Huy động vốn tại Công ty XNK Xi măng - Trực thuộc Tổng Công ty Xi măng Việt Nam

Lời mở đầu Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vốn đều được xem là yếu tố không thể thiếu, là đòi hỏi đầu tiên bắt buộc phải có và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển của các doanh ngh

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Huy động vốn tại Công ty XNK Xi măng - Trực thuộc Tổng Công ty Xi măng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp rất lớn. Do đó, đi tìm lời giải về vốn hay nói cách khác là các biện pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực ngoại thương, Công ty xuất nhập khẩu xi măng đương nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng, được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn cũng như các cán bộ trong Công ty, em đã bước đầu được làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vận dụng lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm sáng tỏ hơn những lý luận được nghiên cứu trong nhà trường. Qua đó, em đã chú trọng đi sâu nghiên cứu đề tài: “Huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng, trực thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam” – một trong những vấn đề, mà theo em, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương: Chương I: Huy động vốn của doanh nghiệp- những vấn đề lý luận cơ bản Chương II: Thực trạng huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng Bằng những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập ở trường và những kiến thức có được qua học hỏi thầy cô, bạn bè, các cán bộ phòng Kế toán tài chính Công ty xuất nhập khẩu xi măng, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn- PGS.TS Lưu Thị Hương- em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị trong Công ty, các thầy cô giáo trong khoa và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình. CHƯƠNG I Huy động vốn của doanh nghiệp – những vấn đề lý luận cơ bản ----o0o---- 1.1.Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp 1.1.1.Khái quát về doanh nghiệp Theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 1999, doanh nghiệp được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Trong đó, “kinh doanh” được hiểu là “việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Có nhiều cách phân loại doanh nghiêp, như căn cứ vào ngành nghề, hình thức sở hữu… song cách phân loại hữu ích cho quản trị tài chính doanh nghiệp là dựa vào hình thức sở hữu, với cách phân loại này các doanh nghiệp được chia thành: - Các doanh nghiệp nhà nước - Các công ty cổ phần - Các tổ chức kinh doanh góp vốn - Kinh doanh cá thể… Mỗi loại hình kinh doanh có ưu, nhược điểm riêng phù hợp với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Phần lớn các doanh nghiệp trong kinh tế thị trường tổ chức dưới hình thức công ty bởi những ưu việt riêng của nó. 1.1.2.Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp 1.1.2.1.Khái niệm vốn Vốn là một phạm trù kinh tế quan trọng trong hệ thống lý luận cũng như hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về vốn của một doanh nghiệp: K.Marx cho rằng vốn là một trong ba yếu tố của sản xuất: đất đai, lao động và vốn, là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Quan điểm này hạn chế ở chỗ cho rằng chỉ có khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư. Theo trường phái tân cổ điển, Paul A.Samuelson lại cho rằng vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp như máy móc, vật tư, trang thiết bị, nguyên vật liệu… Quan điểm này lại không bao gồm các tài sản tài chính- các giấy tờ có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo, tức là không tham gia vào một quá trình sản xuất riêng biệt mà trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ lúc mới hình thành đến lúc kết thúc. Thông thường, người ta hiểu vốn là tiền thuần tuý, tuy nhiên cần phân biệt vốn và tiền. Muốn có vốn thì phải có tiền, song có tiền cũng chưa hẳn là có vốn. Tiền được coi là vốn chỉ khi thoả mãn những điều kiện sau: FTiền phải được đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, nói cách khác là tiền phải được bảo đảm bằng một lượng tài sản có thực. FTiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền đến một mức độ nào đó mới làm cho nó có đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh, cho dù là một dự án rất nhỏ. Nếu tiền nằm rải rác ở khắp các nơi, không được thu gom lại đủ lớn thì không làm được việc gì. FKhi đã có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lợi. Cách vận động và phương thức vận động của tiền tệ khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong quá trình vận động, nó có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng trong bất cứ trường hợp nào, điểm xuất phát ban đầu và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị – là tiền. Tóm lại, ta có thể hiểu vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo của doanh nghiệp nhằm đem lại giá trị thặng dư. 1.1.2.2.Vai trò của vốn trong doanh nghiệp Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới quá trình kinh doanh tiếp theo của hoạt động kinh doanh. Vốn phải được hình thành trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh và nó sẽ tiếp tục được bổ sung sau mỗi chu kỳ sản xuất. Vốn của doanh nghiệp không thể bị mất đi, vì đồng nghĩa với mất vốn là nguy cơ phá sản. Tại bất kỳ một doanh nghiệp nào, ba vấn đề quan trọng đầu tiên cần phải giải quyết là:(1) xác định được mục tiêu cho đầu tư dài hạn, (2) tìm được nguồn tài trợ cho đầu tư đó và (3) đưa ra các quyết định tài chính cho hợp lý. Như vậy, các vấn đề quan trọng này đều gắn liền với hoạt động liên quan đến vốn. Đất nước ta đang trong quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy quản lý tài chính doanh nghiệp cũng phải được thay đổi cho phù hợp với xu hướng phát triển đó. Hơn nữa nước ta đã và sẽ hội nhập chủ động hiệu quả vào khu vực AFTA/ASEAN, mức độ mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ, tài chính, đầu tư sẽ đạt ngang bằng với các nước trong khối ASEAN, từng bước tạo điều kiện về kinh tế, pháp lý để hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất kinh doanh và đồng thời cũng là yếu tố quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng phát triển kinh tế của đất nước. Muốn cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào các giai đoạn khác nhau của quá trình đó. Doanh nghiệp phải làm ăn có lãi thì vốn mới được bảo toàn và phát triển, đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng tái sản xuất mở rộng, phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Thực tế đã chứng minh, có những doanh nghiệp có đầy đủ khả năng về yếu tố con người và cơ hội đầu tư nhưng vì không đáp ứng đủ yêu cầu về tài chính nên đành bó tay. Như vậy, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó không chỉ đảm bảo duy trì hoạt động của doanh nghiệp mà còn là tiềm lực, là điều kiện quyết định đối với sự phát triển của doanh nghiệp. 1.2.Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phương thức huy động Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như: â Trạng thái của nền kinh tế. â Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. â Quy mô khoa học – Kỹ thuật và trình độ quản lý. â Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. â Thái độ của chủ doanh nghiệp. â Chính sách thuế v.v… Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp được đa dạng hoá nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, do thị trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có những nét đặc trưng nhất định. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khả năng thu hút vốn vào kinh doanh. Sau đây là các nguồn vốn và các phương thức huy động vốn (còn gọi là phương thức tài trợ) mà các doanh nghiệp có thể sử dụng. 1.2.1.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: l Vốn góp ban đầu l Lợi nhuận không chia l Tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới. 1.2.1.1.Vốn góp ban đầu Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn của doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Đối với các doanh nghiệp, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Trong các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các nguồn vốn cũng tương tự như trên; tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia các đối tác góp, v.v…Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau (như luật pháp, đặc điểm ngành kinh tế-kỹ thuật, cơ cấu liên doanh). 1.2.1.2.Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Quy mô vốn góp ban đầu của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia – nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại (retained earnings), họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận phần lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút. Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như: âTổng số lợi nhuận ròng trong kỳ. âMức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước. âSự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó. 1.2.1.3.Phát hành cổ phiếu Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta sẽ xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến việc phát hành và kiểm soát các loại cổ phiếu khác nhau. ỉCổ phiếu thường (Common Stock/Share) Cổ phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu thông thường) là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để minh chứng tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Giới hạn phát hành: mặc dù việc phát hành cổ phiếu có nhiều ưu thế so với các phương thức huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần được doanh nghiệp cân nhắc kỹ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có tính pháp lý. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại nhiều nước, số cổ phiếu được phép phát hành được ghi trong điều lệ của công ty; tuy nhiên, một số nước khác không quy định ghi số lượng đó trong điều lệ công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết cần phải được đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất những thủ tục quy định khác. Hầu hết các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi ro cho công chúng. Thông thường, một công ty có thể phát hành một lần hoặc một số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành. Ví dụ, công ty X được phép phát hành 400 triệu cổ phiếu, giả sử năm trước công ty đã phát hành 117 triệu cổ phiếu thì công ty đương nhiên còn được phát hành thêm 283 triệu cổ phiếu nữa (400-117=283). Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nước và của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. ở Việt Nam hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thiện để tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp và lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Sau khi phát hành, phần lớn những cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư- các cổ đông (shareholder). Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, có thể chính công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình và giữ chúng nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu được công ty mua lại như vậy gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Những cổ phiếu này được coi như tạm thời không lưu hành. Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu này phụ thuộc vào một số yếu tố như: ỹTình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư ỹTình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường. ỹChính sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính công ty (chống thôn tính) ỹTình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. ỹMệnh giá và thị giá Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá (par value), giá cả của cổ phiếu trên thị trường gọi là thị giá. Giá trị của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế toán của công ty gọi là giá trị ghi sổ (book value), đó cũng chính là mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành. Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trong giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán của công ty. Tuy nhiên, mệnh giá chỉ có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành. Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trường đối với cổ phiếu, phản ánh lòng tin của các nhà đầu tư đối với hoạt động của công ty. Quyền hạn của cổ đông Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công ty, do đó họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập của công ty. Cổ đông có quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các công việc của công ty. Tuy nhiên, thông thường có một số lượng cổ đông của công ty, nên mỗi cổ đông chỉ có một quyền lực giới hạn nhất định trong việc bỏ phiếu hoặc chỉ định thành viên của ban giám đốc. Một số công việc hay những vấn đề đặc biệt cần có sự nhất trí của đại đa số cổ đông. Tuỳ theo việc quy định trong điều lệ công ty, có thể hình thành các phương thức bỏ phiếu khác nhau. Hai phương pháp được sử dụng rộng rãi là bỏ phiếu theo đa số và bỏ phiếu gộp. Bỏ phiếu theo đa số (majority voting) là việc cổ đông có thể dùng mỗi lá phiếu để bầu một người quản lý, các chức danh sẽ được bầu riêng rẽ. Điều này rõ ràng có lợi cho những người đang nắm đa số cổ phiếu của công ty vì họ có thể tạo áp lực mạnh hơn bằng số lớn cổ phiếu nắm giữ. Cơ chế bỏ phiếu gộp (cumulative voting) cho phép cùng bỏ phiếu cho một số ứng cử viên nào đó, tức là một cổ đông có thể dồn toàn bộ số phiếu có trong tay cho một ứng cử viên được ưa chuộng. Đây là lý do tại sao một số các cổ đông thiểu số ủng hộ cơ chế bỏ phiếu gộp. Trong điều lệ công ty, có quy định rõ về phạm vi những sự vụ cần được đa số (trên 50%) cổ đông tán thành và những vấn đề cần được tuyệt đại đa số (75% trở lên) cổ đông nhất trí. Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ công ty trước sự xâm thực bằng cổ phiếu của các công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phải xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của công ty. ỉCổ phiếu ưu tiên (Preferred Stock) Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Việc giải quyết được chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty. Phần lớn các công ty cổ phần quy định rõ: công ty có nghĩa vụ trả hết số lợi tức chưa thanh toán của các kỳ trước cho các cổ đông ưu tiên, sau đó mới thanh toán cho các cổ đông thường. Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu hồi lại (chuộc lại) khi công ty thấy cần thiết. Những trường hợp như vậy cần quy định rõ những điểm sau: ỹTrường hợp nào thì công ty có quyền mua lại cổ phiếu. ỹGiá cả khi công ty mua lại cổ phiếu. ỹThời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ phiếu (ví dụ 5 năm) Trong thực tế, ở một số nước như Mỹ chẳng hạn, rất hiếm khi cổ đông ưu tiên có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nếu có ít nhất 2/3 cổ đông ưu tiên nhất trí về một vấn đề nào đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của họ. Nếu các cổ phiếu ưu tiên không được trả cổ tức thì các cổ đông của những cổ phiếu đó có thể được quyền bỏ phiếu. Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên, đó là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Mặc dù vậy, như đã đề cập, cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty phát hành và cả nhà đầu tư. Khi nào các hãng phát hành và thu hồi cổ phiếu? Để trả lời câu hỏi này cần xem xét những khía cạnh sau: Các hãng thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mà không tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và chọn cách phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên, thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng chính xác. Việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thường ngẫu hứng và theo kiểu linh hoạt “tuỳ cơ ứng biến”. Sự phản ứng trước các biến động của thị trường chứng khoán là một yếu tố quyết đáng chú ý. Một số nhà phân tích tài chính doanh nghiệp đã đưa ra những nhận xét như sau: Phần lớn các cổ phiếu được phát hành bổ sung sau khi thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp tăng trên thị trường chứng khoán. Giá cổ phiếu tăng lên là một dấu hiệu có nhiều cơ hội đầu tư mở rộng vào những dự án có triển vọng trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, người ta chưa lý giải được một cách tường tận tại sao trên thực tế các công ty thường lựa chọn việc phát hành cổ phiếu sau khi có sự tăng giá cổ phiếu. Một số nguyên nhân có thể là những yếu tố sau đây: ỹDo đòi hỏi cân bằng tỷ lệ nợ (như nói trên) ỹDo tỷ lệ P/E (Price-earnings Ratio) ở mức cao, tức là thị giá cổ phiếu tăng mạnh hơn tốc độ tăng của tỷ suất lợi nhuận ròng. ỹDo yếu tố tâm lý của công chúng và các nhà đầu tư trên thị trường. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định, chênh lệch tỷ giá. 1.2.2.Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng; tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. 1.2.2.1.Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại ỉNguồn vốn tín dụng ngân hàng Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Về thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên; có nơi tính từ 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 năm đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước, và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại. Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như: cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác như: cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất). Điều kiện tín dụng: các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Các điều kiện đảm bảo tiền vay: khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các đảm bảo tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ,v.v…do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp, điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”. Lãi suất vay vốn: lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Có những thời kỳ ở nước ta, lãi suất vay vốn khá cao và thiếu tính cạnh tranh do đó không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh. ỉNguồn vốn tín dụng thương mại Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại (commercial credit) hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp (suppliers’credit). Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả (Accounts payable) có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn. Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. 1.2.2.2.Phát hành trái phiếu công ty Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu Chính phủ (government bond) và trái phiếu công ty (corporate bond). Trái phiếu còn được gọi là trái khoán. Trong phần này, chúng ta chỉ xem xét trái phiếu công ty trên một số khía cạnh cơ bản. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu doanh nghiệp như sau: ỉTrái phiếu có lãi suất cố định Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất, tức là phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiêp (người đi vay) và người giữ trái phiếu (người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn) của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ, ví dụ trả 2 lần trong năm vào ngày 30/6 và 31/12. Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào những yếu tố sau: Lãi suất của trái phiếu: đương nhiên, người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng doanh nghiệp phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ, chứ không thể trả thật cao cho các nhà đầu tư. Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu Chính phủ. Giả sử trái phiếu kho bạc Nhà nước kỳ hạn 5 năm có lãi suất 7,0%/năm, trái phiếu trung bình của một số công ty khác cùng kỳ hạn: 8,0%/năm; khi đó để phát hành thành công trái phiếu, cần quy định lãi suất trái phiếu sao cho có thể cạnh tranh được với mức lãi suất đó. Tuy nhiên, một ràng buộc khác là chi phí lãi vay mà công ty phải trả cho các trái chủ. Nếu đưa thêm các yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất. Kỳ hạn của trái phiếu: đây là yếu tố rất quan trọng không những đối với công ty phát hành mà cả đối với nhà đầu tư. Khi phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý. Ví dụ, trong tháng 9/2001, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam phát ._.hành các loại trái phiếu vô danh và ghi danh với kỳ hạn 5 năm và 7 năm. Loại trái phiếu 5 năm bán được với số lượng rất lớn nhưng loại trái phiếu 7 năm thì không hấp dẫn công chúng. Uy tín của doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Trong việc phát hành trái phiếu, cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể liên quan đến sức mua của dân chúng. Đặc biệt, ở Việt Nam khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cần xác định một mức mệnh giá vừa phải để nhiều người có thể mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường. ỉTrái phiếu có lãi suất thay đổi Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Chẳng hạn, lãi suất LIBOR (London Interbank offered Rate) hoặc lãi suất cơ bản (Prime Rate). Khi nào nên phát hành loại trái phiếu thả nổi? Trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy, một số người ưa thích trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một vài nhược điểm: ỹDoanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. ỹViệc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. ỉTrái phiếu có thể thu hồi (callable bond) Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng. Loại trái phiếu có thể thu hồi có những ưu điểm sau: ỹCó thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu, tức là giảm số vốn vay. ỹDoanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên, nếu không có những hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không được ưa thích. ỉChứng khoán có thể chuyển đổi Các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty Mỹ, thường phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (doanh nghiệp, người đầu tư) có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp. Có một số hình thức chuyển đổi, ở đây chỉ đề cập đến hai loại: ỹGiấy bảo đảm (warrant): Người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường, được quy định trước với giá cả và thời gian xác định. ỹTrái phiếu chuyển đổi (convertible bond) là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao. 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của doanh nghiệp 1.3.1.Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1.Nhu cầu và mục tiêu tài chính của doanh nghiệp Một yếu tố đầu tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp là nhu cầu và mục tiêu tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ không thể quyết định huy động vốn ngắn hạn khi có nhu cầu vốn dài hạn. Việc lựa chọn hình thức, quy mô, thời hạn nguồn vốn cần huy động phải phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Tương tự như vậy, mục tiêu tài chính có tác động lớn tới hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Các mục tiêu cụ thể có thể là: Khả năng thanh toán Khả năng thanh toán và mức dự trữ an toàn về tài chính như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của từng ngành, từng doanh nghiệp cụ thể. Với các công ty trong các ngành đòi hỏi nhiều vốn hoạt động theo chu kỳ hay có mức độ hoạt động cao, họ cần có một mức dự trữ tài chính lớn để có thể vượt qua các chu kỳ kinh doanh và chu kỳ vốn chắc chắn sẽ xảy ra. Đường lối cụ thể được định ra dưới dạng các yêu cầu phải duy trì một số điều kiện tài chính nhất định. Khả năng thanh toán cần phải được lượng hoá để từ đó quyết định được cơ cấu tài trợ phù hợp. Khả năng linh hoạt Khả năng linh hoạt có thể là mục tiêu thứ hai trong quyết định tài trợ của công ty. Khả năng linh hoạt này thể hiện ở chỗ, công ty sẽ không bị hạn chế các hoạt động tài trợ trong tương lai do các quy định hay điều khoản tài trợ trong quá khứ, hay do cơ cấu tài chính của công ty. Nếu công ty thiếu khả năng linh hoạt này, công ty có thể gặp khó khăn trong việc tận dụng các cơ hội trong tương lai và luôn ở trong tình trạng rủi ro trước các dao động của hoạt động kinh doanh. Ngoài ra còn một số mục tiêu khác như: kiểm soát chi phí tài trợ, đa dạng hoá các nguồn tài trợ và mục tiêu của bảng cân đối kế toán… chúng ta sẽ nghiên cứu sâu hơn trong các nhân tố tiếp sau. 1.3.1.2.Cơ cấu vốn và chi phí vốn Cơ cấu vốn là một thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó. Qua cơ cấu vốn của doanh nghiệp, ta có thể thấy được tổng thể các loại nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng, qui mô và tỷ trọng của từng nguồn vốn đó trong toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp. Do mỗi nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động có chi phí khác nhau nên khi xem xét đến vấn đề về cơ cấu vốn người ta thường quan tâm đến một chỉ tiêu nữa, đó là chi phí trung bình của vốn. Chi phí trung bình của vốn phản ánh chi phí trung bình của tất cả các nguồn tài trợ dài hạn được doanh nghiệp sử dụng. Để xác định được chi phí trung bình, thông thường sử dụng chỉ tiêu chi phí bình quân gia quyền của vốn (WACC). Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, mỗi nguồn vốn có một tỷ trọng nhất định và chi phí bình quân gia quyền của vốn được xác định như sau: Ta quy ước: -chi phí của nợ vay: Kd -chi phí của nợ vay sau thuế: Kd(1-t). Trong đó t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. -Chi phí của cổ phiếu ưu tiên: Kp -Chi phí lợi nhuận giữ lại: Ks -Chi phí cổ phần thường mới: Ke -Tỷ trọng của mỗi nguồn vốn tương ứng là: Wd, Wp, Ws, We. WACC=Wd.Kd(1-t) + Wp.Kp + Ws.Ks + We.Ke Trong thực tiễn hoạt động, doanh nghiệp phải tìm ra một cơ cấu vốn phù hợp với tình hình cụ thể tại doanh nghiệp đó, trên cơ sở đó để tiến hành huy động vốn. Cơ cấu vốn mục tiêu của một doanh nghiệp là tỷ lệ giữa nợ, vốn cổ phần ưu tiên và cổ phần thường mà doanh nghiệp muốn duy trì và hướng tới trong quá trình quản lý và huy động vốn. Tại một thời điểm nào tỷ lệ nợ mà ở dưới mức mục tiêu đề ra thì doanh nghiệp sẽ mở rộng vốn bằng cách vay nợ và ngược lại. Cơ cấu vốn mục tiêu mà doanh nghiệp hướng đến chính là cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa rủi ro và lãi suất (chi phí) và bằng cách đó tối đa hoá giá trị của các chủ sở hữu. Với cơ cấu vốn tối ưu thì chi phí bình quân gia quyền của vốn là thấp nhất. Như vậy, quyết định về cơ cấu vốn liên quan đến việc cân nhắc giữa rủi ro và lãi suất. Bởi lẽ, khi sử dụng nhiều nợ sẽ làm tăng rủi ro đối với lợi nhuận của doanh nghiệp và do đó sẽ làm giảm giá trị của cổ phiếu (giá trị của chủ sở hữu). Tuy nhiên sử dụng tỷ lệ nợ cao hơn trong một phạm vi nhất định cũng thường dẫn đến tỷ lệ lợi nhuận trên một cổ phiếu tăng, do đó làm tăng giá trị cổ phiếu. Như vậy, việc sử dụng nợ một mặt làm giảm giá cổ phiếu, mặt khác cũng bao hàm các yếu tố làm tăng giá cổ phiếu và khi cân bằng được các nhân tố trên thì giá cổ phiếu là cao nhất. Có bốn nhân tố chính ảnh hưởng tới quyết định về cơ cấu vốn: Một là, rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp. Hai là, thuế thu nhập của doanh nghiệp: Trong phần chi phí vốn chúng ta đã đề cập đến chi phí của nợ vay sau thuế. Do vậy lý do quan trọng của việc sử dụng nợ là thuế thu nhập càng cao thì càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ. Ba là, khả năng linh hoạt tài chính hay là khả năng huy động vốn khi những điều kiện thay đổi. Thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp đã chỉ ra rằng những doanh nghiệp lớn và có nhiều người biết đến trên thị trường thì sẽ có uy tín trong việc huy động vốn hơn và như vậy họ có thể duy trì tỷ lệ nợ cao hơn. Cuối cùng, một nhân tố cũng ảnh hưởng đến cơ cấu vốn là quan điểm của các nhà quản lý. Tuỳ theo quan điểm của các nhà quản lý mà họ sẽ lựa chọn sử dụng nợ hay vốn chủ sở hữu. Như vậy, cơ cấu vốn tối ưu sẽ đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho lợi ích thu được là cao nhất. Đối với những doanh nghiệp mà tỷ lệ nợ ở mức thấp thì việc sử dụng thêm nợ vay là hợp lý. Vì điều này sẽ đem lại một nguồn vốn với chi phí sử dụng thấp hơn so với việc huy động thêm vốn chủ sở hữu, đồng thời chia sẻ bớt rủi ro đối với vốn chủ sở hữu. Ngược lại, với những doanh nghiệp mà tỷ lệ nợ tương đối cao thì việc sử dụng thêm nợ sẽ làm tăng rủi ro đối với khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hơn nữa, với cơ cấu tài chính như vậy, doanh nghiệp cũng khó có thể huy động được nguồn vốn phù hợp với chi phí thấp. Do vậy, việc làm cần thiết đối với doanh nghiệp là tự đánh giá năng lực của mình và xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu để từ đó đề ra phương hướng cụ thể cho hoạt động huy động vốn. Ngoài ra, chi phí vốn là một yếu tố quan hệ mật thiết với cơ cấu vốn và có tác động không nhỏ đến quyết định huy động vốn của doanh nghiệp. Ta đã biết, với cơ cấu vốn tối ưu thì chi phí vốn bình quân là thấp nhất. Doanh nghiệp sẽ lựa chọn phương thức huy động sao cho chi phí vốn thấp nhất trong điều kiện có thể để đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn doanh nghiệp. 1.3.1.3.Tình trạng tài chính của doanh nghiệp Khi tình trạng tài chính của doanh nghiệp lành mạnh, ổn định thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ cao hơn. Nhân tố này quan trọng không kém hai nhân tố trên. Khi doanh nghiệp ký kết một hợp đồng giao dịch với bất cứ đối tác nào (là doanh nghiệp tài chính hay phi tài chính) doanh nghiệp đều phải tìm hiểu và nắm rõ về khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính đối tác đó. Cũng như vậy, khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng hay công chúng đầu tư đều phải cân nhắc đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Nhân tố này ảnh hưởng đến quyết định có nên đầu tư hay không của bản thân các đối tác và do đó ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. 1.3.1.4.Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Hiệu quả sử dụng thể hiện ở chỉ tiêu một đồng vốn tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu và lợi nhuận. Đối với doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn tạo ra uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường nói chung và đặc biệt là thị trường tài chính. Sẽ không có một doanh nghiệp hay một công chúng đầu tư nào lại đem tiền đầu tư vào doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, sử dụng vốn lãng phí. Do vậy, đối với các ngân hàng và các nhà đầu tư thì đây là yếu tố quan trọng hàng đầu. Nó được xem là nhân tố chính cấu thành rủi ro của các phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp sử dụng. 1.3.2.Các nhân tố khách quan 1.3.2.1.Cơ chế chính sách của Nhà nước Chính sách của Nhà nước thể hiện ý chí, định hướng phát triển của quốc gia đó. Vì vậy, đây là một yếu tố buộc doanh nghiệp phải nắm vững và tuân thủ. Thông qua các văn bản pháp luật, nhà nước quy định rõ loại hình doanh nghiệp nào được huy động vốn theo phương thức nào, quy mô và phạm vi huy động ra sao. Đơn cử một ví dụ cụ thể, luật Doanh nghiệp quy định công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới hoặc phát hành trái phiếu, trong khi đó công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phép tăng vốn bằng cách gọi thêm vốn góp từ các thành viên hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Và Luật doanh nghiệp Nhà nước quy định các doanh nghiệp nhà nước được phép huy động vốn bằng cách vay vốn các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, phát hành trái phiếu. Ngoài ra các chính sách ưu tiên hay hạn chế phát triển của Nhà nước đối với một số ngành nghề nào đó cũng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoặc hạn chế khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh đó. Đây là yếu tố vĩ mô có ảnh hưởng đầu tiên đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. 1.3.2.2.Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, có chức năng tập hợp vốn nhàn rỗi từ mọi thành phần kinh tế và cung cấp cho những tổ chức và cá nhân có nhu cầu. Theo thống kê gần đây của một số nước phát triển trên thế giới như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Canada… thì những nguồn vốn bên ngoài quan trọng hàng đầu cho doanh nghiệp là các khoản vay (61,9% ở Mỹ). Sự phát triển của ngân hàng thương mại thể hiện ở khả năng thu hút và khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn với nhiều thời hạn khác nhau của khách hàng. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đối với khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Vay vốn qua ngân hàng thương mại sẽ trở thành một kênh huy động vốn thực sự hiệu quả với doanh nghiệp khi hệ thống ngân hàng thương mại phát triển cả về quy mô, phạm vi hoạt động và chất lượng dịch vụ. 1.3.2.3.Sự phát triển của thị trường tài chính Thị trường tài chính là nơi trao đổi, mua bán loại hàng hoá đặc biệt: các công cụ tài chính như các loại chứng khoán, tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu, thương phiếu… Thị trường này thực hiện chức năng kinh tế cơ bản đó là truyền dẫn vốn từ những người có tiền tích luỹ sang những người có nhu cầu về vốn (nhà đầu tư). Đây là kênh dẫn vốn trực tiếp có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Thông qua nó doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn với kỳ hạn khác nhau đáp ứng nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp. Kinh nghiệm và lý thuyết đều chỉ ra rằng mức độ thuận lợi trong việc huy động vốn của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với sự phát triển của thị trường tài chính. Khi thị trường tài chính phát triển, thành viên tham gia thị trường ngày càng đông, khả năng chuyển đổi mua bán càng dễ dàng thì doanh nghiệp huy động vốn càng thuận lợi (cả về thời gian và chi phí). Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay việc huy động vốn thông qua thị trường tài chính còn gặp nhiều khó khăn do thị trường tài chính chưa thực sự phát triển. Một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính là thị trường chứng khoán, song ở nước ta hoạt động của thị trường này còn nhiều hạn chế. Điều này đã tác động hạn chế đến khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam. 1.2.3.4.Khả năng tiết kiệm trong dân cư Để huy động được vốn trước hết doanh nghiệp phải thấy được nguồn vốn nhàn rỗi để có thể huy động. Khi mức sống của người dân được nâng cao, lượng tiền nhàn rỗi nhiều, người dân sẽ tìm cách đầu tư sinh lợi. Một trong những cách đầu tư là họ sẽ dùng tiền để mua cổ phiếu, trái phiếu công ty. Do vậy xét trên một phạm vi nào đó thì khả năng tiết kiệm của người dân có ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Chương II Thực trạng huy động vốn tại công ty xuất nhập khẩu xi măng -----o0o----- 2.1. Khái quát về công ty Xuất nhập khẩu xi măng 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty xuất nhập khẩu xi măng w Quá trình hình thành Công ty xuất nhập khẩu xi măng tiền thân là Phòng xuất nhập khẩu của Tổng công ty xi măng Việt Nam, nhưng do yêu cầu ngày càng cao của việc mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, do nhu cầu xi măng trong nước quá lớn, cần phải nhập thêm của nước ngoài nhằm ổn định thị trường trong nước. Thêm vào đó là do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá cần áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào công nghệ sản xuất xi măng và xây dựng thêm một số nhà máy xi măng mới, nên sau khi căn cứ vào: -Nghị định số 59/HĐBT ngày 14/4/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng. -Nghị định 64/HĐBT ngày 10/6/1989 của Hội đồng bộ trưởng quy định chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. -Công văn thoả thuận số 1367/BNgT-TCCB ngày 14/3/1988 của Bộ Ngoại thương đã ký để Tổng công ty xi măng được kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. -Theo đề nghị của đồng chí Vụ trưởng Vụ tổ chức lao động và Tổng giám đốc Tổng công ty xi măng. - Quyết định số 692 BXD-TCCB ngày 31/11/1990 và quyết định số 025A BXD TCLĐ ngày 12/2/1993 của Bộ Xây dựng về việc thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước theo quyết định 588/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng bộ trưởng, Bộ Xây dựng đã quyết định thành lập Công ty Xuất nhập khẩu xi măng trực thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam. Công ty có tên giao dịch quốc tế VINACIMEX (Vietnam National Cement Trading Company). Trụ sở của công ty đặt tại số 228 đường Lê Duẩn, Hà Nội và bắt đầu hoạt động từ ngày 01/01/1991. Công ty xuất nhập khẩu xi măng là một đơn vị kinh tế quốc doanh hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng theo mẫu quy định, có tài khoản tiền Việt Nam tại ngân hàng Công Thương Việt Nam và tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Để tạo điều kiện cho hoạt động của Công ty trên địa bàn cả nước, ngày 15/3/1991 Bộ Xây dựng đã có quyết định số 154 TCLĐ thành lập Chi nhánh Công ty Xuất nhập khẩu xi măng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 14/7/1993 đại diện công ty tại Hải Phòng được thành lập theo quyết định số 333 BXD-TCLĐ. Đến ngày 25/12/1997 theo quyết định số 469 XMVN-TCLĐ nâng cấp thành Chi nhánh tại Hải Phòng. Hiện nay, công ty có hai chi nhánh đặt tại Hải Phòng (số 48 đường Trần Phú, quận Ngô Quyền) và thành phố Hồ Chí Minh (số 19 Hồ Tùng Mậu, quận 1). Theo nhu cầu công tác, để mở rộng phát triển thị trường nước ngoài, góp phần tăng lực lượng xuất khẩu, Tổng công ty xi măng Việt Nam đã quyết định thành lập Văn phòng đại diện Công ty tại Viên Chăn, CHDCND Lào theo quyết định số 515 XMVN HĐBT ngày 8/11/1999. Khi thành lập, công ty có tổng số vốn ngân sách cấp và vốn tự bổ sung là: 6.418.000.000 đ .Trong đó: Vốn ngân sách cấp: 3.151.000.000 đ Vốn công ty tự bổ sung: 3.267.000.000 đ Vốn Công ty được Nhà nước cho phép huy động thêm: 35.000.000.000 đồng. w Quá trình phát triển Như vậy, từ đơn vị tiền thân là phòng XNK đến nay Công ty đã phát triển đội ngũ với trên 60 cán bộ công nhân viên có đầy đủ chuyên môn, nghiệp vụ. Các mặt quản lý luôn được hoàn thiện theo hướng phù hợp với cơ chế quản lý của Nhà nước, của Tổng công ty xi măng Việt Nam nhất là trong các mặt tài chính và quản lý XNK đồng thời đảm bảo các hợp đồng thương mại phù hợp với tiền lệ quốc tế. Thực hiện đầy đủ và kịp thời trách nhiệm với Nhà nước nhất là về thuế và các loại trái phiếu do ngành, Nhà nước huy động. Công ty luôn xác định lấy công tác kế hoạch làm mục tiêu phấn đấu và công tác tổ chức kế toán làm trọng tâm, thường xuyên tổ chức phân tích hoạt động kinh tế để rút ra các bài học kinh nghiệm, biện pháp hoạt động kinh doanh nhằm khai thác, phát huy tiềm năng sẵn có, giảm chi phí lưu thông. Với chức năng hoạt động trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, thông qua các nghiệp vụ nhập khẩu xi măng trực tiếp, Công ty đã xây dựng được mối quan hệ bạn hàng với gần 100 Công ty nước ngoài, trong đó có nhiều bạn hàng được xây dựng thành mối quan hệ hợp tác lâu dài, phần lớn là những nhà cung cấp thiết bị, dịch vụ kỹ thuật thiết bị toàn bộ như: Polysius (Đức), FLSmith (Đan Mạch), FCB (Pháp)… Các nhà sản xuất thiết bị chuyên dùng cho khai thác vận chuyển nguyên liệu như Volvo (Thuỵ Điển), Sumitomo (Nhật), CICA (Anh)… Các nhà cung cấp thiết bị điện như Siemens (Đức), ABB (Thuỵ Sĩ)… Cung cấp thiết bị chuyên dùng Radex, Didier… Các công ty tài chính, ngân hàng quốc tế lớn như Nishowai (Nhật), Societe (Pháp). Thông qua việc thực hiện chức năng XNK cho các công trình, đội ngũ cán bộ của Công ty đã trưởng thành nhanh chóng trong các mặt nghiệp vụ, tham gia lập hồ sơ mời thầu, xét chọn thầu quốc tế, tổ chức nhập khẩu những hợp đồng lớn về thiết bị đồng bộ… Phân tích đánh giá thảo luận và thực hiện hợp đồng tín dụng quốc tế với các Công ty tài chính, ngân hàng lớn trên thế giới. Trải qua hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành, đến nay Công ty đã bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể: -Công ty bảo toàn, phát triển vốn và tài sản, bổ sung tích luỹ thêm cho vốn hoạt động trên 20 tỷ đồng. -Nộp ngân sách 220 tỷ đồng. -Lợi nhuận tổng cộng trong hơn 10 năm qua đạt trên 90 tỷ -Tổng kim ngạch XNK trong 10 năm đạt trên 500 triệu USD. Việc làm và thu nhập của cán bộ công nhân viên luôn ở thế ổn định, từ năm 1995 đến nay thu nhập bình quân luôn đạt 1,2 tr đ/người/tháng. w Chức năng và nhiệm vụ Công ty XNK xi măng có các ngành nghề kinh doanh chủ yếu sau: Nhập khẩu xi măng, clinker, tấm lợp và thiết bị phụ tùng vật tư cho ngành sản xuất xi măng. Theo quyết định của Bộ xây dựng, Công ty có 7 nhiệm vụ và quyền hạn chính như sau: -Thực hiện chức năng kinh tế đối ngoại của Tổng công ty xi măng. -Nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu thị trường trong và ngoài nước để xây dựng kế hoạch XNK hàng năm và dài hạn nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu thụ của đơn vị trong Tổng Công ty xi măng. -Tìm hiểu xu hướng phát triển ngành xi măng của các nước trên thế giới, khả năng hợp tác đầu tư với nước ngoài, khả năng nhập khẩu vật tư, phụ tùng, thiết bị lẻ chuyên ngành và khả năng xuất nhập khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới. -Thu thập và phổ biến thông tin kinh tế kỹ thuật, thị trường giá cả thên thế giới cho các đơn vị thành viên trong Tổng công ty để tiếp cận với thị trường thế giới. -Chịu trách nhiệm quản lý tập trung quĩ ngoại tệ của toàn Tổng công ty để thanh toán và sử dụng có hiệu quả theo kế hoạch đã được cấp trên phê duyệt. Tuân thủ đúng các chế độ chính sách về quản lý kinh tế tài chính, XNK và các quy chế giao dịch đối ngoại của Bộ, Nhà nước quy định. Công ty được vay vốn tiền Việt Nam và ngoại tệ tại ngân hàng Việt Nam và nước ngoài, được phép huy động vốn của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo hướng dẫn chung của Nhà nước để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, phát triển ngành trên nguyên tắc tự chịu trách nhiệm, trang trải vốn vay. -Thực hiện các cam kết trong hợp tác quốc tế thông qua hợp đồng thương mại. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước. -Công ty thực hiện các nghiệp vụ kinh tế đối ngoại và kinh doanh XNK trực tiếp các mặt hàng đã được Bộ Ngoại thương nay là Bộ Thương mại thoả thuận tại công văn số 1387/HĐBT-TCCB ngày 12/5/1988. Được trực tiếp quan hệ với tổ chức kinh tế và thương nhân nước ngoài để ký kết các hợp đồng kinh tế, tiến hành các hợp đồng mua bán, hợp tác đầu tư. Được cử cán bộ tham gia hội thảo, hội chợ. Được trao đổi thông tin kinh tế kỹ thuật của các ngành công nghiệp xi măng theo các quy định hiện hành của Bộ, Nhà nước và Luật quốc tế. w Mặt hàng kinh doanh Là Công ty xuất nhập khẩu nhưng hoạt động kinh doanh chủ yếu là nhập khẩu Vật tư như: giấy Kraft, hạt nhựa PP để sản xuất vỏ bao xi măng, gạch chịu lửa, vữa chịu lửa để xây lò sản xuất xi măng, thạch cao để pha cùng phụ gia và clinker thành xi măng, sợi amiang để sản xuất tấm lợp. Thiết bị, phụ tùng như: các loại thiết bị lẻ chuyên dùng trong dây chuyền sản xuất xi măng, các loại xe máy mỏ chuyên dùng như ủi, xúc, xe trọng tải lớn (R32)… và các loại phụ tùng thay thế trong dây chuyền sản xuất. Thiết bị toàn bộ cho cả một nhà máy mới công suất 1,2 đến 1,4 tr tấn/năm, chủ yếu phục vụ cho việc đầu tư và phát triển ngành xi măng hoặc một phần thiết bị toàn bộ để cải tạo môi trường hoặc nâng cấp công suất của các Công ty xi măng. w Thị trường kinh doanh Xuất phát từ những mặt hàng kinh doanh trên, ta thấy Công ty XNK xi măng là Công ty chuyên ngành hoạt động XNK xi măng trên qui mô lớn, tập trung chuyên môn hoá phục vụ cho toàn ngành xi măng về công tác đầu tư phát triển ngành với doanh số kim ngạch XNK lớn. Vì vậy, có thể nói địa bàn hoạt động của Công ty trải dài trên phạm vi cả nước. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý Công ty xuất nhập khẩu xi măng tuy mới thành lập được trên 10 năm nhưng các qui chế về tổ chức quản lý, điều hành kinh doanh về mọi mặt đều được quán triệt xây dựng trên cơ sở nhiệm vụ được giao theo chế độ quản lý và pháp luật hiện hành. Căn cứ vào: + Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công tác xuất nhập khẩu xi măng; + Phương án tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty; + Các yêu cầu quản lý của Nhà nước; cơ cấu bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến, bao gồm: Ban giám đốc (một Giám đốc và hai Phó giám đốc), 4 phòng ban nghiệp vụ, 2 chi nhánh (1 tại Hải Phòng, 1 tại thành phố Hồ Chí Minh) chuyên làm nhiệm vụ giao nhận hàng. Đặc điểm cơ bản của cơ cấu này là mối quan hệ giữa các thành viên trong công ty được thực hiện theo một đường thẳng. Người thừa hành chỉ nhận và thi hành mệnh lệnh của người phụ trách cấp trên trực tiếp. Người phụ trách chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc của những người dưới quyền mình. Ưu điểm của mô hình này là nó tăng cường trách nhiệm cá nhân, tránh được tình trạng người thừa hành phải thi hành những chỉ thị khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau của người phụ trách. Tuy nhiên, kiểu cơ cấu này có nhược điểm: Mỗi thủ trưởng phải có kiến thức toàn diện, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặt khác, nó không tận dụng và phát huy năng lực của các chuyên gia có trình độ cao về từng chức năng quản trị. Cơ cấu quản lý của Công ty được thể hiện qua sơ đồ sau: Ban giám đốc Phòng Tổng hợp Phòng Kế toán tài chính Phòng Vật tư xi măng Phòng Thiết bị phụ tùng Chi nhánh Hải Phòng Chi nhánh TP HCM Sơ đồ 1: Cơ cấu quản lý của Công ty Chức năng của từng phòng ban: Giám đốc Công ty là người được Tổng giám đốc Tổng công ty xi măng Việt Nam uỷ nhiệm quyền điều hành mọi hoạt động kinh doanh của Công ty và phải chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc Tổng Công ty và chủ tịch hội đồng quản trị về việc quản lý, sử dụng và bảo toàn vốn, về kết quả kinh doanh của Công ty. Ngoài việc phụ trách chung các mặt Giám đốc trực tiếp phụ trách lĩnh vực tổ chức cán bộ, tài chính kế toán và đầu tư phát triển ngành. Hai phó giám đốc: một người phụ trách lĩnh vực nhập khẩu, thiết bị lẻ, phụ tùng thay thế cho các Công ty và công tác nội chính; một người phụ trách nhập khẩu vật tư và xuất khẩu xi măng. Phòng Tổng hợp: giúp việc ban giám đốc về các mặt kế hoạch kinh doanh, tổ chức hành chính, lao động tiền lương, hợp đồng nội với các công ty xi măng. Phòng Vật tư xi măng: giúp việc ban giám đốc về các mặt nhập khẩu giấy Kraft, hạt nhựa PP, gạch chịu lửa, thạch cao… clinker và xi măng (khi Tổng công ty giao nhiệm vụ nhập khẩu xi măng, clinker để cân đối cung cầu, bình ổn giá cả thị trường). Phòng thiết bị phụ tùng: giúp việc ban giám đốc về các mặt nhập khẩu phụ tùng thay thế, thiết bị lẻ cho các Công ty xi măng, nhập khẩu các dây chuyền, thiết bị toàn bộ để xây dựng mới hoặc cải tạo, mở rộng dây chuyền sản xuất hiện đại, phục vụ mục tiêu đầu tư, phát triển ngành xi măng. Phòng kế toán tài chính: giúp việc ban giám đốc về các mặt quản lý, sử dụng vốn kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế, tổ chức hạch toán đảm bảo chính xác, kịp thời mọi hoạt động kinh tế phát sinh, đáp ứng yêu cầu quản lý tài chính theo đúng chế độ Nhà nước quy định. 2.1.3. Đặc điểm và tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 2.1.3.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng quan hệ hợp tác giữa các nước, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, ngày càng phát triển. Đại bộ phận các doanh nghiệp, công ty hiện nay, dù là trực tiếp hay gián tiếp đều có liên quan đến giao dịch ngoại thương. Tuy nhiên, không như buôn bán trong nước, buôn bán giữa các doanh nghiệp thuộc các nước khác nhau có nhiều điểm phức tạp hơn do việc giao dịch chỉ được thực hiện trên cơ sở lựa chọn trên một thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm một tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới các quốc gia khác nhau, phải tuân theo những thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của bản thân mỗi quốc gia… Là một doanh nghiệp thương mại hoạt động trên lĩnh vực ngoại thương, Công ty Xuất nhập khẩu xi măng (thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam) tất nhiên cũng chịu ảnh hưởng của những yếu tố trên. Như trên đã phân tích, tuy là một Công ty XNK nhưng hoạt động kinh doanh chủ yếu của VINACIMEX là nhập khẩu. Và một đặc điểm nổi bật của Công ty là thực hiện nhập khẩu hàng hoá dựa trên nhu cầu của các Công ty trong ngành dưới hai hình thức là uỷ thác và trực tiếp. ỉ Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty XNK xi măng. Mỗi thương vụ Nhập khẩu đều được tiến hành có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng thiết bị và phòng kế toán hoặc giữa phòng kế toán và phòng vật tư. Sở dĩ có sự phân chia như vậy vì Công ty thực hiện nhập khẩu hầu hết các mặt hàng phục vụ các công ty trong ngành. Nếu là nhâp khẩu thiết bị phục vụ sản xuất xi măng như: dây chuyền sản xuất, phụ tùng thay thế, xi tải… thì việc lập ra hợp đồng thuộc phòng thiết bị. Nếu là nhập khẩu vật tư như: gạch chịu lửa, vữa chịu lửa, clinker… thì việc lập hợp đồng chịu trách nhiệm của phòng vật tư. Là một Công ty chuyên thực hiện việc nhập khẩu các thiết bị vật tư đặc thù của ngành nên ngay từ đầu năm bao giờ Công ty cũng sẽ ký kết hợp đồng nội (HĐ uỷ thác) với các đơn vị thành viên (các đơn vị trong ngành uỷ thác nhập khẩu cho Công ty) nhập khẩu những mặt hàng cần thiết. Ngay sau khi ký xong hợp đồng nội, Công ty XNK xi măng sẽ bắt tay tiến hành việc nhập khẩu cho các đơn vị trong ngành trong suốt cả năm. Theo phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (mở L/C- phương thức chủ yếu áp dụng tại Công ty), khi phòng Thiết bị hoặc phòng Vật tư xi măng lập bộ chứng từ xin mở L/C phải chuyển ._.ớc ta đã chỉ rõ: phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại thời kỳ 1996-2010 của Việt Nam là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi chấp nhận hội nhập cũng là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh gay gắt. Đây vừa là thời cơ vừa là thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tìm kiếm các giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện, tăng cường hoạt động kinh doanh của mình. Nhận thức được điều đó, để hội nhập với xu hướng phát triển kinh tế của đất nước, nâng cao khả năng cạnh tranh và không ngừng phát triển, để đưa ngành xi măng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, Công ty xuất nhập khẩu xi măng đã xây dựng cho mình một số phương hướng hoạt động như sau: 3.1.1.1. Mục tiêu hoạt động của Công ty trong những năm sắp tới FHuy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của Công ty trước xu hướng ngày càng gia tăng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. FMở rộng thị trường, nâng cao doanh số nhằm không ngừng tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước. 3.1.1.2. Phương hướng hoạt động của Công ty QTăng cường đổi mới cơ chế hoạt động, để đáp ứng yêu cầu trở thành đơn vị hậu cần dịch vụ cho toàn ngành công nghiệp xi măng Việt Nam, nâng cao chất lượng phục vụ để giữ vững và nâng cao thị phần trong việc đáp ứng nhu cầu vật tư, phụ tùng, thời gian giao dịch nhanh. Thực hiện đầy đủ các trách nhiệm trong hợp đồng kinh tế với các đơn vị uỷ thác. Bên cạnh các khách hàng truyền thống trong ngành, cần mở rộng hoạt động phục vụ các bạn hàng ngoài ngành, chấp nhận cạnh tranh trong các dịch vụ. QPhát huy kinh nghiệm đã đạt được trong việc thực hiện các công trình thiết bị toàn bộ nhằm thực hiện thật tốt các công trình trong kế hoạch đầu tư phát triển của Tổng công ty xi măng Việt Nam, trước mắt là công trình:   Cải tạo môi trường mở rộng nhà máy xi măng Hà Tiên 1.   Cải tạo hiện đại hoá và mở rộng nhà máy xi măng Bỉm Sơn, nhà máy Hải Phòng mới.   Hoàn thiện nhập khẩu thiết bị khai thác mỏ cho xi măng Hoàng Mai-Nghệ An.   Tiến tới tham gia thực hiện các công trình mới góp phần đưa nhà máy xi măng Hoàng Mai, Nghệ An vào sản xuất, cải tạo, mở rộng xi măng Hoàng Thạch (đợt 2), cải tạo, hiện đại hoá xi măng Hà Tiên 2 và các dự án đầu tư khác. QĐẩy mạnh công tác tiếp thị để mở rộng thị trường xuất khẩu xi măng và vật liệu xây dựng khác sang Lào, Campuchia, và các nước khác nhằm góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ cho ngành xi măng , kể cả việc tham gia xuất khẩu sản phẩm của các nhà máy xi măng liên doanh. QDuy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế, xây dựng và phát triển mối quan hệ bạn hàng truyền thống, mở rộng hợp tác nhiều mặt. Tranh thủ thời cơ để tiến hành các hình thức hợp tác, đầu tư, nhằm khai thác thêm tiềm năng xây dựng cơ sở vật chất để đảm bảo sự ổn định lâu dài trong quá trình phát triển của Công ty. QTăng cường công tác đào tạo cán bộ để đảm bảo có kiến thức sâu rộng, am hiểu kỹ thuật cơ bản trong ngành công nghiệp xi măng, có trình độ để tiếp thu các thông tin khoa học kỹ thuật, kinh tế mới nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển thông tin, khoa học công nghệ trong nước và trên thế giới. QThực hiện nghiêm túc các quy chế, cơ chế quản lý điều hành, nhất là về quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước, của Tổng công ty và của Công ty, nhằm củng cố và xây dựng niềm tin cậy với các cơ quan quản lý, giữ chữ tín với khách hàng trong và ngoài nước. QTriển khai học tập và thực hiện quy chế dân chủ công khai trong doanh nghiệp theo định hướng dân chủ trong bàn bạc, sau khi thống nhất phải thực hiện tập trung trong chỉ đạo điều hành nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung để nâng cao hiệu lực quản lý và điều hành. 3.1.1.3. Nhiệm vụ cụ thể năm 2003 ỉPhấn đấu đạt mức doanh thu, lợi nhuận cao nhất, đảm bảo nghĩa vụ với Nhà nước, các khoản trích nộp theo luật định và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. ỉĐảm bảo công tác nhập khẩu thiết bị, vật tư, phụ tùng hàng năm cho các nhà máy, thực hiện tốt các hợp đồng uỷ thác nhập khẩu thiết bị toàn bộ công trình xi măng Bỉm Sơn và dự án xi măng Hải Phòng (mới), hoàn tất và quyết toán công trình xi măng Bút Sơn, cải tạo xi măng Bỉm Sơn. ỉNâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho chi nhánh để phát huy hết tiềm năng và sự năng động của chi nhánh. ỉCác chỉ tiêu kế hoạch năm 2003: Giấy Kraft: khối lượng 1200 tấn Gạch chịu lửa: khối lượng 3000 tấn Hạt nhựa PP: khối lượng 200 tấn Thạch cao: khối lượng 160.000 tấn Clinker: khối lượng 260.000 tấn Thiết bị phụ tùng: trị giá 4.120.000 USD Đầu tư xây dựng: trị giá 55.000.000 USD ỉCác chỉ tiêu tài chính:   Doanh thu: 180 tỷ đồng Trong đó, doanh thu từ nguồn Clinker là : 100 tỷ đồng doanh thu từ nguồn khác: 80 tỷ   Nộp ngân sách: 36 tỷ đồng   Lợi nhuận: 2,5 tỷ đồng 3.1.2. Nhu cầu vốn của Công ty trong thời gian tới Với định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty như trên, rõ ràng là trong thời gian tới Công ty cần một lượng vốn lớn để đáp ứng cho nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Do đó việc tìm kiếm và huy động thêm các nguồn vốn khác để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, trước khi tiến hành các giải pháp cho việc tìm kiếm nguồn tài trợ, Công ty phải xác định xem mức nhu cầu vốn trong từng năm là bao nhiêu. Trên cơ sở đó mới đưa ra những phương án cụ thể để huy động đủ vốn cho mình. Với những đặc điểm về tình hình tài chính đã trình bày ở trên, nhu cầu vốn dự tính cho năm 2003 của Công ty được xác định như sau: Bảng 11: Dự tính nhu cầu vốn kinh doanh của Công ty năm 2003 Tên hàng Khối lượng (tấn) Đơn giá (USD/tấn) Thành tiền (USD) 1. Giấy Kraft 1200 600 720.000 2. Gạch chịu lửa 3000 800 2.400.000 3. Hạt nhựa PP 200 750 150.000 4. Clinker 260.000 30 7.800.000 Tổng cộng 11.070.000 Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu xi măng Theo như bảng trên, ta thấy nhu cầu vốn của Công ty trong năm 2003 tính khoảng 11.070.000 USD tức là khoảng 170 tỷ đồng. Như vậy, để có thể đạt được mục tiêu đề ra, Công ty cần một lượng vốn khá lớn mà với một cơ cấu vốn bao gồm những nguồn vốn mà trước đây Công ty đã sử dụng sẽ không đảm bảo đủ vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Do đó, cần thiết phải khai thác thêm các nguồn vốn khác. Phần tiếp theo xin nêu ra một số giải pháp để tăng cường khả năng huy động vốn của Công ty. 3.2. Một số giải pháp tăng cường huy động vốn ở Công ty xuất nhập khẩu xi măng 3.2.1. Tăng vay vốn ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu Trong một vài năm trở lại đây, thực hiện chủ trương của Đảng đẩy mạnh hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá đa phương hoá, các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng mở rộng các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu nhằm cung cấp vốn và kỹ thuật giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, giảm bớt rủi ro trong giao dịch mua bán với các đối tác nước ngoài. Đây là một trong những phương thức huy động vốn rất hữu hiệu, đảm bảo nhu cầu vốn của Công ty một cách nhanh chóng, đặc biệt là trong những thương vụ lớn. Khi vốn lưu động của doanh nghiệp không đủ để thanh toán tiền hàng thì tín dụng xuất nhậpkhẩu là giải pháp giúp Công ty thực hiện được hợp đồng một cách kịp thời nhất. Bên cạnh đó, việc sử dụng hình thức tín dụng này còn giúp Công ty tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, thương lượng ký kết hợp đồng ngoại thương bởi vì khi được ngân hàng chấp nhận phục vụ mình nghĩa là Công ty đã xác định được năng lực thực hiện hợp đồng. Điều này có ý nghĩa giúp cho doanh nghiệp tiến hành các thương vụ một cách trôi chảy, quan hệ được với khách hàng tầm cỡ thế giới, từ đó nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường quốc tế. Hiện nay, Công ty đang sử dụng hình thức tín dụng này theo phương thức chủ yếu là mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu. Để tăng cường vốn cho nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh của mình Công ty có thể tăng nguồn vốn vay từ ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu khác như chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu hoặc vay thanh toán bộ chứng từ nhập… Hiện nay, Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, không phải giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ mà chỉ căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên càng tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, do phải trả chi phí khi sử dụng nguồn vốn này nên Công ty cần phải tính toán, lập các phương án kinh doanh một cách cụ thể sao cho có thể đảm bảo được chi phí kinh doanh cộng thêm lãi suất ngân hàng mà vẫn có lãi. 3.2.2. Phát hành trái phiếu công ty Vay vốn ngân hàng có ưu điểm là giúp doanh nghiệp đảm bảo nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh một cách linh động nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Để khắc phục nhược điểm này, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Phương thức này giúp Công ty chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn và tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ cho nhu cầu vốn kinh doanh trong thời gian dài. Cho đến nay ở nước ta đã có những yếu tố cần thiết cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu và cũng đã có nhiều doanh nghiệp làm theo cách này như: Công ty may Chiến Thắng, công ty bia Hồng Gai, Quảng Ninh… Tuy nhiên, việc huy động vốn theo cách này còn khá mới mẻ nên vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm như: phương thức huy động thế nào? thời hạn huy động bao lâu? lãi suất, giới hạn huy động bao nhiêu?… đều chưa được quy định chi tiết dẫn đến mỗi doanh nghiệp tiến hành theo một cách khác nhau. Hơn nữa, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chỉ thực sự đạt hiệu quả cao một khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và mức lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Để có thể huy động vốn bằng phương thức này, trước hết Công ty phải đảm bảo hội đủ các điều kiện quy định của luật phát hành và lưu thông chứng khoán và được sự chấp nhận của cơ quan quản lý cao nhất về thị trường chứng khoán (thường là Uỷ ban chứng khoán quốc gia). Muốn vậy, Công ty phải công khai với Uỷ ban chứng khoán quốc gia các số liệu về khả năng tài chính (vốn, lợi nhuận), tình hình sản xuất kinh doanh có lãi của Công ty cũng như luận chứng kinh tế kỹ thuật đã được cấp có thẩm quyền duyệt (có đề án khả thi về sử dụng và trả nợ vốn). Với tình hình tài chính khá lành mạnh và uy tín sẵn có trong những năm qua, Công ty có khả năng sử dụng hình thức này. Tuy nhiên, Công ty cũng cần xem xét kỹ lưỡng các điều kiện hiện có, xác định những mặt lợi và cả những mặt hạn chế sẽ phải gánh chịu để lựa chọn loại trái phiếu, số lượng và thời điểm phát hành cho phù hợp. 3.2.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp Ta biết để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất, mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới một cơ cấu vốn tối ưu có sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất hay nói một cách khác là có sự cân đối giữa nợ và nguồn vốn chủ sở hữu. Do đó, mặc dù Công ty có thể huy động vốn một cách tiện lợi và linh hoạt thông qua việc phát hành trái phiếu và vay vốn ngân hàng song cũng không nên quá lạm dụng vì đây là các hình thức vay nợ. Việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh phần lớn được hình thành từ nợ sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Công ty chứa đựng nhiều rủi ro, bấp bênh và do đó hiệu quả kinh doanh không cao. Trong trường hợp này, để đảm bảo nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng mà vẫn đạt được một cơ cấu vốn tối ưu, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Hiện nay, Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp Nhà nước được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu và bỏ mức khống chế vốn huy động tại điều 11 của nghị định số 59/CP. Đây là một bước tiến không chỉ trong việc giải quyết nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với Công ty, việc cổ phần hoá sẽ khắc phục được tình trạng chưa đa dạng trong cơ cấu nguồn vốn cũng như đạt được một cơ cấu vốn hợp lý hơn. Thêm vào đó khi chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần, người lao động khi có cổ phần trở thành những người chủ đích thực, có quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích cụ thể, từ đó họ gắn bó với Công ty hơn. Chính điều này sẽ tạo điều kiện cho Công ty khắc phục được khó khăn về vốn, về cải tiến kỹ thuật, việc làm, năng suất chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Có nhiều hình thức cổ phần hoá mà doanh nghiệp có thể áp dụng như cổ phần hoá 100% hoặc chuyển toàn bộ vốn tài sản bán cho cán bộ công nhân viên trong đơn vị và ngoài doanh nghiệp, bán cho người nước ngoài như là hình thức đầu tư trực tiếp 100% vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam… Với đặc điểm kinh doanh và tình hình tài chính như hiện nay, Công ty có thể lựa chọn hình thức cổ phần hoá trong đó Nhà nước giữ lại một tỷ lệ phần trăm cổ phần nhất định, còn đại bộ phận cổ phần sẽ bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp bằng một phần nguồn quỹ phúc lợi được chia theo thời gian đóng góp của từng người cùng với nguồn tiền đóng góp thêm của họ. Số còn lại bán cho các đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên, để tiến trình cổ phần hoá được tiến hành thuận lợi, Công ty cần phải nghiên cứu các quy định cụ thể có liên quan đến cổ phần hóa như: mức khống chế mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với người lao động, chế độ xử lý các khoản nợ dây dưa… hiện vẫn còn là những cản trở đối với quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. 3.2.4. Sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả Bên cạnh mục tiêu huy động đủ vốn cho hoạt động kinh doanh, Công ty cũng cần phải sử dụng nguồn vốn tiết kiệm và có hiệu quả. Trong đó, quan trọng nhất là sử dụng vốn lưu động một cách triệt để và có hiệu quả. Trong những năm vừa qua, mặc dù Công ty đã đạt được tốc độ lưu chuyển vốn lưu động, song để tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, làm lượng vôn tăng lên, Công ty cần tiếp tục thực hiện các biện pháp như: tổ chức tốt công tác vận chuyển và tiêu thụ để giảm khối lượng hàng tồn kho, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu khách hàng, tránh để tình trạng nợ đọng dây dưa... Ngoài ra, Công ty cần quan tâm đến việc tiết kiệm đến mức có thể các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh như chi phí mua hàng, chi phí dự trữ, chi phí bán hàng... Chẳng hạn như khi mua hàng, Công ty nên tham khảo toàn diện giá cũng như điều kiện mua hàng từ nhiều nhà cung cấp khác nhau để chọn được nhà cung cấp có nhiều ưu đãi nhất. Công ty cũng nên chịu khó tìm kiếm những nguồn hàng mới, rẻ, mua tận gốc, bán tận ngọn để tiết kiệm chi phí trung gian, nhờ đó giảm được chi phí kinh doanh. Nói chung, vấn đề cốt lõi để quản lý và sử dụng tốt nguồn vôn là hoạt động kinh doanh của Công ty phải thực sự hiệu quả, có lợi nhuận, có tích luỹ. Muốn vậy, Công ty phải tự đánh giá mình về khả năng cạnh tranh, nguồn lực của doanh nghiệp, từ đó, xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp. Song song với việc thực hiện các kế hoạch đề ra một cách chính xác, hiệu quả, Công ty cũng nên nhanh chóng quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, tập thể trong việc đi vay, sử dụng vốn vay và trả nợ (quy định cả về vật chất lẫn hành chính). 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Với Nhà nước v Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn thông qua tín dụng xuất nhập khẩu Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu là rất lớn. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với khả năng tài chính có hạn, vì thế không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc đủ vốn để thu mua chế biến hàng xuất khẩu. Thêm vào đó, quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp, nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi nhất thiết phải có sự tham gia của ngân hàng. Sự trợ giúp của ngân hàng lúc này không chỉ đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết về kỹ thuật mà còn là chỗ dựa tài chính trong hoạt động kinh doanh. Thông thường Nhà nước có thể giúp đỡ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu dưới hai hình thức: â Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng của các doanh nghiệp nước mình. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách Nhà nước và kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi. â Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước. Đây là hình thức tài trợ vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện được những thương vụ lớn, tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, giao dịch với các bạn hàng nước ngoài và nhờ đó tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Nhà nước thường hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu bằng cách cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước hoặc sau khi giao nhận hàng hoặc thực hiện các hình thức bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh để các doanh nghiệp này vay vốn của các tổ chức, các ngân hàng nước ngoài. Đối với điều kiện nước ta hiện nay, Nhà nước cấp tín dụng cho người xuất khẩu trong nước là hợp lý hơn, khắc phục được tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nói chung, nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn được các doanh nghiệp rất quan tâm, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại có nhu cầu vốn trong thời gian ngắn và khá linh động như Công ty xuất nhập khẩu xi măng. Do đó, Nhà nước phải tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi để các ngân hàng thực hiện nhiệm vụ là cầu nối- cung tiền tệ cho các doanh nghiệp. Để làm được điều này, cần phải tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của ngân hàng, vừa hạn chế thủ tục phiền hà, chồng chéo tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn được nhanh chóng, kịp thời kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn đồng vốn khi cho vay. Ngân hàng cũng nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi suất cho vay cho phù hợp với từng mặt hang, ngành hàng và vòng chu chuyển của từng loại hàng hoá. v Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá Đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh rõ ràng là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Tuy nhiên, khi nền tài chính quốc gia còn hạn hẹp, ngân sách Nhà nước còn bội chi thì việc bổ sung đủ tỷ lệ vốn lưu động cần thiết cho các doanh nghiệp Nhà nước là điều không phải dễ dàng. Trong trường hợp này, để giảm bớt phần nào gánh nặng cho ngân sách mà vẫn đảm bảo đủ vốn, cân bằng vốn cho doanh nghiệp, Nhà nước nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá một cách thuận lợi. Chúng ta đã thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhiều năm nay, một số cơ chế chính sách về cổ phần hoá, vì thế không còn phù hợp với thực tiễn nhưng vẫn chưa được sửa đổi kịp thời như: mức khống chế mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, chế độ phân cấp trong việc lựa chọn phê duyệt đề án cổ phần hoá… nên đã hạn chế và cản trở phần nào đối với quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Do đó, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá được thuận lợi, Nhà nước nên sửa đổi và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phục vụ cho hoạt động chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động này thông qua việc xây dựng và trình quốc hội cho phép ban hành luật chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời hoàn thiện và xây dựng các định chế thích hợp để thực hiện luật phá sản. Song song với việc sửa đổi hoàn thiện hệ thống chính sách cũ, Nhà nước cần sớm ban hành văn bản liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp như: â Xây dựng cơ chế ưu đãi hợp lý và cơ chế xử lý nợ để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu và niêm yết trên thị trường chứng khoán bao gồm cả các biện pháp khoanh nợ, xoá nợ và chuyển nợ thành cổ phần ở những doanh nghiệp cổ phần hoá. â Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. â Quy chế quản lý phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. â Hướng dẫn sử lý dứt điểm đối với những tài sản loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước nên xây dựng đề án và tổ chức thí điểm Công ty quản lý tài sản và mua bán nợ hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính khi thực hiện các đề án chuyển đổi sở hữu; Công ty đầu tư tài chính để từng bước tách rời quyền sở hữu với quyền quản lý tài sản thông qua việc chuyển phương thức quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp từ hành chính sang phương thức đầu tư. v Tổng công ty xi măng Việt Nam cũng rất cần Nhà nước có những chính sách để Tổng công ty kinh doanh bình đẳng với các doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh. Bởi chúng ta đã biết, xi măng Việt Nam hiện nay một thị trường nhưng có hai chế độ quản lý. Tổng công ty xi măng Việt Nam là một doanh nghiệp của Nhà nước phải thực hiện sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất nhưng vẫn phải chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về cơ chế quản lý, tiền lương và các chế độ tài chính khác. Ngoài ra, Tổng công ty còn có trách nhiệm làm công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc bình ổn giá cả thị trường xi măng trong nước. Trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất xi măng khác ngoài Tổng công ty xi măng Việt Nam lại không phải thực hiện những nhiệm vụ như Tổng công ty và mọi cơ chế khác cũng đơn giản và thông thoáng hơn thậm chí trong thời kỳ đầu thâm nhập thị trường lại không bị ràng buộc bởi kết quả kinh doanh. Đây là những bất hợp lý mà nếu giải quyết được chúng ta sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh trên thị trường xi măng góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành xi măng tới một khả năng xuất khẩu trong tương lai. v Cần nhanh chóng phát triển thị trường tài chính Trong nền kinh tế thị trường, quá trình điều hoà các nguồn vốn nhàn rỗi từ nơi thừa đến nơi thiếu được diễn ra chủ yếu tại các thị trường tài chính. Do đó, tạo lập và phát triển một thị trường tài chính hoàn thiện là quá trình mang tính khách quan nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức kinh doanh tìm kiếm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Sơ đồ 2: Sự vận động của vốn trên thị trường tài chính Trung gian tài chính (Ngân hàng, Công ty bảo hiểm,…) Người cho vay - Dân cư - Các doanh nghiệp - Chính phủ - Người nước ngoài Người đi vay - Dân cư - Các doanh nghiệp - Chính phủ - Người nước ngoài Thị trường tài chính (Thị trường tiền tệ, thị trường vốn) Quan sát sự vận động của các dòng vốn trên thị trường tài chính theo sơ đồ trên, ta thấy rõ ràng là với một thị trường tài chính hoàn thiện những người cần vốn và những người có vốn sẽ thoả mãn được nhu cầu cho vay và đi vay của mình một cách tiện lợi nhất. ở Việt Nam hiện nay, vốn lưu chuyển chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng. Thị trường chứng khoán đã hình thành và đi vào hoạt động nhưng do những hạn chế về thông tin và sự nhạy bén của thị trường chứng khoán đối với dân chúng nên chưa đảm nhận được chức năng tạo ra đầy đủ nhất các hình thức đầu tư, thúc đẩy và mở rộng những chu chuyển vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế; do đó chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là điều Chính phủ cần quan tâm và tìm những giải pháp thúc đẩy quá trình hoàn thiện thị trường tài chính trong thời gian gần nhất. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể giải quyết được tình trạng thiếu vốn để phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 3.3.2. Với Tổng công ty Là một thành viên của “gia đình lớn”- gia đình Tổng công ty xi măng Việt Nam- từ khi ra đời, Công ty xuất nhập khẩu xi măng đã nhận được nhiều sự quan tâm, hỗ trợ trên nhiều lĩnh vực từ phía Tổng công ty. Tuy vậy, trong thời gian tới, để có thể vừa đạt được mục tiêu kinh doanh của một đơn vị kinh tế hạch toán độc lập vừa cùng với Tổng công ty thực hiện chức năng bình ổn thị trường của một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cần một sự hỗ trợ to lớn hơn trước từ phía Tổng công ty. Tổng công ty cần tạo mọi điều kiện để Công ty thuận lợi trong việc tạo lập và thực hiện thêm nhiều hợp đồng có giá trị lớn, duy trì mối quan hệ bạn hàng truyền thống cũng như mở rộng thêm nhiều mối quan hệ mới. Theo đó, Tổng công ty phải tiếp tục thực hiện tốt chức năng đầu tầu của mình trong việc cung cấp thông tin, phổ biến những chính sách mới của Đảng và Nhà nước, những chỉ tiêu kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn nhất định,… Bởi tất cả là cơ sở để Công ty tiến hành hoạt động kinh doanh chủ động, mà trong đó hoạch định ra một cơ cấu vốn tối ưu để tài trợ cho mọi hoạt động kinh doanh là việc làm đầu tiên và quan trọng nhất. 3.3.3. Với các ngân hàng Như những gì chúng ta đã phân tích, trong thời gian tới nguồn vốn vay ngân hàng đóng vai trò quyết định tới sự thành công mở rộng hoạt động của Công ty. Công ty sẽ tăng mạnh khối lượng nhập khẩu cả hàng uỷ thác và kinh doanh. Chính vì thế, để đảm bảo thực hiện được kế hoạch đề ra, Công ty rất cần tới sự giúp đỡ, hỗ trợ hơn nữa từ phía các ngân hàng. Cụ thể là Công ty muốn đề nghị các ngân hàng hãy xem xét khả năng cho phép Công ty được vay vốn để thanh toán tiền hàng nhập khẩu uỷ thác. Thiết nghĩ, với những thành công nhất định trong kinh doanh của Công ty trong những năm vừa qua cũng như mối quan hệ tốt đẹp đã được duy trì nhiều năm liền giữa Công ty và các ngân hàng, các ngân hàng có cơ sở để tin tưởng vào khả năng hoàn trả lãi và gốc của tất cả các khoản vay của Công ty. kết luận Đất nước ta đang trên con đường phát triển và hội nhập vào quá trình phân công lao động thế giới. Quá trình này có thành công hay không và thành công ở mức độ nào sẽ phụ thuộc rất nhiều và sự phát triển và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Do đó, tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh mà đầu tiên là tăng cường khả năng huy động vốn-một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam- là việc làm cần thiết. Nhận thức được điều đó, cũng như các doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Công ty xuất nhập khẩu xi măng đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh, không những đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh mà còn tận dụng được những nguồn vốn có chi phí thấp và linh hoạt. Trên cơ sở đó, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển, tích luỹ chưa nhiều, việc đảm bảo nguồn vốn đáp ứng được cả yếu tố về chất và lượng còn là một vấn đề nan giải không chỉ đối với Công ty xuất nhập khẩu xi măng mà cả các chủ thể kinh tế khác. Với mong muốn giải quyết vấn đề đó, em đã chọn đề tài: “Huy động vốn tại Công ty Xuất nhập khẩu xi măng” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Song, vì kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong các thầy cô thông cảm và chỉ bảo thêm cho em. Một lần nữa, em xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn- PGS.TS Lưu Thị Hương- người đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Cán bộ phòng Kế toán tài chính của Công ty xuất nhập khẩu xi măng. Các cô chú và các anh chị đã giúp đỡ em tìm hiểu tình hình thực tế tại Công ty, cũng như trong việc tiếp cận với đề tài nghiên cứu trong suốt thời gian thực tập. Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2003 Sinh viên Hà Hồng Hải Mục lục Trang Lời nói đầu 01 Chương I – Huy động vốn của doanh nghiệp- những vấn đề lý luận cơ bản 1.1. Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp 1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp 1.1.2. Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm vốn 1.1.2.2. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp 1.2. Các nguồn vốn của DN và phương thức huy động 1.2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp 1.2.1.1. Vốn góp ban đầu 1.2.1.2. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia 1.2.1.3. Phát hành cổ phiếu 1.2.2. Nợ và các phương thức huy động nợ của DN 1.2.2.1. Nguồn vốn TDNH và TDTM 1.2.2.2. Phát hành trái phiếu công ty 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của DN 1.3.1. Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Nhu cầu và mục tiêu tài chính của DN 1.3.1.2. Cơ cấu vốn và chi phí vốn 1.3.1.3. Tình trạng tài chính của doanh nghiệp 1.3.1.4. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.3.2. Các nhân tố khách quan 1.3.2.1. Cơ chế chính sách của Nhà nước 1.3.2.2. Sự phát triển của hệ thống NHTM 1.3.2.3. Sự phát triển của thị trường tài chính 1.3.2.4. Khả năng tiết kiệm trong dân cư Chương II- Thực trạng huy động vốn tại Công ty XNK xi măng 2.1. Khái quát về Công ty XNK xi măng 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty 2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý 2.1.3. Đặc điểm và tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 2.1.3.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty 2.1.3.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 2.2. Thực trạng huy động vốn tại Công ty XNK xi măng 2.2.1. Vốn chủ sở hữu 2.2.2. Vốn vay ngân hàng 2.2.3. Nguồn vốn tín dụng thương mại 2.3. Đánh giá tình hình huy động vốn tại Công ty 2.3.1. Những kết quả đạt được 2.3.1.1. Đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh 2.3.1.2. Huy động được những nguồn vốn có chi phí thấp và linh hoạt 2.3.1.3. Tỷ lệ bị chiếm dụng vốn ngày càng giảm 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế 2.3.2.2. Nguyên nhân Chương III- Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Công ty XNK xi măng 3.1. Nhu cầu vốn của Công ty XNK xi măng trong thời gian tới 3.1.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty 3.1.1.1. Mục tiêu hoạt động của Công ty trong những năm sắp tới 3.1.1.2. Phương hướng hoạt động của Công ty 3.1.1.3. Nhiệm vụ cụ thể năm 2003 3.1.2. Nhu cầu vốn của Công ty trong thời gian tới 3.2. Một số giải pháp tăng cường huy động vốn ở Công ty 3.2.1. Tăng vay vốn ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng XNK 3.2.2. Phát hành trái phiếu Công ty 3.2.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Với Nhà nước 3.3.2. Với Tổng công ty 3.3.3. Với các ngân hàng Kết luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0148.doc
Tài liệu liên quan