Kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010

Lời mở đầu Nghệ An từ lâu đã được biết đến và nổi tiếng là một vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nhưng cũng là một vùng quê xinh đẹp với non xanh nước biếc, với những công trình văn hoá độc đáo và câu ca tiếng hò quyến rũ. Trải qua biết bao biến động thăng trầm, nhân dân Nghệ An đã cùng nhân dân cả nước, viết nên những trang sử vẻ vang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, của quê hương. Với truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động; anh hùng, bất khuất trong chiến đấu, nh

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững thế hệ người Nghệ An hoàn toàn có quyền tự hào về mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh yêu nước và tinh thần cách mạng bất khuất của quê hương mình. Nghệ An có nhiều tiềm năng về du lịch cả tự nhiên và nhân văn. Tài nguyên du lịch rất phong phú và đa dạng, diện tích 16. 470 km2 hơn 12.000 km2 rừng núi tạo ra những thảm thực vật với nhiều khu rừng nguyên sinh đáp ứng nhu cầu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, leo núi và nhiều loại hình du lịch khác. Đặc biệt là vườn quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn rừng nguyên sinh Pù Hoạt là những kho tàng bảo tồn đa dạng sinh học rất hấp dẫn du khách du lịch trong nước và quốc tế. Bờ biển Nghệ An dài 82 km, có nhiều bãi tắm đẹp, đặc biệt là bãi tắm Cửa Lò sóng hiền, nền phẳng, cát mịn, nước trong, cảnh quan và môi trường hấp dẫn. Nghệ An có trên 1 ngàn di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 131 di tích lịch sử văn hoá được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Đặc biệt, mảnh đất địa linh, nhân kiệt, khí thiêng sông núi, cùng truyền thống lịch sử văn hoá muôn đời đã kết tinh trong một người con kiệt xuất của quê hương- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Vị trí địa lý của Nghệ An khá thuận lợi, với hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thuỷ tương đối phát triển. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của Nghệ An cũng khá dồi dào với rừng, núi, biển và hải đảo, với tiềm năng dầu khí ở thềm lục địa… Những điều kiện trên cho phép Nghệ An phát triển một nền kinh tế tổng hợp đa ngành, trong đó du lịch được coi là một trong những ngành có vai trò đặc biệt quan trọng. Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã nói: “…Trên đất nước ta, không ít vùng miền được coi là địa linh nhân kiệt, song xứ Nghệ là một trong những địa linh hàng đầu. Bên cạnh những di tích vô giá về Bác Hồ, ở Nghệ An còn không ít những di tích lịch sử khác vì nơi đây thời nào cũng có danh nhân, vùng nào cũng có anh hùng. Với thế mạnh nổi trội ấy, Nghệ An phải trở thành điểm đến về du lịch lịch sử vào loại đệ nhất giang sơn…” Với tiềm năng về du lịch, Nghệ An đã trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của du khách. Mặc dù đã có bước phát triển, song tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch Nghệ An vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để du lịch Nghệ An phát triển nhanh và bền vững? Với lý do đó, trong đợt thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nghệ An em đã chọn đề tài “Kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010” nhằm xem xét tình hình thực tiễn và đề ra một số giải pháp thực hiện để đưa ngành du lịch Nghệ An trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Em xin trình bày cơ cấu chuyên đề như sau: Chương I: Nội dung kế hoạch phát triển du lịch Chương II: Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2001-2005. Chương III: Kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới GS-TS Vũ Thị Ngọc Phùng, cùng các cán bộ trong phòng Công nghiệp & Dịch vụ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nghệ An đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Chương I Nội dung kế hoạch 5 năm phát triển du lịch I. Khái niệm, bản chất và đặc trưng của du lịch 1. Khái niệm Trong đà phát triển rất nhanh về mọi mặt của xã hội, nhu cầu của con người cũng theo đó mà phát triển không ngừng, trong đó có nhu cầu về du lịch. Mấy năm gần đây đã bùng nổ dòng du lịch từ Tây sang Đông, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và ngược lại. Bởi lẽ nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú không chỉ dừng lại ở nhu cầu ăn ở, đi lại tham quan bình thường, mà du lịch ngày càng chuyên sâu, phân nhỏ. Vì thế, Du lịch là một nhu cầu tất yếu khách quan của cuộc sống con người. Xuất phát từ sự mong muốn tìm hiểu những cái khác lạ ở bên ngoài nơi mình sinh sống, để cảm nhận các giá trị văn hoá độc đáo như các di tích lịch sử, lễ hội, phong tục tập quán, các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, hay đơn giản là để được nghỉ ngơi, dưỡng bệnh, chơi thể thao, thăm viếng… Đến nay, trên thế giới có rất nhiều học giả đưa ra nhiều khái niệm khác nhau, bởi đi từ những góc độ tiếp cận du lịch khác nhau: - Theo Giáo sư- Tiến sỹ HUNSIKUR và KRAF: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không phải cư trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt động kỹ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan đến các cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường xuyên với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích ngành nghề, kiếm lời hoặc đến thăm có tính chất thường xuyên”. - Theo MC INTOSH: “Du lịch là tổng thể các hiện tượng mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa du khách, nhà cung ứng, chính quyền địa phương và cộng đồng chủ nhà trong quá trình thu hút và đón tiếp du khách”. - Theo I.I. PIRÔGIONIC,1985: “ Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá”. - Theo Điều 1 Chương I Pháp lệnh số 45-CP ngày 22/6/1993: Nhà nước Việt Nam xác định “Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”. Nếu xuất phát từ hoạt động du lịch, bản chất cơ bản của du lịch thì: “Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được cảm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lợi được tính bằng đồng tiền”. 2. Bản chất của du lịch Để hiểu rõ bản chất của du lịch, ta xem xét du lịch từ những góc độ sau đây: 2.1. Từ góc độ nhu cầu của khách du lịch Hầu hết khách du lịch dùng thời gian rỗi tiến hành một chuyến du ngoạn thưởng thức danh lam thắng cảnh, vẻ đẹp của những di tích lịch sử, văn hoá, lễ hội, phong tục tập quán, thiên nhiên xanh… Hoặc qua đó gắn liền với dưỡng nghỉ, chữa bệnh, hoạt động thể thao… Nhưng không phải vì mục đích sinh lợi Nói đến du ngoạn là nói đến thiên nhiên như bãi biển, vịnh biển, đảo biển, rừng núi, sông ngòi, cao nguyên, hang động, thiên nhiên xanh… và các “danh thắng” nhân tạo như di tích lịch sử, di tích văn hoá, đền, đình, chùa, nhà thờ, phố cổ, di tích khảo cổ, dấu tích những trận đánh nổi tiếng, khu lưu niệm các danh nhân, làng cổ, làng nghề truyền thống, phong tục tập quán, lễ hội… Nói tóm lại xuất phát từ nhu cầu của khách du lịch thì bản chất của du lịch là du ngoạn để được hưởng những giá trị vật chất và tinh thần mang tính văn hoá cao, khác lạ với quê hương họ, kể cả việc kết hợp để dưỡng bệnh, chơi thể thao, thăm viếng… 2.2. Từ góc độ sản phẩm du lịch Sản phẩm đặc trưng của du lịch để bán cho khách là các chương trình du lịch. Chương trình du lịch có nội dung chủ yếu là sự liên kết những di tích lịch sử, di tích văn hoá và cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng cùng với những dịch vụ tương ứng phục vụ khách du lịch như phòng ngủ, thực đơn, phương tiện vận chuyển… Nhân vật trung tâm để thực hiện chương trình du lịch là các hướng dẫn viên du lịch. Kiến thức đầu tiên phải có đối với một hướng dẫn viên du lịch là sự am hiểu sâu sắc về giá trị văn hoá, giá trị thiên nhiên và phương pháp tổ chức các đoàn du lịch. Đạt được điều này thì hiệu quả kinh doanh du lịch mới có kết quả cao. Điều đó có nghĩa rằng bản chất của du lịch là thẩm nhận giá trị văn hoá và cảnh quan thiên nhiên. 2.3. Từ góc độ tìm kiếm thị trường Những nhà tiếp thị du lịch có nhiệm vụ đi tìm kiếm thị trường hay tìm kiếm nhu cầu của khách. Nhu cầu ấy không phải là mua bán các hàng hoá công nghiệp, hàng hoá nông nghiệp, mua bán các dịch vụ phổ biến mà họ muốn mua các sản phẩm du lịch phản ánh giá trị văn hoá, cảnh quan thiên nhiên của mỗi vùng, mỗi điểm, mỗi tuyến của mỗi quốc gia mà họ đến. Như vậy tiếp thị du lịch có đặc trưng riêng của nó khác với các loại tiếp thị khác. Tính đặc trưng ấy xuất phát từ hàng hoá du lịch là hàng hoá xuất khẩu tại chỗ “bán” đi “bán” lại nhiều lần. Mỗi lần như vậy làm tăng chiều sâu cảm nhận cho khách du lịch. Như thế là xét từ góc độ tiếp thị du lịch ta cũng thấy bản chất của du lịch là cảm nhận giá trị vật chất và tinh thần mang tính văn hoá cao. Tóm lại, dù xét từ góc độ nào thì bản chất của du lịch cũng là du ngoạn để được hưởng những giá trị vật chất và tinh thần mang tính văn hoá cao, khác lạ với quê hương họ, kể cả việc kết hợp để dưỡng bệnh, chơi thể thao, thăm viếng… 3. Các loại hình du lịch Du lịch là hoạt động có tính phong phú và đa dạng về loại hình. Phụ thuộc vào các nhân tố khác nhau, dựa vào đặc điểm, vị trí, phương tiện và mục đích, có thể chia du lịch thành các loại hình riêng biệt sau: 3.1. Theo nhu cầu của khách du lịch a. Du lịch chữa bệnh Là hình thức đi du lịch để điều trị một căn bệnh nào đó về thể xác hay tinh thần. Mục đích đi du lịch là vì sức khoẻ. Loại du lịch này gắn liền với việc chữa bệnh và nghỉ ngơi tại các trung tâm chữa bệnh, các trung tâm được xây dựng bên các nguồn nước khoáng, có giá trị, giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và khí hậu thích hợp. b. Du lịch nghỉ ngơi (giải trí) Nảy sinh do nhu cầu cần phải nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho con người. Đây là loại hình du lịch có tác dụng giải trí, làm cho cuộc sống thêm đa dạng và giúp con người ra khỏi công việc hàng ngày. c. Du lịch văn hoá Mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hoá thông qua các chuyến đi du lịch đến những nơi xa lạ để tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của đất nước du lịch. Trong du lịch văn hoá lại được chia thành nhiều loại du lịch khác nhau: du lịch di tích lịch sử, du lịch phố cổ, du lịch lễ hội, du lịch các di tích văn hóa nổi tiếng, du lịch văn hoá ẩm thực. d. Du lịch thể thao Đây là hình thức du lịch gắn với sở thích của khách về một loại hình thể thao nào đó. Nó xuất hiện do lòng say mê thể thao của du khách, bao gồm du lịch leo núi, du lịch săn bắn, du lịch hang động, du lịch câu cá, du lịch lặn biển, du lịch tham dự các cuộc chơi thể thao. 3.2. Theo phạm vi lãnh thổ. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch mà phân chia thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa. a. Du lịch trong nước Là chuyến đi của người du lịch từ chỗ này sang chỗ khác nhưng trong phạm vi đất nước mình, chi phí bằng tiền nước mình. Điểm xuất phát và điểm đến đều nằm trong lãnh thổ của một đất nước. b. Du lịch quốc tế Là chuyến đi từ nước này sang nước khác. ở hình thức này, khách phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Du lịch quốc tế đựơc chia làm hai loại: du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động. Du lịch quốc tế chủ động là thể loại đón khách du lịch nước ngoài đến du lịch quốc gia mình. Du lịch quốc tế bị động là đưa khách du lịch ở trong nước đi du lịch các nước khác. 3.3. Theo hình thức tổ chức Theo hình thức này người ta chia du lịch thành du lịch tập thể, du lịch cá nhân và du lịch gia đình a. Du lịch tập thể: Là du lịch có tổ chức theo đoàn với sự chuẩn bị chương trình từ trước, hay thông qua các tổ chức du lịch như đại lý du lịch, tổ chức công đoàn…. Mỗi thành viên trong đoàn được thông báo trước chương trình của chuyến đi. b. Du lịch cá nhân Là loại hình trong đó cá nhân tự định ra tuyến hành trình, kế hoạch lưu trú, địa điểm và ăn uống tuỳ nghi. c. Du lịch gia đình: Đây là loại hình du lịch ngày càng phổ biến ở Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới. Thông thường có hai loại du lịch gia đình. Loại thứ nhất xảy ra thường xuyên tại các khu vực phụ cận đô thị, thời gian chuyến đi không dài, thường chỉ diễn ra trong một đến hai ngày. Loại thứ hai là các chuyến du lịch dài ngày, họ chọn các điểm ở xa nổi tiếng và để tiết kiệm thời gian trong chuyến đi họ muốn đi được nhiều điểm. 4. Các đặc trưng của du lịch Du lịch là một ngành kinh tế đặc biệt gắn liền với các ngành kinh tế khác như công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, vận tải, thông tin liên lạc và mang lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội không chỉ cho những người hoạt động trong ngành du lịch, cho du khách mà còn cả cộng đồng dân chúng địa phương, chính quyền sở tại. Bởi vậy, hoạt động du lịch có đặc trưng là đa ngành, đa thành phần và đa mục tiêu. Điều này thể hiện cụ thể như sau: 4.1. Đa ngành Du lịch là hoạt động có quan hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế khác. Hầu hết các ngành kinh tế khác như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thông tin liên lạc… đều có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy phát triển du lịch. - Công nghiệp cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo nên những tiền đề nâng cao thu nhập của người lao động, đồng thời tăng thêm khả năng đi du lịch. Công nghiệp phát triển cao, sản xuất ra những vật liệu đa dạng để xây dựng các công trình du lịch và hàng tiêu dùng cho khách du lịch. Sự tập trung dân cư trong các trung tâm công nghiệp lớn, bầu không khí bị các xí nghiệp công nghiệp làm bẩn, tình trạng căng thẳng và tiếng ồn làm tăng thêm bệnh tật khiến cho con người phải tìm chỗ nghỉ và phục hồi sức khoẻ ngoài nơi sinh sống. Công nghiệp phát triển là sức hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. - Nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn vì du lịch không thể phát triển được nếu không đảm bảo việc ăn uống cho khách du lịch. Một nền nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển thì không đủ khả năng cung cấp đủ lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách cả về số lượng và chất lượng. - Mạng lưới giao thông cũng là một tiền đề kinh tế quan trọng nhất để phát triển du lịch. Nhờ mạng lưới giao thông hoàn thiện mà du lịch phát triển với tốc độ nhanh. - Thông tin liên lạc phát triển cũng tác động sâu sắc đến du lịch. Việc quảng bá du lịch một cách hữu hiệu không thể thiếu các phương tiện thông tin. Thông tin hiện đại hỗ trợ ngành du lịch, đưa đến hàng triệu khách hàng tiềm năng ở khắp mọi nơi những thông tin về một sản phẩm du lịch độc đáo, tạo cầu du lịch và dẫn họ tới quyết định mua sản phẩm du lịch của mình. Bên cạnh đó, sự đảm bảo phương tiện thông tin hiện đại tại các điểm du lịch cũng là một trong những yêu cầu của du khách. 4.2. Tính cộng đồng và đa thành phần Du lịch là họat động mang tính cộng đồng cao. Du lịch phục vụ cho mọi tầng lớp nhân dân, được sự tham gia của nhiều thành phần như cộng đồng dân cư, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, khách du lịch, các thành phần kinh tế,… 4.3. Đa mục tiêu Hoạt động du lịch bao gồm nhiều mục tiêu khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… nhưng với mục tiêu chính là thoả mãn nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần ngày càng cao của con người. Đồng thời, nó tăng cường và phát triển nền hoà bình, ổn định trên thế giới, bảo vệ môi trường thiên nhiên, bảo tồn cảnh quan di tích lịch sử văn hóa, nâng cao chất lượng sống cho người dân địa phương và những người tham gia trong hoạt động du lịch, khắc phục sự căng thẳng, mệt mỏi cho khách du lịch, mở rộng sự giao lưu hợp tác về văn hoá, kinh tế và nâng cao nhận thức của con người về thế giới xung quanh. 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển du lịch 5.1. Sự phát triển du lịch phụ thuộc vào nhận thức của xã hội, của các ngành trong nền kinh tế về vai trò, ý nghĩa và vị trí của ngành du lịch. Nhận thức được vai trò, vị trí quan trọng của ngành du lịch trong nền kinh tế, Nhà nước và chính quyền địa phương mới đề ra được các chính sách đúng đắn để khai thác tối đa và có hiệu quả tiềm năng của du lịch trong nước cũng như trong từng địa phương. Đồng thời có sự phối hợp giữa các ngành để thúc đẩy ngành du lịch phát triển ngang tầm với tiềm năng của nó một cách bền vững cũng như tạo ra sự cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. 5.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Không thể nói tới nhu cầu hoặc hoạt động du lịch của xã hội nếu như lực lượng sản xuất xã hội còn ở trong tình trạng thấp kém. Vai trò to lớn của nhân tố này được thể hiện ở nhiều khía cạnh quan trọng. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tác dụng trước hết làm ra đời hoạt động du lịch, rồi sau đó đẩy nó phát triển với tốc độ nhanh hơn. Giữa nhu cầu và hiện thực tồn tại một khoảng cách nhất định. Khoảng cách ấy phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội: trình độ càng cao khoảng cách càng rút ngắn. Sự phát triển của du lịch cũng bị chi phối bởi nền sản xuất xã hội. Để giải quyết nhu cầu ăn ở, đi lại, nghỉ ngơi du lịch của con người, tất yếu phải có, thí dụ, cơ cấu hạ tầng tương ứng. Những cái thiết yếu nhất đối với khách du lịch như mạng lưới đường sá, phương tiện giao thông, khách sạn, nhà hàng... khó có thể trông cậy vào một nền kinh tế ốm yếu. Mặt khác, đô thị hoá là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, đô thị hoá như nhân tố phát sinh góp phần đẩy mạnh nhu cầu du lịch. Đô thị hoá có những đóng góp to lớn trong việc cải thiện điều kiện sống cho nhân dân về phương diện vật chất và văn hoá, thay đổi tâm lý và hành vi của con người, nâng cao trình độ, nhận thức của họ và làm cho họ quen với thói quen và nhu cầu văn hóa. Tuy nhiên đô thị hoá cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Đó là quá trình đô thị hoá làm biến đổi các điều kiện sống tự nhiên, tách con người ra khỏi môi trường tự nhiên xung quanh, thay đổi bầu không khí và các quá trình khác của tự nhiên… Tất cả những điều đó, trong nhiều trường hợp, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người. Từ những mặt trái nêu trên, nghỉ ngơi giải trí trở thành một trong những nhu cầu không thể thay thế được của người dân thành phố. Ngoài những chuyến đi nghỉ dài ngày, vào ngày nghỉ cuối tuần họ có nhu cầu thay đổi không khí và được sống thoải mái giữa thiên nhiên. Nhu cầu này đã làm xuất hiện một loại hình du lịch đặc biệt, du lịch ngắn ngày rất phổ biến trên thế giới. Trong nền sản xuất xã hội nói chung, hoạt động của một số ngành như công nghiệp, nông nghiệp và cả giao thông có ý nghĩa quan trọng để phát triển du lịch. 5.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch Nền sản xuất xã hội phát triển tạo điều kiện ra đời của nhiều nhân tố khác nhau như nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, mức sống, thu nhập, thời gian rỗi rãi. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra đời và phát triển du lịch. Sự hoạt động mang tính chất xã hội của cá nhân trong thời gian rỗi được quyết định bởi nhu cầu và những định hướng có giá trị. Nhu cầu nghỉ ngơi là hình thức thể hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa chủ thể với môi trường bên ngoài, giữa điều kiện sống hiện có với điều kiện sống cần có thông qua các dạng nghỉ ngơi khác nhau. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch có tính chất kinh tế – xã hội là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Nó được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội dưới tác động của các yếu tố khách quan thuộc môi trường bên ngoài và phụ thuộc trước hết vào phương thức sản xuất. Cụ thể hơn, đó là nhu cầu của con người về khôi phục sức khoẻ và khả năng lao động, thể chất và tinh thần bị hao phí trong quá trình sinh sống. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch đặc trưng cho mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Nó ra đời ở một trình độ nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất, là kết quả tác động tổng hợp của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, tăng mật độ và sự tập trung dân cư vào các thành phố, kéo dài tuổi thọ... Song chỉ trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật, nhu cầu mới trở thành hiện thực trên quy mô xã hội. Điều đó được giải thích ở chỗ, giống như bất kỳ hiện tượng xã hội nào, nhu cầu là sự phản ánh chủ quan của các điều kiện khách quan tồn tại con người. 5.4. Điều kiện sống Dưới một góc độ khác, “Công nghiệp du lịch” chắc chắn không phát triển mạnh được nếu thiếu sự hỗ trợ của cách mạng khoa học kỹ thuật và quá trình công nghiệp hoá. Cuộc cách mạng này đã khuấy động mọi ngành sản xuất, đem lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao. Đó là tiền đề nâng cao thu nhập của người lao động, cải thiện đời sống của người dân. Du lịch chỉ có thể phát triển khi mức sống cả về vật chất và tinh thần của con người đạt tới trình độ nhất định. Chính vì vậy, điều kiện sống của nhân dân là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ việc tăng thu nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ mạng lưới y tế, văn hoá, giáo dục… Không có mức thu nhập cao thì khó có thể nghĩ đến việc nghỉ ngơi du lịch. Cùng với việc tăng mức thu nhập thực tế, các điều kiện sống khác liên tục được cải thiện. Các phương tiện đi lại của cá nhân tăng lên góp phần phát triển rộng rãi hoạt động du lịch, tăng cường tính cơ động của nhân dân trong quá trình nghỉ ngơi giải trí. Du lịch quốc tế và trong nước không thể phát triển đựơc nếu con người thiếu thời gian rỗi. Nó thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động du lịch. II. Vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An 1.Vai trò của du lịch đối với đời sống xã hội Đối với xã hội, du lịch Nghệ An có vai trò trong việc giữ gìn, hồi phục sức khoẻ và tăng cường sức sống cho nhân dân. Nghệ An có nhiều bãi biển đẹp, nước trong và sạch như biển Nghi Thiết, Quỳnh Bảng- Quỳnh Phương, đặc biệt là bãi biển Cửa Lò, khu du lịch nước khoáng nóng Giang Sơn (Đô Lương)- đây là những điểm du lịch du khách có thể trút bỏ được những căng thẳng, vất vả trong cuộc sống hàng ngày. Du khách sẽ có điều kiện tiếp xúc với nhau, gần gũi nhau hơn. Vì vậy, trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ, tăng khả năng lao động của con người và tăng thêm tình đoàn kết cộng đồng trong xã hội. Mặt khác, Nghệ An là vùng đất có truyền thống lịch sử, văn hoá lâu đời. Vùng đất “địa nhân linh kiệt” này hiện có trên 1.000 di tích lịch sử văn hoá cách mạng. Tiêu biểu như Bảo tàng Quỳ Châu, di tích Phan Bội Châu- nhà yêu nước, nhà Văn hoá lớn của dân tộc, tên tuổi của cụ ghi dấu ấn sâu đậm trong trang sử đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đền thờ và miếu mộ Mai Hắc Đế, Khu di tích Lê Hồng Phong, di tích Phượng Hoàng Trung Đô… Đặc biệt, Khu di tích Kim Liên, quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Danh nhân văn hoá thế giới, đã được công nhận là khu di tích đặc biệt của quốc gia. Bên cạnh đó, ở Nghệ An còn diễn ra hàng trăm lễ hội rất phong phú, mang đậm bản sắc văn hoá xứ Nghệ như Lễ hội Đền Cờn (Quỳnh Lưu), lễ hội Hang Bua (Quỳ Châu), lễ hội Làng Sen (Nam Đàn), lễ hội Uống nước nhớ nguồn (Anh Sơn), lễ hội Đền thờ Mai Hắc Đế (Nam Đàn),... Khi tiếp xúc trực tiếp với các thành tựu văn hoá của dân tộc, được sự giải thích cặn kẽ của hướng dẫn viên về các di tích này, du khách sẽ thực sự cảm nhận được giá trị to lớn của các di tích lịch sử, các công trình văn hoá, tăng thêm tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc trong mỗi du khách. Du lịch còn góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động thông qua các hoạt động như: vận chuyển hành khách, dịch vụ,…. Năm 2000 số lượng lao động trong ngành là 2.450 người và đến cuối năm 2004 số lượng lao động tăng lên là 3.630 người với doanh thu toàn ngành đạt 266.811 triệu đồng. Sự khởi sắc của du lịch đã góp phần tăng thu nhập bình quân đầu người năm 2004 là 4,8 triệu đồng/người và cải thiện đời sống cho người dân một cách đáng kể. 2. Vai trò của du lịch đối với kinh tế Du lịch có vai trò liên quan mật thiết với vai trò của con người như là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Hoạt động sản xuất là cơ sở tồn tại của mọi xã hội. Việc nghỉ ngơi, du lịch một cách tích cực và được tổ chức hợp lý sẽ góp phần vào việc hồi phục sức khoẻ cũng như khả năng lao động, mặt khác nó đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động. Thông qua hoạt động nghỉ ngơi, du lịch, tỷ lệ ốm đau trong khi làm việc giảm đi, tỷ lệ tử vong ở độ tuổi lao động hạ thấp và rút ngắn thời gian chữa bệnh, giảm số lần khám bệnh tại các bệnh viện. Hiểu rõ lợi thế và vai trò vô cùng quan trọng của ngành du lịch, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XIV năm 1996 đã xác định: “Du lịch, dịch vụ là ngành kinh tế có vị trí quan trọng, phải nhanh chóng phát triển để có tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế và là một trong những nguồn thu chính của ngân sách”. Năm 2000, du lịch có tổng doanh thu là 135.316 triệu đồng với đóng góp vào ngân sách đạt 6.780 triệu đồng. Đến năm 2004, tổng doanh thu đạt 266.811 triệu đồng với đóng góp ngân sách đạt 20.400 triệu đồng. Đồng thời, nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của khách du lịch được thoả mãn thông qua thị trường hàng hoá và dịch vụ du lịch, dịch vụ giao thông, ăn ở, làm cho thị trường này tăng lên rõ rệt: Năm 2000, doanh thu dịch vụ du lịch đạt 90,9 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 67%, doanh thu hàng hoá đạt 44,3% chiếm tỷ trọng 33% trong tổng doanh thu du lịch. Năm 2004, doanh thu dịch vụ du lịch đạt 230,2 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 86%, doanh thu hàng hoá đạt 36,6 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 13,7% trong tổng doanh thu du lịch. Bên cạnh đó, phát triển du lịch góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu thông qua xuất khẩu tại chỗ, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch làm tăng tổng số vốn đầu tư năm 2000 là 350.000 triệu đồng đến năm 2004 là 729.570 triệu đồng và các lĩnh vực khác. Chính vì vậy, dịch vụ du lịch là cơ sở quan trọng kích thích sự phát triển kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ lớn của tỉnh. 3. Vai trò của du lịch đối với giữ gìn văn hoá Một trong những ý nghĩa của du lịch là góp phần cho việc phục hồi và phát triển truyền thống văn hoá dân tộc. Đáp ứng nhu cầu về nâng cao nhận thức văn hoá lịch sử trong chuyến đi của du khách trong những năm vừa qua tỉnh Nghệ An đã rất chú trọng công tác duy trì, khôi phục các di tích văn hoá lịch sử trên địa bàn tỉnh như Khu di tích Kim Liên, khu di tích lăng mộ đền thờ vua Mai Hắc Đế và thân mẫu vua Mai Hắc Đế, khu lưu niệm cụ Phan Bội Châu, khu di tích lịch sử đền Cuông- Cửa Hiền,… Các lễ hội truyền thống mang tính văn hoá đặc sắc như lễ hội uống nước nhớ nguồn (Anh Sơn), lễ hội Hang Bua (Quỳ Châu), lễ hội làng Sen (Nam Đàn), lễ hội sông nước (Cửa Lò),…cũng được duy trì và tổ chức tốt. Đồng thời, tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo, nâng cấp và phát triển các di sản văn hoá ở hang Thẩm ồm (Quỳ Châu), Làng Vạc (Nghĩa Đàn), Đồng Môn, Hang Chùa,… cùng với những truyền thuyết dân gian trên vùng đất có nền văn hoá lâu đời - Nghệ An - một trong những cái nôi văn minh thời tiền sử. 4. Vai trò của du lịch đối với môi trường Vai trò của du lịch đối với môi trường được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và các hoạt động của con người. Để đáp ứng nhu cầu du lịch, trong cơ cấu sử dụng đất đai nói chung phải dành riêng những lãnh thổ nhất định có môi trường tự nhiên ít thay đổi, xây dựng các công viên rừng quanh thành phố, thi hành các biện pháp bảo vệ nguồn nước và bầu khí quyển nhằm tạo nên môi trường sống thích hợp. Với lợi thế về du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, Nghệ An rất chú trọng đến việc bảo vệ môi trường sống trong tỉnh, đặc biệt là những khu, điểm du lịch. Vườn quốc gia Pù Mát, suối nước nóng Giang Sơn, bãi biển Cửa Lò cũng như các di tích lịch sử văn hoá, tỉnh rất chú trọng trong việc giữ gìn khu rừng nguyên sinh, bầu không khí trong lành của nó để tạo cho du khách cảm giác dễ chịu, thoải mái. Tỉnh đã tập trung quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2010 nhằm đầu tư một cách toàn diện về hạ tầng cơ sở, hệ thống cấp thoát nước và một số cơ sở dịch vụ ăn uống, giải khát để phát triển du lịch một cách bền vững. Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng du lịch này lại đòi hỏi các cấp, các ngành phải tối ưu hoá quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Đến lượt mình, quá trình này lại kích thích việc tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên như cấm chặt phá rừng, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường xanh- sạch- đẹp,… đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý. Việc làm quen với các danh thắng và môi trường thiên nhiên bao quanh có ý nghĩa không nhỏ đối với khách du lịch. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc các tri thức về tự nhiên, hình thành quan niệm và thói quen bảo vệ tự nhiên, góp phần giáo dục cho khách du lịch về mặt sinh thái học. III. Nội dung kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010 1. Sự cần thiết phải xây dựng kế hoạch 5 năm trong phát triển du lịch Nghệ An Kế hoạch hoá vĩ mô nền kinh tế quốc dân là phương thức quản lý nền kinh tế của Nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế- xã hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia và những giải pháp chính sách, những cân đối vĩ mô cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra một cách có hiệu quả cao nhất. Xét về bản chất, kế hoạch hoá là sự tác động có ý thức của Chính phủ nhằm định hướng và điều khiển sự biến đổi của những biến số kinh tế chính (tiêu thụ, đầu tư, tiết kiệm, xuất, nhập khẩu v.v....) của một nước hay một khu vực nào đó để đạt được mục tiêu đã định trước. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định “Xây dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát triển”. Thời hạn 5 năm là thời hạn thường trùng lặp với nhiệm kỳ làm việc của cơ quan Chính phủ, là thời hạn mà theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau 1 năm hoặc một vài năm. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực thi hơn những kế hoạch có thời gian dài hơn. Nhận thức được vai trò quan trọng của việc lập kế hoạch._. 5 năm phát triển du lịch cũng như vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế của tỉnh, trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá, duy trì các di tích, lễ hội, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao đời sống nhân dân trong tỉnh…, Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An cùng các Sở, ban ngành có liên quan xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển du lịch nhằm khai thác tiềm năng của du lịch Nghệ An một cách có hiệu quả và bền vững. Việc sử dụng có hiệu quả tiềm năng du lịch hay không phụ thuộc rất lớn vào kế hoạch được lập ra và việc sử dụng các biện pháp để thực hiện kế hoạch đó. 2. Nội dung kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010 Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Nghệ An trong lộ trình phát triển dài hạn. Nó xác định các quan điểm phát triển, phương hướng phát triển, mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng đồng thời đề ra các giải pháp thực hiện. Nội dung chủ yếu của kế hoạch 5 năm phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010 bao gồm: 2.1. Quan điểm phát triển Phát triển du lịch theo hướng là một ngành kinh tế quan trọng trong tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, phải đảm bảo tính hiệu quả và bền vững. Đặc biệt, phát triển du lịch phải gắn với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, giáo dục truyền thống quê hương, bảo vệ môi trường sinh thái. 2.2. Phương hướng phát triển Tập trung khai thác thế mạnh của du lịch nội địa để phát triển đa dạng các loại hình du lịch, nhanh chóng tạo ra nhiều khu, điểm, tuyến du lịch trọng điểm hấp dẫn du khách, hình thành các tuyến du lịch quốc tế. 2.3. Mục tiêu phát triển Phấn đấu đến năm 2010 Nghệ An trở thành trung tâm du lịch vùng Bắc Trung Bộ, đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh trên cơ sở khai thác triệt để tài nguyên du lịch tự nhiên, lịch sử và văn hoá, lợi thế về vị trí địa lý của tỉnh, đi đôi với việc tăng cường nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật để đẩy nhanh tốc độ phát triển du lịch, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. 2.4. Các chỉ tiêu phát triển - Chỉ tiêu khách du lịch : Tổng số lượt khách phấn đấu đến năm 2010 toàn ngành đón 2,5 triệu lượt khách đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 16%/năm trong thời kỳ 2006-2010, trong đó khách quốc tế dự kiến đạt 100.000 lượt tăng bình quân 23%/năm. Số ngày lưu trú bình quân 1 khách đến năm 2010 dự kiến 2,2 ngày. - Chỉ tiêu doanh thu du lịch: Tổng doanh thu: dự kiến năm 2010 đạt 727 tỷ đồng tăng bình quân 16%/năm. Trong đó: Doanh thu dịch vụ du lịch: dự kiến đạt 655 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 17%/năm. Doanh thu hàng hoá: dự kiến đạt 72 tỷ đồng tăng bình quân 12,5%/năm. - Chỉ tiêu giá trị sản xuất: Dự kiến đến năm 2010: Giá trị sản xuất đạt 589 tỷ đồng tăng bình quân 17%/năm (Theo giá trị thực tế) và đạt 437 tỷ đồng tăng bình quân 17,2%/năm (Theo giá cố định 1994). - Chỉ tiêu giá trị gia tăng: Dự kiến đến năm 2010: Theo giá trị thực tế: Giá trị gia tăng đạt 401 tỷ đồng, tăng bình quân 17,2%/năm. Theo giá cố định 1994: Đạt 197 tỷ đồng, tăng bình quân 17%/năm. Chỉ tiêu nộp ngân sách: Dự kiến đến năm 2010 nộp 56 tỷ đồng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 17,5%/năm. 2.5. Mạng lưới du lịch Nghệ An 2.5.1. Đối với tuyến du lịch nội tỉnh: Tập trung hình thành các tuyến du lịch theo các loại hình: + Du lịch tìm hiểu di tích lịch sử văn hoá, truyền thống giữ nước và xây dựng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc. + Du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. + Du lịch sinh thái. + Du lịch lễ hội, tham quan làng nghề. + Du lịch thể thao vui chơi giải trí. + Du lịch tham quan nghiên cứu 2.5.2. Tuyến du lịch liên tỉnh: - Vinh- Ninh Bình- Hà Nội- Quảng Ninh. - Vinh- Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du- Nguyễn Công Trứ- Đền Củi. - Vinh- Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh- Móng Cái - Cửa Lò- Phong Nha (Quảng Bình). - Vinh- Hà Nội- Lạng Sơn. - Vinh- Huế- Đà Nẵng- Nha Trang- Đà Lạt- Thành phố Hồ Chí Minh- Vũng Tàu- Đồng Tháp- Cần Thơ. - Vinh- Huế- Đà Nẵng. - Vinh- Thành phố Hồ Chí Minh (đường không),… - Vinh- Cao Bằng. 2.5.3. Các tuyến du lịch quốc tế: - Vinh- Na khon- Uđon- Viêng Chăn theo đường 8, Vinh- Na khon Fanôm- Uđon- Băng Cốc. - Vinh- Viêng Chăn- Luông Prabăng theo đường 8. - Vinh- Cánh đồng chum (Xiêng Khoảng) qua đường 7. - Vinh- Viêng Chăn- Na khon- vùng Đông Bắc Thái Lan- Băng Cốc. - Vinh- Quảng Ninh- Trung Quốc,… - Vinh- Lạng Sơn- Trung Quốc… 2.6. Các giải pháp thực hiện - Giải pháp về công tác quy hoạch - Giải pháp về đầu tư gồm: + Đầu tư xây dựng các khu du lịch + Đầu tư phát triển hệ thống các công trình vui chơi giải trí. + Đầu tư bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển các lễ hội truyền thống, làng nghề. + Đầu tư phát triển phương tiện vận tải khách du lịch chất lượng cao + Đầu tư phát triển hệ thống khách sạn; đào tạo, nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ du lịch của đội ngũ cán bộ và lao động trong ngành du lịch. - Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực - Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo và xúc tiến phát triển du lịch. - Giải pháp về công tác quản lý Nhà nước. Chương II: Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển du lịch nghệ An thời kỳ 2001-2005 I. Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch nghệ an 1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch Nghệ An 1.1. Điều kiện tự nhiên và kết cấu hạ tầng Nghệ An là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Lãnh thổ của Nghệ An nằm trong toạ độ từ 18033’20” đến 19059’58” vĩ Bắc, và từ 103052’15” đến 105048’17” kinh độ Đông. Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên là 16.487 km2, chiếm khoảng 5% diện tích cả nước và với số dân là 3.014.850 người, chiếm 3,70% dân số Việt Nam, bao gồm các dân tộc Kinh, H’Mông, Thái, Ơ Đu, Thổ, Khơ Mú. Nghệ An là tỉnh dẫn đầu cả nước về mặt diện tích và thứ tư về mặt dân số, gồm các vùng sinh thái: vùng núi, trung du và đồng bằng ven biển, hầu hết các vùng đất đều chứa nhiều khoáng sản quý như: vàng, thiếc, chì, kẽm, các loại đá và gỗ quý…. Nghệ An có bờ biển dài 82 km từ huyện Quỳnh Lưu đến thị xã Cửa Lò với nhiều bãi biển đẹp. Nghệ An nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, chịu ảnh hưởng của nhiều hệ thống thời tiết. Nhiệt độ trung bình năm ở vùng núi là 2305C, còn ở đồng bằng duyên hải là 2309C, chia làm hai mùa nóng và mùa lạnh rõ rệt. Độ ẩm trung bình khoảng 71-79%. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.800mm. Nghệ An có đủ các tuyến đường giao thông: có sân bay Vinh, bến cảng, đường biển, đường sông, đường sắt và đường bộ. Đường sắt và quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh xuyên Việt là các tuyến giao thông huyết mạch của đất nước đều đi qua Nghệ An. Ngoài ra, Nghệ An có đường biên giới với Lào dài khoảng 419 km, vì thế thông qua đường bộ, đặc biệt là các quốc lộ 7, 8 và gần đây thêm quốc lộ 46, việc trao đổi với Lào và xa hơn nữa vùng Đông Bắc Thái Lan càng thuận lợi. Với các điều kiện như vậy đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển du lịch Nghệ An trong những năm qua cũng như trong thời gian sắp tới. 1.2. Tài nguyên du lịch Nghệ An. Nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, trên trục hành lang Đông - Tây, với thế núi, hình sông, sự phân bố tự nhiên của địa hình và miền khí hậu đã tạo cho Nghệ An hệ thống danh thắng có giá trị cả về kinh tế - văn hoá - du lịch và quân sự. Nghệ An hội tụ khá nhiều điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch phát triển nhiều loại hình như: du lịch biển, du lịch sinh thái kết hợp nghiên cứu lịch sử văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng. 1.2.1. Về du lịch biển: Bờ biển Nghệ An dài 82 km, vùng biển có nhiều bãi cá có giá trị kinh tế, cảng biển và các bãi tắm lý tưởng, thích hợp hấp dẫn du khách như bãi biển Nghi Thiết, bãi biển Quỳnh Bảng- Quỳnh Phương, bãi lữ Nghi Lộc, bãi biển Diễn Thành- Diễn Châu, đặc biệt là bãi tắm Cửa Lò. Bờ biển Cửa Lò dài hơn 10 km, cát trắng mịn, bằng phẳng, lộng gió, nước biển trong và sạch, một trong những nơi nghỉ mát, dưỡng bệnh nổi tiếng. Nơi đây có vị trí giao thông, thông tin liên lạc thuận lợi, cảnh quan và môi trường hấp dẫn. Cùng với những sự tích về đảo Mắt, đảo Lan Châu, huyền thoại về đảo Song Ngư (nằm ở phía Đông Nam thị xã Cửa Lò) như lời mời gọi hấp dẫn đối với du khách. Biển Cửa Lò rất giàu hải sản vời nhiều loại đặc sản quý có giá trị kinh tế cao như: tôm, mực, ghẹ, cá thu, cá lưỡng, cá song, cá ngừ…. Ngoài ra, các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh cùng lễ hội sông nước được tổ chức hàng năm sẽ là những điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách. Với những tiềm năng mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng, lãnh đạo thị xã cũng như Uỷ ban nhân dân tỉnh rất chú trọng phát triển kinh tế du lịch – ngành kinh tế mũi nhọn của Cửa Lò. Nhiều chủ trương, giải pháp huy động tổng lực khả năng của các thành phần kinh tế cùng với những cơ chế phù hợp tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư đã được thực thi. Nếu như những năm đầu thập niên 90 Cửa Lò mới là những làng chài bé nhỏ, nguồn sống chủ yếu là đánh bắt hải sản ven bờ, chưa có khái niệm phát triển du lịch thì năm 2004, Cửa Lò có một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển du lịch hiện đại. Với 165 khách sạn được đưa vào sử dụng và hơn 10 khách sạn đang xây dựng cùng hàng trăm nhà hàng với các món ăn đặc sản luôn luôn sẵn sàng phục vụ du khách. Đồng thời, thị xã luôn thường xuyên thực hiện có hiệu quả đề án xây dựng đô thị du lịch biển thành một thị xã văn hoá, giàu về kinh tế, tốt đẹp về nhân văn, với những nếp ứng xử, giao tiếp thanh lịch, văn minh; xây dựng cảnh quan văn hoá, môi trường du lịch Cửa Lò xanh- sạch- đẹp, gây ấn tượng tốt cho du khách đến tham quan, du lịch. 1.2.2. Du lịch sinh thái Du lịch sinh thái là loại hình du lịch thiên nhiên ngày càng được yêu thích đối với khách du lịch trong và ngoài nước và càng thú vị hơn nếu thiên nhiên hoang dã gắn với văn hoá bản địa đặc sắc. Hầu hết các khu rừng nguyên sinh của Nghệ An đều giữ được những nét độc đáo đó. Nhiều tuyến du lịch đi bằng đường mòn trong rừng vừa tạo cho du khách cảm giác phiêu lưu, mạo hiểm, vừa thích thú bởi được hít thở không khí trong lành và chiêm ngưỡng nhiều loại cây, thú quý hiếm. Du lịch sinh thái ở Nghệ An còn hấp dẫn bởi bản sắc văn hoá của hơn 40 vạn đồng bào dân tộc thiểu số như Mông, Thái, Khơmú, Ơ Đu,… cư trú bên mỗi cánh rừng. Mỗi dân tộc ngoài bản sắc riêng còn mang nhiều đặc điểm trong phong cách sống của cư dân ở thượng nguồn sông Cả (sông Lam). Tìm hiểu họ cũng tựa như nghiên cứu một pho sách quý. Tất cả góp phần làm nên sức hút của các tour du lịch sinh thái ở đây. Du lịch sinh thái Nghệ An nổi lên với: Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt. Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống với tổng diện tích 50.075 ha, trong đó đỉnh Pù Huống cao 1.560 m so với mặt nước biển. Pù Huống có hai kiểu rừng chính là rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới phân bổ ở độ cao trung bình trên 900m và kiểu rừng kín thường xanh nhiệt đới phân bổ ở độ cao dưới 900m. Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt có diện tích 67 nghìn ha. Đỉnh Pù Hoạt cao 2.451 m so với mặt nước biển. Đặc biệt, Nghệ An có Vườn Quốc gia Pù Mát với tổng diện tích 91 nghìn ha. Pù Mát được coi là khu rừng nguyên sinh lớn nhất Việt Nam hiện nay. Đỉnh Pù Mát cao 1.841 m so với mực nước biển. Chạy dọc suốt chiều dài 70 km đường biên với nước bạn Lào là những dãy núi cao trên 1.400 m nghiêng dốc, hiểm trở. Theo các nhà khoa học, nơi đây có hệ thực vật rất đa dạng và phong phú: Có tới 896 loài thực vật bậc cao thuộc 522 chi và 153 họ. Trong rừng có tới 220 loài cây thuốc quý như Hà Thủ ô, Thổ Phục Linh, Quế, Ba Kích, Trầm Hương và các loài cây lấy gỗ. Vườn Quốc gia Pù Mát có hệ thống động vật đa dạng với 241 loài thú của 86 họ, 28 bộ, 137 loài chim, 25 loài bò sát, 15 loài lưỡng thể. Đây là nơi sinh sống của hàng trăm loài động vật hoang dã, có rất nhiều loài quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam. Có thể nói, Vườn Quốc gia Pù Mát là rừng thiêng có hang động đẹp như thác Khe Kèm, thung lũng Khe Bu, sông Giăng với nhiều cảnh quan kỳ thú, khí hậu mát mẻ, trong lành là điểm thích hợp cho khách du lịch vui chơi, nghỉ dưỡng. 1.2.3. Du lịch văn hoá Không chỉ có cảnh quan thiên nhiên vừa hùng tráng, vừa diễm lệ, Nghệ An còn là mảnh đất có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời. Vùng đất “địa linh nhân kiệt” này hiện có trên 1.000 di tích lịch sử văn hoá cách mạng, trong đó có 131 di tích đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Tiêu biểu như Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Quỳ Châu, di tích Phan Bội Châu, đền thờ và miếu mộ Mai Hắc Đế, Khu di tích Lê Hồng Phong, di tích Phượng Hoàng Trung Đô, Đền thờ Nguyễn Sư Hồi, Đền thờ Nguyễn Xí, Đền Cuông Cửa Hiền theo sự tích An Dương Vương và nàng Mỹ Châu, Khu di chỉ Làng Vạc- Nghĩa Đàn,… Đặc biệt, Khu di tích Kim Liên, quê hương của Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của thế giới, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam- Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được công nhận là Khu di tích đặc biệt của quốc gia, có giá trị lịch sử văn hoá muôn đời. Bên cạnh văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể ở Nghệ An cũng hết sức phong phú, mang đậm bản sắc xứ Nghệ. Phổ biến là lễ hội lịch sử, lễ hội dân gian, lễ hội tín ngưỡng. Tiêu biểu như lễ hội Đền Cờn (Quỳnh Lưu), lễ hội Hang Bua (Quỳ Châu), lễ hội Làng Sen (Nam Đàn), lễ hội uống nước nhớ nguồn, lễ hội sông nước Cửa Lò,… Đặc biệt là lễ hội sấm ra của người Ơ Đu là lễ thờ mặt trời rất cổ của nhiều dân tộc Đông Nam á. Cùng với nhiều làng nghề thủ công truyền thống như nghề đan nứa trúc ở Xuân Nha (Hưng Nguyên), chạm trổ đá Diễn Bình; dệt ở Diễn Châu; làm gốm gia dụng bằng tay và bàn xoay ở Yên Thành; nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ mây tre đan ở Nghi Lộc, Diễn Châu; sản xuất chế biến hải sản với những sản phẩm đặc sản ở Cửa Lò, Quỳnh Lưu; nghề dệt thổ cẩm, nghề thêu đan của đồng bào các dân tộc Thái, Mường, … Ngoài ra Nghệ An còn có kho tàng dân ca trữ tình độc đáo với hát Giặm, hát Ví ở khắp nơi trên đất Nghệ An, nếp sống và những sản phẩm văn hoá dân tộc đặc sắc của các dân tộc ở miền núi phía tây của tỉnh gồm Thái, Khơmú, Thổ, Mông, Ơ Đu. 1.2.4. Du lịch nghỉ dưỡng Bên cạnh loại hình du lịch văn hoá để hiểu thêm về lịch sử dân tộc, du lịch nghỉ dưỡng có tiềm năng phát triển rất lớn ở Nghệ An. Đến với Vườn quốc gia Pù Mát, suối nước khoáng nóng Giang Sơn hay bãi biển Cửa Lò, du khách không chỉ được khám phá những điều mới lạ trong thiên nhiên mà còn được tận hưởng bầu không khí trong lành, đắm mình trong những con sóng hay những thác nước mát mẻ tạo cho con người cảm giác thư thái, dễ chịu, thậm chí còn chữa được rất nhiều bệnh. Trong thời gian tới, Nghệ An tiếp tục đầutư vào loại hình du lịch này tại các điểm du lịch đang được hình thành, đó là: Khu du lịch biển Quỳnh (Quỳnh Lưu), Khu du lịch Bãi Lữ- Nghi Lộc, Khu du lịch biển Nghi Thiết, Khu du lịch biển Diễn Thành. Đây sẽ là những điểm du lịch đầy hấp dẫn cho loại hình du lịch nghỉ dưỡng. 2. Mạng lưới du lịch trên lãnh thổ tỉnh Nghệ An. Trong quy hoạch đã xác định rõ, Nghệ An có 4 khu du lịch trọng điểm, bao gồm: Khu du lịch Nam Đàn: với cụm di tích quê Bác, cụm di tích vua Mai Hắc Đế, cụm di tích Phan Bội Châu cùng các danh thắng của huyện Nam Đàn: Núi Đụn, Sông Lam… Khu du lịch Thành phố Vinh: Thành phố Vinh là trung tâm chính trị, kinh tế- xã hội với các điểm du lịch nổi bật như Công viênTrung tâm, Khu vui chơi giải trí du lịch Hồ Cửa Nam, Khu du lịch Bến Thuỷ- Núi Quyết, khu Công viên Hồ Thành gắn với bảo tồn Thành cổ Vinh… Khu du lịch biển Cửa Lò: bao gồm du lịch Cửa Lò, bãi tắm Nghi Thiết, Nghi Tiến, Cửa Hiền, Biển Quỳnh, bãi Lữ Nghi Lộc… Khu du lịch Vườn quốc gia Pù Mát: du lịch Phà Lài- Sông Giăng, Vườn Quốc gia Pù Mát, du lịch Thác Kèm- Đỉnh Pomu… Mạng lưới du lịch Nghệ An phát triển theo hướng: 2.1. Hình thành các tuyến du lịch theo các loại hình: - Du lịch tìm hiểu di tích lịch sử văn hoá, truyền thống giữ nứơc và xây dựng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc. - Du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. - Du lịch sinh thái. - Du lịch lễ hội, tham quan làng nghề - Du lịch thể thao vui chơi giải trí - Du lịch tham quan nghiên cứu. 2.2. Hình thành các tour du lịch chính như: - Vinh (hoặc Cửa Lò)- Nam Đàn (Khu mộ bà Hoàng Thị Loan thân mẫu Bác Hồ- Khu mộ cụ Hà Thị Hy bà nội Bác Hồ- Quê ngoại- Quê nội Bác Hồ- Khu mộ đền thờ vua Mai Hắc Đế- Khu mộ thân mẫu vua Mai- Nhà lưu niệm chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu- Nhà lưu niệm đồng chí Tổng Bí thư Lê Hồng Phong) - Khu di tích lịch sử phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 (Thái Lão). - Vinh- Cửa Lò- Bãi Chùa Đảo Ngư (hoặc Cửa Lò- Bãi Chùa Đảo Ngư). - Vinh (hoặc Cửa Lò)- Vườn quốc gia Pù Mát (thăm Vườn quốc gia, làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống, đi thuyền trên sông Giăng trong Vườn quốc gia, thăm phong tục sinh hoạt văn hoá truyền thống đồng bào dân tộc Thái, Tộc người Đan Lai, Bảo tàng Gene động, thực vật…). - Vinh (hoặc Cửa Lò)- Cột mốc số 0 con đường Hồ Chí Minh- Khu du lịch nước khoáng nóng Giang Sơn- Đô Lương. - Vinh (hoặc Cửa Lò)- Đền Cuông- Cửa Hiền- Bãi tắm Nghi Thiết. - Vinh (hoặc Cửa Lò)- Quỳ Châu- Quế Phong (thăm hệ thống hang động hang Bua, hang Thẩm ồm, hang Tiên Nữ, thác Xao Va, làng dệt thổ cẩm Châu Tiến; thăm phong tục tập quán sinh hoạt văn hoá truyền thống đồng bào dân tộc Thái, nhà Bảo tàng dân tộc Quỳ Châu, các lễ hội dân gian của các dân tộc, rừng Quế Phong.v.v…) - Khu du lịch biển Quỳnh Bảng (Quỳnh Phương)- Vinh- Nối các tour từ Vinh. - Khu du lịch biển (Quỳnh Bảng- Quỳnh Phương)- Đền Cờn- Hồ Vực Mấu- Di chỉ Quỳnh Văn- Làng văn hoá Quỳnh Đôi. - Vinh City tour: Thăm Thành cổ Vinh, các bảo tàng, các siêu thị. 2.3. Các tuyến du lịch liên tỉnh: - Vinh (hoặc Cửa Lò)- Thăm quê hương, nhà bảo tàng và viếng mộ Đại thi hào Nguyễn Du- Thăm quê, khu mộ, đền thờ Nguyễn Công Trứ- Thăm đền Chợ Củi. - Vinh (hoặc Cửa Lò)- Động Phong Nha-Kẽ Bàng - Vinh- Động Hương Tích (Can Lộc- Hà Tĩnh). - Vinh- Hà Nội- Lạng Sơn. - Vinh- Huế- Đà Nẵng- Nha Trang- Đà Lạt- Thành phố Hồ Chí Minh- Vũng Tàu- Đồng Tháp- Cần Thơ. - Vinh- Huế- Đà Nẵng - Vinh- Cao Bằng. - Vinh- Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh Và một số tuyến du lịch khác. 2.4. Du lịch quốc tế - Vinh- Na khon- Uđon- Viêng Chăn theo đường 8, Vinh- Na khon Fanôm- Uđon- Băng Cốc. - Vinh- Viêng Chăn- Luông Prabăng theo đường 8. - Vinh- Cánh đồng chum (Xiêng Khoảng) qua đường 7. - Vinh- Viêng Chăn- Na khon- vùng Đông Bắc Thái Lan- Băng Cốc. - Vinh- Quảng Ninh- Trung Quốc,… 3. Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch Nghệ An Nhìn chung Nghệ An là tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng kể cả tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn (các di tích lịch sử văn hoá, các lễ hội truyền thống, các làng nghề…). Về tự nhiên, Nghệ An có một tiềm năng phong phú, đa dạng bao gồm cả biển, hải đảo, sông ngòi, rừng, núi, hang động, thác nước…, có nhiều nét đặc sắc với những thắng cảnh nổi tiếng. Đây là những điều kiện lý tưởng để Nghệ An có thể khai thác phát triển đa dạng các loại hình du lịch khác nhau như du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu, nghỉ dưỡng, tắm biển, thể thao, leo núi… Những di tích danh thắng như núi Hồng, sông Lam, các hang động… là những điểm du lịch văn hoá sinh thái hấp dẫn. Về di tích lịch sử, các di tích lịch sử văn hoá của Nghệ An tuy về mặt quy mô không lớn như một số địa phương khác, song cũng có giá trị đặc sắc về mặt du lịch. Đặc biệt là khu di tích làng Sen- Kim Liên (Huyện Nam Đàn) là quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra Nghệ An còn có nhiều di tích liên quan đến lịch sử thời kỳ đấu tranh chống ách đô hộ phương Bắc, rất hấp dẫn và phù hợp để phát triển các loại hình du lịch tham quan văn hoá, du lịch chuyên đề, du lịch nghiên cứu… Với những cảnh quan thiên nhiên non xanh nước biếc, những công trình văn hoá độc đáo và câu ca tiếng hò quyến rũ, với hệ thống giao thông đa dạng với nhiều tuyến quốc lộ, đường sắt xuyên Việt chạy qua, có sân bay, bến cảng, cảng biển rất thuận lợi, Nghệ An sẽ trở thành một điểm hẹn đầy hấp dẫn về du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng và thưởng thức những giá trị văn hoá, tinh thần cao đẹp đối với du khách. II. Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2001-2004 1. Đánh giá chung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2001-2004: Nhìn chung tình hình thực hiện kế hoạch thời kỳ 2001-2004 ngành Du lịch Nghệ An đã có bước phát triển vượt bậc, cơ sở vật chất ngày càng được củng cố và tăng cường cả về số lượng và chất lượng, một số các khu, điểm du lịch được hình thành, bước đầu thu hút các nhà đầu tư tạo thêm các sản phẩm du lịch mới, khách đến với Nghệ An ngày càng đông, doanh thu du lịch ngày càng tăng; đội ngũ cán bộ công chức, nhân viên ngành du lịch đã có bước trưởng thành, công tác tuyên truyền quảng bá được đẩy mạnh làm cho hình ảnh Nghệ An ngày càng có ấn tượng sâu sắc đối với du khách trong và ngoài nước. Hoạt động du lịch phát triển làm tăng thêm vẻ đẹp cảnh quan đô thị, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Qua 04 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XV, ngành du lịch sớm khẳng định được vị trí của mình đã và đang trở thành ngành kinh tế quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội tỉnh nhà, thực hiện theo đúng định hướng phát triển ngành mà nghị quyết đại hội đã đề ra “Đến năm 2005 tăng doanh thu khai thác du lịch lên gấp 3 lần so với năm 2000”. Ngành du lịch Nghệ An đã rất chú trọng tới công tác quy hoạch, công tác đầu tư, quảng bá và đào tạo nguồn nhân lực. Cụ thể: 1.1. Công tác quy hoạch phát triển du lịch Nghị quyết 12 NQ/TƯ ngày 30/7/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã xác định nhiệm vụ cho ngành: “Bổ sung, hoàn thiện quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết các khu du lịch đến tận địa bàn các huyện để xác định rõ tiềm năng và kế hoạch đầu tư khai thác”. Từ năm 2001 đến năm 2004 Du lịch Nghệ An đã tiến hành quy hoạch chi tiết một số khu, điểm du lịch tại các huyện và thị xã Cửa Lò, bao gồm: Quy hoạch chi tiết khu du lịch biển Quỳnh (bao gồm xã Quỳnh Bảng, Quỳnh Liên, Quỳnh Phương thuộc huyện Quỳnh Lưu), bãi biển Diễn Thành (Diễn Châu); quy hoạch chi tiết khu du lịch Mũi Rồng- Nghi Thiết (Nghi Lộc), khu du lịch đảo Lan Châu (thị xã Cửa Lò); công viên bãi tắm Bình Minh (Cửa Lò). Ngoài ra còn quy hoạch khu du lịch nước khoáng nóng Giang Sơn- Đô Lương (Đô Lương); quy hoạch Bảo tồn tôn tạo Khu di tích lịch sử văn hoá Kim Liên, gắn với phát triển du lịch (Nam Đàn); Công viên cột mốc số 0 (Tân Kỳ). Đang triển khai quy hoạch chi tiết khu du lịch văn hoá Quỳ Châu- Quế Phong; Đề án “Khai thác du lịch Vườn quốc gia Pù Mát”. Đồng thời dự kiến trong năm 2005 bổ sung và hoàn thiện Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006-2010 có tính đến năm 2020. Qúa trình thực hiện các dự án đã được triển khai trong các khu, điểm du lịch: phần lớn đều tuân thủ theo quy hoạch, một số dự án khi thực hiện phải điều chỉnh lại quy hoạch cho phù hợp. Công tác quản lý quy hoạch thực hiện còn lúng túng do chưa có sự thống nhất trong việc phân công cơ quan chịu trách nhiệm quản lý quy hoạch. 1.2. Công tác đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật: 1.2.1. Về đầu tư kết cấu hạ tầng du lịch: Từ năm 2001 đến năm 2004 hệ thống đường giao thông trong tỉnh nói chung và đến các khu, điểm du lịch nói riêng được phát triển đáng kể như hệ thống giao thông trong khu du lịch biển thị xã Cửa Lò, đường du lịch Đền Cuông- Cửa Hiền (Diễn Châu), đường vào khu nước khoáng nóng Giang Sơn- Đô Lương, đường vào Thác Kèm, vào Phà Lài- Khe Khặng (Con Cuông). Nâng cấp, mở rộng, hiện đại hệ thống đường giao thông nối các khu, các điểm du lịch Nam Đàn, Vinh, Cửa Lò… Sân bay Vinh, bến cảng, nhà ga được nâng cấp mở rộng là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến Nghệ An. Ngoài ra, hệ thống thông tin liên lạc cũng được đầu tư đáng kể. Nghệ An là một trong những tỉnh có mạng lưới bưu chính viễn thông được hiện đại hoá đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. 1.2.2. Về đầu tư xây dựng cơ sở lưu trú: Với lợi thế Vinh là điểm dừng tương đối hợp lý trên tuyến du lịch xuyên Việt đưa du khách đến với quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến với bãi tắm Cửa Lò. Trong những năm qua các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng cơ sở lưu trú khá mạnh, tính trên địa bàn toàn tỉnh năm 2000 có 2.470 phòng với 5.529 giường, thì đến năm 2004 đã lên tới 5.707 phòng với 11.986 giường, hệ thống cơ sở lưu trú không những được tăng nhanh về số lượng mà chất lượng cũng ngày càng được chú trọng. Năm 2000 toàn tỉnh chỉ có 07 khách sạn được xếp hạng sao, bao gồm: 5 khách sạn đạt tiêu chuẩn 2 sao và 2 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 sao, đến năm 2004 toàn tỉnh đã có 18 khách sạn xếp hạng sao, bao gồm: 2 khách sạn 3 sao, 14 khách sạn 2 sao và 2 khách sạn 1 sao. Trong thời kỳ 2001-2004 các khu vui chơi, giải trí, du lịch được hình thành và bước đầu được đầu tư như: Khu du lịch biển Quỳnh (Quỳnh Lưu), Diễn Thành (Diễn Châu), Giang Sơn- Đô lương (Đô Lương), Mũi Rồng- Nghi Thiết (Nghi Lộc), khu Công viên Trung tâm (Thành phố Vinh)… đã góp phần khởi sắc cho du lịch Nghệ An phát triển. 1.3. Công tác đào tạo nguồn nhân lực Nghị quyết 12 NQ/TƯ đã chỉ rõ nhiệm vụ: “Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước và đội ngũ những người kinh doanh du lịch thuộc các thành phần kinh tế về nghiệp vụ, ngoại ngữ, phong cách giao tiếp và tinh thần phục vụ”. Những năm vừa qua cùng với sự phát triển ngành du lịch, đội ngũ lao động trong ngành được tăng nhanh, năm 2000 toàn ngành có 2.500 lao động, đến năm 2004 đã tăng lên 3.658 người, chưa kể hàng ngàn lao động thời vụ được sử dụng trong mùa cao điểm, chất lượng lao động ngày càng được tăng cường, 9% lao động có trình độ đại học, cao đẳng, 52% lao động đựơc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, trình độ ngoại ngữ bước đầu đã có tiến bộ, gần 10% lao động trực tiếp có bằng ngoại ngữ từ trình độ A trở lên. Để đáp ứng tốc độ gia tăng về lực lượng lao động, nâng cao chất lượng phục vụ, những năm vừa qua ngành du lịch đã đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ du lịch cho đội ngũ quản lý và công nhân lao động, kết quả từ năm 2001 đến 2004 đã có 130 lượt cán bộ được đào tạo bồi dưỡng về quản lý du lịch, quản lý khách sạn, nhà hàng, trên 300 công nhân lao động đựơc gửi đi đào tạo nghiệp vụ du lịch ở các trường du lịch Trung ương, gần 360 lao động được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ lễ tân, buồng, bàn- bar, hướng dẫn du lịch, kỹ thuật nấu ăn. 1.4. Công tác tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch Để đạt được mục tiêu thu hút khách du lịch ngày càng đông đến với Nghệ An, công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch trong những năm qua được tăng cường đẩy mạnh và đạt được một số kết quả bước đầu: tham gia có hiệu quả các hội chợ, hội thảo du lịch trong nước và quốc tế, tham gia các hội thi do Tổng cục Du lịch tổ chức, qua đó giới thiệu du lịch Nghệ An với thị trường du lịch trong và ngoài nước. Năm 2001-2003 đã in ấn phát hành 3.000 cuốn sách “Hướng dẫn du lịch Nghệ An”, hơn 10.000 tờ gấp giới thiệu tiềm năng du lịch Nghệ An, chưa kể hàng vạn tờ gấp quảng cáo của các khách sạn, trung tâm lữ hành trên địa bàn, lắp đặt biển tấm lớn quảng cáo du lịch tại các đầu mối giao thông các khu du lịch, hoàn chỉnh hệ thống biển chỉ dẫn vào các khu, điểm du lịch trên các tuyến quốc lộ 1A, quốc lộ 46. Đặc biệt năm 2003 trang website du lịch Nghệ An theo đường truyền Tổng cục Du lịch được chính thức khai trương góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền quảng bá du lịch làm cho hình ảnh Nghệ An ngày càng có ấn tượng sâu sắc đối với du khách và nhân dân cả nước. Mặt khác ngành thường xuyên phối hợp với các báo, đài Trung ương, địa phương để kịp thời phản ánh, đưa tin các hoạt động và sự kiện du lịch của địa phương, duy trì bản tin nội bộ ngành định kỳ với chất lượng đổi mới. Trước yêu cầu của hoạt động tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch, ngày 29/4/2004 UBND tỉnh đã có quyết định thành lập Trung tâm xúc tiến Du lịch trực thuộc Sở Du lịch nhằm tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch trong thời gian tới, trước mắt kịp thời tổ chức tốt “Năm Du lịch Nghệ An 2005”. Trong một thời gian hoạt động rất ngắn, Trung tâm đã in ấn, phát hành 25.000 tờ gấp với 6 thứ tiếng: Việt, Anh, Trung, Nhật, Pháp và Thái Lan để tuyên truyền quảng bá về “Năm Du lịch Nghệ An 2005”; 9.000 tấm bản đồ Nghệ An bỏ túi phục vụ du khách; phát hành 2.000 cuốn sách hướng dẫn du lịch với chất lượng cao; Phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ in ấn phát hành 50.000 tờ gấp văn minh du lịch; chuẩn bị 300 băng rôn, cờ phướn phục vụ công tác quảng cáo Năm Du lịch Nghệ An 2005; phối hợp với Đài Truyền hình Trung ương và địa phương xây dựng phim và phóng sự giới thiệu du lịch Nghệ An với du khách trong và ngoài nước. Tổ chức họp báo trong nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; họp báo quốc tế tại Côn Minh- Vân Nam (Trung Quốc) và Udon Thani (Thái Lan) để tuyên truyền quảng bá “Năm Du lịch Nghệ An 2005”. Song song với công tác tuyên truyền quảng bá, ngành đã tích cực triển khai thiết lập các mối quan hệ hợp tác phát triển với các trung tâm du lịch lớn trong nước như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, TP Hồ Chí Minh… và mở rộng quan hệ hợp tác với 7 tỉnh 3 nước: Việt Nam- Lào- Thái Lan có sử dụng đường 8, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và trung tâm lữ hành khai thác nguồn khách đến với Nghệ An. Hoạt động xúc tiến đầu tư bước đầu được quan tâm, đến nay đã có trên 10 dự án về du lịch đang được các nhà đầu tư nghiên cứu khảo sát, trong đó một số dự án đã được triển khai thực hiện. 1.5. Công tác quản lý Nhà nước các hoạt động du lịch trên địa bàn: Đồng thời với việc chăm lo xây dựng chiến lược phát triển du lịch. Công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động du lịch trên địa bàn được tăng cường thường xuyên, tạo môi trường phát triển du lịch lành mạnh, an toàn và bền vững. Ngành đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành 3 chỉ thị và 2 quyết định về quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn về bảo vệ môi trường và an ninh trật tự tại các điểm tham quan, du lịch. Triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị định 39/CP của Chính phủ về cơ sở lưu trú; Nghị định 27/CP về kinh doanh lữ hành và hướng dẫn du lịch, phối hợp với Cục Thống kê tổ chức tập huấn ._.ược sức hấp dẫn lâu dài, mục tiêu hàng đầu là bảo vệ môi trường sinh thái của bãi tắm. Vì vậy, cần phải tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống Công viên bãi tắm dọc đường Bình Minh từ Cửa Lò đến Cửa Hội, đồng thời xây dựng một số cơ sở dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí, thể thao phù hợp. Tiếp tục nâng cấp mạng lưới điện và hệ thống cấp, thoát nước đủ công suất phục vụ cho nhu cầu kinh doanh dịch vụ du lịch. Phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch trên cơ sở đầu tư xây dựng khu du lịch thể thao đảo Lan Châu, khu du lịch Đảo Ngư, phát triển các sản phẩm du lịch vui chơi giải trí trên biển như: đua thuyền bằng ca nô, lặn thám hiểm đáy biển, mô tô nước, lướt ván, đua thuyền, câu cá, mực và các môn thể thao trên bãi biển; làng du lịch sinh thái văn hoá Nghi Thu, khu du lịch vườn trồng cây ăn quả, nuôi động vật gắn với mô hình du lịch làng nghề, du lịch vườn, du lịch văn hoá lịch sử. Xúc tiến đầu tư xây dựng khu du lịch bãi tắm Nghi Thiết, Nghi Tiến, Cửa Hiền, Biển Quỳnh, Bãi lữ Nghi Lộc… Tôn tạo các di tích lịch sử hiện có, nâng cấp lễ hội “Sông nước Cửa Lò” gắn du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển với du lịch tìm hiểu văn hoá lịch sử để thu hút kéo dài ngày lưu trú của khách. Ngoài ra ở các khu vực phụ cận đầu tư xây dựng hoàn chỉnh khu du lịch Đền Cuông- Cửa Hiền bao gồm tôn tạo di tích, trồng cây và phát triển các dịch vụ, mở rộng đầu tư khu bãi biển Diễn Thành phục vụ cho tour du lịch nội tỉnh và lễ hội hàng năm. Mở rộng quy hoạch chi tiết khu du lịch biển Quỳnh xuống hai xã Quỳnh Minh và Tiến Thuỷ đồng thời tập trung đầu tư các dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu của cán bộ công nhân viên các khu công nghiệp phía Bắc Nghệ An và nhân dân trong vùng gắn với tuyến du lịch tham quan các di tích lịch sử văn hoá Đền Cờn, làng văn hoá Quỳnh Đôi,… - Đối với khu du lịch Nam Đàn: Đây là khu du lịch tổng hợp bao gồm quần thể nhiều di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng của xứ Nghệ, đặc biệt là Khu di tích Kim Liên- nơi sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh- Anh hùng giải phóng dân tộc- Danh nhân Văn hoá thế giới, hàng năm có hàng triệu lượt khách đến thăm viếng. Vì vậy, trong thời kỳ 2006-2010 cần tập trung bảo tồn tôn tạo Khu di tích lịch sử văn hoá Kim Liên, gắn với phát triển du lịch theo quy hoạch đã được phê duyệt, nhằm khai thác lợi thế về tài nguyên du lịch nhân văn và tự nhiên thành các sản phẩm du lịch hấp dẫn, có giá trị giáo dục truyền thống đối với các thế hệ mai sau và phục vụ nhu cầu của khách du lịch, góp phần tăng nguồn thu cho địa phương và giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, bổ sung phong phú tư liệu khu tưởng niệm cụ Phan Bội Châu; đầu tư hoàn chỉnh khu du lịch Núi Đụn theo quy hoạch đã được phê duyệt, phát triển du lịch sang vùng bên kia sông Lam tạo thêm sản phẩm thu hút khách du lịch đến với Nam Đàn, quy hoạch phát triển khu du lịch sinh thái Hồ Tràng Đen. - Đối với khu di tích sinh thái Vườn quốc gia Pù Mát và phụ cận: Trên cơ sở dự án “ Bảo tồn thiên nhiên Pù Mát” đã được Ban quản lý dự án thực hiện trong thời kỳ 2001-2005 và Đề án “ Khai thác du lịch Vườn quốc gia Pù Mát” được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt tập trung đầu tư một số công trình để từng bước hình thành các tuyến, điểm du lịch sinh thái, leo núi, nghỉ dưỡng, nghiên cứu… có sức hấp dẫn du khách, đặc biệt là khách quốc tế. Trong thời kỳ 2006-2010 tập trung đầu tư: - Khu dịch vụ và tham quan tại khu vực văn phòng Ban quản lý dự án bao gồm kết cấu hạ tầng, cấp thoát nước, điện, hệ thống khách sạn, khu văn hoá thể thao, phòng trưng bày giới thiệu hướng dẫn v.v… - Tuyến du lịch Phà Lài- Sông Giăng bao gồm bến Phà Lài, Tháp quan sát khu nuôi thả động vật, xây dựng làng du lịch Sông Giăng và các dịch vụ du lịch phục vụ khách. Khôi phục làng nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Thái tại bản Nà Dưới- Mậu Đức, bản Yên Thành- Lục Dạ. - Tuyến du lịch Thác Kèm- Đỉnh Pomu bao gồm: hệ thống cáp treo trạm dịch vụ du lịch, du lịch leo núi, nghiên cứu,… - Tuyến du lịch rừng săng lẻ Tam Quang gồm: xây dựng trạm dịch vụ du lịch, khu camping, các điểm nghỉ dưỡng,… Ngoài ra trên tuyến du lịch sinh thái liên vùng phía Tây- Nam Nghệ An, khu du lịch nước khoáng nóng Giang Sơn- Đô Lương đã được quy hoạch chi tiết, một số các nhà đầu tư đã khởi công xây dựng trong thời gian 2006-2010 tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh thành một điểm du lịch với sản phẩm mới ngâm tắm chữa bệnh bằng nước khoáng nóng hấp dẫn du khách. - Đối với khu du lịch sinh thái văn hoá Quỳ Châu- Quế Phong: Là khu du lịch nằm ở phía Tây- Bắc Nghệ An, tập trung nhiều dân tộc ít người với nét sinh hoạt văn hoá đặc trưng, có hệ thống hang động, thác nước tự nhiên đẹp, hoang sơ, đây cũng là điểm du lịch hấp dẫn khách quốc tế. Trong thời kỳ 2006- 2010 triển khai đầu tư các điểm du lịch theo quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt bao gồm: - Khu vực thác Xao Va, hang Bua, hang Thẩm ồm,…; Tôn tạo nâng cấp nhà văn hoá Quỳ Châu, khôi phục phát triển làng nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Thái ở bản Hoa Tiến- Châu Tiến (Quỳ Châu), bản mường Nọc (Quế Phong). - Mở các tuyến du lịch gắn du lịch sinh thái với lễ hội truyền thống, văn hoá làng nghề đồng thời phát triển các tuyến du lịch tham quan nối các điểm liên vùng như: Đền Cuông (Diễn Châu), di chỉ đồ đồng làng Vạc (Nghĩa Đàn), nước khoáng Bản Khạng (Quỳ Hợp), khu công nghiệp mía đường Phủ Quỳ,… phấn đấu đến năm 2010 lượng khách du lịch đến Quỳ Châu, Quế Phong chiếm 10-15% lượng khách du lịch đến Nghệ An. 2. Giải pháp về đầu tư: Đầu tư là một giải pháp quan trọng trong phát triển du lịch. Do đó, cần phải điều chỉnh đầu tư theo hướng du lịch sinh thái, văn hoá, hướng tới một ngành du lịch mang đậm bản sắc thân thiện giữa người với người, con người với môi trường. Tránh đầu tư giàn trải và không đồng bộ, ưu tiên cho khu du lịch trọng điểm để đảm bảo hiệu quả đầu tư về lâu dài và có cơ sở để thu hút đầu tư. Cần thiết phải đầu tư mở rộng không gian hoạt động du lịch, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh và sản phẩm du lịch, phá thế kinh doanh du lịch một mùa và kinh doanh lưu trú là chủ yếu như hiện nay trên cơ sở tận dụng khai thác tốt tiềm năng du lịch của tỉnh. Vì vậy cần tập trung ưu tiên theo thứ tự và các lĩnh vực sau: 2.1. Đầu tư xây dựng các khu du lịch: Đây là một hướng cần được quan tâm ưu tiên đầu tư nhằm tạo sự thay đổi cơ bản về chất trong hoạt động phát triển du lịch không chỉ đối với vùng mà còn đối với du lịch của tỉnh. Với phương châm đầu tư dứt điểm, không giàn trải, để nhanh chóng tạo ra những khu du lịch mới có sức hấp dẫn thu hút khách du lịch. ưu tiên đầu tư vào các khu du lịch đã được quy hoạch và có khả năng phát huy hiệu quả nhanh. 2.2. Đầu tư phát triển hệ thống các công trình vui chơi giải trí: Một trong những khâu còn hết sức yếu kém trong hoạt động du lịch của Nghệ An là sự nghèo nàn của hệ thống các công trình vui chơi giải trí. Vì vậy phải coi đây cũng là một lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư: Thời kỳ 2006-2010 tập trung hoàn chỉnh một số công trình vui chơi giải trí hiện đại có quy mô lớn, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc có sức thu hút khách du lịch tại Công viên Hồ Trung Tâm, khu vui chơi giải trí Hồ Cửa Nam. Từng bước hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng khu du lịch Bến Thuỷ- Núi Quyết để gọi vốn đầu tư xây dựng các công trình vui chơi giải trí và dịch vụ du lịch. Xây dựng mới ở Cửa Lò, một số cơ sở vui chơi giải trí, thể thao có sức thu hút khách du lịch cả 4 mùa. Trước mắt ưu tiên hệ thống công viên và các cụm dịch vụ dọc theo bãi biển. Xây dựng cơ sở hạ tầng Công viên thế giới tuổi thơ khi dự án được phê duyệt để chuẩn bị đầu tư cho những năm tiếp theo. 2.3. Đầu tư bảo vệ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển các lễ hội truyền thống, có sức thu hút khách du lịch: Nghệ An là một tỉnh có mật độ di tích lịch sử văn hoá rất cao: 131 di tích lịch sử được xếp hạng. Do điều kiện của tỉnh còn nhiều khó khăn về vốn, vì vậy cần ưu tiên đối với những di tích đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quốc gia, quốc tế, có giá trị phục vụ giáo dục truyền thống và có điều kiện đầu tư phát triển du lịch, trước mắt cần tập trung ưu tiên đầu tư tôn tạo Khu di tích Kim Liên, khu di tích lăng mộ đền thờ vua Mai Hắc Đế và thân mẫu vua Mai Hắc Đế, khu lưu niệm cụ Phan Bội Châu, khu di tích lịch sử đền Cuông - Cửa Hiền, cùng với việc đầu tư tôn tạo các khu di tích, cần quan tâm đầu tư mạng lưới đường giao thông đến các khu di tích, cảnh quan môi trường sinh thái tại các khu di tích, khôi phục, duy trì và tổ chức tốt các lễ hội truyền thống mang tính văn hóa đặc sắc của xứ Nghệ để thu hút khách du lịch. 2.4. Đầu tư phát triển phương tiện vận tải khách du lịch chất lượng cao: Trước hết ưu tiên cho các công ty lữ hành quốc tế vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời gian vay hợp lý để mua sắm một số đầu xe chất lượng cao vận chuyển khách du lịch. 2.5. Đầu tư phát triển hệ thống khách sạn và các công trình dịch vụ du lịch: Dự kiến năm 2010 du lịch Nghệ An đón 2,5 triệu lượt khách cần khoảng 9.000 phòng, với 18.200 giường. ở thành phố Vinh cần tập trung hoàn thiện một số khách sạn đang đầu tư xây dựng dở dang và nâng cấp số khách sạn hiện có, nâng cao chất lượng sản phẩm lưu trú cả về nội thất, chất lượng kỹ thuật và thái độ phục vụ, bổ sung các dịch vụ hỗ trợ trong khách sạn. Ưu tiên xem xét các dự án đầu tư khách sạn ở Cửa Lò, khu bãi biển Nghi Thiết, khu du lịch biển Quỳnh (Quỳnh Lưu), khu du lịch biển Diễn Thành (Diễn Châu).v.v... 2.6. Đầu tư cho công tác đào tạo, nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ du lịch của đội ngũ cán bộ và lao động trong ngành du lịch: Đây là lĩnh vực đầu tư quyết định đến sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của du lịch, đặc biệt trong điều kiện của Nghệ An mới ở bước đi đầu tiên trong lĩnh vực phát triển du lịch, trình độ quản lý nghiệp vụ, ngoại ngữ còn yếu kém thì lĩnh vực đầu tư này còn ý nghĩa hết sức quan trọng. 2.7. Tăng cường đầu tư cho công tác tuyên truyền quảng cáo, xúc tiến du lịch. Cần phải tăng cường công tác đầu tư cho tuyên truyền quảng cáo để nâng cao hình ảnh Nghệ An nói chung và du lịch Nghệ An nói riêng, quảng bá các sản phẩm của du lịch Nghệ An, giới thiệu lịch sử- văn hoá truyền thống đặc sắc của Nghệ An nhằm thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. 3. Giải pháp về cơ chế chính sách: 3.1. Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư: - Tạo cơ chế chính sách (trong khuôn khổ pháp luật cho phép) huy động các nguồn lực khác nhau để đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho phát triển du lịch, với phương châm Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, các thành phần kinh tế đầu tư cơ sở dịch vụ và kinh doanh. Phấn đấu huy động từ các nguồn lực khoảng 2.500 tỷ đồng đầu tư cho phát triển du lịch thời kỳ 2006-2010. - Ưu đãi khuyến khích các nhà đầu tư, đầu tư vào các vùng hạ tầng còn yếu kém, những vùng có nhiều khó khăn nhưng lại giàu về tiềm năng du lịch, có sức thu hút khách du lịch đặc biệt là khách quốc tế tạo điều kiện kéo dài ngày khách lưu trú, tăng nhanh tỷ trọng khách quốc tế như vùng Quỳ Châu- Quế Phong, Vườn quốc gia Pù Mát, Đảo Ngư,... - Giảm tiền thuế và tiền thuê đất đối với doanh nghiệp đầu tư vào loại hình vui chơi giải trí, có tính chất phục vụ phúc lợi xã hội.v.v... - ở những khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng như các khu du lịch biển Cửa Lò, Nghi Thiết, khu du lịch biển Quỳnh Phương- Quỳnh Bảng, Vườn quốc gia Pù Mát.v.v... Tỉnh sẽ có chính sách ưu đãi hợp lý, khuyến khích các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư vừa có hiệu quả, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. 3.2. Cơ chế chính sách về thị trường: Trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra cơ chế chính sách thích hợp nhằm khai thác tối đa tiềm năng các thị trường, hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tham gia hội chợ, hội thảo, xúc tiến quảng bá du lịch, có cơ chế giảm giá, khuyến mại đối với khách thị trường mới khai thác, các điểm du lịch mới hình thành để thu hút khách du lịch. 4. Giải pháp về đào tạo phát triển nguồn nhân lực: - Tiến hành điều tra, phân loại trình độ nghiệp vụ của toàn bộ cán bộ công nhân và lao động hiện có trong ngành Du lịch Nghệ An để có kế hoạch đào tạo cụ thể. Phối hợp với các trường, các trung tâm dạy nghề trong tỉnh và của ngành để có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cho lực lượng lao động này. - Khuyến khích tiếp nhận các sinh viên tốt nghiệp ở các trường Đại học hệ chính quy. - Du lịch là ngành kinh doanh có điều kiện, vì vậy phải có cơ chế bắt buộc tất cả những người làm trong ngành du lịch Nghệ An phải có chứng chỉ đào taọ về chuyên môn nghiệp vụ của ngành và hàng năm phải bồi dưỡng nâng cao trình độ, đảm bảo cho mỗi lao động trong ngành du lịch đều phải qua đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, giữ cho sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ luôn đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch và môi trường cạnh tranh lành mạnh, có hiệu quả. 5. Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo và xúc tiến phát triển du lịch: Trong những năm tới thị trường du lịch lớn của Nghệ An vẫn là thị trường nội địa, thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm du lịch trên cơ sở phát huy lợi thế của khu du lịch biển Cửa Lò, Khu di tích Kim Liên, phát triển các dịch vụ vui chơi giải trí, thể thao gắn với các điểm du lịch văn hoá lịch sử, văn hoá tâm linh, du lịch làng nghề hấp dẫn, mang bản sắc xứ Nghệ- quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo đảm vừa khai thác tối đa thị trường khách du lịch từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, vừa tăng nhanh lượng khách từ các tỉnh phía Nam: Tây Nguyên, Nam Bộ đi theo tuyến đường Hồ Chí Minh. Đối với thị trường quốc tế: tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm và các dịch vụ du lịch, cơ sở vật chất, tiện nghi đáp ứng nhu cầu tăng nhanh lượng khách du lịch Lào, Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc,… đến Nghệ An và phục vụ các chuyên gia, nhà đầu tư của các khu công nghiệp trên địa bàn. Đồng thời nhanh chóng đầu tư mở rộng không gian hoạt động du lịch đến các điểm du lịch sinh thái Vườn quốc gia Pù Mát, du lịch sinh thái văn hoá Quỳ Châu- Quế Phong vào khai thác để thu hút khách du lịch từ các thị trường Châu Âu, Mỹ,… Tích cực khai thác các tour khách du lịch quốc tế từ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội đến Nghệ An và các tỉnh của Lào, Đông Bắc Thái Lan theo đường không, đường bộ. Với mục tiêu trên đến năm 2010 Nghệ An đón được 2,5 triệu lượt khách trong đó có 100 ngàn lượt khách quốc tế, ngày khách bình quân đạt 2,2 ngày/ khách. Thông qua hoạt động quảng bá tiếp thị đưa hình ảnh con người và quê hương xứ Nghệ đến với rộng rãi khách du lịch và nhân dân các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, nhất là Châu Âu, châu Mỹ. - Tiếp tục phát hành những ấn phẩm để giới thiệu hình ảnh về con người, lịch sử văn hoá, cảnh quan và sản phẩm du lịch Nghệ An ra trong nước và quốc tế. - Nâng cấp trang Web du lịch Nghệ An theo E-mail của Tổng cục Du lịch để tăng cường quảng cáo trên mạng Internet. Phối hợp với Đài truyền hình Trung ương, Đài truyền hình Tỉnh xây dựng các chương trình quảng cáo du lịch Nghệ An. - Khuyến khích các trung tâm lữ hành của tỉnh đặt các chi nhánh, đại diện của mình tại các trung tâm Du lịch lớn của cả nước, từng bước vươn ra thị trường du lịch khu vực và thế giới. - Tăng cường liên doanh liên kết, hợp tác phát triển du lịch với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, coi đây là một giải pháp để đẩy nhanh công tác tuyên truyền quảng cáo du lịch Nghệ An có hiệu quả. - Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tham gia Hiệp hội Du lịch Việt Nam, Chi hội PATA Việt Nam.v.v… 6. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ du lịch và hiệu quả kinh doanh du lịch Song song với đầu tư hình thành các khu, tuyến điểm du lịch, việc xúc tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch có ý nghĩa sống còn đối với hoạt động du lịch nói chung cũng như quyết định đến hiệu quả kinh doanh du lịch nói riêng. Thời gian qua chất lượng sản phẩm du lịch Nghệ An đã có bước chuyển biến khá tích cực, nhưng chủ yếu mới ở phạm vi cơ sở lưu trú, còn nhìn chung là ở trình độ thấp và đơn điệu. Để tạo ra bước đột phá toàn diện về chất lượng sản phẩm du lịch trong thời kỳ 2006-2010, cần tập trung thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: - Về sản phẩm lưu trú: với vị trí địa lý thuận lợi là trung tâm vùng Bắc Trung Bộ. Đặc biệt Nghệ An có cụm di tích lịch sử văn hoá Kim Liên quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, kinh doanh cơ sở lưu trú là lợi thế của du lịch Nghệ An, Do vậy, thời gian tới vừa phải đảm bảo số lượng buồng phòng theo yêu cầu lượng khách tăng lên, vừa nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất trang thiết bị đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, trọng tâm vẫn là ở thị xã Cửa Lò, Vinh, bãi tắm Nghi Thiết. Trong đó, đặc biệt coi trọng việc đầu tư xây dựng các khách sạn theo quy hoạch và tiêu chuẩn kỹ thuật quy định, có không gian bãi đỗ xe, khuôn viên cây xanh đảm bảo môi trường sinh thái, tránh tình trạng bê tông hoá, khuyến khích các khách sạn, nhà hàng mở rộng các loại hình dịch vụ bổ sung để tạo ra sự đa dạng và hấp dẫn của sản phẩm du lịch: bể bơi, phòng tập thể thao, tắm hơi, mát xa, bán hàng lưu niệm, cho thuê phương tiện, phòng họp, hội thảo,… Trong thời kỳ 2006-2010 nâng cấp các khách sạn hiện có trên địa bàn thành phố Vinh; khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh đầu tư phát triển mô hình khách sạn vườn, biệt thự cho thuê ở khu vực Cửa Lò cùng với phát triển các làng nghề xoá dần tính mùa vụ của du lịch Cửa Lò; từng bước đầu tư một số cơ sở lưu trú dạng bungalow, camping, nhà sàn ở khu du lịch Quỳ Châu- Quế Phong, Vườn quốc gia Pù Mát, Khu du lịch Nam Đàn,… Dự kiến đến năm 2010 toàn tỉnh có 9.000 phòng với 18.200 giường. Bên cạnh đó, tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên về trình độ tay nghề, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp đạt tiêu chuẩn tương đương các trung tâm du lịch lớn trong nước như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế,… xây dựng phong cách thái độ phục vụ văn minh, lịch sự, mến khách và mang đậm bản sắc xứ Nghệ. - Đối với các chương trình du lịch: chú trọng về chiều sâu, nâng cao chất lượng xây dựng chương trình các tour gắn với các điểm du lịch trong tỉnh, trong nước. Trong đó song song với các tour đã có đang phát huy hiệu quả, cần phát triển các tour mới đáp ứng với nhu cầu đa dạng của khách, nhất là khách du lịch quốc tế. Coi trọng đổi mới chất lượng công tác tổ chức các tour du lịch dài ngày, từng bước hình thành bộ phận vận chuyển du lịch chuyên ngành với các phương tiện hiện đại, đội ngũ lái xe có trình độ tay nghề cao, phẩm chất tốt, thái độ phục vụ tận tình chu đáo. Đặc biệt, cần tập trung nâng cao chất lượng, nội dung hướng dẫn giới thiệu của đội ngũ hướng dẫn viên du lịch, đảm bảo vừa truyền đạt thông tin, vừa làm tăng hiệu quả giáo dục và tạo sự thoải mái cho du khách, nhất là khi giới thiệu hướng dẫn về các điểm du lịch trên địa bàn Nghệ An. - Phát triển nhanh và đa dạng hoá các sản phẩm du lịch để tăng sự hấp dẫn thu hút du khách, quan tâm phát triển các hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao có cảm giác mạnh ở những khu du lịch trọng điểm như: tại Cửa Lò phát triển hoạt động lặn biển, thể thao trên cát, leo núi, đu dù bằng ca nô; du lịch leo núi, chèo thuyền ở khu du lịch sinh thái Pù Mát, sông Giăng; các hoạt động vui chơi có quy mô lớn và hiện đại tại công viên Trung tâm, núi Quyết, Hồ Cửa Nam tại thành phố Vinh; phát triển nhanh hàng hoá, đặc sản có bản sắc riêng xứ Nghệ cho du khách - Tăng cường quản lý các điểm du lịch: đa dạng hoá các loại hình dịch vụ tại các điểm du lịch cần đi đôi với công tác quản lý. Trong đó, cần khẩn trương quy hoạch các dịch vụ ăn uống, cho thuê phao bơi, tắm nước ngọt, chụp ảnh, xe ôm ở bãi biển Cửa Lò, bán hàng lưu niệm, hương hoa ở Khu di tích Kim Liên vào khu vực, địa điểm thống nhất để quản lý; có biện pháp ngăn chặn kinh doanh dịch vụ lộn xộn gây ô nhiễm môi trường, tình trạng ăn xin, ăn mày, chèo kéo, đeo bám gây phiền hà cho du khách, quan tâm giáo dục nâng cao nhận thức của nhân dân để vừa phát triển dịch vụ phục vụ du khách vừa tăng thu nhập du lịch xã hội, giải quyết việc làm. Đối với các điểm du lịch có mật độ lưu chuyển khách du lịch lớn: Cửa Lò, Khu di tích Kim Liên và một số di tích lịch sử khác cần xây dựng hệ thống nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ. Đối với các điểm du lịch xa trung tâm: Pù Mát, Quỳ Châu- Quế Phong cần đảm bảo các dịch vụ tối thiểu về thông tin bưu điện, trạm y tế, vệ sinh chung trên các tuyến cho khách du lịch, nhất là khách du lịch quốc tế. - Đảm bảo an ninh an toàn và tăng cường mạng lưới y tế công cộng, ngăn ngừa tình trạng trộm cắp, đe doạ trấn áp khách du lịch, tăng cường công tác bảo hiểm cứu hộ ở bãi tắm Cửa Lò, Khu du lịch sinh thái Pù Mát,… đảm bảo an ninh, an toàn giao thông và thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm trong các khách sạn nhà hàng, tạo ra môi trường du lịch lành mạnh, tin cậy. 7. Giải pháp về công tác quản lý Nhà nước: Du lịch là ngành kinh tế mang tính tổng hợp, liên ngành, liên vùng. Do vậy, trước hết cần phải: - Hoàn thiện tổ chức bộ máy, tăng cường công tác quản lý Nhà nước các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn. Đối với những huyện, thành phố, thị xã có các khu, điểm du lịch cần có biên chế đội ngũ cán bộ đủ năng lực trình độ, am hiểu nghiệp vụ du lịch làm tham mưu giúp UBND huyện, thành, thị để quản lý và đẩy mạnh phát triển du lịch trên địa bàn. - Thực hiện quản lý tốt các loại hình kinh doanh du lịch theo Nghị định 39/CP về cơ sở lưu trú, 27/CP về kinh doanh lữ hành và hướng dẫn du lịch nhằm nâng cao chất lượng phục vụ du khách. - Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh du lịch tuân thủ theo pháp luật, có hiệu quả bền vững, đồng thời đẩy lùi tệ nạn xã hội trong hoạt động du lịch. - Sự lãnh đạo chỉ đạo thống nhất từ tỉnh đến các huyện, xã cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa ngành du lịch với các ngành liên quan về quản lý tài nguyên du lịch, quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch và xây dựng cơ chế chính sách, đảm bảo cho sự thống nhất quản lý Nhà nước về du lịch ở địa phương. Trên cơ sở đó xác lập phạm vi trách nhiệm cũng như cơ chế phối hợp giữa ngành Du lịch với các ngành liên quan như: Văn hoá thông tin, Khoa học Công nghệ, Tài nguyên Môi trường, Công an, Y tế, Giao thông vận tải… và UBND các huyện, thành, thị trong công tác quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh và ở từng địa phương. Xem phát triển du lịch là trách nhiệm của các cấp, các ngành, không chỉ riêng của ngành du lịch. - Ngoài việc thanh tra, kiểm tra của thanh tra chuyên ngành du lịch theo quy định của Pháp lệnh du lịch và Nghị định 50/2002/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch. Cần tăng cường công tác kiểm tra liên ngành để kịp thời xử lý những vướng mắc trong hoạt động du lịch, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh du lịch đúng pháp luật có hiệu quả và bền vững. Đồng thời đề xuất các cơ chế chính sách thúc đẩy du lịch, đảm bảo cho phát triển du lịch phải gắn với giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục truyền thống quê hương, bảo vệ tốt môi trường sinh thái, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng trưởng kinh tế du lịch phải đi đôi với hiệu quả xã hội, tạo việc làm cho người lao động. IV. Một số kiến nghị đối với nhà nước và tỉnh Nghệ An: Để tạo điều kiện phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, khai thác có hiệu quả những tiềm năng về du lịch mà tỉnh có được, giải quyết việc làm cho người lao động,… thì cần phải có sự quan tâm, phối hợp của các ngành, các cấp ở Trung ương và địa phương. Nhà nước cũng như tỉnh Nghệ An cần quan tâm một số vấn đề sau: 1. Phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn là một xu thế tất yếu khách quan trong công cuộc Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước hiện nay. Và để phát triển ngành du lịch, một trong những giải pháp cần được quan tâm hàng đầu là phát triển cơ sở hạ tầng du lịch nói chung và cơ sở hạ tầng các đô thị du lịch nói riêng. Nghệ An là một trong những tỉnh có hệ thống cơ sơ hạ tầng cơ bản như đường sá, cầu cống, điện nước,…ở các khu, điểm du lịch đang trong tình trạng thấp kém không đáp ứng yêu cầu sinh hoạt và sản xuất của khu vực, nhất là vào mùa du lịch. Các công trình khác như công viên, khu vui chơi giải trí, bệnh viện, nhà thi đấu thể thao,…vừa ít, vừa trong tình trạng chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật thấp. Vịêc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong khi thời gian thu hồi vốn lại lâu, hiệu quả đầu tư thấp; việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhằm mục đích lâu dài, lấy lợi ích xã hội làm trọng, do đó lợi ích kinh tế không cao. Mặt khác, nó phải đảm bảo đồng bộ và thống nhất trong quy hoạch tổng thể kinh tế- xã hội cũng như quy hoạch xây dựng đô thị và các phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Xét trên giác độ lợi ích, các nhà đầu tư không muốn và hầu như không thể trực tiếp đầu tư. Vì vậy, đòi hỏi sự tham gia của Nhà nước với tư cách vừa là nhà đầu tư, vừa là nhà quản lý trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch thông qua các chương trình phát triển quốc gia về Du lịch, phối hợp với đầu tư phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. 2. Đề nghị ban hành riêng cơ chế chính sách ưu đãi, khuyến khích thu hút đầu tư phát triển du lịch và thay đổi cơ chế về thủ tục hành chính để chủ đầu tư yên tâm và đỡ mất thời gian chờ đợi thực thi dự án. 3. UBND tỉnh đã có Quyết định số 103/2002/QĐ.UB ngày 14/11/2002 thành lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh Nghệ An thời kỳ 2002-2010. Đến nay một số thành viên ở các ngành đã có sự thuyên chuyển công tác nên hoạt động của Ban chỉ đạo bị gián đoạn. Vì vậy đề nghị UBND tỉnh quyết định thay thế một số thành viên để củng cố hoạt động của Ban chỉ đạo giúp Tỉnh uỷ, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời nhằm đẩy nhanh phát triển du lịch thời kỳ 2006-2010. 4. Trong thời gian qua UBND tỉnh giao nhiệm vụ chủ đầu tư một số quy hoạch chi tiết các khu điểm du lịch cho một số ngành và huyện làm, hồ sơ quy hoạch Sở Du lịch không được quản lý nên khi các dự án được triển khai Sở Du lịch không có căn cứ để tham gia góp ý. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh có quyết định để các chủ đầu tư cung cấp hồ sơ tài liệu các quy hoạch đã được phê duyệt cho Sở Du lịch quản lý theo dõi. 5. Đề nghị UBND tỉnh bố trí vốn ngân sách để đầu tư dứt điểm các công trình hạ tầng gồm: đường giao thông, hệ thống điện, cấp thoát nước tới các khu, điểm du lịch để từ đó kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch, có như vậy mới tạo thêm được các sản phẩm du lịch hấp dẫn. 6. Hàng năm đề nghị UBND tỉnh quan tâm bố trí ngân sách đủ cho công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch, đặc biệt là xúc tiến du lịch tại các thị trường trọng điểm có ưu thế đối với Nghệ An là: Trung Quốc, Thái Lan và các nước trong khu vực, đồng thời bố trí vốn ưu tiên cho việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. 7. Ngành du lịch cần hợp tác chặt chẽ với các địa phương khác để tạo hơn nữa các sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn đối với khách du lịch. 8. Đề nghị các Sở, các ngành thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch nói chung, quy hoạch phát triển du lịch nói riêng nhất là các khu du lịch, đô thị du lịch trọng điểm; đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quy chế giá cho thuê đất, sử dụng đất hợp lý đối với đất xây dựng công trình và đất xây dựng khuôn viên để đảm bảo không gian xanh- sạch- đẹp. Kết luận Nghệ An là tỉnh sớm hình thành được chiến lược phát triển du lịch, trong đó chiến lược phát triển du lịch thời kỳ 1996-2010 đã được phê duyệt, chỉ rõ phương hướng phát triển du lịch Nghệ An với mục tiêu khai thác các tiềm năng du lịch, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm cho du lịch phát triển có hiệu quả, bền vững. Đã 975 năm, tên gọi Nghệ An như một dấu ấn trong tâm hồn, trong trí não những cư dân trên mảnh đất này cũng như nhiều người trong nước và quốc tế. Nó luôn luôn nhắc nhủ bao thế hệ phải chiến đấu, xây dựng như thế nào để Nghệ An lúc nào cũng hào hùng, tươi đẹp, yêu thương. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: “Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước, và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực”. Bám sát chủ trương đó, trong những năm qua, ngành du lịch Nghệ An đã có bước phát triển nhanh và ngày càng khẳng định được vị trí trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Nghệ An từ lâu đã trở thành điểm tham quan du lịch được mến mộ của nhân dân cả nước và du khách quốc tế. Được sự quan tâm hỗ trợ của Chính phủ, Tổng cục Du lịch và các bộ, ngành hữu quan, cùng sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ những người làm du lịch địa phương, trong những năm tới, ngành du lịch Nghệ An sẽ có bước phát triển nhanh, mạnh và hiệu quả hơn, cùng các tỉnh, thành trong cả nước đưa Việt Nam trở thành điểm đến trong thế kỷ XXI. Đạt được như vậy, Nghệ An sẽ nhanh chóng vượt qua cửa ải là một tỉnh nghèo, vượt lên thành một tỉnh giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là trung tâm tăng trưởng kinh tế – xã hội của Bắc miền Trung, thực hiện được mong muốn của Bác Hồ, của Đảng bộ, nhân dân Nghệ An và của cả nước. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tổng kết hoạt động du lịch năm 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005. 2. Cẩm nang Du lịch Nghệ An- NXB Lao động- Xã hội-2005. 3. Du lịch và kinh doanh du lịch – PTS. Trần Nhạn- NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội- 1996. 4. Hướng dẫn Du lịch Nghệ An- Sở Du lịch Nghệ An 5. Kế hoạch phát triển du lịch Nghệ An 5 năm 2006-2010 có tính đến năm 2020- Sở Du lịch Nghệ An 6. Nghệ An Lịch sử và Văn hoá- NXB Nghệ An 2005 7. Nghệ An -Thế và lực mới trong thế kỷ XXI- NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2005 8. Nghị quyết 12 NQ/TU của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2002-2010 và chương trình hành động thực hiện nghị quyết. 9. Nhập môn Khoa học du lịch – Trần Đức Thanh- NXB Đại học Quốc gia Hà Nộ- 1999. 10. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Nghệ An thời kỳ 1997-2010- Sở Du lịch Nghệ An, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch. 11. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV- Đảng Cộng Sản Việt Nam- Đảng Bộ tỉnh Nghệ An. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36798.doc
Tài liệu liên quan