quan hệ lâu dài. Tuy nhiên đây là hình thức đàm phán khó khăn nhất, nó đòi hỏi người tiến hành đàm phán phải chắc chắn về nghiệp vụ, linh hoạt. .. để có thể bình tĩnh, tỉnh táo đưa ra sách lược đối phó. Bên cạnh đó chi phí cho chuyến đi giao dịch này cũng rất tốn kém. III.3.2. Ký kết hợp đồng. Sau khi giao dịch đàm phán thành công bước tiếp theo hai bên sẽ tiến hành ký kết xác nhận những điều khoản đã thoả thuận bằng một hợp đồng. Hợp đồng này sẽ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của hai bên. Một hợp đồng kinh tế gồm các nội dung sau: Số mã hiệu , kí hiệu hợp đồng. Ngày tháng năm và nơi ký kết hợp đồng. Tên địa chỉ, điện thoại, số tài khoản các bên. Những căn cứ ký kết hợp đồng. Những định nghĩa cần thiết đối với các chứng từ cần dùng trong hợp đồng. Những điều khoản ký kết: tên hàng, giá cả, số lượng, chất lượng, điều kiện, cơ sở giao hàng, phương thức thanh toán, khiếu nại, trọng tài, bao bì, điều khoản bất khả kháng, điều kiện vận tải, điều khoản bồi thường trách nhiệm. Chữ ký và con dấu của hai bên. Thông thường trong kinh doanh thương mại quốc tế ở các nước trên thế giới một hợp đồng chính thức được công nhận nếu có 2 điều khoản về số lượng và giá trị. Nhưng ở Việt Nam một hợp đồng phải có các điều khoản chủ yếu sau: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng, thanh toán mới cấu thành nên một hợp đồng. III.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp đồng đã được ký kết nghĩa là nghĩa vụ và quyền lợi của các bên ký trong hợp đồng đã được xác định. Lúc này 2 bên phải nhanh chóng thực hiện hợp đồng đã ký để không xảy ra sai xót và gây thiệt hại. Quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Giải quyết khiếu nại Thủ tục thanh toán Ký HĐ xuất khẩu Kiểm tra L/C Xin giấy phép XK Chuẩn bị hàng hoá Kiểm tra hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng Thuê tàu Giao hàng Xin giấy phép xuất nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong quá trình xuất nhập khẩu. Trước khi có NĐ 57/CP/1998 ban hành ngày 31-7-1998 thì các doanh nghiệp khi thực hiện một giao dịch kinh doanh xuất khẩu phải xin giấy phép mới được xuất khẩu. Nay thì đối với những mặt hàng không phải cấm xuất nhập hay có điều kiện thì không phải xin giấy phép nữa mà được xuất khẩu hàng hóa phù hợp với giấy phép kinh doanh đã đăng ký (Điều 3 NĐ 57/1998). III.4.1. Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Khâu chuẩn bị hàng cũng rất quan trọng, thường thì sau khi ký hợp đồng người xuất khẩu phải nhanh chóng chuẩn bị hàng hoá để giao cho người nhập khẩu, thời gian từ lúc hợp đồng có hiệu lực đến khi giao hàng khoảng 30 - 60 ngày. Do đó trong thời gian này phải chuẩn bị đủ số lượng và chất lượng, đóng gói, kẻ mã hiệu hàng hóa để chuẩn bị giao hàng. ở các doanh nghiệp thương mại thường phải có nhiều chân hàng để tập trung thu gom hàng hoá từ các nơi, nhưng đối với doanh nghiệp sản xuất thì thường hàng hoá đã dự trữ sẵn ở trong kho cho nên chủ động hơn trong công tác này. III.4.2. Kiểm tra hàng.. Là công việc cần thiết bởi vì nó đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi cho người xuất khẩu một cách an toàn. Nếu có xảy ra sự cố nào thì tìm cách thay thế, sửa chữa cho phù hợp. III.4.3. Thuê tàu. Tuỳ thuộc vào sự thoả thuận trong hợp đồng và việc thuê tàu dựa vào căn cứ sau: Điều khoản hợp đồng. Đặc điểm hàng hóa. Điều kiện vận tải. Vị thế trong thoả thuận hợp đồng. Năng lực trong công tác thuê phương tiện vận tải. III.4.3. Mua bảo hiểm. Đây cũng là điều kiện tuỳ theo trong hợp đồng quy định. Tuy nhiên nếu người mua yêu cầu, người bán mua hộ với chi phí và rủi ro của người nhập khẩu thì bên xuất khẩu có thể mua hộ hay từ chối. Việc vận chuyển hàng hóa chủ yếu bằng đương biển cho nên rủi ro xảy ra đối với hàng hoá là rất cao, do vậy việc mua bảo hiểm không thể thiếu được trong mỗi chuyến hàng. III.4.5. Làm thủ tục hải quan. Đặc điểm của hàng hoá xuất nhập khẩu là việc vận chuyển phải quan biên giới lãnh thổ quốc gia do đó phải được làm thủ tục hải quan thì mới được xuất khẩu. Thủ tục hải quan là một công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước, để ngăn chặn xuất nhập khẩu lậu qua biên giới, để kiểm tra giấy tờ có sai sót giả mạo không, để thống kê số liệu hàng hoá xuất khẩu của quốc gia và để thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Đầu tiên doanh nghiệp phải khai báo hải quan và áp mã thuế cho hàng hoá của mình về: - Tên hàng. - Số lượng, giá trị. - Phương tiện vận tải. - Xuất khẩu hoặc nhập khẩu với nước nào? địa chỉ? Sau đó tuân thủ theo các quyết định của cơ quan hải quan cho thông qua hay bắt phải sửa chữa đóng gói lại bao bì, hay không được phép xuất khẩu. III.4.6. Giao hàng lên tàu. Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan nhà xuất khẩu phải vận chuyển hàng hoá đã được niêm phong kẹp chì của nhân viên hải quan ra cảng và giao lên tàu (có thể chỉ giao cho người vận chuyển nhưng cần phải giao tại cảng tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng). Sau khi giao hàng lên tàu thì nhanh chóng lấy đơn đã xếp hàng lên tàu không bị ghi chú gì của thuyền trưởng) để nhanh chóng thực hiện công đoạn thanh toán. III.4.7. Thủ tục thanh toán. Thường trong kinh doanh thương mại quốc tế phương thức thanh toán chủ yếu là tín dụng chứng từ (L/C) do đó sau khi giao hàng xong nhà xuất khẩu phải nhanh chóng thu thập tất cả các chứng từ về hàng hoá để nhanh được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Thông thường thời gian có hiệu lực của L/c khoảng 30 đến 60 ngày kể từ ngày mở L/C. III.4.8. Giải quyết khiếu nại. Thực hiện xong thủ tục thanh toán chưa kết thúc được hợp đồng xuất khẩu mà giá trị hợp đồng còn được bảo lưu trong một khoảng thời gian nhất định để bảo vệ quyền lợi của hai bên trong nghĩa vụ và quyền lợi của việc thanh toán và giao nhận hàng. Nếu xảy ra sự cố về hàng hoá như hỏng, thiếu, không đúng quy cách phẩm chất. .. nhà xuất khẩu phải tìm mọi biện pháp giải quyết những vấn đề này. đặc điểm của sản phẩm dầu khí. IV.1. Đặc điểm. Dầu mỏ tồn tại trong tự nhiên dưới dạng hỗn hợp Hydro cacbon cấu trúc phân tử khác nhau, do quá trình phân huỷ của hàng triệu năm trước đây hình thành nên. Tuỳ thuộc vào cấu tạo hoá học và các đặc tính lý hoá khác nhau (tỷ trọng, áp suất, nhiệt độ sôi). Lợi dụng đặc điểm này người ta dùng biện pháp cracking để tạo nên các sản phẩm từ dầu thô thành những sản phẩm không thể thiếu được trong nền kinh tế hiện đại. Dầu mỏ cung cấp năng lượng cho nền kinh tế, và hiện nay năng lượng từ dầu thô chiếm khoảng 65% trọng lượng các nguồn năng lượng của thế giới. Sản phẩm dầu khí là hỗn hợp H- C được tách ra từ dầu mỏ bằng phương pháp vật lý (chưng cất, hấp thụ, hoà tan bằng dung môi hay viết tính) hoặc phương pháp hoá học (nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác tạo ra các sản phẩm từ dầu mỏ là: Xăng Diezel (D.O) Mazut (F.O) Khí hoá lỏng (LPG) Dầu hoả Nhiên liệu phản lực Dầu mỡ nhờn, nhựa đường Khi tiến hành chưng cất dầu mỏ, chúng ta nhận được nhiều phân đoạn sản phẩm, chúng thường được phân biệt với nhau bởi nhiệt độ sôi (nhiệt độ chưng cất), bởi thành phần Hydro cacbon, độ nhớt, nhiệt độ nhớt, nhiệt độ chớp cháy, nhiệt độ đông đặc và bởi nhiều tính chất khác có liên quan đến việc sử dụng. Từ chưng cất ta nhận được các sản phẩm sau. Xăng: là sản phẩm thuộc phân đoạn có nhiệt độ sôi từ 30 - 35o tới 180oC. Nhiên liệu phản lực: phân đoạn có nhiệt độ sôi ở 120 - 240oC. Nếu có hàm lượng lưu huỳnh trong sản phẩm lớn, người ta phải tiến hành làm sạch nhờ xử lý bằng Hydro. Dầu hoả: phân đoạn 150 - 280oC hay tới 150 - 350oC từ các loại dầu ít lưu huỳnh. Diezel: là phân đoạn có nhiệt độ sôi từ 140 - 360oC. Nếu có nhiều lưu huỳnh thì phải khử các hợp chất lưu huỳnh bằng Hydro nếu chứa nhiều Hydro cacbon parafin thì phải tiến hành tách n-parafin. Mazút: đó là phân đoạn cặn của quá trình chưng cất. Dầu mỡ nhờn: phân đoạn 320 - 400oC, 300 - 420oC, 400 - 450oC. Nhựa đường: là sản phẩm cặn cuối cùng của quá trình chưng cất các sản phẩm dầu mỏ. Khí hoá lỏng (LPG) là sản phẩm được tách ra từ khí (chủ yếu là khí đồng hành hay từ dầu thô). Thành phần chính gồm C3 - C4. LPG thường được nén dưới dạng lỏng và chủ yếu được sử dụng trong dân dụng sinh hoạt còn khí khô thì được vận chuyển thẳng bằng đường ống đến các nhà máy tiêu thụ như nhà máy điện. IV.2. Vai trò của sản phẩm dầu khí. Nguồn năng lượng được sử dụng chủ yếu ở thế kỷ XVIII và XIX là than đá. Đây là nguồn nhiên liệu đã cung cấp cho các ngành công nghiệp các nước tư bản phát triển cách mạng công nghiệp lần thứ 1. Đến cuối thế kỷ XIX đã bắt đầu xuất hiện 2 nguồn năng lượng mới là điện và dầu mỏ (1854). Hai nguồn năng lượng này đã làm thay đổi cơ cấu công nghiệp và thúc đẩy nhanh nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên vai trò thống lĩnh của dầu mỏ trong nền kinh tế rất lớn 65% trong tổng các nguồn năng lượng. Nguồn nhiên liệu chính trong sản xuất Cuối thế kỷ XIX cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển rất nở rộ, các phát minh sáng chế xuất hiện nhiều như thuyết tiến hoá, động cơ Diezel, động cơ chạy bằng xăng. ... Năm 1900 Rudofl diezel đã phát minh ra động cơ mới và mang tên ông. Năm 1895 đã xuất hiện những chiếc ôtô đầu tiên và cho đến 1990 thế giới có khoảng 548 triệu xe bao gồm: 417 triệu xe riêng (xe con) chủ yếu sử dụng xăng. 130 triệu xe tải động cơ diezel. Hiện nay có khoảng 700-800 triệu xe ôtô đang tiêu thụ các sản phẩm xăng dầu trên thế giới. Ngoài ra trong các phương tiện vận tải khác như máy cày, máy kéo, xe máy, tàu thuỷ, tàu biển, xe lửa, tàu hoả. .. cũng tiêu thụ một khối lượng lớn xăng dầu. Mazút được sử dụng cho các động cơ của các tàu thuỷ có trọng tải lớn. Khí hoá lỏng (LPG) ngày nay ngoài được sử dụng trong dân dụng nó còn được sử dụng trong một số loại phương tiện vận tải xe ôtô con, công cộng để hạn chế ô nhiễm môi trường. Ngành hàng không cũng đóng góp vào sự tăng mạnh của mức độ tiêu thụ nhiên liệu. Do vậy chúng ta đã thấy được vai trò của nó trong nền kinh tế hiện đại như thế nào. Có thể nói dầu mỏ như "máu, huyết thanh" nuôi sống cơ thể một con người. Tạo ra các ứng dụng toả nhiệt lượng. Việc sử dụng dầu hoả (thắp đèn) và làm chất đốt để cung cấp năng lượng thay cho củi, than đã trở nên phổ biến từ cuối thế kỷ XIX. Trong các ngành công nghiệp khác cũng cần phải sử dụng dạng năng lượng này như nhà máy điện, các nhà máy luyện gang, thép, thuỷ tinh, hay các ngành gốm sứ thông qua quá trình toả nhiệt mà tạo ra các sản phẩm trong các ngành đó có hiệu quả hơn. Giảm đáng kể ô nhiễm môi trường. Mặc dầu ngày càng có nhiều nguồn năng lượng như pin mặt trời, năng lượng gió, thuỷ triều, năng lượng địa nhiệt. .. là những lượng làm giảm độ ô nhiễm môi trường. Nhưng nguồn năng lượng này chiếm rất ít khoảng 1% trong tổng nguồn năng lượng thế giới. Tuy vậy nền kinh tế luôn luôn cần phải có nguồn năng lượng để đảm bảo cho nó vận hành. Trong 2 nguồn năng lượng chính là than, dầu mỏ thì dầu mỏ góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường hơn than. Đặc biệt là khí gas, LPG là một loại nhiên liệu sạch góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường, nạn phá rừng trên thế giới. IV.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh dầu thô. Hoạt động sản xuất kinh doanh dầu thô cũng giống như các hoạt động sản xuất kinh doanh khác đều chịu tác động của rất nhiều yếu tố ảnh hưởng khác nhau. IV.3.1. Đặc điểm hàng hoá. Đặc điểm của sản phẩm tạo nên quy mô, mô hình khác nhau. Đặc điểm của dầu thô về mặt giá trị thì là hỗn hợp có giá trị thấp hay là hỗn hợp chưa qua chế biến. Nhưng sử dụng lại rất thu hẹp có nghĩa là nó chỉ được các nhà máy lọc dầu cần và sử dụng sản phẩm dầu thô. Mặt khác sản phẩm dầu mỏ nằm sâu ở trong lòng đất, ngoài biển khơi không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có khả năng kinh doanh được mặt hàng này. Quá trình để có được sản phẩm dầu mỏ bao gồm rất nhiều công đoạn, từ khâu thăm dò, tìm kiếm đến phát triển mỏ, khai thác đòi hỏi nhiều vốn và tính rủi ro cao, đặc biệt trong khâu thăm dò tìm kiếm. IV.3.2. Nhân tố khách quan. Đây là những nhân tố thuộc môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp thường không kiểm soát được. Chính trị luật pháp: Do đặc điểm và vai trò của hàng dầu mỏ đã tạo nên cho ngành kinh doanh này một lợi thế đó là sự kinh doanh sản xuất độc quyền. Hầu như các nước trên thế giới đều có một chính sách giống nhau là đều thiết lập các công ty nhà nước để quản lý và tổ chức việc khai thác dầu mỏ của nước mình. Tính chất phổ biến này có thể thấy ở cả những nước mà ở đó kinh tế nhà nước chiếm vai trò hạn chế như: Hàn Quốc, Đài loan, Singapo, Nhật Bản. Mục đích quản lý kinh doanh ngành này không chỉ về mặt kinh tế nữa mà nó bao gồm cả mục đích chính trị nữa, vì nguồn tài nguyên này mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia. Đặc điểm thời tiết khí hậu địa hình: Đây là sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết khí hậu nhất. Bởi vì đại đa số việc khai thác dầu mỏ là ngoài biển khơi, chính vì vậy cho nên bão biển, thời tiết sẽ ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất ra mà cả việc tàu thuyền vào mua bán dầu cũng bị ảnh hưởng đến. Địa hình: Sản phẩm dầu mỏ thường nằm sâu trong lòng đất chủ yếu ngoài biển khơi cho nên việc khai thác rất khó khăn, đại đa số chỉ khai thác được các mỏ ven thềm lục địa, còn ngoài xa do độ sâu của biển đòi hỏi phải có thiết bị công nghệ cao mới thực hiện được công việc khai thác ở các mỏ xa bờ. Đặc điểm của khoa học công nghệ: Có thể nói đây là ngành mà công nghệ máy móc kỹ thuật rất cao và chênh lệch về công nghệ trong cùng ngành dầu mỏ giữa các quốc gia không lớn lắm. Do đặc điểm của dầu thô làm cho này luôn phải được trang bị hiện đại. Công nghệ khoa học càng phát triển càng làm cho năng suất tăng cao, khả năng thu hồi dầu thương phẩm lớn có khả năng khai thác ở những địa hình khó khăn và làm giảm độ rủi ro trong sản xuất khai thác sản phẩm dầu mỏ. Do vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân cho nên các quốc gia luôn luôn đầu tư quan tâm đến ngành dầu mỏ và tạo cho nó phát triển nhanh cả về quy mô sản xuất lẫn công nghệ thiết bị máy móc để trở thành một trong những ngành mũi nhọn của đất nước. Các chủ thể kinh doanh trên thị trường thế giới. Bất kỳ sản phẩm hàng hoá nào trong cơ chế thị trường cũng đều tuân theo quy luật cung cầu trên thị trường. Dầu mỏ cũng vậy, nó cũng phải dựa vào nhu cầu của thị trường thế giới. Nhu cầu của thị trường thế giới ngày càng một tăng cao đây chính là điểm rất khác so với các sản phẩm khác, đó cũng chính là nguyên nhân khách quan đem lại đà cho nền kinh tế thế giới khi phát triển tăng trưởng để sản xuất ra nhiều của cải vật chất thì sự tiêu dùng nhiên liệu cũng ngày một tăng lên. Các đối thủ cạnh tranh trong việc sản xuất kinh doanh dầu mỏ chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước ở các quốc gia nhưng trừ một số các nước tư bản phát triển thì ngành này là do các công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia như Mobil Shell, Mitsubishi, Exxop,. .. thường nắm giữ khối lượng cung rất lớn do sự tham gia trong khai thác dầu mỏ ở các nước trên thế giới và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia liên tục được mở rộng. Ngoài ra khu vực Trung Đông chiếm giữ 60% lượng cung cấp dầu mỏ thế giới. Vì đây là ngành kinh doanh độc quyền về cơ bản thì sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh thường ít gay gắt hơn trong một số ngành khác. Tuy nhiên ở những nước có sản phẩm dầu mỏ ít thường hay bị chi phối về giá cả quan hệ cung cầu từ các nước có sản lượng lớn như khu vực Trung Đông, Opec. Các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường và cân bằng sinh thái: Ngày nay các quốc gia đều đưa ra tiêu chuẩn và các đạo luật có liên quan đến môi trường và các vấn đề về cân bằng sinh thái, thế cho nên các công ty dầu mỏ cũng phải hướng theo những mục tiêu này. Doanh nghiệp ngày càng phải đảm bảo có máy móc thiết bị hiện đại để làm giảm độ ô nhiễm môi trường như sự cố dầu tràn, rò rỉ dầu trên biển. Các quốc gia trên thế giới cũng ngày càng kiểm soát chặt chẽ đối với chất lượng của sản phẩm dầu khí. Họ thường mua dầu thô có chứa hàm lượng lưu huỳnh thấp vì hàm lượng lưu huỳnh trong dầu thô cao thì dẫn đến trong quá trình chưng cất phải qua thêm khâu lọc khử bớt hàm lượng lưu huỳnh dẫn đến chi phí sản xuất cao hơn. ngày nay nhu cầu về tiêu thụ nguyên liệu sạch như khí gas (LPG), xăng không pha chì ngày càng nhiều do đó nó cũng ảnh hưởng tới việc sản xuất, khai thác, chế biến của nghành dầu khí. IV.3.3. Nhân tố chủ quan. Đây có thể coi là các nhân tố bên trong của doanh nghiệp đó là: Nguồn nhân lực: vì đây là một nghành độc quyền, thường quy trình sản xuất từ khai thác, thăm dò đến chế biến thu hút một lực lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên rất đông. Như PETRO VIET NAM có khoảng 14000 cán bộ công nhân viên. ngày nay các doanh nghiệp đều chú trọng đến khâu nhân lực của doanh nghiệp mình đó mới chính là nhân tố thúc đẩy phát triển của công ty. Nghành dầu khí là một nghành có quy mô lớn do đó đòi hỏi phải có nhiều cán bộ quản lý giỏi, các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong nghành cho nên yếu tố nhân lực trong nghành dầu khí là rất quan trọng. Ngoài ra cơ sở vật chất kỹ thuật như: Mạng lưới kho bán hàng, nhà xưởng, bến bãi cũng rất quan trọng. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có các cơ sở vật chất kỹ thuật cho riêng mình để nhằm mục đích thực hiện quá trình kinh doanh của mình. Trong các yếu tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh dầu khí không thể không kể đến yếu tố vốn (nguồn lực tài chính) đây là một yếu tố quyết định đến sự ra đời và sự hình thành phát triển của một doanh nghiệp. Muốn phát triển được thì doanh nghiệp cần phải có vốn đầu tư vào các cơ sở vật chất kỹ thuật, kho tàng bến bãi để từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh. Kinh nghiệm khai thác sản xuất dầu mỏ của các nước trên thế giới: V.1. Cơ cấu tổ chức ngành dầu mỏ của các nước trên thế giới: - Dầu mỏ là nguồn năng lượng quan trọng của tất cả các nước, nó đang chiếm khoảng 65% trong tổng các nguồn năng lượng toàn cầu về đặc điểm kinh tế, dầu mỏ là nguồn phát triển nhanh, yêu cầu về vón lớn độ rủi ro cao đối với một số công đoạn trong nghành như khâu tìm kiếm, thăm dò. Ngoài ra ở các nước đặc biệt là các nước đang phát triển dầu mỏ thường là nghành độc quyền của nhà nước. Nguồn thu ngân sách từ nghành này rất cao ( ở Việt Nam trên 10% ) từ đó hầu hết các nước đều có xu hướng can thiệp sâu vào tổ chức quản lý nghành dầu mỏ bằng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn phát triển. Kinh nghiệm tổ chức quản lý nghành dầu mỏ ở các nước có tính chất phổ biến trên một số nước như sau: Thứ nhất: Hầu hết các nước đều thiết lập công ty quốc gia để quản lý và tổ chức khai thác dầu mỏ của nước mình. Mục tiêu cơ bản của việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước hoặc quốc hữu hoá các công ty nước ngoài và tư nhân là cổ phần của nhà nước trong các công ty để chia sẻ lợi ích từ hoạt động khai thác dầu mang lại. Kiểm soát hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên sống còn của quốc gia. Ngo._. định thành lập tháng 5/1995, vì vậy luôn được sự chỉ đạo hướng dẫn từ Đảng và nhà nước và trực tiếp do thủ tướng điều hành và quản lý đối với Tổng công ty, chịu trách nhiệm trước Đảng và nhà nước. Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động thuộc khâu thăm dò khai thác thì việc tích cực triển khai các hoạt động hạ nguồn sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam. Trong giai đoạn tới Tổng công ty dầu khí Việt Nam sẽ tập trung đẩy mạnh khâu chế biến dầu khí và sau khi nhà máy lọc dầu số 1 – Dung Quất (Năm 2005) đi vào hoạt động sẽ cho các sản phẩm: Xăng, mazut, diezel... Để nhằm từng bước đảm bảo nhiên liệu cho việc phát triển đất nước đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu đặc biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp, cho nghành công nghiệp may mặc, sản phẩm phân đạm, chất nổ, chất dẻo, nguyên liệu cho các nghành công nghiệp khác như: dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp... I.2. Định hướng phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2020 Qua 26 năm xây dựng và phát triển đến nay Tổng công ty dầu khí đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Từ khi có chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và nhà nước, đặc biệt từ sau khi có nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, luật đầu tư nước ngoài, nghành dầu khí đã bước vào giai đoạn phát triển mới, bước đầu thiết lập được nền tảng quan trọng cần thiết về cơ sở vật chất, tài chính và nhân lực, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của toàn nghành trong giai đoạn tới, trên tất cả các khâu thăm dò, khai thác,chế biến, lọc dầu, hoá dầu, kinh doanh các sản phẩm dầu khí, thương mại, dịch vụ dầu khí. Xuất phát từ những địng hướng lớn về phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước đã đặt ra, mục tiêu phát triển của nghành dầu khí Việt Nam từ nay đén năm 2020 là: Phấn đấu xây dựng nghành dầu khí Việt Nam phát triển toàn diện, Đưa Tổng công ty dầu khí Việt Nam trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động, đa nghành, tham gia tích cực và bình đẳng vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, đảm bảo an ninh nhiên liệu, nguyên liệu, cung cấp phần lớn các sản phẩm hoạt động cho đất nớc đồng thời tích cực góp phần vào việc bảo vệ chủ quyền của quốc gia, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trương sinh thái. Để đạt được các mục tiêu đó, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã đưa ra các định hướng lớn đến năm 2020 là: - Tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí nhằm sớm xác định rõ chính xác tiềm năng của đất nước tù đó làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển nghành dầu khí. - Tích cực gia tăng sản lương khai thác dầu khí, góp phần đảm bảo cân đối ngân sách quốc gia, đồng thời tạo tiền đề phát triển toàn diện nghành công nghiệp dầu khí của đất nước. - Đẩy mạnh khâu chế biến dầu khí nhằm từng bước đảm bảo nhiên liệu cho phát triển đát nước, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu, đặc biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho các nghành công nghiệp dệt và may mặc, sản xuất phân đạm, chất nổ, chất dẻo, nguyên liệu cho các nghành công nghiệp như dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp.... - Phát triển công tác dịch vụ dầu khí nhằm đảm bảo cung cấp 60% - 70% dịch vụ nhu cầu công nghiệp dầu khí. Song song với phát triển dịch vụ kỹ thuật trong nghành Tổng công ty dầu khí Việt Nam tích cực hỗ trợ các bộ, nghành địa phương tham gia ngày càng nhiều vào việc cung cấp dầu khí từ khâu tìm kiếm, thăm dò, đến khâu chế biến, vận chuyển dầu khí. - Phát triển thương mại dầu khí, tham gia vào tiến trình kinh doanh dầu thô quốc tế và xuất nhập khẩu các sản phẩm khí. - Từng bước phát triển hoạt động ra nước ngoài cả về thăm dò và khai thác, dịch vụ và thương mại nhằm đảm bảo nguồn cung cấp dầu khí lâu dài của đất nước. - Phát huy nội lực, kết hợp khéo léo và hợp tác đầu tư nước ngoài, hội nhập bình đẳng các cộng đồng, tổ chức dầu khí ở khu vực và trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước các Bộ nghành, địa phương có liên quan và sự nỗ lực phấn đấu của các thành viên trong Tổng công ty. Nghành dầu khí sẽ chắc chắn đóng góp ngày càng nhiều trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. II.Các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty dầu khí Việt Nam. II.1. Nghiên cứu mở rộng thị trường và khách hàng Nghiên cứu thị trường là một công việc cần thiết đầu tiên đòi hỏi bất kỳ một công ty nào tham gia vào thị trường thế giới. Hiện nay tuy sản lượng dầu xuất khẩu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam ngày càng tăng nhanh nhưng công tác nghiên cứu thị trường, thu nhập thông tin về thị trường, khách hàng, nhu cầu. Khả năng cung ứng trên thị trường thế giới thì còn rất yếu kém Tổng công ty vẫn chưa có phòng Marketing để đảm công tác nghiên cứu thị trường mà phòng thương mại đảm nhiệm một phần của nhiệm vụ này Nghiên cứu thị trường nhằm định hướng cho việc sản xuất được tốt hơn. Cho biết sản phẩm nên được bán ở đâu để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì thế Tổng công ty nên thành lập riêng ra một phòng ngiên cứu thị trường và khách hàng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất khẩu dầu thô nói riêng và kinh doanh trong các lĩnh vực khác của Tổng công ty nói chung. Từ năm 1999 đến nay cơ cấu thị trường dầu thô của Tổng công ty đã thay đổi từ 5 lên đến 9 thị trường chủ yếu là các thị trường châu á như Nhật Bản chiếm từ 30 – 40% thị trường dầu thô của Tổng công ty. Bên cạnh đó thì một số thị trường Mỹ và châu Âu, cũng đang tăng nhanh. Do vậy để đảm bảocho quá trình sản xuất khai thác dầu được thường xuyên liên tục cần phải có sự duy trì tốt với các khách hàng truyền thống như Nhật Bản, Singapo, bên cạnh đó phải luôn tìm kiếm, mở rộng thêm các thị trường mới và chú trọng hơn trong công tác phát triển các thị trường đang lên như thị trường Mỹ và châu Âu II.2. Tăng cường công tác thăm dò khai thác: Cho đến nay Tổng công ty đã thực hiện được 236.423 km địa chấn 2D và 10.776 km địa chấn 3D và khoan 192 giếng thăm dò, thực hiện 623.290 mũi khoan. Kết quả xác định được 6 bể trầm tích có chứa dầu khí (Bể Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Mã Lay - Thổ Chu, Vũng Mây – Tư Chính). Hiện nay trong tổng 16 mỏ đã được phát hiện có dầu và cả dầu lẫn khí, chỉ có 6 mỏ đang được khai thác, số còn lại do điều kiện về địa hình cũng như về mặt kinh tế chưa được đi vào khai thác hoạt động. Cho nên Tổng công ty cần phải thúc đẩy nhanh đưa các mỏ đang phát triển như Lan Tây – Lan Đỏ, Rồng Đôi, Hải Thạch, Mộc Tinh... vào khai thác hoạt động trong thời gian tới (2001 - 2005). Trong giai đoạn đến năm 2010 cần phải đưa hết các mỏ còn lại vào khai thác để không những cung cấp cho nhà maý lọc dầu trong nước mà còn đảm bảo cho xuất khẩu nhằm thu thêm ngoại tệ về cho đất nước. Tích cực cùng các công ty, các tổ chức trong, ngoài nước đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò, nhất là những khu vực xa thềm lục địa đòi hỏi phải có thiết bị máy móc hiện đại mới có thể tiến hành được. Hiện nay Petro Việt Nam đã và đang hợp tác với Arco, Mobil, Shell trong việc khảo sát thăm dò khu vực của các bể trầm tích để đánh giá tiềm năng dầu khí đất nước, cùng với Đan Mạch nghiên cứu bể Sông Hồng, Hợp tác đề án liên kết trong việc nghiên cứu các bể trầm tích khu vực Đông Nam á giữa Việt Nam – Malaysia – Indonesia và đặc biệt thông qua các hợp đồng PSC hoặc liên doanh với các công ty dầu khí quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động tham gia vào tìm kiếm, thăm dò, khai thác ở nước ngoài. Đây là một trong những chiến lược rất quan trọng để Tổng công ty dầu khí Việt Nam nhanh chóng trở thành một tập đoàn dầu khí lớn mạnh không chỉ ở trong khu vực mà còn trên thế giới. Công tác triển khai tìm kiếm, thăm dò không những tận dụng được lợi thế nhờ quy mô của nghành dầu khí Việt Nam mà còn cung cấp nguyên liệu dầu thô từ nước ngoài về phục vụ trong nước. Hiện nay Tổng công ty đã cùng với các công ty dầu khí các nước ký một số thoả thuận chuyển nhượng ở mức độ còn hạn chế như: trong các hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) ở Indonesia, Malaysia, đề án mỏ TamTsaq – Mông Cổ, trong các đề án đang phát triển mỏ Amara – Iraq, dự án lô 5 – Tây Iraq, trong chương trình hợp tác liên chính phủ về việc tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Lào. II.3 Thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu : Hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty bắt đầu vào năm 1986, từ một lượng dầu thô xuất khẩu rất khiêm tốn Tổng công ty hiện nay đã xuất khẩu ra thị trường từ 14 – 15 triệu tấn/năm. Tuy nhiên Tổng công ty mới chỉ thực hiện bán nguyên liệu và mua lại sản phẩm, giá trị đem lại từ việc bán nguyên liệu thường không cao. Trong những biến động của cuộc khủng hoảng giá dầu tăng cao thì người bị thiệt hại nhiều nhất là những nước phải nhập khẩu nhiên liệu: Xăng, dầu... để phục vụ cho nền kinh tế (chủ yếu là những nước nghèo, đang phát triển),nó gây ra sự suy giảm tốc độ tăng trưởng. Kinh tế của các nước đó. Trong khi đó ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến các nước phát triển không lớn lắm mà nhiều khi họ còn có lợi, tại vì các nước phát triển và các công ty xuyên quốc gia thường là những nhà đầu tư, nhà thầu chiếm giữ phần lớn các mỏ dầu trên thế giới. Năm 2001 do có sự biến động giá dầu cao đã đem lại lợi nhuận gấp đôi cho 10 tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới, chỉ riêng BP trong 9 tháng đầu năm 2001 đã thu lãi 8,6 tỷ USD. Trong giai đoạn tới Tổng công ty dầu khí Việt Nam nên thực hiện chiến lược xuất khẩu “tinh” thay vì xuất khẩu “thô” như trước đây để ngày càng thu về giá trị cao hơn. Sự kiện nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất sẽ đi vào hoạt động năm 2005 (dự kiến sẽ xây dựng thêm nhà máy lọc dầu số 2 – năm 2007) cho các sản phẩm như: xăng, Diezel, mazut... để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Bên cạnh đó hiện nay Tổng công ty Petro limex cũng đang thực hiện việc phân phối các sản phẩm dầu khí này (chiếm 80% thị trường Việt Nam). Toàn bộ sản phẩm của nhà máy lọc dầu sẽ được cung cấp cho thị trường nội địa nhưng lại gặp phải sự cạnh tranh từ phiá Tổng công ty xăng dầu hiện nay đang chiếm ưu thế trên thị trường nội địa. Vì vậy Tổng công ty dầu khí Việt Nam không chỉ nên thực hiện kinh doanh các sản phẩm ở thị trường nội địa mà nên mở rộng kinh doanh ra cả thị trường nước ngoài. Chiến lược này không những vừa đảm bảo thực hiện đúng nhiệm vụ của Đảng và nhà nước đặt ra là: ổn định nguồn nhiên liệu cho đất nước lại vừa đem về nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia. Chiến lược này sẽ tạo đà thúc đẩy việc mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao nâng suất lao động của Tổng công ty, tạo ra sự linh hoạt trong sản xuất kinh doanh , tránh ỷ lại thụ động trong sản xuất –kinh doanh do sự bảo hộ độc quyền của nhà nước đem lại cho nghành dầu khí. II.4. Đào tạo nguồn nhân lực : Nguồn nhân lực là tài nguyên vô hạn, cực kì quan trọng đối với mỗi một quốc gia nói chung và mỗi một doanh nghiệp nói riêng trong quá trình phát triển. Tổng công ty dầu khí Việt Nam từ khi mới thành lập chỉ có 2001 cán bộ công nhân viên đến nay đã có 14000 cán bộ công nhân viên tăng gấp 7 lần so với lúc đầu. Trong đó 80% là cán bộ công nhân viên kỹ thuật, còn lại đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý kinh doanh rất mỏng và yếu kém trong nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, nhiều khi còn tỏ ra rất thụ động trước những biến động của thị trường. Để giải quyết những vấn đề nhân lực trong công tác kinh doanh xuất khẩu dầu thô thứ nhất: Tổng công ty cần có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo nâng cao đối với lực lượng cán bộ công nhân viên kỹ thuật đang tham gia trực tiếp quản lý khai thác ở các mỏ dầu để ngày càng nâng cao năng suất lao động nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Thứ hai là: Tổng công ty cần phải có kế hoạch, biện pháp tăng cường, bổ xung thêm nguồn nhân lực trong công tác quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu. Để chuẩnbị tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên kinh doanh xuất nhập khẩu trong tương lai thì Tổng công ty cần phải đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ trẻ nâng cao bồi dưỡng thêm nghiệp vụ và ngoại ngữ, thường xuyên cần phải có những khoá đào tạo ngắn hạn chuyên sâu về nghiệp vụ. Bên cạnh đó Tổng công ty cũng còn phải có sự đầu tư thích đáng cho trung tâm đào tạo – cung ứng nhân lực của Tổng công ty về các nguồn kinh phí cũng như về các phương tiện cơ sở vật chất khác để trung tâm thực hiện tốt công tác quản lý đào tạo huấn luyện. Vấn đề cuối cùng quan trọng nhất là việc sử dụng các cán bộ công nhân viên sau khi được cử đi đào tạo huấn luyện, phải hợp lý, phải khai thác sử dụng kiến thức của người lao động một cách có hiệu quả nhất. II.5. Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ : - Ngành dầu khí với đặc thù là ngành công nghiệp hiện đại có kỹ thuật công nghiệp hiện đại, việc đổi mới và chuyển giao công nghệ là một nội dung quan trọng, là nhu cầu tất yếu khách quan không chỉ ở từng doanh nghiệp mà còn ở từng quốc gia. - Trong quá trình phát triển để trở thành một tập đoàn dầu khí mạnh, hoạt động đa ngành thì điều quan trọng là tổng công ty phải không ngừng tăng cường máy móc, công nghệ hiện đại. Thứ nhất: Tổng công ty cần phải đầu tư tăng cường cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như trang thiết bị công nghệ trong khâu tìm kiếm thăm dò khai thác nhằm xác định chính xác trữ lượng dầu khí xác minh. Tiếp tục tìm kiếm phát hiện thêm các mỏ dầu khí mới. Thứ hai : Đầu tư tăng cường cho nghiên cứu ứng dụng khoa học vào thực tiễn, cũng như trang bị thêm máy móc hiện đại trong khâu khai thác nhằm từng bước nâng cao hệ số thu hồi dầu lên mức 40 – 50% hoặc cao hơn như các nước khác. Điều này lại càng đặc biệt có ý nghĩa đối với lượng dầu lớn còn nằm trong các móng nứt nẻ, các mỏ nhỏ mỏ biên khác. Tổng công ty cũng cần phải có kế hoạch đầu tư máy móc công nghệ hiện đại như giàn khoan, hệ thống thiết bị nổi. .. cho việc triển khai khai thác dầu khí ở những mỏ xa thềm lục địa có độ sâu lớn nhằm gia tăng thêm sản lượng về dầu, khí cho đất nước. Thứ ba : Tổng công ty dầu khí Việt Nam cần phải có kế hoạch biện pháp đầu tư cho khoa học công nghệ thiết bị máy móc nhằm thực hiện công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh chống ô nhiễm môi trường có thể xảy ra trên biển hay trên đất liền, chống lại sự cố dò rỉ dầu_dầu tràn, chống lại sự tắc nghẽn dầu trong ống dẫn dầu, Trang bị thêm thiết bị máy móc nhằm bảo dưỡng chống lại sự ăn mòn đảm bảo sự an toàn trong sản xuất của các giàn khoan, các nhà máy lọc dầu, hoá dầu... Khi thực hiện đổi mới công nghệ tổng công ty cần phải nghiên cứu, đánh giá phân tích kỹ nên lựa chọn phương án nào ? nhập khẩu hay tự lực để đem lại hiệu quả lớn nhất. Nếu thiết bị máy móc nhập khẩu khi cần phải có sự nghiên cứu kỹ về các tính năng, công dụng để đảm bảo sự phù hợp cũng như khả năng đem lại hiệu quả của máy móc thiết bị đó. Tránh nhập khẩu các thiết bị lạc hậu không tương thích. II.6. Hoàn thiện công tác cơ cấu tổ chức, quản lý kinh doanh thương mại quốc tế: Những mục tiêu đúng đắn có thể thực hiện được hay không là nhờ một phần ở bộ máy tổ chức kinh doanh có đủ mạnh hay không. Thực tế cho thấy các công ty có sức cạnh tranh cao thường tập trung khai thác tốt khía cạnh của công tác tổ chức quản lý con người nhằm thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. Tổ chức được bộ máy kinh doanh có hiệu quả sẽ làm nâng cao năng suất lao động tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong tổ chức nội bộ nhằm thực hiện tốt các mục tiêu nhiệm vụ của doanh nghiệp. Tổng công ty cần phải có sự điều chỉnh lại cơ chế quản lý giữa tổng công ty và công ty thương mại dầu khí (Petechim) trong việc mua bán dầu thô, cũng như trong mối quan hệ giữa các đơn vị thành viên. Tổng công ty chỉ nên đưa ra những định hướng cho các công ty dựa trên những phân tích, đánh giá của bộ phận chuyên môn về giá dầu hàng ngày từ 2 đến 3 hệ thống thông tin về diễn biến cập nhật của giá dầu và đưa ra giá sàn/ giá trần của dầu thô. Từ đó giao cho công ty thương mại dầu khí đảm nhận công tác mua bán dầu thô một cách độc lập hơn thay vì chế độ quản lý như hiện nay (là giao cho công ty đàm phán sau đó mới trình kết quả lên tổng công ty để tổng công ty phê duyệt thì mới được thực hiện công tác mua bán dầu thô) bằng cách cho phép công ty Petechim được chủ động giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng dựa trên các định hướng, giá trần – giá sàn của tổng công ty đưa ra. Do đặc điểm của thị trường dầu thô luôn biến động đòi hỏi phải có sự linh hoạt phản ứng nhanh vì vậy giải pháp để cho công ty Petechim được phép tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán dầu thô một cách độc lập là một giải pháp đúng đắn. Bên cạnh đó trong công tác nghiệp vụ kinh doanh mua bán dầu thô hiện nay của tổng công ty cần phải được tích cực tổ chức bán dầu theo điều kiện CFR, CIF, CPT, tổ chức việc thuê tàu vận chuyển dầu thô đê thu thêm ngoại tệ. Tích cực tổ chức bán dầu theo từng chuyến SPOT để tranh thủ những điều kiện và giá cả thị trường thuận lợi nhất. Giải pháp này xuất phát từ đặc điểm của tình hình dự trữ dầu thô là rất hạn chế. Vì thế tăng cường hợp đồng bán dài hạn theo điều kiện CFR, CIF, CPT không những thu thêm ngoại tệ cho đất nước mà còn đảm bảo cho việc khai thác dầu được liên tục. Tích cực tổ chức các hợp đồng bán dàu theo từng chuyến SPOT nhằm tránh tình trạng dự trữ dầu đầy kho gây ra tác nghẽn và đình trệ sản xuất, và phương án này còn tranh thủ sự biến động giá cả dầu thô có lợi cho tổng công ty. II.7. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật : Hiện nay Tổng công ty dầu khí Việt Nam có một quy mô về cơ sở vật chất rất lớn nhưng cơ sở vạt chất để phục vụ kinh doanh dầu thô rất hạn chế. Hiện nay dung tích của các kho dự trữ dầu thô ở các mỏ là rất nhỏ và thường ảnh hưởng đến tình hình khai thác. Tổng công ty cần phải bổ xung tăng cường thêm các tàu dự trữ dầu thô nhằm mục đích gia tăng khối lượng dự trữ để đảm bảo cho các mỏ hoạt động tốt và tạo lợi thế cho Tổng công ty trong điều kiện thị trường có sự biến động. Tổng công ty cần phải tăng cường đầu tư các tổng kho xăng dầu đầu mối, kho trung chuyển, nhằm đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia. Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh mua bán dầu thô được thực hiện tốt hơn, Tổng công ty cần phải xây dựng cho mình một đội tàu gồm nhiều chủng loại để tham gia vào quá trình vận tải quốc tế, trước mắt là để vận chuyển khối lượng dầu thô xuất khẩu và vận chuyển dầu thô từ Trung Đông về Việt Nam sau đó tham gia thực hiện các dịch vụ vận chuyển dầu thô trong khu vực và trên thế giới. Tổng công ty cũng cần phải có sự đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất để tập trung xây dựng các loại hình dịch vụ chủ yếu như là: Dịch vụ khảo sát địa chấn công trình, thi công xây lắp và sửa chữa các công trình dầu khí. Dịch vụ thi công khoan. Dịch vụ phân tích xử lý tổng hợp các tài liệu địa chất, địa lý. Dịch vụ cung ứng lao động và sinh hoạt đời sống. Dịch vụ cung cấp các loại vật tư hoá phẩm cho khoan, khai thác dầu khí. Thực hiện tốt trong công tác dịch vụ dầu khí sẽ gián tiếp nâng cao hiệu quả trong khai thác sản xuất, kinh doanh dầu thô của Tổng công ty. II.8. Tìm vốn và sử dụng vốn có hiệu quả : Để đạt được mục tiêu phát triển đạt ra thì vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là phải có khả năng tài chính. Trong giai đoạn 2001-2005 do phải tập trung xây dựng mới hệ thống phân phối cũng như các dự án về chế biến nên nhu cầu đầu tư của giai đoạn này rất lớn. Tổng nhu cầu cho giai doạn 2001-2005 là 3170,4 triệu USD trong đó nhu cầu đầu tư cho: Tìm kiếm thăm dò :55 triệu USD. Phát triển mỏ : 428,6 triệu USD. Chế biến và hoá dầu : 1456 triệu USD. Phân phối sản phẩm dầu khí : 799,3 triệu USD. Dịch vụ dầu khí : 178,7 triệu USD. Đầu tư khác : 55 triệu USD. Trong tổng nhu cầu thì nhu cầu vốn đầu tư cho nhà máy lọc dầu Dung Quất và đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn cần nhiều vốn đầu tư nhất. Các dự án mà tổng công ty đầu tư chủ yếu là đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho nên phải có lượng vốn lớn. Trước nhu cầu về vốn lớn như vậy ,tổng công ty phải có những giải pháp để huy động và sử dụng một cách có hiệu quả. Tổng công ty dầu khí Việt Nam là Tổng công ty nhà nước cho nên phần lớn vốn được nhà nước cấp từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó Tổng công ty cũng bổ xung thêm vốn từ lợi nhuận kinh doanh, từ các hoạt động liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài, từ nguồn vốn vay, từ nguồn vốn nội bộ nghành, từ các nguồn vốn được huy động qua các tổ chức tín dụng khác. Trước hết Tổng công ty cần phải khai thác lợi thế về vốn kinh doanh của mình. Hiện nay Tổng công ty có tổng vốn lưu động hơn 520 triệuUSD và tổng vốn cố định là 1,5 tỷ USD. Đây là lượng vốn lớn mà các doanh nghiệp ở Việt Nam không dễ có được. Tuy nhiên lượng vốn này của Tổng công ty phải phân phối dàn trải trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nghành dầu khí. Do đó nguồn vốn dành cho khai thác, thăm dò, kinh doanh dầu thô cũng rất hạn chế. Để tăng cường vốn cho khâu tìm kiếm - thăm dò – khai thác và kinh doanh dầu thô, Tổng công ty có thể thực hiện các giải pháp sau: Trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác cần phải mở rộng hợp tác đầu tư quốc tế vì lĩnh vực này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, rủi ro cao đòi hỏi phải có công nghệ hiện đại mà một mình Tổng công ty thực hiện không nổi. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ các quỹ tài chính tập trung của các đơn vị thành viên trong nghành được phép giữ lại. Nguồn vốn này được sử dụng cho tất cả các hoạt động của Tổng công ty. Huy động vốn qua kênh thị trường chứng khoán bằng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu (dài hận hay ngắn hạn). Năm 2001 vừa qua Tổng công ty dầu khí Việt Nam là công ty Việt Nam đầu tiên tham gia thị trường vốn quốc tế bằng việc ký kết thoả thuận nghiên cứu và phát triển đề án phát hành trái phiếu quốc tế với tập đoàn ngân hàng đầu tư Mỹ Morgan Stanley Dean Witer. Tập đoàn này sẽ giữ vai trò là nhà tư vấn tài chính và là nhà bảo lãnh phát hành trái phiếu quốc tế của Tổng công ty dầu khí Việt Nam ra thị trường quốc tế. Trái phiếu dự kiến từ 300 – 500 triệu USD, phát hành chủ yếu ở thị trường Mỹ. Số vốn đầu tư thu được từ việc phát hành trái phiếu quốc tế sẽ được sử dụng để đầu tư các công trình trọng điểm của nghành dầu khí như: Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất, dự án khí Nam Côn Sơn, Điện đạm Phú Mỹ, thăm dò khai thác phát triển mỏ... Cần có sự tăng cường hoàn thiện trong công tác quản lý của công ty tài chính dầu khí mới được thành lập để đảm đương với nhiệm vụ tìm nguồn vốn huy động cho các dự án đầu tư của toàn Tổng công ty. Quán triệt chủ trương tăng cường sử dụng các dịch vụ và hàng hoá thiết bị máy móc trong nước có thể sản xuất được để từng bước tiết kiệm nguồn ngoại tệ và giành cho các dự án trọng điểm khác. Cần có sự quản lý, kiểm tra tài chính trong nội bộ các thành viên của Tổng công ty trong việc đầu tư các dự án để đảm bảo các dự án đó đem lại hiệu quả kinh tế cao và phù hợp với chiến lược phát triển chung của toàn công ty. Để đạt được các mục tiêu đề ra Tổng công ty cần phải có cơ chế linh hoạt hơn trong việc quản lý, sử dụng, tiết kiệm, huy động vốn giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên. Nguồn vốn lớn cùng với cơ chế quản lý có hiệu quả sẽ đảm bảo cho Tổng công ty thành công trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra. III. Một số kiến nghị về sự quản lý của nhà nước : Tổng công ty dầu khí Việt Nam luôn được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, nghị quyết trung ương 15/NQ-TW-7/1998 khẳng định: “Dầu mỏ và khí thiên nhiên là nguồn năng lượng và nhiên liệu quan trọng của đất nước... phải tập trung những cố gắng đến mức cao nhất để biến tiềm năng đó thành hiện thực, từng bước đưa dầu khí trở thành một nghành kinh tế kỹ thuật quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế trong những thập kỷ tới”. Để thực hiện được mục tiêu như trên Tổng công ty dầu khí Việt Nam cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ và các cơ quan nhà nước. Hiện nay các quy phạm pháp luật đang trong giai đoạn hoàn chỉnh, bổ xung sửa đổi nên chưa ổn định. Các luật, văn bản ban hành hướng dẫn thường gây khó khăn cho các đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh. Nghành dầu khí đang trở thành một nghành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, do vậy cần phải nhanh chóng có một cơ chế hợp lý rõ ràng nhằm thúc đẩy tạo điều kiện cho nghành dầu khí phát triển. Chính phủ và nhà nước cần phải sớm có các chính sách, luật pháp trong việc thu hút khuyến khích vốn đầu tư của nước ngoài tham gia vào việc tìm kiếm, thăm dò ở Việt Nam nhằm nhanh chóng đánh giá xác định đúng mức tiềm năng dầu khí của đất nước. Nhà nước nên có chính sách cho phép các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào một số lĩnh vực trong nghành dầu khí, tuy nhiên hình thức sở hữu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam vẫn là một Tổng công ty nhà nước. Hiện nay do nhu cầu vốn đầu tư cho ngành dầu khí là rất lớn mà nhà nước không thể dành nhiều ngân sách cho chỉ riêng nghành dầu khí. Cho nên giải pháp cho phép thu hút nguồn vốn từ các tổ chức này sẽ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và mở rộng quy mô sản xuất hơn là một giải pháp đúng đắn mà các nước trong đó các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm. Xu hướng chung trong cơ cấu tổ chức của nghành dầu mỏ các nước là thực hiện toàn bộ các khâu từ thăm dò, khai thác đến lọc dầu, hoá dầu và tổ chức phân phối kinh doanh sản phẩm dầu. Trong đó lọc dầu và tổ chức phân phối sỉ là khâu trọng yếu nhất. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy bộ phận từ khâu khai thác lọc dầu đến phân phối sản phẩm dầu khí đều trực thuộc một công ty đảm nhiệm, ví dụ như: ỏ Indonesia ban đầu tổ chức nghành dầu khí tách thành hai công ty PN Permina và PN Pertamin Nhưng về sau lại phải sáp nhập lại thành một công ty Pertamina hoặc Trung Quốc phải sắp xếp khu vực hoạt động và chuyển giao tài sản giữa hai tập đoàn CNPC và Sinopec thành một tập đoàn hoạt động xuyên suốt toàn nghành. Hiện nay ở nước ta cũng tồn tại hai Tổng công ty Petro Việt Nam và Petrolimex. Petro Việt Nam thực hiện các khâu tìm kiếm, thăm dò, khai thác và trong tương lai sẽ đảm nhận thêm khâu lọc dầu và hoá dầu còn Petrolimex hiện nay dang đảm nhận khâu phân phối, bán lẻ bán sỉ các sản phẩm dầu khí được nhập khẩu từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước. Từ sau năm 2005 Tổng công ty dầu khí Việt Nam bắt đầu có sản phẩm dầu khí để cung ứng phục vụ cho nhu cầu nền kinh tế quốc dân. Do yêu cầu mang tính cấp bách xuất phát từ chủ quan lẫn khách quan đem lại thì chính phủ và nhà nước nên có chính sách sát nhập hai Tổng công ty Petro Việt Nam và Petrolimex thành một công ty để thực hiện hoạt động xuyên suốt toàn nghành dầu khí như các nước trong khu vực và trên thế giới đã thực hiện. Nếu còn để tồn tại hai Tổng công ty này hoạt động song song với nhau thì sẽ tạo nên một cuộc cạnh tranh lớn giữa hai Tổng công ty và có thể gây ra sự mất ổn định trong việc cung cấp nhiên liệu năng lượng cho nền kinh tế quốc dân. Để tăng cường vốn cho sản xuất kinh doanh của Tổng công ty trước nhu cầu về vốn lớn nhà nước nên có chính sách tăng thêm phần lợi nhuận giữ lại từ hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty dầu khí Việt Nam thay vì để lại 20 – 30% lợi nhuận như hiện nay. Nhà nước cũng cần phải thành lập một quỹ hỗ trợ giá dầu cũng như bảo trợ nghành dầu khí trong những điều kiện không được thuận lợi. Qũy này sẽ bù đắp hỗ trợ cho Tổng công ty nếu các điều kiện rủi ro xảy ra cho Tổng công ty trong việc thực hiện sản xuất kinh doanh ở tất cả mọi khâu như: sản xuất khai thác xuất khẩu dầu thô trợ giá bán dầu cho nhà máy lọc dầu trong nước... Trong cơ chế chính sách quản lý về giá tiền lương thuế nhà nước nên có những giải pháp đồng bộ và phù hợp nhằm đảm bảo cơ chế ưu đãi, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để Tổng công ty dầu khí Việt Nam phát triển hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả trên thị trường thế giới. Tóm lại để hoàn thành tốt các nhiệm vụ đề ra là xây dựng Tổng công ty dầu khí Việt Nam thành một nghành kinh tế kỹ thuật muĩ nhọn quan trọng của đất nước bên cạnh sự nỗ lực phấn đấu của Tổng công ty dầu khí cũng cần đến sự quản lý, điều tiết, hỗ trợ cũng như các chính sách hợp lý của chính phủ và của các bộ nghành có liên quan khác. Kết luận Dầu mỏ là một nghành năng lượng quan trọng của tất cả các quốc gia, nó đang chiếm khoảng 65% trong tổng các nguồn năng lượng toàn cầu. Do đặc điểm của nghành dầu khí mang lại cho nên nghành dầu khí là một nghành yêu cầu về vốn đầu tư rất lớn, rủi ro đối với một số công đoạn trong nghành là rất cao và nó thường là một nghành độc quyền của một số các công ty lớn hay của một quốc gia. Qua phân tích đánh giá tình hình hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty dầu khí Việt Nam cho chúng ta thấy được những thành tựu to lớn mà Tổng công ty đã đạt được nói riêng và toàn nghành dầu khí Việt Nam nói chung. Hàng năm dầu thô đóng góp rất lớn trong tổng kinh nghạch xuất khẩu của cả nước. Trong giai đoạn 1999 – 2001 thành tựu đạt được của xuất khẩu dầu thô làm giảm một phần ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á đến nền kinh tế nước ta đặc biệt là sự đóng góp của dầu thô đối với nền kinh tế nước ta trong năm 2001 là một trong những nguyên nhân làm cho tăng trưởng GDP tăng 6,75% cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5%. Hiện nay bên cạnh ưu điểm lợi thế về đặc điểm của dầu thô Tổng công ty còn gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu dầu thô như: sản lượng xuất khẩu rất nhỏ bé so với thế giới chỉ đứng thứ 30 trong tổng 50 nước sản xuất khai thác dầu thô trên thé giơí, về kho dự trữ dầu thô, trang thiết bị máy móc, đặc điểm về địa hình của các mỏ dầu Việt Nam... Để phấn đấu trở thành tập đoàn dầu khí mạnh thì Tổng công ty phải không ngừng phấn đấu vươn lên để đạt được những mục tiêu đề ra. Muốn thực hiện được những mục tiêu chiến lược đề ra bên cạnh sự phát huy nội lực của Tổng công ty ra còn cần có sự chỉ đạo hướng dẫn, giúp đỡ từ phía chính phủ và các cơ quan nhà nước. Tăng cương thúc đẩy hoạt động xuất khẩu dầu thô, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã, đang và sẽ là một trong những nhân tố chính thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nưóc theo chiến lược hướng về xuất khẩu. Tài liệu tham khảo Giáo trình thương mại quốc tế chủ biên GS-TS: Nguyến Duy Bột. Giáo trình quản trị kinh doanh quốc tế chủ biên GS-TS: Trần Chí Thành Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 255 tháng 8/2000. Tạp chí Việt Nam Đông Nam á số 4,5 năm 2001. Thời báo kinh tế số xuân năm 2001. Tạp chí thương mại số 2,9,13 năm 2000. Tạp chí thông tin dầu khí thế giới các số năm 1999, 2000, 2001. Tạp chí dầu khí các số năm 1997 – 2001. Các tài liệu về hoạt động xuất khẩu dầu khí do Tổng công ty dầu khí cung cấp. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0409.doc
Tài liệu liên quan