Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam là một vấn đề vẫn có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề này đã thu hút được sự tham gia nghiên cứu của nhiều học giả và trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao của dân tộc, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Đổi mới là một xu hướng tất yếu của của đất nước, trên thực t

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2152 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế trải qua gần hai mươi năm thực hiện, nó đã tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Tuy nhiên, đổi mới không đơn giản chỉ là đổi mới về kinh tế mà nó kéo theo sự biến đổi toàn diện kể cả con người một cách sâu sắc, từ đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về vật chất. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định: Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó người phụ nữ là lực lượng đông đảo, nắm vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Việt Nam bước sang thời kỳ đổi mới với nhiều thay đổi lớn lao trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,... đã dẫn đến những thay đổi về yêu cầu, những đòi hỏi, những tiêu chí đánh giá của xã hội về người phụ nữ. Người phụ nữ trong thời đại mới phải đẹp toàn diện hơn, tài giỏi hơn, tích cực tham gia các công tác xã hội, đảm đang việc gia đình.... Và bên cạnh những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ cần phải gìn giữ những nét đẹp truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam Học thuyết "Tam tòng", "Tức đức" bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực nó còn góp phần làm nên những nét đẹp tryền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong giai đoạn đất nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ Việt Nam cần khắc phục quan niệm “Tam tòng” và tiếp thu vận dụng "Tứ đức" ("công dung -ngôn -hạnh") như thế nào là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực. Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề: Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp sẽ góp phần vào mục tiêu xây dựng, phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Đây cũng chính là lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam ở mức độ ít nhiều trực tiếp hay gián tiếp đã được một số tác giả Nho học, triết học các nhà bình luận.... nghiên cứu từ rất sớm. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Điển hình là “Nho Giáo” của Trần Trọng Kim với hai tập: Quyển Thượng và Quyển Hạ; “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu; “Chuyên khảo về Nho giáo” của Đặng Thai Mai; “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu,... Trong tác phẩm “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, ông đã khái quát quá trình lịch sử hình thành, phát triển của Nho giáo và các quan điểm cơ bản qua các thời kỳ. Ông đã phân tích khá sâu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong lịch sử phát triển của Nho giáo: Nho giáo thời Xuân Thu; Nho giáo thời Lưỡng Hán; Nho giáo thời Tam Quốc; Nho giáo đời Thanh và đặc biệt là Nho giáo ở Việt Nam. Về sách, báo, tạp chí như: Báo Phụ nữ, Tạp chí Gia đình, Báo Tiền phong... phạm trù công - dung - ngôn - hạnh và đạo tam tòng cũng được bàn đến nhưng nghiên cứu dưới góc độ hẹp, đi vào từng khía cạnh nhỏ. Như vậy, nhìn chung, những công trình nghiên cứu về đề tài này đã nêu lên nội dung cơ bản của "Tứ đức" và học thuyết “Tam tòng” nhưng mới chỉ dùng lại ở mức đại cương, khái quát. Vì vậy, học thuyết này rất cần được nghiên cứu sâu hơn, mang tính hệ thống hơn nhất là sự ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay thì hầu như chưa có công trình nào đề cập đến. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đề cập đến vấn đề hầu như vẫn còn trống vắng này. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài chỉ giới hạn ở học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo chứ không phải toàn bộ Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 4. Mục đích của đề tài Mục đích: - Nghiên cứu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo. - Đánh giá ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của học thuyết này đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay. - Trên cơ sở đó, đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế; tiếp thu vận dụng sáng tạo giá trị tích cực của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức" góp phần vào việc xây dựng và phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ: - Phân tích rõ nội hàm, ngoại diên của phạm trù: Tam tòng, công - dung - ngôn - hạnh ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. - Phân tích ảnh hưởng của học thuyết này đối với phụ nữ Việt Nam xưa (trong chế độ phong kiến), đặc biệt là đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của học thuyết này trong quá trình xây dựng phụ nữ Việt Nam hiện đại. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết tôn giáo nói chung và về Nho giáo nói riêng; các tác phẩm kinh điển về Nho học; các văn kiện của Đảng; những chính sách, chiến lược xây dựng con người mới của Nhà nước... Luận văn cũng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, so sánh, thống kê, điều tra... 6. Điểm mới của luận văn Hệ thống hơn và bắt đầu đi sâu thêm nội hàm, ngoại diên của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá mặt tích cực cũng như hạn chế của học thuyết này. Phân tích ảnh hưởng của "Tam tòng", "Tứ đức" đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Hội Phụ nữ Trung ương cũng như Hội Phụ nữ tỉnh và địa phương khác, cho những người quan tâm, nghiên cứu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo phương Đông đối với con người Việt Nam hiện nay. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 học thuyết “Tam tòng” “Tứ đức” Trong Nho giáo 1.1. Vị trí học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo 1.1.1. Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo Thời kỳ lịch sử Cổ - Trung đại, Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của thế giới. Giai đoạn này, Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại như phát minh ra chữ viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng với ấn Độ và các dân tộc phương Đông khác, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều trường phái triết học lớn; là chiếc nôi của nhiều nhà tư tưởng. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại việc đánh giá vai trò của triết học, tôn giáo Trung Quốc đối với sự phát triển của các nước chịu ảnh hưởng Hán hoá vẫn là một vấn đề được nhiều người quan tâm, bàn luận. Vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XI (Trước Công nguyên) trên dải hoàng thổ phì nhiêu của con sông Hoàng Hà phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên minh thị tộc lớn, một nền nông nghiệp định cư khá phát triển, chữ viết bắt đầu được sử dụng. Nhà nước với những hình thức phôi thai của nó đã xuất hiện, đó là thời Ân - Thương. Bước sang thế kỷ XI (Trước Công nguyên) bộ lạc du mục Chu từ phía Tây Bắc men theo sông Hoàng Hà tiến vào và tiêu diệt nhà Ân, lập nên nhà Chu, mở đầu thời kỳ "Văn minh dựng nước" Trung Quốc. Giai đoạn đầu của nhà Chu, sử sách gọi là Tây Chu (tức vào khoảng thế kỷ XI đến thế kỷ thứ VIII Trước Công nguyên). Căn cứ vào nguồn gốc tài liệu gián tiếp đời sau ghi chép lại đã cho chúng ta biết tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Tây Chu có những đặc điểm nổi bật: Thời kỳ này đồ sắt đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến. Chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất và sức lao động được nhà Chu thực hiện rất nghiêm ngặt. Về nguyên tắc, ruộng đất, mọi thành viên trong xã hội đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Nhà Chu còn thành lập thành thị đại quy mô. Giữa thành thị, nông thôn đã có sự phân biệt. Thành thị là nơi ở của tầng lớp quý tộc, thị tộc, của kẻ thống trị, còn nông thôn là nơi ở của người thị tộc bị nô dịch. Như vậy, Nhà Chu đã giữ lại hình thức tổ chức của thị tộc cũ, hệ quả dẫn đến là trong phân tầng xã hội chỉ có sự phân biệt người quân tử (quý tộc) và tiểu nhân (kẻ hèn kém) chứ không có sự phân biệt kẻ giàu và người nghèo trên cơ sở tài sản hoặc kẻ trí, người ngu trên cơ sở tri thức. Điều này tất yếu dẫn đến sự đối kháng, đấu tranh giai cấp giữa thành thị và nông thôn. Những đặc điểm khái quát về kinh tế - chính trị - xã hội trên đã làm cơ sở cho sự hình thành tư tưởng tôn giáo, chính trị, đạo đức thời Tây Chu. Về tôn giáo: tiếp thu truyền thống tế tổ, tiên vương của người Ân, người Chu còn thêm tư tưởng kính trời, thờ thượng đế, hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất. Trên cơ sở quan niệm tôn giáo đó, nhà Chu xây dựng một nền văn hoá "học tại quan phủ" tức văn hoá của riêng tầng lớp quý tộc, học vấn không xuống đến nông thôn. Tư tưởng chính trị thời Chu đã được tôn giáo hoá một cách toàn diện. Mọi chính sách của nhà Chu đều được giải thích là "vâng mệnh trời", "thuận theo mệnh trời"... Bên cạnh đó, tư tưởng "trị dân" cũng là một tư tưởng chính trị quan trọng. Nó mang tính chất chuyên chính tàn khốc của giai cấp quí tộc thị tộc Chu và luôn được phủ bằng một lớp sơn tôn giáo "ý trời", "mệnh trời"… Cơ sở để hình thành những quy tắc đạo đức trong thời kỳ này chính là mối quan hệ giữa Thiên tử và muôn dân, từ đó sinh ra mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người dân. Vì vậy, tư tưởng đạo đức thời Tây Chu luôn lấy hai chữ Hiếu và Đức làm nòng cốt. Quan niệm đạo đức này muốn tuyên truyền và củng cố địa vị của giai cấp quí tộc thị tộc, bảo vệ Nhà nước chuyên chính thị tộc. Từ thế kỷ thứ VIII (Trước Công nguyên), xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có nhiều biến động lớn, toàn diện, kéo dài cho đến thế kỷ thứ III (Trước Công nguyên). Lịch sử gọi thời này là Đông Chu hay chính là thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Năm 770 Trước Công nguyên - 221 Trước Công nguyên). Về mặt kinh tế, thời Đông Chu, đồ sắt đã được sử dụng phổ biến. Công cụ bằng sắt tham gia vào sản xuất đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế nông nghiệp và thương nghiệp. Đây cũng là giai đoạn khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Hiện tượng buôn bán diễn ra rất nhộn nhịp ở các nước như: Hàn, Tề, Tấn, Sở. Lĩnh vực chính trị: Sự phát triển mạnh trên lĩnh vực kinh tế đã tác động lớn đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của trật tự xã hội cũ. Trong xã hội xuất hiện một tầng lớp địa chủ mới lên, họ ngày càng giàu có và lấn át quý tộc, thị tộc cũ. Họ đòi có được quyền bình đẳng với tầng lớp quý tộc Chu. Sự phân biệt sang hèn dựa trên cơ sở huyết thống của nhà Chu tỏ ra không còn phù hợp nữa mà tình thế đòi hỏi phải dựa trên cơ sở về giá trị tài sản. Quyền sở hữu tối cao (về đất và dân) của vua nhà Chu đang bị tầng lớp địa chủ mới lên và có tiền của lấn át và chiếm lĩnh. Như vậy, địa vị chính trị, ngôi thiên tử của vua nhà Chu đang dần chỉ còn là hình thức. Khi nhà Chu lên giữ ngôi Thiên tử đã chia thiên hạ ra làm hơn 70 nước chư hầu. Khi nhà Chu còn thịnh vượng những nước chư hầu này đều được quyền tự chủ và hàng năm phải cống nạp Thiên tử nhà Chu. Khi có chinh phạt ở đâu, phải có mệnh lệnh của Thiên tử đem quân đi chinh chiến. Nhưng ở giai đoạn Đông Chu, trật tự bị đảo lộn. Nhà Chu suy nhược sau phải dời đô về phía Đông ở Lạc ấp. Mệnh lệnh của Thiên tử không ai nghe theo. Các nước chư hầu phân tán ra đến 160 nước lớn nhỏ. Chiến tranh giữa các quốc gia xảy ra liên miên và càng ngày càng khốc liệt. Nhân dân lầm than. Cương thường đổ nát. Theo sử sách Trung Quốc còn ghi có tới 36 vụ bề tôi giết vua chúa; 52 vụ bán rẻ đất nước; loạn lạc, khổ đau không sao kể xiết. Đây cũng là thời kỳ vua không ra vua, cha không ra cha, con không ra con. Nhiều người chỉ mải mê đường danh lợi mà không nghĩ đến tình người, lòng nhân ái. Lịch sử gọi thời kỳ này "Bách gia chư tử" (Trăm nhà, trăm thầy) "Bách gia tranh minh" (Trăm nhà đua tiếng). Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thời Đông Chu lúc này giống như một bức tranh vẽ cảnh đất trời trong cơn giông bão với nhiều màu sắc và chính nó là cơ sở để nhiều khuynh hướng, tư tưởng, học thuyết, triết gia xuất hiện. Dường như tất cả đều có một mục đích: ổn định đất nước và cứu vớt thiên hạ khỏi khổ đau. Thời kỳ này, Trung Quốc có nhiều trường phái triết học, tiêu biểu là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia… Có thể khẳng định: trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ, các hệ thống triết học được thành lập thời kỳ này - với những tư tưởng cơ bản của nó - còn tồn tại và ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Mỗi nhà tư tưởng sau này đều tự xếp mình vào một trường phái nào đó để giải thích là phát triển những quan niệm của bậc tiền bối. Nho giáo ra đời trong hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức nói trên và nó trở thành một trong sáu trường phái cơ bản của triết học Trung Quốc thời bấy giờ. Nho giáo ra đời cách đây 26 thế kỷ, tức vào khoảng thế kỷ thứ VI (Trước Công nguyên) đến thế kỷ thứ V (Trước Công nguyên). Người sáng lập ra đạo Nho có tên là Khổng Tử. Khổng Tử sinh năm 551 Trước Công nguyên mất năm 479 Trước Công nguyên, thọ 73 tuổi; tên thật là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ở Khúc Phụ, nước Lỗ trong một gia đình quý tộc nhỏ, hoàn cảnh sa sút. Quê hương nước Lỗ của ông là nơi trụ cột, nơi bảo tồn được nhiều di sản văn hoá cũ của Nhà Chu. Sử sách còn ghi: Thời nhỏ, Khổng Tử hay chơi trò bày đồ cúng tế, ham học, thích nghiên cứu thi, thư, lễ, nhạc đời trước. Điều này đã biểu hiện bản tính của Khổng Tử luôn coi trọng những điều lễ nghĩa. Năm 19 tuổi, ông thành gia thất rồi nhận chức quan coi kho, sau lại làm quan coi việc cúng tế. Do chủ trương chính trị không hợp, ông bỏ nước Lỗ đi chu du qua nước Vệ, Tống… Nhưng đường lối ông cũng không được những nước này tin dùng. Năm 70 tuổi ông trở về nước Lỗ dạy học và là người đầu tiên mở nền tư học. Học trò của ông đông đến 3000 người, trong đó có 72 người tài giỏi, nổi tiếng, được thờ cúng cùng ông. Khổng Tử là người ôn hoà, nghiêm trang, nhân hậu, ông thông minh, ham học, hết lòng lo cứu đời. Trong những năm đầu của lịch sử Trung Quốc, có ba nhà liên tiếp trị vì: Hạ Vũ: 2205 Trước Công nguyên - 1766 Trước Công nguyên Nhà Thương - Ân: 1766 Trước Công nguyên - 1027 Trước Công nguyên. Vào năm 1027 Trước Công nguyên Cơ Phát diệt nhà Ân, sáng lập nhà Chu, trị vì dài nhất (900 năm, từ 1027 Trước Công nguyên - 221 Trước Công nguyên) rực rỡ nhất trong số ba nhà (Hạ, Thương, Chu) và có công tạo nên nền văn minh Trung Quốc. Người có công lớn nhất - được nhân dân tôn là "Ông Thánh" trong thời kỳ này chính là Chu Công. Ông là em ruột của vua Võ Vương. Võ Vương chết khi con còn nhỏ. Chu Công hết lòng phụ chính, giữ ngôi cho cháu, dẹp bọn làm phản trong họ muốn cướp ngôi. Khổng Tử phục ông như vua Nghiêu, Vua Thuấn. Suốt đời Khổng Tử chỉ ao ước lập được sự nghiệp như Chu Công. Nhà Chu châm chước lễ chế của hai triều đại trước (Hạ, Ân) nên văn vẻ rực rỡ biết bao! Ta theo Chu" (Ngô Tòng Chu)…Như đã bàn ở phần trên, thời đại Khổng Tử là thời đại nhà Chu suy nhược, chư hầu lấn át, trật tự lễ pháp bị đảo lộn. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông đem sách thánh hiền đời trước, phát triển, lập thành một học thuyết có hệ thống; lấy nhân - nghĩa - lễ - trí dạy người, lấy cương thường hạn chế nhân dục, để giữ vững trật tự xã hội. Khổng Tử chủ trương lập lại pháp chế kỷ cương của Nhà Chu với một nội dung mới để khắc phục tình trạng xã hội hiện thời. Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Tài liệu chủ yếu để nghiên cứu tư tưởng của ông là cuốn Luận ngữ, ghi lại lời của Khổng Tử và học trò. Bên cạnh đó còn có "Tứ Thư" và Ngũ Kinh" trong đó có bốn cuốn không phải tác phẩm ông chước tác mà do ông chỉnh lý lại, ông chỉ viết kinh “Xuân - Thu". Học thuyết của Khổng Tử được lưu truyền rộng và gây ảnh hưởng tới nhiều dân tộc á Đông trong đó có Việt Nam. Trong học thuyết Khổng Tử, người phụ nữ ít được bàn đến nhưng không phải là không có. Điều này thể hiện trong học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức". 1.1.2. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo Nho giáo là một học thuyết của xã hội phong kiến, nó đã giữ vai trò thống trị trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc qua nhiều thế kỷ. Vì vậy những quan điểm đường nối phương pháp chuẩn mực… mà Nho giáo đề ra phục vụ đắc lực cho chính xã hội sinh ra nó. Nho giáo bàn đến nhiều vấn đề như quan điểm về thế giới (đạo, thiên lý, thiên mệnh…) học thuyết về luân lý đạo đức với những nguyên lý căn bản như: nhân, lễ, dũng... trong đó chữ “Nhân" được đề cập đến với ý nghĩa sâu rộng nhất, nó được coi là nguyên lý chủ yếu quyết định bản tính con người và những quan hệ giữa con người với con người trong gia tộc đến ngoài xã hội. Bên cạnh đó, Nho giáo còn bàn về quan điểm chính trị - xã hội với phạm trù “Nhân trị", "Chính danh", “Thượng hiền”... Vấn đề con người nói chung cũng được Nho giáo bàn đến. Muốn xây dựng thành công và giữ vị trí thống trị một xã hội thì phải có con người điều hành, tổ chức xã hội đó. Điều này khiến cho vấn đề con người được xã hội phong kiến cũng như Nho giáo rất quan tâm. Con người là vấn đề trung tâm của Nho giáo nhưng không được bàn đến trong tất cả các mặt của nó mà chú trọng vào khía cạnh luân lý, đạo đức nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn giai cấp và ổn định trật tự xã hội. Con người trong Nho giáo được bàn đến dưới những góc độ: nguồn gốc con người, tính người, số phận con người, mẫu người lý tưởng, đạo làm người… Trong tất cả các vấn đề nêu trên người phụ nữ ít được bàn đến vai trò của họ rất mờ nhạt. Một số vấn đề trong Nho giáo đề cập đến người phụ nữ như: Học thuyết luân lý đạo đức phong kiến; quan niệm về đạo làm vợ, đạo làm con; mối quan hệ với mọi người trong gia tộc, ngoài xã hội; quan niệm về phạm vi, lĩnh vực, công việc mà họ được phép tham gia. Nhìn chung người phụ nữ trong Nho giáo được đánh giá là một lực lượng cơ bản để xây dựng xã hội nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới. Họ chỉ tồn tại với tư cách là một yếu tố cần, đủ cho trật tự gia đình, xã hội. Về số phận của họ cũng như số phận con người nói chung, theo Khổng Tử, con người có mệnh và họ không thể cưỡng lại mệnh (chữa được bệnh chứ không chữa được mệnh). Còn Mạnh Tử cho rằng, trời an bài địa vị xã hội của con người. Đổng Trọng Thư cho rằng, trời và người cảm thông với nhau (“Thiên nhân cảm ứng”), trời là chủ tể của việc người, người có công thì hưởng, người có tội thì phạt, bắt khổ phải khổ, cho sung sướng được sung sướng. Giống như: “Ngẫm ra muôn sự tại trời” “Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao” (Kiều) Quan điểm này được xây dựng trên lập trường của giai cấp thống trị, nó phục vụ cho mục đích của giai cấp thống trị, nó buộc con người nói chung, đặc biệt là phụ nữ vào những khuôn phép nhất định của xã hội, nó xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, sự bất công trong xã hội, khiến cho người phụ nữ luôn cam chịu, nhẫn nhục, bằng lòng với số phận của mình. Nho giáo không tìm nguyên nhân rối loạn của xã hội ở cơ sở kinh tế mà tìm ở bản chất con người đặc biệt là ở khía cạnh đạo đức. Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là thiện, là hiểu được các mối quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, trên - dưới… và tự ghép được mình vào các mối quan hệ đó một cách phù hợp và theo đúng chuẩn mực. Cụ thể, trong mối quan hệ vua - tôi, tôi tự thấy mình phải có nghĩa vụ với vua; trong mối quan hệ vợ - chồng, vợ phải tự thấy khác biệt với chồng; trong mối quan hệ trên - dưới phải đảm bảo tôn ti, trật tự; trong quan hệ nam - nữ phải gìn giữ phép tắc, ranh giới. Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, quan điểm này giữ vị trí thống trị trong một thời gian dài, là cơ sở đắc lực cho giai cấp thống trị để giáo dục đạo đức cho mọi người, mà bộ phận chịu thiệt thòi nhất chính là phụ nữ. Theo Khổng Tử, con đối với cha phải lấy chữ “hiếu” làm đầu. Cha đối với con phải lấy “từ ái” làm trọng. Đạo hiếu của con đối với cha mẹ dù rất nhiều mặt nhưng cốt lõi phải ở “tâm thành kính”. Một hôm Tử Du hỏi về đạo “hiếu”, Khổng Tử nói rằng, người có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi thì phải kính, chứ không kính thì không phải hiếu “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa, người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu. (Kim chi hiếu giã; thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ) (Luận ngữ, vi chính, VII) [10]. Khi cha mẹ còn, không bao giờ làm điều gì để cho cha mẹ buồn. Bởi vậy, không nên đi đâu xa mà có đi xa thì phải nói cho cha mẹ biết chỗ đi, để cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì có thể tìm gọi được (Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương) (Luận ngữ, lý nhân, IV) [10]. Sách luận ngữ chép rằng, học trò hỏi đạo “hiếu”. Khổng Tử đáp lại rằng: “vô vi”. Phàn Trì không hiểu rõ nghĩa hai chữ đó, hỏi lại thầy. Khổng Tử giải thích rõ sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế (Sinh sự chi dĩ lễ, tử táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ) (Luận ngữ, vi chính, II) [10]. Vậy sự vô vi đó là thờ cha mẹ cho đúng lễ. Lễ là hợp nghĩa lý, là vừa phải, chứ không phải thái quá hay bất cập, miễn là “Xứng gia chi hữu vô” (vừa sức nhà nghèo, nhà giàu mà làm cho phải lẽ thường) (Lễ ký: Đàn cung thương). Có chỗ Khổng Tử lại nói rằng: lễ xa xỉ, thì thà rằng kiệm ước còn hơn, tang với nghi văn quá, thì thà rằng thương buồn còn hơn (Lễ dữ kỳ xa giã, ninh kiệm: tang dữ kỳ dị giã, ninh thích) - Luận ngữ: Bát dật, III) [10]. Theo Khổng Tử, người phụ nữ phải theo lễ để ngăn cấm đại dục. Khổng Tử, luôn lấy tình cảm làm trọng, nhưng theo Khổng Tử tình cảm của người thường không có giới hạn sẽ dẫn đến hư hỏng. Ông chủ trương dùng “Lễ” để ngăn giữ những điều xấu từ khi chưa hình thành. Cái đại dục của người ta là việc ăn uống, trai, gái, bao giờ cũng có, cái đại ố của người ta là ở sự chết chóc, nghèo khổ, bao giờ cũng có. Cho nên, dục ố là cái mối lớn của tâm vậy, người ta dấu kín cái tâm không thể dò xét được… (ẩm thực, nam nữ, nhân chi đại dục tồn yên, tử vong, bần khổ, nhân chi đại ố tồn yên. Cố dục, ố giã, tâm chi đại đoan giã, nhân tàng kỳ tâm, bất khả trắc đạc giã, mỹ ác giai tại kỳ tâm, bất kiến kỳ sắc giã. Dục nhất dĩ cùng chí, xả lễ hà dĩ tại) (Lễ ký, Lễ vận, IX) [10]. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo không được bàn luận nhiều và không hệ thống. Có thể nói, trung tâm của vấn đề này chính là phạm trù "Tam tòng", "Tứ đức". Nó được coi là một chuẩn mực cơ bản để xây dựng người phụ nữ xưa. 1.2 Nội dung học thuyết “Tam tòng”, “ tứ đức” Nho giáo được chia thành ba giai đoạn chính: Nho nguyên thuỷ với đại biểu là: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử; Hán Nho với đại biểu là Đổng Trong Thư, Dương Hùng, Vương Sung; Tống Nho với đại biểu là Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy. Học thuyết của Nho giáo chủ yếu bàn về các mối luân thường đạo lý trong xã hội. Phạm trù, “Tam tòng”, “Tứ đức” cũng nằm trong các mối luân thường đạo lý trong xã hội. Qua mỗi thời đại khác nhau, Nho giáo nói chung, phạm trù "Tam tòng", "Tứ đức" nói riêng có những sự biến đổi về nội dung và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng, hành động của người phụ nữ. Vì vậy, trước hết chúng ta tìm hiểu “Tam tòng”, "Tứ đức" là gì? 1.2.1 “Tam tòng”, “Tứ đức” là gì? “Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, có nghãi là ở nhà theo cha, xuất gia theo chồng, chồng chết theo con (trai trưởng). “Tứ đức”: Công, dung, ngôn, hạnh. Theo Từ điển Hán Việt: Công: khéo léo Dung: dáng mạo, gồm có: + Dung mạo: chỉ dáng điệu và sắc mặt + Dung sắc: chỉ dung mạo và nhan sắc Ngôn: lời nói Hạnh: chỉ nết na đức hạnh. + Hạnh còn là hạnh kiểm: nết na giữ gìn; hành vi theo mực thước. Theo tác giả Lê Minh Viết trong tác phẩm "Gia đình và người phụ nữ" (Nhà xuất bản Lao động, năm 2000), thì: Công: có nghĩa là công việc, biết cách làm việc một cách có trí tuệ, có tỉ mỉ, có rèn luyện đến điệu nghệ. Dung: là dung nhan, dung mạo, nghĩa là dáng dấp thể hiện ra bên ngoài qua gương mặt, qua dáng hình khi đi đứng, nói cười, ứng xử hoặc khi xử lý tình huống trong cuộc sống. Ngôn: vừa mang nghĩa "thuyết" tức là ý nghĩa, trí tuệ, vừa mang nghĩa "thoại" tức lời ăn tiếng nói. Hạnh: tức đức hạnh, phẩm giá. Trong bài "Gia huấn ca" (Dạy con cái ăn ở cho có đức hạnh) có viết về đạo “Tam tòng”, “Tứ đức” như sau: Phận con gái ở cùng cha mẹ Lòng phải chăm học khéo học khôn Một mai xuất giá hồi môn Phận bồ liễu giá trong như ngọc Khéo là khéo bánh trong bánh lọc Lại ngoan nghề dệt vóc may mền Khôn là khôn lễ phải đường tin Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi Không chẳng tưởng mưu lừa chước dối Khéo chẳng khoe mẽ lịch triều trai Xưa nay hầu dễ mấy ai Miệng khôn tay khéo cho trai được nhờ Phận làm gái nghe lời khéo khuyến Lắng tai nghe truyện cổ mới nên Hãy xem xưa những bậc dâu hiền Kiêm tứ đức Công - Dung - Ngôn - Hạnh Công là đủ mùi xôi, thức bánh Nhiệm đặt thay đường chỉ mũi kim Dung là nét mặt ngọc đoan trang Không tha thướt không chiều lả lướt Ngôn là lạy, trình, thưa, vâng, dạ Hạnh là đường ngày thảo kính tin Xưa nay mấy kẻ dâu hiền Công - Dung - Ngôn - Hạnh là tiên phàm trần! 1.2.2. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thuỷ Khổng Tử - người sáng lập ra học thuyết Nho - nhà tư tưởng mở đường cho Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại. Như đã nói, thời đại của Khổng Tử là "Bá đạo" (đạo của các nước chư hầu) đang nổi nên lấn át vương đạo (Đạo của Nhà Chu), trật tự, lễ nghĩa Nhà Chu bị đảo lộn. Trước tình hình đó, Khổng Tử than rằng, vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong tầng lớp quý tộc cũ, ông chủ trương lập lại kỷ cương cũ của nhà Chu. Để thực hiện mục đích đó, ông xây dựng nội dung học thuyết: Nhân - Lễ - Nghĩa - Chính danh - Hiếu đễ. Đây là những phạm trù linh hồn của học thuyết Khổng Tử. Để học thuyết của mình trở thành hiện thực, Khổng Tử tập trung xây dựng mẫu người "Quân tử" với chủ trương "Đức trị". "Quân tử" là mẫu người lý tưởng để người đàn ông trong xã hội phong kiến xưa phấn đấu và được Khổng Tử bàn đến rất nhiều. Còn về phụ nữ, Khổng Tử cũng cho rằng họ là một lực lượng đông đảo để xây dựng xã hội, sự ổn định trật tự của xã hội cũng phần nào phụ thuộc vào họ, nhưng do quan niệm bất bình đẳng nam nữ nên hầu như ông không chú tâm vào việc xây dựng mẫu người phụ nữ cụ thể cho xã hội đương thời. Có thể nói, " Tam tòng", “Tứ đức” là học thuyết cơ bản nhất về phụ nữ của ông. Lý giải vấn đề này có một lôgíc nhất định. Vì người đàn ông được coi trọng, được xem là trụ cột của gia đình, xã hội, người phụ nữ phải luôn phụ thuộc vào họ, từ đó người phụ nữ không có vai trò độc lập. Khổng Tử chỉ tập trung vào việc xây dựng những mẫu người nam giới. Nếu người đàn ông tu dưỡng đức tài trở thành những bậc: quân tử, đại trượng phu hay thánh nhân thì tất yếu người phụ nữ phải đi vào khuôn phép. Mặt khác, Khổng Tử luôn xem gia đình là một tế bào xã hội. Trong gia đình thì phụ nữ lại là nhân tố sắp đặt, lo toan công việc… Trên cơ sở những quan điểm đó, Khổng Tử đưa ra chuẩn mực về người phụ nữ (được viết trong sách "Quyển thượng" của Trần Trọng Kim), người phụ nữ trước hết phải hiểu, làm theo “Tam tòng” Tại gia tòng phụ Xuất giá tòng phu Phu tử tòng tử Có nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải nghe theo cha, lấy chồng phải theo chồng; chồng chết phải theo con, phải ở vậy "Tòng" con suốt đời, không được đi bước nữa. Phạm trù “Tứ đức”: Công - Dung - Ngôn - Hạnh. Công chỉ sự khéo léo, đảm đang trong công việc gia đình, là nữ công gia chánh; tề gia nội trợ. Dung là vẻ đẹp hình thức, thể hiện dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang phục, tạo nên sự đoan trang, thuỳ mị nói chung. Ngôn chỉ lời ăn tiếng nói, chỉ sự lựa chọn từ ngữ tế nhị, kín đáo, nữ tính. Hạnh chữ hạnh kiểm, đức hạnh, là lòng nhân ái, là sự tuân theo lễ nghĩa và hiếu đễ với cha mẹ, anh em… Trong bốn đức nêu trên, Khổng Tử nhấn mạnh đức "Hạnh". Theo ông, người phụ nữ đạt đến đức "Hạnh" điều căn bản là phải có tấm lòng "hiếu" nhưng phải dựa trên cơ sở "ái", "kính". Người có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi nhưng phải kính, không kính là bất hiếu. Nuôi cha mẹ cốt ở sự thành kính, dẫu phải uống nước lã, ăn gạo xấu mà làm cho cha mẹ vui - đó là hiếu. Trong đạo hiếu, Khổng Tử nhấn mạnh hai điều "Vô vi", "Vô cải". "Vô vi là cách đối nhân xử thế với cha mẹ trong hoàn cảnh bình thường thờ cha mẹ không trái lễ. "Vô cải" là cách đối xử với cha mẹ trong hoàn cảnh biến. Trong cảnh biến thì người con gái cũng không thay đổi cái đạo với cha mẹ. Hai điều này Khổng tử muốn nhấn mạnh đến sự phục tùng, đến chữ "tòng" của người phụ nữ đối với cha mẹ. Song, bên cạnh đó, ông lại có quan niệm rất tiến bộ khi cho rằng không phải phục tùng cha mẹ một cách thụ động không phân biệt phải trái, lấy lễ nghĩa mà thờ cha mẹ, không phải cha mẹ làm điều gì trái đạo cũng theo. Ông nói: thờ cha mẹ khi cha mẹ làm điều gì lầm lỗi, con phải tìm cách nhẹ nhàng mà can ngăn, không cha mẹ không nghe theo ý kiến của con thì lại kính mà không trái lễ, dẫu có phải điều đau đớn cũng không oán giận (sự phụ mẫu cơ giáo, kiến chi bất tòng, hựu kính bất vi, tạo nhi bất oán). Tuân Tử cho rằng người làm con hiếu có ba hạng: “Người con hiếu sở dĩ có ba điều không theo mệnh cha. Theo mệnh thì cha mẹ nguy, không theo mệnh thì cha mẹ yên, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với đạo trung. Theo mệnh thì cha mẹ nhục, không theo mệnh thì cha mẹ vinh, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với điều nghĩa. Theo mệnh là cầm thú, không theo mệnh thì làm cho cha mẹ được vẻ vang, người hiếu tử không theo mệnh là kính cha mẹ. Cho nên, điều đáng theo mà không theo là không phải đạo làm con, chưa nên theo mà đã theo, là không hợp đạo trung. Biết rõ cái nghĩ đáng theo và không đáng theo mà lại hết sức cung kính, trung tín, đoan xác, rồi cứ cẩn thận mà làm, thế gọi là đạo hiếu” (Tử - Đạo - XXIX) [10]. Như vậy, đạo “Tòng cha" là phải biết rõ điều phải trái, cái đáng làm và cái không đáng làm. Nếu không, dẫu đức hạnh có tốt đến thế nào mà người con không biết dùng cho hợp đạo lý thì cũng thành ra dở. Còn Mạnh Tử thì cho rằng thông qua ngôn ngữ giao tiếp, qua lời ăn tiếng nói hàng ngày có thể đánh giá được những hạng người khác nhau trong xã hội. Ông nói: “Nói ít thì dễ dàng mà rõ rệt, nghị luận có khuôn phép không phóng túng, như kéo thẳng cái dây - ấy là trí của kẻ sỹ và quân tử”; “ Lời nói thì siểm, việc làm thì trái với lời nói, ấy là trí của tiểu nhân”; “Th._.oắng thỉnh, bộp chộp mà không có thống loại; kỳ quặc, viển vông mà không dùng được; gãy gọn, nhanh nhảu, tinh tường mà không vụ lấy thiết thực, không kể đến phải trái, không bàn đến điều cong, điều thẳng, chủ ý chỉ kỳ lấy tranh thắng với người ta, ấy là cái trí của đứa phu dịch vậy” (Tính ác, XXIII). 1.2.3. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Hán Nho Từ thời Mạnh Tử trở đi Nho giáo tồn tại ngang với Lão giáo, Mặc giáo, đến cuối thời Chiến Quốc, Nho giáo bước vào giai đoạn suy tàn. Đến thời Tây Hán, Hán Nho dần dần thịnh và chiếm vị trí độc tôn. Năm 221 TCN nhà Tần tiêu diệt Tề, kết thúc cục diện chiến quốc. Đất nước Trung Hoa lần đầu tiên được thống nhất. Nhưng sự thống nhất của nhà Tần dựa trên bạo lực, cơ sở kinh tế xã hội phong kiến còn non yếu, chính trị tàn bạo, văn hoá phản động, khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi. Lưu Bang giành được chính quyền lập ra nhà Hán. Trong bối cảnh đó xuất hiện nhà triết học duy tâm nổi tiếng: Đổng Trọng Thư (180 - 105 Trước Công nguyên). Dưới danh nghĩa tiếp tục tư tưởng của Nho giáo nhưng trên thực tế Đổng Trọng Thư đã tiếp thu khuyếch trương những yếu tố duy tâm, thần bí trong học thuyết của Khổng Tử. Học thuyết này được coi là hệ tư tưởng chính thống, là khuôn mẫu đạo đức xã hội cho các triều đại phong kiến Trung Quốc. Tư tưởng triết học và chính trị của ông thể hiện mục đích phục vụ vương quyền của chế độ chuyên chế phong kiến. Đổng Trọng Thư cho rằng, giữa người với người có ba mối quan hệ cơ bản: vua tôi, cha con, vợ chồng. Ông đề cập đến phạm trù "Tam tòng", “Tứ đức” nhưng đã tước đi những yếu tố nhân văn, nhân ái, tiến bộ của Khổng Tử, thay vào đó là quan niệm nghiệt ngã - một quy tắc đạo đức phi nghĩa lý: "Vua bảo tôi chết, tôi phải chết, nếu không mắc tội bất trung, cha bảo con chết, con phải chết, nếu không mắc tội bất hiếu". (Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung. Phu xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu) Hay chồng nói, vợ tuyệt đối phải nghe theo, dù sai, dù đúng, người phụ nữ trong gia đình không có quyền tham gia hay phản kháng. Như vậy, đạo lý làm người đã trở thành quy định khắt khe, bề tôi phải trung với vua, con phải hiếu với cha mẹ, vợ phải giữ đạo tòng với chồng. Từ đó dẫn đến một lôgíc: Bề trên là chân lý, là tuyệt đối; bề dưới phải phục tùng, người phụ nữ phải phục tùng một cách tuyệt đối với cha và chồng. 1.2.4. Mối quan hệ "Tam tòng", "Tứ đức" "Tam tòng" và "Tứ đức" là hai phạm trù cơ bản, là chuẩn mực đạo đức để xây dựng mẫu người phụ nữ phong kiến của Nho giáo. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Điểm chung giữa hai phạm trù này đều là những quy tắc, lễ nghĩa, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ. Cả hai đều được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng ngày một triệt để như một công cụ đắc lực để giáo hoá người phụ nữ với mục đích: ổn định xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và của người đàn ông. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có nét khác biệt ở phạm vi, đối tượng đề cập. "Tam tòng" chỉ mối quan hệ giữa người phụ nữ với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội, đó là: cha, chồng, con trai, đề cao sự phục tùng một chiều, sự chung thuỷ của họ đối với người đàn ông. Còn “Tứ đức” chú trọng vào sự tự tu dưỡng của chính bản thân phụ nữ. Tu dưỡng Công - Dung - Ngôn - Hạnh để đạt được "Tam tòng". "Tứ đức" là điều kiện để thực hiện tốt đạo tòng cha, tòng chồng, tòng con. Ngược lại “Tam tòng” chứng minh cho “Tứ đức”, cho phẩm hạnh của người phụ nữ. Trong bản thân phạm trù “Tứ đức” cũng có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Hạnh là nội dung. Công, Dung, Ngôn là hình thức. Chúng bổ sung cho nhau, thể hiện thông qua nhau. Như vậy, Nho giáo đòi hỏi ở người phụ nữ vẻ đẹp toàn diện theo một khuôn mẫu nhất định. Sâu xa hơn, là đòi hỏi sự toàn tâm, toàn ý, sự hy sinh hết mình đối với nam giới. Khi hiểu được mối quan hệ giữa các phạm trù, chúng ta tránh hiểu chúng một cách rời rạc hoặc tuyệt đối hoá một phạm trù nào và có thái độ khách quan, biện chứng khi xem xét sự ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam. Như vậy, Nho giáo có bước thăng trầm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, học thuyết " Tam tòng", “Tứ đức” không nằm ngoài bước thăng trầm đó. Có lúc nó chi phối vận mệnh người phụ nữ Việt Nam; có lúc lại mờ nhạt; có mặt tích cực, có điều hạn chế. Nó đi vào đời sống tư tưởng của nhân dân Việt Nam, đã ăn sâu bén rễ từ rất lâu. Vậy sự ảnh hưởng của nó như thế nào đối với phụ nữ Việt Nam ? 1.3. Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam 1.3.1. Vài nét về sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam Vị trí của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với việc nghiên cứu truyền thống tư tưởng của dân tộc cũng như sự ảnh hưởng của nó đối với người dân Việt Nam. Đạo Nho được truyền bá vào Việt Nam không bằng con đường giao lưu văn hoá; cũng không bằng con đường tìm đến của người bản xứ mà bằng con đường xâm lược của phong kiến phương Bắc vào thế kỷ thứ II Sau Công nguyên (tức vào thời Tây Hán). Sự kiện này được đánh dấu bằng việc thái thú Giao Chỉ - Tích Quang lấy nghĩa dạy dân; Thái Thú Cửu Chân - Nhâm Diên lấy lễ dạy dân. Hai Thái thú đó dựng nhà dạy dân bằng lễ nghĩa, văn phong Nho giáo của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ đó. Nho học thời kỳ đầu có lẽ là Nho Khổng Mạnh và Hán nho. Cùng với Đạo Lão, Đạo Phật, Đạo Nho cũng là công cụ của giai cấp phong kiến tiến hành đồng hoá, thống trị lâu dài dân tộc Việt Nam. Sự áp đặt đó mâu thuẫn gay gắt với thế giới quan chất phát, với truyền thống cộng đồng và ý thức độc lập tự chủ của người Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh việc chống áp bức của bọn xâm lược, người Việt còn phải chịu sự thống trị về mặt tư tưởng. Nhìn tổng thể thời Bắc thuộc (1117 năm) phong kiến phương Bắc ra sức truyền bá đạo Nho nhưng kết quả thu được không nhiều. Nho ít đi vào xã hội bản xứ, xã hội lúc bấy giờ chưa phải là miếng đất để đạo Nho ăn sâu bén rễ. Nho giáo gắn liền với kẻ thù xâm lược, hơn nữa rất khó học vì phải biết chữ Hán, còn Phật giáo thì bình dị, đứng về phía quần chúng đau khổ nên các triều đại đầu tiên của Việt Nam độc lập, Nho thật xa lạ, Phật giáo thì được tin dùng. Nhưng tình hình đó thay đổi khi người Việt giành được chính quyền, dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng lại đất nước. Xây dựng kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng về văn hoá - tư tưởng và phòng thủ đất nước. Một vấn đề đặt ra đối với chính quyền mới: tiếp tục giữ đạo Nho cùng đạo Phật, đạo Lão hay xây dựng một học thuyết hoàn toàn mới. Nhưng một điều có tính quy luật là xây dựng một học thuyết mới phải dựa trên những tiền đề tư tưởng của thời đại, mà tiền đề lúc đó đã có trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Hơn nữa, Nho giáo lại là quan điểm, công cụ của giai cấp thống trị phong kiến, phục vụ đắc lực cho mục đích duy trì trật tự xã hội, củng cố địa vị của giai cấp thống trị, vì vậy chính quyền người Việt đương thời tiếp tục truyền bá đạo Nho. Triều Lý (1010 - 1225) cùng với việc tôn sùng đạo Phật đã lập văn miếu thờ Khổng Tử (1070); tổ chức thi tam giáo (1074) để chọn hiền tài; lập Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Thời Trần bắt đầu từ năm 1267, nho sĩ được nắm quyền binh. Đó là bước ngoặt lớn đối với nho sĩ nước ta. Cuối Trần, xu thế Tống Nho đã thể hiện khá rõ ở Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán. Thời Lê là thời kỳ đạo trị nước yên dân của Nho giáo có tính xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động chính trị, xã hội. Người đương thời đặc biệt quan tâm đến các khái niệm đạo đức như "Trung, hiếu", "lễ nghĩa", … Những quan điểm đó vừa thuấm nhuần chủ nghĩa yêu nước, vừa mang sắc thái đạo Nho - đây là nét đặc sắc trong tư tưởng dân tộc Việt Nam. Điều này cũng gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, số phận những người phụ nữ Việt Nam. Thời Lê - đặc biệt thời Lê Thánh Tông (1260 - 1497) Đạo Nho đạt đến điểm cực thịnh. Điều đó thể hiện ở tổ chức nhà nước, pháp luật, các chính sách về giáo dục, khoa cử… Nho giáo từ chỗ mới bắt đầu chiếm ưu thế hơn so với Phật giáo ở thời kỳ trước, giai đoạn này nó đã giữ vị trí độc tôn, chi phối toàn bộ tư tưởng xã hội, chấm dứt thời kỳ Tam giáo. Từ đó, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm, trên nhiều lĩnh vực: tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán…Nho giáo thời này là Tống nho vì Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, là thuộc đời Tống) Ngũ kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu) sang Việt Nam và được dùng vào thi cử. Trong số những nhà tư tưởng yêu nước của nửa đầu thế kỷ XV thì Nguyễn Trãi là người xuất sắc nhất. Tư tưởng về con người của ông được bộc lộ một cách sâu sắc trong tư tưởng nhân nghĩa - đạo làm người. Ông là người thấu đạt những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo. Chữ học ngày xưa quên hết dạng Chẳng quên có một chữ cương thường. (Nguyễn Trãi) Sang thế kỷ XVI - XVII, một thế kỷ mà xã hội Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp. Quan niệm về nhân sinh quan thời kỳ này không giống như các giai đoạn trước. Nho giáo ở Việt Nam không chỉ bàn đến vấn đề đạo đức mà bàn nhiều đến mối quan giữa hệ linh hồn với thể xác, thế giới con người với thế giới khác… Các luận điểm đó về cơ bản xuất phát từ quan niệm của Nho giáo về số phận con người, nhưng nội dung thì vượt xa hơn tính khuôn mẫu của nó. Vào thế kỷ XVIII - thế kỷ đánh dấu nhiều sự kiện nổi bật, đặc biệt là những biến động về chính trị, tư tưởng. Thời kỳ này Nho giáo được đề cao nhưng không tách rời Phật giáo, Đạo giáo, giữa chúng có sự nhất thể hoá. Hiện tượng "Tam giáo đồng nguyên" trên cái nền tư tưởng chi phối của Nho giáo đang là xu hướng lớn thời bấy giờ và nó tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới các bình diện tư tưởng. Về đánh giá con người thế kỷ XVIII thì Nho giáo vẫn là cơ sở nền tảng cho các chuẩn mực đạo đức đối với con người Việt Nam, phụ nữ Việt Nam. Các vấn đề "Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa"…vẫn đứng hàng đầu và là các yếu tố quan trọng nhất trong ý thức đạo đức của cá nhân và xã hội. Các nhà tư tưởng đương thời thậm chí đã nâng những vấn đề có tính chất luân lý, đạo đức lên bình diện chính trị, xã hội. Họ chủ trương theo đường lối "Đức trị", lấy nhân nghĩa, đạo đức làm cơ sở cho việc duy trì, ổn định của quốc gia đất nước. Đại biểu tư tưởng của thế kỷ này là Lê Quý Đôn. Đường lối trị nước theo ông phải là kết hợp giữ "Đức trị" và "Pháp trị". Đây là khuynh hướng tư tưởng tiến bộ, có nhiều điểm mới mẻ. Khuynh hướng này đã vượt ra khỏi giới hạn tác động chủ yếu của Nho giáo. Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn lật đổ chính quyền Tây Sơn giành quyền thống trị, lập triều Nguyễn. Đây cũng là thời kỳ chiến tranh liên miên, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân cực khổ. Để duy trì bộ máy thống trị phong kiến, nhà Nguyễn đã sử dụng Nho giáo như một công cụ đắc lực. Nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, nhưng lại gặp trở ngại và sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của Thiên chúa giáo. Vì vậy, hiện tượng phê phán Nho giáo đã xuất hiện trong thời kỳ này. Năm 1858 - Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp, Nho học thời kỳ này là phương tiện thể hiện lòng yêu nước, hướng nội của các nhà nho như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Đình Phùng…Thơ văn của các ông sục sôi một tinh thần chiến đấu cứu nước. Nhưng sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và Nho học để thực hiện giải phóng dân tộc trong lúc này không thể đi đến thành công. Nho học đã đi hết một chặng đường dài lịch sử nước ta, từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh, Lê, Trần…Trên chặng đường đó, Nho giáo đã gây ảnh hưởng rất sâu đậm đến tư tưởng dân tộc Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó cũng thăng trầm, có lúc nó giữ vị trí độc tôn, đóng vai trò thúc đẩy, có lúc nó bất lực, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội và con người Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ. Dù thúc đẩy hay kìm hãm thì nó đều góp phần làm nên truyền thống tư tưởng văn hoá dân tộc Việt Nam; góp phần xây dựng người phụ nữ Việt Nam. Điều đáng chú ý là ở Việt Nam trong suốt thời kỳ phong kiến mặc dù Nho giáo chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, tư tưởng, nhưng chưa bao giờ Nho giáo là rập khuôn, thuần tuý như trên quê hương đã sản sinh ra nó, mà nó mang màu sắc Việt Nam đậm nét. Ngày nay, chúng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nho học không còn giữ vị trí chi phối nhưng ảnh hưởng của nó trong tư tưởng của quần chúng, trong những phong tục tập quán, trong nếp nghĩ, cách làm của người dân Việt vẫn tồn tại. Cụ thể là vẫn còn ảnh hưởng của quan niệm trọng nam, khinh nữ, của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ nữ. Xuất phát từ những cơ sở trên, nghiên cứu ảnh hưởng của phạm trù 'Tam tòng", “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay chúng ta sẽ có cái nhìn tổng thể, thái độ khách quan để đánh giá về giá trị cũng như hạn chế của nó. 1.3.2. Điều kiện để học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” du nhập và tồn tại ở Việt Nam Nhìn về sự phát triển của dân tộc, chúng ta thấy mỗi thời kỳ lịch sử đều có một cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội làm nền tảng cho sự vận động và phát triển của tư tưởng. Nhìn xuyên suốt các triều đại phong kiến cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, xã hội Việt Nam có những đặc điểm cơ bản khiến Nho giáo tồn tại. Trong tác phẩm "Sự thống trị của Anh ở ấn Độ", Mác đã chỉ ra điểm đặc trưng của xã hội ấn Độ và phương Đông là xã hội nông nghiệp với công xã nông thôn, chế độ đem lại cho mỗi làng xã một cuộc sống biệt lập. Công xã này tổ chức theo lối gia đình tự cung, tự cấp, bị trói buộc bởi những quy tắc cổ truyền, từ đó làm hạn chế con người trong những khuôn khổ chật hẹp. Xã hội truyền thống đó mang tính chất thụ động, quân bình ít thay đổi, nó kéo dài từ những thời kỳ hết sức xa xưa cho đến thế kỷ XIX. Chính xã hội "bất động”, hay "tĩnh" và sự lưu giữ những quy tắc cổ truyền, những quan niệm, những hủ tục ở Việt Nam là mảnh đất cho Nho giáo tồn tại. ở Việt Nam trước kia, ngay cả thời kỳ hưng thịnh nhất thì nền kinh tế phong kiến chưa bao giờ vượt qua khỏi khuôn khổ của một nền sản xuất nhỏ, kinh tế lạc hậu, trình độ phát triển của xã hội còn thấp, khoa học tự nhiên chưa phát triển, sự tiếp thu tôn giáo còn hạn hẹp, chỉ thông qua quân xâm lược và một số chính sách ngoại nhập. Chính vì thế sự tiếp nhận đạo Nho mới chủ yếu trên một số mặt, khía cạnh, quan điểm và không có hệ thống. Một vấn đề nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam là một nước liên tục phải đối phó với quân xâm lược, bởi vậy việc giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thường trực hàng đầu. Điều đó được thể hiện qua những cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm của dân tộc như: khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào những năm 40 - 43; khởi nghĩa Bà Triệu vào năm 248; khởi nghĩa Lý Bí vào năm 542 chống nhà Lương; khởi nghĩa Lý Tự Tiên (687); khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722); khởi nghĩa Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ chống giặc Đường; khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ (931 - 938) chống quân Nam Hán; khởi nghĩa Lê Hoàn (981) hai lần chống quân Tống; ba lần khởi nghĩa chống quân Nguyên - Mông của Nhà Trần (1257 - 1287);30 năm chống giặc Minh của Lê Lợi (1400 - 1407); phong trào Tây Sơn (1771 - 1784) chống giặc Xiêm, Mãn Thanh. Vì vậy, vấn đề độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước luôn được đặt lên hàng đầu. Chính điều đó làm cho tư tưởng yêu nước thương nòi ở người Việt Nam sớm hình thành và mang tính đặc thù. Con người Việt Nam ít quan tâm đến vấn đề "bản chất con người", "mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác"… mà quan tâm nhiều đến số phận con người, luân lý đạo đức, đạo làm người, cách đối nhân, xử thế, về vị trí vai trò của các cá nhân trong gia đình, xã hội. Mặt khác, sự tồn tại lâu dài và bền vững của chế độ phong kiến Việt Nam cũng là một nguyên nhân khiến cho Nho giáo tồn tại và ảnh hưởng sâu sắc đến người phụ nữ. Vì Nho giáo được xây dựng trên lập trường của giai cấp quý tộc, thị tộc với mục đích xây dựng những con người phục vụ cho giai cấp phong kiến. Giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo như một công cụ đắc lực nhất bảo vệ quyền lợi của mình. Ngoài những nguyên nhân khách quan trên, một nguyên nhân khiến Nho giáo còn ảnh hưởng đến xã hội, phụ nữ Việt Nam ngày nay nằm ở chính bản thân Nho giáo. Song song với những yếu tố hạn chế, tiêu cực thậm chí phản động, ngu dân thì Nho giáo vẫn có những nét thâm thuý, những giá trị tích cực của nó. Vì vậy, nó đi vào lòng người dân Việt Nam và để lại dấu ấn trong tư tưởng, phong tục tập quán… rất sâu sắc. Lịch sử cho chúng ta thấy, nhiều khi tồn tại xã hội đã mất đi nhưng ý thức xã hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Điều này được thể hiện rõ nét trong những quan niệm truyền thống, tập quán, tâm lý… Lênin cho rằng sức mạnh của tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ có một sức mạnh ghê gớm. Việt Nam đã đánh đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986 thực hiện đổi mới cho đến nay, xã hội có nhiều biến động lớn lao, nhưng ảnh hưởng của Nho giáo nói chung và “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng vẫn là điều khiến chúng ta trăn trở. 1.3.3. Nội dung học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam Bắt đầu một giai đoạn mới của lịch sử, người ta phải xây dựng lại cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong công cuộc đó, vấn đề xây dựng con người là vấn đề quan trọng hàng đầu. Với Việt Nam, sau một nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, đã bắt tay vào xây dựng đất nước độc lập, tự chủ. Để giữ vững vị trí thống trị của mình, vấn đề đầu tiên mà giai cấp phong kiến Việt Nam đặt ra là xây dựng con người phục vụ cho chế độ phong kiến Việt Nam độc lập. Để thực hiện điều này, giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị của xã hội, làm học thuyết để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, làm công cụ giáo huấn dân sinh, lấy thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” làm chuẩn mực cho phụ nữ noi theo. Đây là điều kiện cơ bản nhất cho sự tồn tại của Nho giáo nói chung, học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng. Tuy nhiên, điều kiện này lại chịu sự tác động của những yếu tố mang tính đặc thù. “Tam tòng”, “Tứ đức” được tiếp nhận, vận dụng một cách sáng tạo chứ không phải bê nguyên xi nội dung như trong Nho giáo của Trung Quốc. Nho giáo vào Việt Nam và đã mang một màu sắc riêng của dân tộc. Theo giáo sư Trần Văn Đoàn, Nho Việt đã tinh giản Nho giáo Trung Quốc thành một loại hình ý thức đặc thù. Nho Việt chỉ lấy một phần có giá trị thực dụng để bảo vệ Tổ quốc khỏi ách ngoại xâm, hoặc gắn kết với quyền lực của kẻ thống trị. Theo giáo sư Phan Đại Doãn các sĩ phu Việt Nam thường "Giản yếu", "lược luận", phần lớn tiếp nhận những luân lý đạo đức cơ bản của Nho giáo để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình và cộng đồng. Theo phó giáo sư Nguyễn Hùng Hậu, về đại thể, chủ yếu Nho Việt đi vào những vấn đề cấp bách thiết thực do đời sống xã hội đặt ra. Khuynh hướng chủ đạo này có cái hay là lược bỏ những phần rối rắm, phức tạp; nhưng vì thế nó cũng lược bỏ những chỗ thâm sâu vi tế; làm mất tính hệ thống, thiếu cơ sở lý luận, tính nhất quán, thiếu sự chặt chẽ, lôgíc. Điều này nói lên tính thực tế của người Việt Nam. Mặt khác, nhân dân Việt Nam có truyền thống tôn trọng phụ nữ. Trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc nào cũng trải qua thời kỳ mẫu hệ và chế độ mẫu quyền, trong đó, phụ nữ làm chủ gia đình, dòng họ, phụ nữ có vai trò lớn lao trong đời sống kinh tế, trong sinh hoạt xã hội cũng như tinh thần. Mỗi người dân Việt Nam đều ghi nhớ một huyền thoại tổ tiên, đó là: mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân là những người khai sáng ra lịch sử dân tộc. Mẹ đã đẻ ra 100 trứng, nở thành 100 chàng trai tuấn tú. Mẹ đem lên ở Tản Viên Sửa sang giềng mối, giữ gìn quy mô Bao nhiêu đồi núi đống gò Luỹ thành bày đặt, cõi bờ chia phôi. (Thiên Nam Ngữ Lục) [33, tr.9]. Còn thời vua Hùng, nàng Tiên Dung đã chủ động làm bạn trăm năm của Chử Đồng Tử sau cuộc gặp tình cờ trên bãi Màn Trò (Khoái Châu - Hải Hưng hiện nay). Trong dân gian, sử cũ có ghi: Trước Công nguyên, tháng 8, mùa thu, dân Lạc Việt mở hội vui, trai gái cùng nhau gặp gỡ hát giao duyên" ưng ý nhau thì lấy, cha mẹ không ngăn cấm" (Hán thư) [33, tr.11]. Trong truyền thuyết "Trầu cau" kể về nhà họ Lưu có người con gái, thấy hai anh em Tân, Lang đem lòng yêu mến muốn kết làm vợ chồng. Nàng bày ra cách thử (so đũa để trên mâm) xem ai là anh, ai là em, rồi xin với cha mẹ làm vợ người anh. Như vậy, sử, truyện…đều có những chi tiết phản ánh vai trò chủ động của người phụ nữ trong hôn nhân thời cổ. Thời kỳ chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ, suốt thời kỳ phong kiến và mãi về sau này, xã hội Việt Nam đã thừa hưởng và bảo lưu truyền thống tốt đẹp: "Tôn trọng vai trò của người phụ nữ". Truyền thống này đã trở thành đạo lý khiến cho giai cấp phong kiến Việt Nam không thể không công nhận luật pháp nhà Lê có một số điều khoản liên quan đến phụ nữ mà các triều đại phong kiến Trung Hoa không có. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, năm 1429 ông ban hành phép quân điền (lấy ruộng công của làng xã định kỳ phân phối cho mọi thành viên trong làng xã), từ thê thiếp của các quan viên đến các bà góa, vợ con của những người phạm tội, đều được chia ruộng công… Đến luật Hồng Đức năm 1483 đã quy định con gái được hưởng quyền chia tài sản sở hữu của gia đình bình đẳng như con trai; khi đi lấy chồng, phần tài sản này vẫn là của riêng người vợ, không bị nhập vào tài sản của nhà chồng. Điều đó cho phép người vợ có quyền tự do nhất định trong gia đình nhà chồng. Gia đình nào không có con trai thừa tự thì người con gái được hưởng thừa kế ruộng, hương hoả. Về lĩnh vực hôn nhân thì trong một số trường hợp phụ nữ được quyền ưu tiên: Con gái đã đính hôn chưa làm lễ cưới, nếu chẳng may người con trai bị phạm tội, bị tàn tật, bị phá sản, người phụ nữ có quyền từ hôn bằng cách trả lại đồ sính lễ; ngược lại, người con gái bị tàn tật, bị phạm tội thì người con trai không có quyền từ hôn. Như vậy, truyền thống tôn trọng phụ nữ của dân tộc Việt Nam không chỉ là đạo lý mà còn được Nhà nước phong kiến hợp pháp hoá. Điều này khiến cho nội dung của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức" không còn quá khắt khe hay ép buộc mà khiến cho người phụ nữ tự nguyện hành động theo "Tam tòng", "Tứ đức". Tuy nhiên, đồng hành với truyền thống tốt đẹp trên là những quan niệm lạc hậu, cổ hủ mà giai cấp phong kiến Việt Nam muốn duy trì để phục vụ cho mục đích của mình. Những quan niệm, phong tục này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong xã hội Việt Nam. Ví dụ như: tư tưởng "Trai năm thế bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng", "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một trai cho là có, mười gái vẫn bằng không), "Phụ nhân nan hoá" (đàn bà khó dạy), "nam tôn, nữ ti" (đàn ông là trọng, đàn bà thấp kém), "nam ngoại, nữ nội" (việc đàn ông là xã hội, đàn bà lo việc nhà)… Những quan niệm này không phải do vốn có của mình mà do ảnh hưởng của Nho giáo. Xã hội phong kiến Việt Nam còn công nhận những tệ nạn xã hội như: Tảo hôn, cưỡng hôn, đa thê, thủ tiết … Trong luật của nhà Lê còn quy định trong bảy lý do cho phép người chồng bỏ vợ đó là vợ phạm vào tội "lắm lời". Những quan niệm, phong tục đó được xã hội phong kiến duy trì suốt trong quá trình tồn tại và nó thấm vào trong tư tưởng của người dân Việt Nam, không chỉ đối với phụ nữ mà còn đối với cả giới mày râu. Tất cả những điều nêu trên là điều kiện khiến cho học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” mang những nội dung mới, rất Việt Nam. "Tam tòng", "Tứ đức" trong Nho giáo vào Việt nam và thăng trầm theo lịch sử của dân tộc. Nó không chỉ là hình thức, lý luận mà nó ăn sâu bén rễ vào đời sống, vào tư tưởng của người dân đất Việt. Chương 2 Thực trạng ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ nữ việt nam ngày nay 2.1. Thực trạng ảnh hưởng của “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay Giai đoạn từ phong kiến Việt Nam độc lập đến 1945. Từ khi bước lên vũ đài lịch sử, giai cấp phong kiến Việt Nam rất coi trọng vấn đề gia đình và xây dựng gia đình người Việt như thế nào. Bởi trong xã hội phong kiến Việt Nam với nền sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất khép kín … nên trách nhiệm của gia đình đối với việc truyền thụ kinh nghiệm, giáo dục, văn hoá là rất lớn. Nguyên tắc tôn ti trật tự được giai cấp phong kiến sử dụng triệt để trong việc phân định các mối quan hệ. Đẳng cấp trong gia đình có liên quan chặt chẽ đến đẳng cấp ngoài xã hội. Giai cấp phong kiến Việt Nam chủ trương duy trì đạo “Tam tòng” trong xã hội: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Trong Nho giáo nguyên thuỷ của Trung Hoa chỉ nói đến mối quan hệ cha - con. Cha đặt đâu con ngồi đó. Nhưng ở Việt Nam lại được đề cập dưới góc độ: cha mẹ - con cái: "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". ở vị trí người con (đặc biệt là con gái) phải luôn nghe theo sự dạy bảo, ý kiến, những quyết định… của cha mẹ. Trong quan hệ vợ - chồng, người chồng có quyền lớn hơn người vợ trong mọi lĩnh vực; giữa những người con với nhau thì con trai có quyền, có lợi hơn người con gái: "con gái là con người ta", "con gái cái bòn". Những người nam giới có quyền lớn hơn chưa hẳn do họ có tài năng, đức độ cao hơn mà cái quyền đó là do địa vị làm chồng, làm cha, làm người đàn ông đem lại. Điều này phục vụ đắc lực cho mục đích của giai cấp lãnh đạo xã hội phong kiến: đảm bảo tôn ti, trật tự thuận theo một chiều từ trên xuống, từ trong gia đình ra ngoài xã hội. "Tại gia tòng phụ": Người con gái chưa lấy chồng thì phải nghe, theo, tuân phục cha mẹ. Đạo tòng được xã hội phong kiến vận dụng với xu hướng tiêu cực đó là tòng một chiều, thụ động; cha mẹ bảo sao, con nghe vậy, dù đúng, dù sai. Nếu thấy cha mẹ sai mà cãi lại hoặc làm trái lời là bất hiếu. Trong hiện thực cuộc sống, có nhiều người cha không giữ đúng đạo làm cha, sa vào các tệ nạn xã hội, huỷ hoại bản thân, đạo đức kém cỏi, bất tài… nhưng với thân phận là con gái - người con không có quyền tham gia, góp ý hay khuyên bảo. Trong hôn nhân, người phụ nữ hoàn toàn không có quyền tự do tìm hạnh phúc của mình. Hôn nhân của họ được thực hiện theo nguyên tắc "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". Chính đạo "tòng" trong Nho giáo đã dẫn đến nhiều cuộc hôn nhân ngang trái trong xã hội như nạn tảo hôn, ép duyên làm cay đắng, ngậm ngùi bao kiếp người. Thân em mười sáu tuổi đầu Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người Nói ra sợ chị em cười Năm ba chuyện thảm, chín, mười chuyện cay! Hay cảnh làm lẽ mọn gắn liền với áp bức giai cấp: Lấy chồng làm lẽ khổ thay Đi cấy, đi cày chị chẳng kể công! Đến tối chị giữ lấy chồng Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài Đến sáng chị gọi: "bớ Hai"! Trở dậy nấu cám, thái khoai, đâm bèo Bởi chưng bác mẹ tôi nghèo Cho nên tôi phải đâm bèo, thái khoai. Như vậy, quan niệm "Tại gia tòng phụ" chính là cơ sở đảm bảo quyền tối cao của người cha, nó hình thành cách tư duy, lối sống, tính cách gia trưởng cho người đàn ông trong gia đình. Ngược lại, điều đó dẫn đến thái độ cam chịu của người phụ nữ. Trong gia đình có nhiều mối quan hệ khác nhau, song tất cả phải tuân theo sự điều hành của người đàn ông. Nguyên tắc này đảm bảo quyền lực cao tập trung trong tay người đàn ông trong gia đình. Mở rộng ra: quyền lực tập trung trong tay vua chúa, thần dân phải "tòng" vua, phải dốc hết lòng phụng sự vua chúa phong kiến. Theo Nho giáo đạo trị nước được bền vững cốt ở sự trên- dưới thân yêu nhau. “Thượng chi thân hạ giã, như thủ tức chí ư phúc tâm; hạ chi thân thượng giã, như ấu tử chi ư từ mẫu hỷ. Thượng hạ tương thân như thử cố lệnh tắc tòng, thi tắc hành. Dân hoài kỳ đức, cận dã duyệt phục, viễn giã lai phụ, chính chi tri giã" (trên thân dưới như chân tay đối với lòng ruột, dưới thân trên như con nhỏ đối với mẹ từ. Trên dưới thân nhau như thế, cho nên trên có lệnh thì dưới theo, trên thi thố điều gì, thì dưới phụng hành. Dân mến đức người trên, kẻ gần thì vui lòng mà phục tùng, kẻ xa thì đến quy phục, thế là chính trị hay rất mực) (Khổng Tử Gia ngữ, Vương ngôn giải III) [10, tr.169]. Gia đình trật tự dẫn đến xã hội trật tự, xã hội trật tự điều đó có nghĩa là giai cấp phong kiến đạt được mục đích cao nhất của mình: Quyền lợi thống trị được đảm bảo. Điều này đã chứng minh cách thức quản lý xã hội của giai cấp phong kiến: gia đình là đơn vị điều hành căn bản của quốc gia. Như vậy, người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ngoài việc bị áp bức về dân tộc, còn chịu áp bức về giai cấp, về giới. Họ là nô lệ của những người bị nô lệ; là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, đạo đức phản động. "Xuất giá tòng phu". Theo trật tự lôgíc của đạo “Tam tòng”, người phụ nữ khi đi lấy chồng tất yếu phải "tòng" chồng…. Nhân gian có câu "nhân vô thập toàn" (không ai hoàn thiện ), người đàn ông dù tài giỏi đến đâu cũng có những hạn chế nhất định. Nhưng theo quan điểm này thì người chồng dù tốt đẹp hay xấu xa, dù hay dù dở thì người vợ vẫn phải "tâm phục, khẩu phục", phải nghe, phải theo vô điều kiện. Cuộc sống phụ thuộc vào người khác đã biến người phụ nữ thành kẻ cam chịu, buông xuôi với số phận của mình. Họ không có quyền và không dám tự khẳng định mình trong hôn nhân, trong hạnh phúc hay khổ đau; họ phó thác cuộc đời mình cho sự may rủi. Ai may mắn thì lấy được người chồng tốt. Ai rủi ro thì lấy phải người chồng không xứng làm chồng. Thân em như hạt mưa sa Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng (ca dao) Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ? (ca dao) Theo đạo “Tam tòng”, người vợ trong gia đình giống như một thứ công cụ để sai bảo, một kiểu nô dịch, họ không có cuộc sống cho mình, không có chính kiến của mình, họ phải hi sinh bản thân cho người khác không phải vì họ kém cả về tài năng, đức độ mà chỉ vì họ ở địa vị người phụ nữ ! Luật nhà Trần lại quy định: Người đàn bà ngoại tình xử cho về ở với chồng làm đầy tớ và chồng được tự ý đem cầm, đợ hoặc gạ bán (An Nam chí lược). Chồng phạm tội trộm cắp lấy một đền mười, không trả được thì bắt vợ xung làm nô tỳ. Vào năm 1920, có trận đói lớn, nhiều người chồng đã bán vợ với giá một người một quan tiền. Kết quả của quan niệm trọng nam khinh nữ nêu trên là rất nhiều gia đình bất hạnh. Đạo “Tam tòng” thực sự là sợi dây oan nghiệt trói chặt cuộc đời người phụ nữ. Đứng trước thực trạng đó của xã hội, nhiều người phụ nữ đã ý thức được tài năng, phẩm giá của mình; mặt khác, họ cũng nhận ra thế lực kìm hãm cuộc đời mình, họ than rằng: Em như cây quế hồng hoa Trồng nơi đất xấu không ra được chồi. (ca dao) Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn, nát mặc đầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son (Hồ Xuân Hương) "Phu tử tòng tử" Trong cuộc sống không kể hết những rủi ro, mất ._.ầu xã hội, người phụ nữ phải được đào tạo cơ bản về nghề, tích cực tham gia các khoá đào tạo lại định kỳ, nâng cao tay nghề, có sáng tạo không ngừng trong công việc… Trước đây người vợ thường lo việc nhà là chính, nên những tiêu chuẩn như: nết na, thùy mị, biết lo toan nội chợ là chuẩn mực hàng đầu. Những tiêu chuẩn này ngày nay vẫn rất cần nhưng yêu cầu đã khác xa nhau. Ví dụ: "dung" được xếp sau những tiêu chí khác: chỉ có 37,5% nam giới trả lời cần chọn vợ có nhan sắc, xinh đẹp, trong khi số đông cần chọn vợ có nghề nghiệp ổn định (tức là có khả năng đóng góp tài chính cho gia đình) tới 95%; khoẻ mạnh, thủy chung chiếm 91%. Tương ứng như thế nữ chọn chồng đẹp trai chỉ có 21%; nghề nghiệp ổn định 70% [19, tr.124]. Như vậy, tiêu chuẩn nghề nghiệp có khả năng kinh tế được đánh giá rất quan trọng trong hôn nhân - là điều kiện cơ bản để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Xuất phát từ quan niệm này, mà trong xã hội hiện đại đang có xu hướng muốn cho con cái tìm những ngành nghề có thu nhập cao, dù phải học tập, lao động với cường độ căng thẳng. Thực tế là những ngành nghề đó vừa đảm bảo cho cá nhân có cuộc sống độc lập, tự chủ, vừa giúp đỡ được gia đình và người thân. Một cuộc điều tra xã hội học được công bố trên Internet cho thấy, một số ngành nghề rất vất vả, lại đòi hỏi sự cố gắng không ngừng của người lao động; lại rất dễ gặp rủi ro nhưng nhanh làm giàu là: 1) Doanh nhân; 2) Lập trình viên phần mềm; 3) Công nghệ sinh học; 4) Phóng viên báo chí đang được giới trẻ yêu thích và chấp nhận thử thách [19, tr.124]. Chuẩn mực tác phong, thói quen, lối sống thanh lịch thuộc phạm trù tâm hồn, phong cách hiện đại. Phụ nữ ngày nay phấn đấu trở thành người năng động, linh hoạt, sắc sảo nhưng vẫn đảm bảo yếu tố duyên dáng, lịch lãm, tế nhị và luôn tôn trọng mọi người. Chuẩn mực này hướng tới sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại cho người phụ nữ Việt Nam hôm nay. Một trong những chuẩn mực không thể thiếu đối với người phụ nữ ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào đó là: ý thức xây dựng gia đình tiên tiến, hạnh phúc. Để thực hiện được điều này người phụ nữ cần tự hoàn thiện rất nhiều đức tính quý như chung thuỷ, thật thà, nhường nhịn, tôn trọng cùng nhau chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, quan tâm đáp ứng những nhu cầu chính đáng của nhau … Chuẩn mực trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: Nâng cao ý thức nuôi dưỡng tình cảm giữa mọi người, cùng nhau bàn bạc, quyết định việc lớn, biết sử dụng kinh tế có hiệu quả để nâng cao chất lượng sống cho gia đình, biết sắp đặt không gian gia đình sạch sẽ, gọn gàng, thẩm mỹ… Cá nhân được quan tâm, cộng đồng gia đình được coi trọng. Từ không khí bình đẳng, thấu hiểu, cảm thông với nhau dẫn đến sự phân công, sắp xếp công việc trong nhà được hợp lý, khoa học. Mọi người cùng có trách nhiệm san sẻ mọi công việc gia đình. Mọi người cùng tham gia đóng góp kinh tế gia đình và cùng nhau hưởng thụ thành quả lao động một cách có ý thức, có văn hóa. Chuẩn mực gắn với mối quan hệ giữa gia đình và cộng đồng: Người phụ nữ được đánh giá là có nếp sống văn hoá khi họ chủ động đoàn kết, hoà thuận với cộng đồng, cụ thể là với hàng xóm, làng xã, phố phường. Tích cực tham gia những hoạt động của địa phương.Tham gia phòng chống những hiện tượng tiêu cực trong xã hội để bảo vệ hạnh phúc gia đình và mọi người. Để thực hiện được tất cả những chuẩn mực cơ bản nêu trên phải có một chuẩn mực, điều kiện đối với phụ nữ là: rèn luyện để có một thể lực tốt. Đây là chuẩn mực thường ít được quan tâm đúng mức, ngoại trừ một số phụ nữ ở nội thành có điều kiện thường xuyên luyện tập thể hình, chơi thể thao... còn phần đông phụ nữ, nhất là công nhân, nông dân chưa có những điều kiện cần thiết để phát triển thể lực, thậm chí còn phải chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi từ nghề nghiệp, từ cuộc sống hàng ngày đến thể lực. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, người phụ nữ không những phải có thể lực tốt, thể hình đẹp vì lý do thẩm mỹ, vì hạnh phúc gia đình mà còn vì đó là nguồn nhân lực đảm bảo trực tiếp cho vấn đề: năng suất, chất lượng, hiệu quả. Kết quả khảo sát cho thấy, 61,5% phụ nữ được phỏng vấn, cho rằng vấn đề sức khỏe đang là một trong những mục tiêu quan trọng phải phấn đấu. Ngoài ra, ý kiến yêu cầu người phụ nữ hiện đại phải biết ít nhất một môn thể thao (42,8%), yêu cầu phải có thời gian thư giãn, phục hồi sức khỏe phát triển thể lực, hàng ngày, hàng tuần (55%) [18, tr.126]. Lao động trong thời đại công nghiệp luôn căng thẳng, tập trung cao độ, hơn nữa người phụ nữ phải thực hiện cùng lúc 2 chức năng gia đình và xã hội … đòi hỏi họ phải có một sức lực bền bỉ. Có sức khoẻ mới làm được kinh tế, có kinh tế mới xác định được vị trí, vai trò trong xã hội. Người phụ nữ phải khoẻ thì mới đẹp, đẹp về hình thức, về trí tuệ, tâm hồn, một tâm hồn lớn phải được nuôi dưỡng trong một cơ thể khoẻ mạnh thì mới đơm hoa kết trái được. Từ xưa đến nay, lịch sử dân tộc đã trải qua nhiều bước thăng trầm nhưng có một điều mà cả gia đình và xã hội đều cho là đương nhiên: đó là sự chấp nhận hy sinh quên mình của phụ nữ với con, với chồng, với gia đình, với Tổ quốc… Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội, Đảng và Nhà nước Việt nam XHCN đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và xác định rõ: Chăm sóc sự tiến bộ của phụ nữ phải được coi là quốc sách, là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi gia đình, mọi người. Tuy nhiên bản thân phụ nữ phải cố gắng hết mình vì sự nghiệp giải phóng mình, vì sự phát triển của bản thân, của xã hội là điều không thể thiếu. Để xây dựng thành công những chuẩn mực cao đẹp (nêu trên) đối với phụ nữ hiện đại, chúng ta cần một số giải pháp cụ thể: 3.2. ảnh hưởng của “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay. Một số giải pháp cơ bản * Phát huy bình đẳng giới. Thay đổi cục diện bình đẳng nam nữ trong gia đình sẽ góp phần không nhỏ cho sự bình đẳng chung, góp phần làm thay đổi sản xuất kinh tế gia đình, từ đó sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực chung cho toàn xã hội. Như vậy, vấn đề bình đẳng giới không chỉ cần thiết cho phụ nữ hiện đại mà là một vấn đề mang ý nghĩa chiến lược của Việt Nam. Ngày nay, phụ nữ trong gia đình, nhất là ở nông thôn, vùng sâu miền núi, hải đảo... vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi từ sự bất bình đẳng. Trong tư duy, nếp nghĩ, thói quen của nhiều người đàn ông quan niệm bất bình đẳng vẫn tồn tại và được truyền nối một cách có ý thức hoặc vô thức. Đấu tranh để xoá bỏ tư tưởng này là một cuộc đấu tranh lâu dài, cần lực lượng đông đảo của toàn xã hội trong đó đóng vai trò đặc biệt là đàn ông. Trước hết, phái nam phải thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về phụ nữ và có những hành động tôn trọng họ. Về phía bản thân người phụ nữ: Bằng sự nỗ lực của bản thân, luôn khẳng định được vị ví, vai trò của mình; có ý thức cao về việc tự chăm sóc, tự vươn lên những chuẩn mực của thời đại mới, hoàn thành tốt, chức năng gia đình, xã hội; gìn giữ, phát huy nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc. Về phía xã hội: Nhà nước, các hoạt động của đoàn thể đã đưa bình đẳng giới vào các chương trình hoạt động trợ giúp phụ nữ tạo nên dư luận xã hội. Phụ nữ được bình đẳng trong học tập nâng cao trình độ; bình đẳng trong lao động; trong nghỉ ngơi, phục hồi sức khoẻ và tâm hồn; bình đẳng trong mọi quyết sách của Nhà nước. Có như vậy, trí lực, sức lực của người phụ nữ mới có điều kiện phát triển để cống hiến cao nhất cho gia đình và xã hội. Cần phải nhắc lại chức năng của phụ nữ và không ai thay thế được họ là sinh ra thế hệ nối tiếp, là người tạo nền tảng tâm hồn, tư duy, nhân cách cho trẻ, là người thầy đầu tiên và suốt cả cuộc đời của con người. Đứa trẻ ngay những ngày đầu tiên trong phôi thai đã tiếp nhận được dấu ấn ban đầu của người mẹ cho sự phát triển bộ não và sự rung động của trái tim. Cái ban đầu ấy vô cùng quan trọng. Vậy sự bình đẳng giới với phụ nữ để họ được phát triển cao chẳng phải là "đầu tư cho tương lai", "đầu tư cơ bản", "đầu tư chiều sâu" đó sao? Thực trạng trong xã hội Việt Nam còn nhiều hiện tượng bất bình đẳng. Điều đó không chỉ có trong gia đình mà còn ngoài xã hội, ở các tổ chức, đoàn thể, ở các chế độ chính sách… Ví như: cho đến nay, việc đi chợ, nấu cơm, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa… chiếm phần lớn thời gian, sức lực của phụ nữ nhưng chưa được xếp vào danh mục lao động. Vì vậy, lao động trong gia đình chưa được tính công mặc dù họ rất vất vả. Dẫn đến kết quả là: số giờ lao động cho gia đình + xã hội của vợ lớn hơn chồng nhiều nhưng định giá mức thu nhập lại rất thấp. Tất nhiên, trong giai đoạn hiện nay chúng ta không đòi hỏi gia đình phải trả lương cho phụ nữ về lao động gia đình; nhưng điều chúng ta cần ở đây là mọi người phải cùng có ý thức chia sẽ, đỡ đần, giúp đỡ và phải trân trọng giá trị vô hình ấy của phụ nữ hiện đại. Về phía Nhà nước phải có kế hoạch đưa chương trình bù đắp cho phụ nữ bởi lao động gia đình là loại lao động tái sản xuất sức lao động của con người. Nếu không hình thức lao động này, người lao động sẽ kiệt quệ dần cả về tinh thần lẫn thể chất. Xã hội vì thế cũng không thể phát triển. Trong điều tra "Tranh chấp hôn nhân gia đình và thủ tục giải quyết vấn đề này ở Việt Nam" của Phạm Thanh Vân (Viện Gia đình và giới - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), tháng 9-2005 cho rằng: Điều nổi bật nhất liên quan đến vấn đề giới qua điều tra này là "đa số phụ nữ đứng đơn trong các vụ tranh chấp hôn nhân và gia đình" (chiếm 90%). Điều đó cho thấy việc họ bị ngược đãi, dồn ép trong gia đình tới mức không còn sự lựa chọn nào khác. Theo số liệu của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, trong 23.788 vụ ly hôn thì có tới 30% vụ là do người phụ nữ bị đánh đập ngược đãi không chịu nổi phải đứng đơn xin ly hôn [19, tr.127]. Hơn nữa, nó còn cho thấy địa vị của người phụ nữ trong gia đình đã được cải thiện, đặc biệt về kinh tế nên họ đã nhìn nhận bảo vệ hạnh phúc của mình một cách tự tin và chủ động hơn, không cam chịu. Bên cạnh đó lại có một thực tế: khi có sự kiện tụng về vấn đề hôn nhân và gia đình thì cần phải Tòa án nhân dân can thiệp. Nhưng hiện nay cả nước đã có gần 200 nghìn tổ hòa giải cơ sở và những người có uy tín ở cộng đồng tham gia giải quyết bằng phong tục, luật tục. Điều này có ảnh hưởng sâu sắc đến bình đẳng giới vì khi xảy ra bạo lực giữa vợ và chồng, sự giải quyết của tổ hòa giải một cách kịp thời sẽ ngăn chặn được bạo lực, tránh hậu quả nặng nề cho phụ nữ; nhà của tổ viên tổ hòa giải đôi khi trở thành nơi chị em là nạn nhân của bạo lực đến lánh nạn. Tuy nhiên, không phải lúc nào tổ hòa giải ở cơ sở cũng mang lại lợi ích cho người phụ nữ mà phần nhiều là động viên họ phải kiềm chế, nhẫn nại, chịu đựng, phải hy sinh bản thân... Có tình trạng này vì những người làm công tác hòa giải ở địa phương hầu như chưa được đào tạo nâng cao nhận thức về giới, khi giải quyết tranh chấp không trên cơ chế chính thức mà bằng những quan niệm, những phong tục, tập quán mang tính chất lạc hậu, phân biệt đối xử nam - nữ; trái với luật hôn nhân và gia đình. Nếu chỉ dựa trên luật tục mà xét xử các vụ kiện tụng trong hôn nhân thì đối với xã hội nói chung và các dân tộc thiểu số nói riêng, người phụ nữ phải gánh chịu nhiều bất công nhất. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp đem áp dụng máy móc sự bình đẳng, hậu quả dẫn đến sự đổ vỡ: có người vợ ngoại tình, có người phụ nữ kiêu căng, khinh thường bạn đời. Nhà kia lỗi phép con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng (Tú Xương) Đặc biệt là ở những gia đình mới nổi, gia đình hãnh tiến đã quá thần bí sức mạnh vật chất. Vợ chồng, cha con, anh em lấy đồng tiền ra làm thước đo giá trị khi xử sự với nhau; xuống cấp về đạo đức, đánh mất chính mình và những tình cảm thiêng liêng, phá hoại nền tảng gia đình. Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, có một chương về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình (chương V). Điều này chứng tỏ Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến vấn đề này, vì trong thực tế cuộc sống hiện đại đã có nhiều hiện tượng tiêu cực phát sinh cần phải được điều chỉnh bằng luật pháp. Vì vậy, bình đẳng giới theo xu hướng phát triển của thời đại nhưng cũng luôn phải đảm bảo yếu tố truyền thống, và yếu tố văn hoá truyền thống có nhiều nét đẹp nhất là “Tứ đức” xưa. * Đổi mới chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình Đặc biệt quan tâm đến chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình trong thời điểm này là một bước đi đúng hướng; bởi việc hỗ trợ cho phụ nữ phát triển đã không còn chỉ là việc để cho giới nữ hoặc của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam mà là việc của Đảng và Nhà nước. Việc hỗ trợ phụ nữ phát triển phải được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định gắn liền với vấn đề kinh tế là giải quyết việc làm cho phụ nữ. Con người hôm nay phải chạy đua trong nền kinh tế thị trường, luôn phải đối mặt với đồng tiền, rất cần có nền móng nhân bản vững chắc. Sự nhạy cảm của tâm hồn, sự sắc sảo của tư duy, sự trong sáng của đạo đức và phong cách, đó là những giá trị chỉ con người mới cần có và bắt buộc phải có. Những giá trị đó con người được thừa hưởng trước tiên từ nguồn gốc của gia đình mình và trong gia đình, người mẹ là người truyền thụ đầu tiên, tạo ảnh hưởng sâu lắng nhất đối với thế hệ tương lai. Vì thế đổi mới chính sách xã hội đối với gia đình và phụ nữ, thực chất là nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng. Chính sách Nhà nước trước hết quan tâm đến số đông là lao động nữ; chính sách quan tâm số ít lao động trí óc và lao động tài năng; chính sách quan tâm đến những người lao động nghệ thuật là nữ… Ví dụ đối với phụ nữ trí thức, phụ nữ lao động tài năng, chính sách cần lưu tâm đến độ tuổi lao động, sự xuất hiện độ chín tài năng của họ không đồng đều. Phụ nữ khi ở độ tuổi không còn bận con nhỏ - đây là độ tuổi có một tốc độ phát triển kỳ diệu. Tuy nhiên, độ tuổi và tài năng của người phụ nữ ở mỗi ngành nghề có những nét đặc thù. Trong lao động nghệ thuật, có những loại hình nghệ thuật tuổi nghề không vượt quá 35 - 40 tuổi khi cơ thể và vẻ đẹp đã bước vào giai đoạn lão hoá. Nhưng về trí tuệ của họ thì lại bước vào độ chín. Hoặc ở những ngành nghiên cứu, nữ trí thức đầu ngành phải có chính sách phù hợp về độ tuổi lao động, nếu không xã hội sẽ đánh rơi nhiều vốn quý mà phải trải qua hơn 55 năm trở nên mới tạo dựng được. Trí tuệ là sản phẩm rất đặc thù, mang dấu ấn cá nhân, không ai có thể thay thế ai được. Có một thực tế về hàng loạt những chính sách phụ nữ đã được thi hành như: "Giảm biên chế", "nghỉ 41", "về một cục", "mất sức lao động"… tại các cơ quan, xí nghiệp, công ty đã đẩy hàng loạt phụ nữ ra khỏi guồng máy sản xuất với lý do: năng suất lao động thấp hiệu quả làm việc kém hoặc khi duyệt đơn xin việc làm, tâm lý của người có thẩm quyền không muốn nhận lao động nữ vì một số lý do cơ bản: sức khoẻ yếu, không năng động, hay vi phạm thời gian lao động, mất thời gian cho việc mang thai, đẻ, nuôi con nhỏ… Chính vì sự tự nguyện gánh vác phần lớn việc gia đình cho phái nam nên họ thường không có nhiều thời gian cho bản thân để tái tạo sức khoẻ, sắc đẹp, học vấn… Số phụ nữ phấn đấu cho học tập ở đâu cũng thấp hơn đàn ông, hưởng thụ văn hoá nghệ thuật đàn ông cũng luôn chiếm phần lớn; ở vùng dân tộc thiểu số thì điều này lại càng trầm trọng. Ví như ở dân tộc Hà Nhì: Trong khi đàn bà phải bổ củi, đàn ông uống rượu, vui chơi, người phụ nữ nào bổ được nhiều củi, chất xung quanh nhà cao bao nhiêu thì được nhiều người con trai đến hỏi bấy nhiêu vì họ lấy đó là thước đo sự đảm đang, khoẻ mạnh của phụ nữ. Khi hoạch định chính sách chúng ta cần xem xét kỹ thực tế này. Nhưng có lẽ, trước hết là trong các cơ quan Nhà nước, ở những cương vị có thẩm quyền, cần phải có nhiều phụ nữ tham gia. Bởi chính họ là những người hiểu nhất, nhạy cảm nhất với những hiện tượng bất bình đẳng giới. Vì vậy, trước khi đề xuất những chính sách cụ thể trên nhiều lĩnh vực trong xã hội đối với phụ nữ, phải có ngay chính sách sử dụng cán bộ nữ đầu ngành, xác định vai trò của họ một cách công bằng, đặt vào những cơ quan quyền lực ngang với nam giới. Đây không phải là xã hội "ưu tiên" hay "cho" phụ nữ mà xã hội đang rất cần họ. * Đấu tranh nhằm xoá bỏ những quan niệm, phong tục, tập quán, lạc hậu. Tâm lý con trai Bảng 3.1: Nguyện vọng phải có con trai - theo trình độ học vấn Đơn vị tính: % Học vấn Nguyện vọng Mù chữ Cấp I Cấp II Cấp III Đại học Nhất thiết phải có 61,5 61,0 51,5 37,2 33,3 Không nhất thiết phải có 38,5 39 48,5 62,8 66,7 Nguồn: Kết quả của dự án điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (của Đỗ Thị Bình - Lê Ngọc Văn - Nguyễn Linh Khiếu). Qua bảng điều tra cho thấy tâm lý mong muốn có con trai hơn con gái còn phổ biến ở Việt Nam. Việc chưa có con trai vẫn là gánh nặng tâm lý đối với các cặp vợ chồng. Vai trò của người con trai vẫn được đánh giá cao, chủ yếu, trong việc thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường, chăm sóc phụng dưỡng mẹ già. Đối với các gia đình trẻ hiện nay, quan niệm phải có con trai không quá nặng nề. Nhưng đối với thế hệ từ 50 đến 60 tuổi trở lên vẫn coi việc có con trai là hệ trọng. Con gái là con người ta Con dâu mới thực mẹ cha đem về. (ca dao) Tâm lý ngại sinh con ở một số phụ nữ. Tỷ lệ sinh ở Việt Nam đang ngày càng được hạ thấp do chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia, của các tỉnh, của thành phố và do sự tự ý thức xuất phát từ phía gia đình. Quan niệm "trời sinh voi, trời sinh cỏ", "nhiều con, nhiều của", "con đàn cháu đống" đã trở thành lạc hậu dẫn đến một xu hướng khác: Ngại sinh con, ngại trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con bằng dòng sữa của mình, hoặc không muốn có gia đình… là hiện tượng đã và đang xuất hiệu ở nhiều thành phố lớn. Từ đó nảy sinh ra những hiện tượng đẻ thuê, nuôi thuê, mua bán trẻ sơ sinh. Hiện tượng bán con đã diễn ra khá nhiều ở Thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ phải yêu cầu UBND thành phố kiểm tra, ngăn chặn kịp thời vấn nạn này (Văn bản số 4076/VPCP - TTBC ngày 5/9/2001). Phóng sự trên báo Lao động số 86/2001 ngày 25/4/2001 đã đánh giá việc đẻ thuê của phụ nữ là một nghề. Những người phụ nữ này đã mặc nhiên biến mình thành "cỗ máy đẻ" để lấy khoản tiền lớn sau mỗi lần vượt cạn… Tình trạng này nếu để lan rộng sẽ làm thoái hoá đạo đức, mất tính nhân văn, nhân bản của xã hội. Thực tế nhức nhối này đã ảnh hưởng rất lớn đến thiên chức của người mẹ, người vợ trong gia đình, huỷ hoại nét đẹp truyền thống trong “Tứ đức” xưa. Có những gia đình đã được thiết lập, họ có khả năng sinh con nhưng lại chủ động lối sống không có con. Họ muốn có cuộc sống "không vướng bận", tập trung thời gian và vật chất cho sự thành công của công việc hoặc thỏa mãn nhu cầu "tự do" của mình. Sự biến động về loại hình gia đình trong thời kỳ hiện đại Cùng với sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội là sự biến động về loại hình gia đình. Bên cạnh những loại hình trong xã hội truyền thống như: gia đình hạt nhân, gia đình mở rộng, gia đình khiếm khuyết, hiện nay xuất hiện nhiều loại hình mới: gia đình không con; gia đình độc thân; gia đình kết bạn; đặc biệt là gia đình thể nghiệm. Gia đình thể nghiệm là gia đình của những người yêu nhau, hợp nhau, sống chung với nhau trước khi kết hôn hoặc không kết hôn. Đây là loại "mốt" ở phương Tây nhằm khắc phục tình trạng ly hôn của những người yêu vội, cưới vội chưa có sự hiểu biết kỹ về nhau. Song nó cũng bị lợi dụng để thỏa mãn nhu cầu tình dục "tự do" của một số lớp trẻ hiện nay ở Việt Nam. Từ thực trạng đó, bản thân phụ nữ phải đi đầu trong phong trào xoá bỏ những quan niệm cũ. Mặt khác, họ phải biết vượt lên những cám dỗ vật chất đời thường gìn giữ phẩm hạnh tốt đẹp. Về phía xã hội, mọi người cùng tạo điều kiện, cùng đồng lòng nhất trí, quyết tâm... đẩy lùi những quan niệm trên, tất yếu những quan niệm đó sẽ không thể tồn tại. Phát huy những mặt tích cực của người phụ nữ truyền thống Người phụ nữ ngày nay "đến hiện đại từ truyền thống" thì bên cạnh việc loại bỏ những yếu tố bảo thủ, lạc hậu, không hợp thời, cần phải chọn lựa một hệ giá trị văn hóa mới trên cơ sở kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc. ở xã hội truyền thống, sự thiêng liêng của gia đình luôn gắn với mối quan hệ chặt chẽ, trật tự giữa các thành viên. Trong xã hội hiện đại, khi hiện tượng dễ dàng xây dựng gia đình, dễ dàng giải thể gia đình, dễ dàng chối bỏ gia đình; không gắn gia đình với hôn nhân, không gắn tình dục với tình yêu... ngày càng tăng thì điều đó lại càng quan trọng. Người phụ nữ đóng vai trò lớn trong việc giải quyết các mối quan hệ gia đình, thái độ điều hòa của mọi người trong nhà. Cha, mẹ, con thuận hòa, tôn trọng, hiểu biết, quan tâm, có trách nhiệm với nhau. Vợ lấy sự thành công của chồng làm hạnh phúc của mình và ngược lại. Xã hội hiện đại đang biến đổi, cái cũ, cái mới đan xen, hơn lúc nào hết người phụ nữ phải phấn đấu cho mình một đạo đức trong sáng, một lối sống lành mạnh, một tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu. Có như vậy họ mới trở thành tấm gương sáng cho con trong cuộc sống đầy gian khó và thử thách. Hiện nay, các loại hình gia đình "gia đình ghép" (các cặp vợ chồng tái hôn), "gia đình mở rộng" (gia đình có ba đến bốn thế hệ cùng sinh sống) vẫn tồn tại, trong những gia đình này tiềm ẩn nhiều nguy cơ tan vỡ. Người phụ nữ trong hoàn cảnh đó họ phải luôn có một tấm lòng bao dung, độ lượng, tính nhẫn nại, nhường nhịn thì mới giải quyết được các mối quan hệ và sự thiếu hụt tình cảm của các thành viên. Bên cạnh đó, giá trị văn hóa truyền thống "chung thủy", "trinh tiết" vẫn là một giá trị được người hiện đại lựa chọn. Tuy nhiên, quan niệm hiện nay không lấy yếu tố đó làm thước đo phẩm giá hay giá trị hàng đầu đánh giá về người phụ nữ nhưng vẫn xem nó là một yếu tố quan trọng để gìn giữ hạnh phúc vợ chồng, duy trì mái ấm gia đình. Người phụ nữ ngày nay dù thành đạt, dù ở cương vị nào ngoài xã hội thì với vai trò người vợ, người mẹ họ vẫn phải phấn đấu, chăm lo, thu vén chu đáo cho cuộc sống gia đình, từ việc tề gia nội trợ, nữ công gia chánh đến việc đối nhân xử thế với cha mẹ, họ hàng, gia tộc, làng xóm. Về hình thức, dù họ có xinh đẹp đến đâu thì phái nam vẫn cần ở họ nét đẹp dịu dàng, kín đáo, thùy mị; cần lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng, thanh lịch, văn hóa... Những tiêu chuẩn này thể hiện sự nữ tính rất cao. Những giá trị của người phụ nữ truyền thống đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ, nó là tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt. Phát huy những mặt tích cực của người phụ nữ truyền thống, phát huy những cái hay, những nét đẹp của "Tam tòng", "Tứ đức" một cách phù hợp, sáng tạo sẽ giúp người phụ nữ Việt Nam hiện đại đi đến thành công ngoài xã hội, củng cố được sự bền vững của gia đình, đem lại hạnh phúc cho mình, cho mọi người. kết luận Đạo Nho là một đạo chủ yếu bàn về chính trị, luân lý, đạo đức. Nho học vào Việt Nam và đã đi hết một chặng đường dài lịch sử dân tộc ta. Trên chặng đường ấy, có lúc nó giữ vai trò thúc đẩy, có lúc nó kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của con người Việt Nam. Nhưng dù thúc đẩy hay kìm hãm, nó đều góp phần làm nên truyền thống tư tưởng, văn hoá dân tộc; góp phần vào bước tiến của xã hội, con người Việt Nam; xây dựng nước Việt Nam ngàn năm văn hiến, trong đó, ảnh hưởng lớn nhất đến người phụ nữ Việt Nam chính là học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”. Giai cấp phong kiến Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng phạm trù “Tam tòng” làm công cụ để giáo hoá về tâm lý, đạo đức nhằm xây dựng mẫu người phụ nữ tiêu biểu cho xã hội cũ. “Tam tòng”, “Tứ đức” là một trong những chuẩn mực cơ bản nhất đối với người phụ nữ xưa, nó là thước đo giá trị, tài năng, đức hạnh của người đàn bà. Và quan trọng hơn cả là sự ăn sâu bén rễ của nó vào tư tưởng, tâm hồn, nhân cách, lối sống, thói quen của mọi người trong xã hội, là điều bản thân họ đặt vào tâm vào lòng để tự răn dạy và hoàn thiện. Yêu thương hết mực, hy sinh hết mình, tần tảo một nắng hai sương, cam chịu, nhẫn nại… là những đức tính mãi dệt nên cuộc đời người phụ nữ Việt Nam ở xã hội phong kiến; dệt nên chân dung đậm nét của họ trong giai đoạn dài của lịch sử dân tộc. Tìm hiểu đạo xưa của cha ông là chuyện cần thiết để học và phát huy những cái hay, cái đẹp của đường lối giáo dục xưa; cách duy trì đạo lý của dân tộc. Thực tế lịch sử đã chứng minh, đất nước có nền Nho học thì phép tắc, trật tự được củng cố; người phụ nữ có đạo nho thì thuỳ mị, nết na, đức hạnh; người với người có lòng nhân ái… Tuy nhiên, mặt trái của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”, của Nho giáo đã gieo cho con người đầu óc địa vị, tư tưởng gia trưởng, đẳng cấp vua/tôi, cha/con, vợ/chồng. Quyền lực của vua là tuyệt đối trong quốc gia, quyền lực của cha là tuyệt đối trong gia đình. Người phụ nữ bị phụ thuộc vào người đàn ông. Họ bị cột chặt vào lĩnh vực gia đình mà không có điều kiện phát huy tài năng, thực hiện khao khát chính đáng, rất người của mình. Hồ Xuân Hương - nữ thi sĩ anh tài, sắc sảo đã từng phải thốt lên: Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu. Lịch sử sang trang. Người phụ nữ hiện đại ở thế kỷ XXI đã có quyền bình đẳng thực sự, có điều kiện xã hội - gia đình để phát huy tài năng của mình. Nhưng cũng là thời điểm khắc nghiệt của kinh tế thị trường, "vàng thau lẫn lộn", đạo đức phẩm hạnh của người phụ nữ đang bị thử thách gay gắt. Đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữa những điều tốt đẹp và những cái xấu xa. Có rất nhiều người phụ nữ thành đạt trên các bình diện của cuộc sống, song cũng không ít phụ nữ sa vào các tệ nạn xã hội, huỷ hoại nhân cách, bán rẻ lương tâm, cuộc sống của mình. Thực tiễn cuộc sống mới, quy luật mới đòi hỏi người phụ nữ, người vợ, người mẹ ngày nay phải có những nhận thức, hành động mới cho phù hợp. Tổ chức cuộc sống gia đình có văn hoá về mọi mặt: vật chất, tinh thần… là điều không đơn giản. Điều này đòi hỏi họ phải có những đức tính quý báu mang tính truyền thống và trình độ, kiến thức, điều kiện, chuẩn mực hiện đại. Hơn cả là sự nỗ lực hết mình, tự chiến thắng bản thân vì những điều tốt đẹp cho xã hội, vì hạnh phúc của gia đình. Vậy phụ nữ Việt Nam vận dụng phát huy mặt tích cực của “Tam tòng”, "Tứ đức” như thế nào để xây dựng chuẩn mực hiện đại. Một người con gái hiện đại đức hạnh trước hết, phải là người hiếu thảo, kính trọng, chăm sóc cha mẹ, nghe theo lời răn dạy của mẹ cha nhưng vẫn giữ được chính kiến đúng đắn của mình. Một người vợ tốt ngày nay phải là người giỏi việc nước, đảm việc nhà, cùng chồng dựng xây gia đình văn minh hạnh phúc. Sự nghiệp là chân dung của người đàn ông. Vì vậy, người phụ nữ vừa là người vợ, vừa là người bạn thuỷ chung, đồng hành cùng chồng trên mọi lĩnh vực. Người vợ phải luôn biết "Hâm nóng dạ dày và sưởi ấm trái tim người đàn ông"; "Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo" với người con… Tóm lại, người phụ nữ Việt Nam ngày nay vận dụng một cách sáng tạo những yếu tố tích cực của “Tam tòng”, “Tứ đức” sẽ góp phần giúp họ vươn tới vẻ đẹp hoàn thiện, phù hợp với thời đại, xứng đáng với 8 chữ vàng Bác Hồ kính yêu đã tặng "Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang". Với những đức tính truyền thống tốt đẹp, với những chức năng thiên bẩm, với những chuẩn mực hiện đại, người phụ nữ có công rất lớn cho gia đình và xã hội ngày nay. Trong bất kỳ chức năng nào của gia đình: kinh tế, tình cảm, lối sống… chúng ta đều thấy vai trò của họ. Sẽ không có một gia đình bình đẳng, ấm no, kỷ cương, hạnh phúc, tiến bộ theo đúng nghĩa của nó nếu không có công sức đóng góp của người phụ nữ. Trên cơ sở đó, chúng ta thấy, người phụ nữ xứng đáng là trung tâm của gia đình, là nơi neo đậu, gìn giữ hạnh phúc, truyền thống văn hoá của dân tộc, là niềm tin, là người bạn đồng hành cho mọi thành viên của gia đình vượt qua sóng gió cuộc đời. Nói như nhà văn Mare Twain "Dù đặt người phụ nữ vào vị thế nào đi nữa họ cũng vẫn làm đẹp cho xã hội, họ là kho báu của cuộc đời". Danh mục Tài liệu tham khảo Đào Duy Anh (1994), Từ điển Hán Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Các tạp chí: "Tuổi trẻ", "Phụ nữ", "Thanh niên", "Văn hoá"... Phan Bội Châu, Khổng Học Đăng, toàn tập. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn học, Hà Nội. Nguyễn Hùng Hậu (2001), Triết lý trong văn hoá phương Đông, Nxb Sư phạm. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục (1990), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Đình Hựu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX - 07, Hà Nội. Trần Trọng Kim (1971), Nho Giáo - Quyển thượng - Quyển hạ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Vũ Khiêm (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Hải Ngoại Lư (1959), Bàn về tư tưởng cổ đại Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội. "Lối sống mới trong thanh thiếu niên và vai trò của gia đình" (1990), Báo Nhân dân, (13). "Ly hôn - những hậu quả lâu dài đối với con cái" (1990), Báo Nhân dân, (16). Đặng Thai Mai, Chuyên khảo về Nho giáo. Hồ Chí Minh (1993), Về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Duy Minh (1993), Nho học truyền thống hiện đại Trung Quốc Quảng Bá Điệu, Nxb Bắc Kinh. Lê Minh (2000), Gia đình và người phụ nữ , Nxb Lao động, Hà Nội. Lê Thị Quý (2003), Người phụ nữ trong gia đình đô thị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. "Sáng tạo và những điều kiện chủ yếu để kích thích sự sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay" (2002), Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (9), tr.53-54. Vũ Minh Tâm (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb Giáo dục. Tạp chí Văn hoá nghệ thuật (1984), (4). Tập thể tác giả (1995), Văn hoá và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Sĩ Thắng (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Tài Thư (1994), Nho học và Nho học ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. "Tứ đức với người phụ nữ ngày nay", Báo Đại học Quốc gia. Tứ thư Ngũ kinh. "Vài khía cạnh phương pháp luận của vấn đề giáo dục thẩm mỹ với sự hình thành con người mới" (1990), Tạp chí Triết hcọ, (3). Văn hoá dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. "Về xây dựng môi trường văn hóa vì sự phát triển nhân cách và phẩm giá con người" (2004), Thông tin Công tác tư tưởng lý luận, (4), tr.20. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về đạo Nho, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Trần Quốc Vượng (2001), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docmuc luc.doc
  • doctom tat.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan