Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005

Lời nói đầu Điện năng là một dạng năng lượng có vị trí hết quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó là đầu vào của hầu hết các ngành và được sử dụng nhiều nhất so với các dạng năng lượng khác trong các lĩnh vực sản xuất và các hoạt động dịch vụ. Ngoài ra, nó còn là sản phẩm tư liệu tiêu dùng vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người. Do vậy, hiện nay điện khí hoá toàn quốc, đưa điện về khắp mọi miền đất nước, đến các vùng nông thôn miền núi, kể cả vùng sâu vùng xa.. là mục t

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêu của phần lớn các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Một số nước đang phát triển đã hoàn thành đIện khí hoá toàn quốc, chẳng hạn như TháI Lan, Singapo, Brunây (100% khu vực thành thị, 97% khu vực nông thôn). ĐIện đã tạo đà cho phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, góp phần gĩ gìn an ninh chính trị, bảo vệ tổ quốc. Mặt khác đưa điện về nông thôn miền núi không hẳn hoàn toàn mang tính chất kinh doanh mà còn đối với nhiều quốc gia còn là do sức ép của Nhà nước, các tổ chức chính trị đòi hỏi công bằng. Đặc biệt đối với Việt Nam đa phần dân số tập trung ở khu vực nông thôn, lấy sản phẩm nông nghiệp làm chính. Vì vậy mà biện pháp đầu tiên nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế, nâng cao đời sống xã hội ở nông thôn là vấn đề đưa điện để đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Nhanh chóng đưa máy móc thiết bị kỹ thuật vào hoạt động sản xuất, tăng cường thu hút vốn đầu tư vào khu vực nông thôn,đồng thời nâng cao dân trí cải thiên điều kiện sống ở nông thôn Việt Nam. Cùng với các địa phương trong cả nước, thì trong những năm vừa qua chính quyền địa phương và Điện lực Thái Nguyên đã nỗ lực thực hiện đâù tư đưa điện về nông thôn theo cơ chế “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nhằm thúc đẩy sự phát triển ở khu vực này. Tuy nhiên, qua nhiều năm thực hiện cho đến nay thì ở mọt số vùng tỷ lệ số xã và số hộ nông dân được sở dụng điện còn thấp, ngoài ra giá thành sở dụng điện còn quá cao. Vì thế việc ra đời cho một kế hoạch năng lượng ở khu vực nông thôn Thía Nguyên trong thời gian tới là một đIều tất yếu. Xuất phát từ yêu cầu trên và qua thời gian thực tế tại Điện lực Thái Nguyên. Em thấy việc phát triển đIên nông thôn là yêu cầu hết sức cần thiết, cho nên em đã chọn đề tài “Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005 làm đề tàI thực tập. Bài viết bao gồm: Chương I Sự cần thiết phải phát triển mạng lưới đIện nông thôn tỉnh Thái Nguyên Chương II Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1996-2000 Chương III Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên sgiai đoạn 2001-2005 Chương I Sự cần thiết phải phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên I. Vai trò của điện năng đối với nền kinh tế quốc dân 1. Điện năng đối với sản xuất của nền kinh tế quốc dân Ngành điện là một ngành kinh tế rất quan trọng của đất nước. Hiện nay, nó là nguồn năng lượng được sử dụng thuận tiện và nhiều nhất so với các dạng năng lượng khác, do có những ưu điểm chuyển tải nhanh, đi xa có khả năng biến đổi sang các dạng năng lượng khác, thời gian sử dụng tức thời và có thể sử dụng nguồn ở xa. Nên điện năng trở thành không thể thay thế trong phần lớn các quá trình sản xuất của xã hội hiện đại. Sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước ta phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của ngành điện quốc gia. Do vậy mà ngành điện giữ vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, ổn định chính trị xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu , định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Từ một hệ thống điện manh mún lạc hậu, với tổng công suất các nhà máy điện không vượt quá 30 MW. Điện năng sản xuất khoảng 40,5 triệu KWh/năm, thì đến những năm đầu của thập niên 90 công suất lắp đặt của ngành điện đã trên 2000 Mw, năm 1996 là 3000 Mw và đến nay nhiều nhà máy với công nghệ hiện đại và tiên tiến (Nhà máy tua bin khí hỗn hợp Phú Mỹ, Thuỷ điện sông Hinh tăng cường thêm nhiều tổ máy hiện đại...) và tổng công suất đã lên tới gần 7000 Mw ( trong đó giai đoạn 1996-2000 tăng thêm 2715 Mw tức là 1,5 lần). Sản xuất được gần 26.6 tỷ KWh trong năm 2001. Hiện tại cả nước có 1529 Km đường dây siêu cao áp, 2634 Km đường dây điện 220Kv, 6659 Km đường dây điện 110 Kv, hàng trăm nghìn Km đường dây trung thế và hạ thế đưa điện đến tất cả các tỉnh thành phố trong cả nước. Trong những năm qua, công nghiệp Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức 2 con số, quy mô tăng hơn 4 lần so với năm 1991. Trong đó ngành điện đã đóng góp khá quan trọng và chiếm tỷ lệ rất lớn. Riêng năm 2001 ngành điện đã đóng góp 32% tổng giá trị của ngành công nghiệp và nhiệm vụ đặt ra cho ngành điện hay nói rộng hơn là nhiệm vụ đặt ra cho Chính phủ nước ta về phát triển điện trong 5 năm tới là hết sức nặng nề, phải hết sức nỗ lực và chỉ đạo quyết liệt mới có khả năng thực hiện được. Sản lượng điện sản xuất hàng năm và mua ngoài hàng năm là 30 tỷ KWh. Với mục tiêu tăng GDP bình quân là 7,3-7,5 năm thì ngành điện lực phải tăng là 14-15 % mới đáp ứng được yêu cầu này. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong tời gian vừa qua, thì vẫn còn có những khó khăn và thách thức mà ngành điện phải đối mặt trong quy trình chuyển tiếp sang một xã hội hiện đại và công nghiệp hoá. Thứ nhất, Để đạt được mức tăng trưởng hàng năm là 14-15% năm thì việc cung cấp năng lượng đòi hỏi phải hiệu quả ( tức là tổng công suất dự trữ điện vào năm 2010 phải là 2788 MW ) điều này chỉ có thể thực hiện được bằng tăng cường đầu tư xây mới, hoàn thiện các công trình giảm tổn thất và quản lý phụ tải. Thứ hai, mặc dù nước ta có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng nguồn tài chính rất hạn hẹp. Do đó, yêu cầu thực hiện công tác kế hoạch trong ngành năng lượng rất cẩn thận. Thứ ba, Nước ta sẽ phải đầu tư 53-55% GDP ( gấp đôi mức bình thường ở các nước láng riềng Đông Nam á) vào cơ sở hạ tầng của ngành điện. Hơn nữa, giá và cơ cấu giá điện cần phải thay đổi để giảm bớt các căng thẳnh về tài chính trước mắt, đảm bảo hiệu quả lâu dài của việc đầu tư và các quyết định sử dụng tài nguyên. 2/3 nhu cầu đầu tư sẽ được đáp ứng từ trợ giúp phát triển chính thức, tín dụng xuất khẩu, đầu tư nước ngoài trực tiếp, phần còn lại sẽ do tài chính trong nước, ngân sách cuhng và bảo lãnh của Chính phủ cho khu vực tư nhân. Việc đầu tư trong lĩnh vực năng lượng cần phải hết sức cẩn thận, vì nó sẽ góp phần làm tăng nợ nước ngoài của nước ta. Thứ tư, để thu hút đầu tư nước ngoài cần phải tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, cả sự hình thành khung thể chế thích hợp để trợ giúp Chính phủ cần phải cải tổ và hợp lý hoá các công ty Nhà nước trong ngành năng lượng phát triển hệ thống quy định, các chính sách trong ngành năng lượng và đầu tư việc cải tổ cung cấp năng lượng để đáp ứng mức tăng trưởng đã đề ra, phát triển các nguồn năng lượng theo hướng bền vững về mặt môi trường, giảm các căng thẳng về tài chính trong ngành, tăng cường nối lưới điện của vùng nông thôn thúc đẩy hiệu quả và sự ổn định. 2. Vai trò của phát triển mạng lưới điện đối với nông thôn Việt Nam. 2.1. Vai trò của điện năng đối với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá nông thôn Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là sự phát triển liên tục và ổn định của kinh tế nông nghiệp nông thôn. Nét nổi bật trên lĩnh vực nông nghiệp là sự chuyển biến tích cực từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá. Biểu hiện quan trọng của sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp là sản xuất lương thực tăng nhanh không chỉ đủ đáp ứng nhu cầu trong nước, đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia, mà còn có lương thực xuất khẩu, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu gạo trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng của lương thực thì luôn cao hơn tốc độ tăng dân số, nên lương thực bình quân đầu người cũng tăng dần từ 300 kg năm 1986 lên 324 kg năm 1990, 408 kg năm 1998 và 444 kg năm 1999. Cơ cấu mùa vụ và cây trồng thì có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực đã tạo điều kiện tăng năng suất lúa từng vụ và cả năm. Hơn thế nữa, qua 3 năm thực hiện nghị quyết Trung Ương khoá 2 (ĐH VII) về khoa học và công nghệ trong lĩng vực nông lâm ngư nghiệp đã có nhiều kết quả nghiên cứu được thành công như: chọn lọc, lai tạo giống mới và cơ cấu cây trồng theo mùa vụ thích hợp cho từng vùng sinh thái, từ đó tăng thêm thu nhập cho người nông dân, góp phần xoá đói giảm nghèo xây dựng nông thôn giàu đẹp. Cùng với sự phát triển của ngành thì trồng trọt và chăn nuôi cũng phát triển nhanh và toàn diện. Bình quân 10 năm (1989-1999) so với bình quân 5 năm trước đó. Đàn trâu tăng trên 5%, đàn bò tăng thêm 10%, gia cầm tăng thêm 25 %... Trong nông lâm ngư nghiệp đã xuất hiện nhiều mô hình, điển hình mới về sự phát triển kinh tế xã hội; mô hình kinh tế mới do nông dân sáng lập với hàng trăm lao động với quy mô từ 300 đến 500 ha được hình thành trên cơ sở tổ chức quản lý thích hợp và có sự áp dụng khoa học vào sản xuất. Theo kết quả điều tra của tổng cục thống kê đến ngày 17 tháng 7 năm 1999 cả nước có 45372 trang trại nông lâm, thuỷ sản sản xuất chuyên môn hoá hoặc kinh doanh tổng hợp, với nhiều quy mô có sử dụng lao động làm thuê và có thu nhập vượt trội so với kinh tế gia đình nông dân. Hoạt động của hợp tác xã dịch vụ bước đầu đã đem lại hiệu quả, củng cố lòng tin của xã viên và hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ về các dịch vụ thuỷ lợi, bảo vệ thực vật… Những thành tựu đáng kể trên đây đã được đóng góp tích cực của ngành điện trong các chương trình điện khí hoá nông thôn trên toàn quốc. Điện về nông thôn đã góp phần thay đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi quy mô và tập quán canh tác và chăn nuôi, tăng năng suất và tăng sản lượng lương thực hoa màu, cây công nghiệp trong sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, phát huy các làng nghề truyền thống, mở ra các làng nghề mới, cải thiện đời sống văn hoá làm thay đổi bộ mặt nông thôn thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn. giúp cho việc phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại . Hơn 47 năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về nguồn và lưới điện truyền tải với phương châm " Nhà nước và nhân dân, Trung Ương và địa phương cùng làm" lưới điện nông thôn đã từng bước hình thành và không ngừng vươn dài, trải rộng đưa nguồn năng lượng và ánh sáng đến các thôn xã ngoại thành, ngoại thị cũng như các bản làng vùng ca, phục vụ sự đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn. ở miền bắc, việc đưa lưới điện về nông thôn được bắt đầu thực hiện vào cuối những năm 60 và đầu những năm 70 cùng với việc đưa vào vận hành Nhà máy điện Vinh, Lào Cai, Thái Nguyên. Trong suốt thời kỳ này điện đưa về nông thôn chủ yếu nhằm phục vụ cho nhu cầu bơm nước phục vụ cho nông nghiệp và cơ khí nhỏ (xay xát, truốt lúa, bơm rửa chuồng trại, nghiền thức ăn gia súc v.v... ). Việc phát triển mạng lưới điện nông thôn miền Bắc chỉ được đẩy mạnh từ năm 1984, sau khi Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình được đưa vào vận hành cùng với chính sách đổi mới của Đảng. Nền kinh tế của nông thôn được cải thiện và phát triển rõ rệt. ở miền Nam, việc phát triển mạng lưới điện nông thôn chỉ bắt đầu sau giải phóng, cũng chủ yếu phục vụ bơm tưới tiêu. Từ đầu năm 1998 khi Nhà máy thuỷ điện Trị An được đưa vào vận hành thì mạng lưới điện phục vụ nông thôn ở khu vực phía Nam thực sự phát triển, đáp ứng các nhu cầu cho sản xuất và sinh hoạt. ở miền Trung, giai đoạn trước năm 1975, hầu như toàn bộ vùng nông thôn chưa có điện, giai đoạn từ 1975 đến 1990 miền Trung vẫn thiếu điện nghiêm trọng. Nguồn điện chỉ là những cụm máy Điêzen công suất thấp, lưới điện nhỏ hẹp tập trung ở một số thành phố, thị xã, phục vụ chủ yếu cho sinh hoạt khu vực đô thị. Sau khi điện miền Bắc đưa vào, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, với nhiều chủ trương và chính sách cụ thể. Việc đưa điện về nông thôn đã có bước phát triển vượt bậc. Trong đó có nhiều huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, số hộ nông dân đã được sử dụng lưới điện đạt 76,3 %. Đến nay tỷ lệ số xã, số hộ nông dân có điện trên nước ta đã cao hơn một số nước trong khu vực như : Inđônêxia, Bang la đét, Xrilanca, ấn độ... Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện chương trình đưa điện về nông thôn cũng như nâng cao chất lượng điện cung cấp cho khu vực nông thôn. Ngành điện đề ra mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 2005 như sau: Hoàn thành việc đưa điện về 1459 xã chưa có điện còn lại đảm bảo 100% trung tâm xã có điện lưới hoặc điện tại chỗ (trong đó 1139 xã đưa lưới điện và 320 xã cấp điện bằng nguồn tại chỗ). Đưa số hộ nông dân nông thôn đạt tỷ lệ 85% số hộ có điện ( Tăng thêm 1,3 triệu hộ). Phối hợp với các địa phương tiến hành cải tạo nâng cao chất lượng lưới điện của các xã đi đôi với công tác quản lý bảo đảm giá bán điện tới từng hộ nông dân. Tuy còn nhiều khó khăn và thách thức, nhưng với kết quả đạt được trong hơn 40 năm qua. Đồng thời tiếp tục phát huy phương châm " Nhà nước và nhân dân, Trung Ương và địa phương cùng làm" đã được thể chế hoá. Tổng công ty điện lực Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với các ngành các cấp các địa phương phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa điện về nông thôn, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng nông thôn mới giàu mạnh, văn minh hiện đại. 2.2 Vai trò của phát triển điện năng đối với công tác thông tin liên lạc ở khu vực nông thôn. Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học ngày càng có bước nhảy vọt và trở thành lực lượng sản xuất thúc đẩy sự phát triển cảu kinh tế, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, biến đổi sâu sắc trong lĩnh vực đời sống xã hội. Chu trình sản phẩm ngày càng được rút ngắn, các điều kiện kinh doanh trên trường quốc tế luôn thay đổi, đòi hỏi các quốc gia cũng như các doan nghiệp phải rất nhạy cảm nắm bắt và thích nghi. Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam nền kinh tế đa thành phần là nông nghiệp nếu không tranh thủ nắm bắt thông tin để đưa vào sản xuất đầu tư các phương tiện máy móc hiện đại, giống cây trồng ... Ngoài ra, sản phẩm của khu vực này ngày càng được mở rộng và hình thành thị trường ra bên ngoài, nhất là sản phẩm thủ công mỹ nghệ hay là các sản phẩm truyền thống của vùng. Muốn cho sản phẩm được thị trường trong và ngoài nước biết đến, thì người dân ở đay phải được nắm bắt đầy đủ các thông tin để có thể đưa sản phẩm của mình đi xa hơn. Tóm lại vai trò của thông tin là rất quan trọng trong việc phát triển khu vực nông thôn. Tuy ngành điện không trực tiếp tham gia vào việc đưa thông tin, nhưng lại tham gia một cách gián tiếp và hầu hết các phương tiện thông tin đều có sự tham gia cuả điện. Chính vì vậy, muốn phát triển thông tin liên lạc ở những khu vực nông thôn thì ngành điện phải là một trong những ngành đi tiên phong. 2.3 Vai trò của phát triển điện nông thôn với phát triển y tế và giáo dục ở khu vực nông thôn Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn là quá trình xây dưng và thực hiện các dự án có quy mô lớn, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về điện khí hoá nông thôn miền núi. Vì vậy trong quá trình lựa chọn các tỉnh để đưa vào kế hoạch, Chính phủ và Tổng công ty điện lực Việt Nam rất chú trọng đến các tỉnh mà có tỷ lệ số xã và số hộ nông thôn được cấp điện còn thấp ( xã<80%, số hộ nông dân <60 %). Đặc biệt là các xã ở miền núi, vùng sâu vùng xa, thuộc các khu vực mà Chính phủ có chính sách đầu tư đặc biệt cho cơ sở hạ tầng và thúc đẩy các mặt kinh tế – xã hội, các xã các vùng căn cứ cách mạng chịu nhiều hậu quả chiến tranh nặng nề và có những đóng góp lớn trong hai cuộc kháng chiến. Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn xét theo chiều sâu sẽ thấy nó đem lại hiệu quả tổng hợp về mặt kinh tế và xã hội. Mà đó chính là hiệu quả lâu dài mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước. Trước hết khi có điện đời sống văn hoá, trình độ dân trí của người dân nông thôn được nâng lên rất nhiều, kéo theo sự phát triển của các công trình trường học và phúc lợi khác như: Trạm y tế, nhà văn hoá xã…Từ đó mà đồng bào dân tộc ở nông thôn được đi học được biết chữ, được phục vụ về nhu cầu y tế chữa bệnh và nhu cầu vui chơi giải trí. Những điều kiện trên sẽ góp phần hạn chế và xoá bỏ nạn du cach du cư, giúp đồng bào định cach định cư ổn định sản xuất. 3. Kinh nghiệm phát triển mạng lưới điện nông thôn ở một số nơi 3.1 Kinh nghiệm phát triển mạng lưới điện nông thôn ở Pháp Ngành Điện lực Pháp hiện nay được coi là hình mẫu tiêu biểu của cung cấp điện công cộng, của sự tập trung hoá cao độ. Người dân Pháp được hưởng quyền cung cấp điện, thế nhưng điều nghịch lý là Nhà nước Pháp hoàn thành điện khí hoá nông thôn mà không cần Nhà nước đầu tư và mặc dầu hiện nay công ty điện lực Pháp (EDF) độc quyền về truyền tải điện, chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong sản xuất và phân phối điện ở Pháp. Nhưng quá trình điện khí hoá nông thôn ở nước này lại phát triển theo chiều hướng ngược lại, không phải từ trung tâm lan toả ra dần các địa phương và ngược lại từ các địa phương phát triển đi lên và hoà nhập dần làm một. Tổng cộng lại công cuộc điện khí hoá nông thôn ở Pháp phải mất 50 năm mới hoàn thành. Đây là một khoảng thời gian có thể là dài đối với những ai mong muốn đẩy nhanh tiến độ phát triển. Song nhìn chung do chiến tranh kéo dài nên thời gian thực tế chỉ còn khoảng 20 năm và có thể chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất khoảng trên 10 năm dành cho các đề xuất và đầu tư của tư nhân, nhằm thiết lập một thị trường kinh doanh có lãi và điện khí hoá được một phần các làng xã ( trên một phần dân số nông thôn nước Pháp). Giai đoạn thứ hai, khoảng 10 năm là giai đoạn chuyển tiếp với việc xây dựng cơ cấu cho vay phục vụ các công trình liên xã, đưa điện đến hầu hết các xã ( nhiều trường hợp xã chưa có điện chỉ vì họ từ chối việc đấu nối điện). Giai đoạn cuối giành cho một vài năm còn lại để điện khí hoá những khâu còn yếu trong khuôn khổ Công ty điện quốc gia. Trong giai đoạn đầu, các công trình tư nhân chiếm quan trọng hàng đầu, 60 % điện khí hoá nước Pháp đã được thực hiện mà không có bất kỳ sự giúp đỡ nào của Nhà nước. Đôi khi người ta tổ chức khuyên góp hay trích một phần nhỏ ngân sách để bày tỏ thịên chí. Nhu cầu lớn thì người ta đầu tư lớn, nhu cầu nhỏ thì đầu tư nhỏ. Họ sẵn sàng huy động mọi nguồn năng lượng kể cả cối xay nước để đưa vào phục vụ. Nhiều công trình nhỏ chỉ vài cây số đường dây cũng đủ cung cấp điện cho một nửa số gia đình trong làng và điện chiếu sáng công cộng. Nhưng rồi cũng có nhiều tranh chấp xảy ra như: Kiện doanh nghiệp vì họ đã để mất điện nhiều ngày gây ảnh hưởng đến việc sản xuất hay câu móc điện, có tranh chấp giải quyết tại địa phương có tranh chấp phải đưa lên chính quyền cấp cao hơn... Mặc dầu các công trình do tư nhân đảm nhiệm nhưng không có nghĩa là muốn thế nào cũng được. Nhà nước có những quyết định rất rõ ràng. Ngay từ năm 1908 đã có những sắc lệnh quy định chi tiết về các thủ tục xét duyệt và cấp giấy phép xây dựng khai thác các công trình khai thác điện ( như tiêu chuẩn xây dựng, mẫu hồ sơ xin cấp phép, quy định về phương thức cấp vốn và kiểm tra, phương thức điều chỉnh biểu giá cung cấp điện...). Cẩn thận và chi tiết hơn Nhà nước còn quy định hình thức các chính quyền địa phương biểu quyết để đi đến quyết định có điện khí hoá hay không, Nhà cung cấp nào..., công văn của chính quyền địa phương trình hồ sơ lên cấp trên và thư uỷ quyền kiểm tra. Tóm lại một bộ quy định hoàn chỉnh giúp chính quyền địa phương tiến hành các bước thủ tục để được điện khí hoá. Nhà nước giám sát và kiểm tra cuối cùng về bộ dự án nhưng vẫn dành cho chính quyền địa phương chọn nhà cung cấp điện và dành cho nhà cung cấp điện quyền đề xuất hồ sơ kỹ thuật và biểu giá. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, vì những lý do chính trị, hơn nữa trong làn sóng quốc hữu hoá những ngành được coi là có tính chất chiến lược trong công cuộc xây dựng lại đất nước. Nhà nước đã gạt bỏ khai thác tư nhân khỏi ngành điện. EDF ra đời và quản lý hầu hết cơ sở ngành điện ở Pháp. Mặc dầu cho đến ngày nay vẫn tồn tại số ít tổ liên xã hoá, chi nhánh trực thuộc chính quyền địa phương hoạt động trong lĩnh vực phân phối điện và hiện có khoảng 1500 nhà sản xuất điện độc lập. Tóm lại nếu ta bỏ qua vấn đề quan điểm lịch sử phát triển phát triển ngành điện thế giới trong mấy năm qua hết chuyển từ thái cực này sang thái cực khác. Khi thì quốc hữu hoá toàn bộ, lúc thì tư nhân hoá tất cả, thì kinh nghiệm ngành điện Pháp cho ta hình ảnh về công cuộc điện khí hoá nông thôn ở Pháp được xây dựng trên cơ sở ý dân, ở đó một nhà nước tập trung và pháp luật chặt chẽ, đã thành công trong việc phát huy mặt tích cực của vô số các nhà thầu tư nhân cũng như động viện hàng chục nghìn xã tham gia vào sự nghiệp lớn lao này. 3.2 Kinh nghiệm điện khí hoá nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá Cùng với sự phát triển của nguồn điện và lưới điện truyền tải, những năm qua với phương châm " Nhà nước và nhân dân, Trung Ương và địa phương cùng làm". Lưới điện nông thôn Thanh Hoá được phát triển khá nhanh. Đến nay đã có 27 / 27 huyện, 80,6 % số xã và trên 79% số hộ nông thôn ở đây đã có điện. Như vậy, so với chỉ tiêu mà nghị quyết đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra thì Thanh Hoá đã vượt chỉ tiêu về số xã và số hộ có điện. Điện về làng đã góp phần làm khởi sắc bộ mặt nông thôn Thanh Hoá. Là một tỉnh đất rộng, trong đó 2/3 diện tích là rừng núi, có được kết quả trong công tác phát triển điện nông thôn như vậy là sự nỗ lực rất lớn của cán bộ công nhân viên Điện lực Thanh Hoá. Những thành tựu đạt được trên là do việc quản lý đồng vốn xây dựng có hiệu quả, vừa đẩy nhanh tiến độ công trình, vừa không để thất thoát. Mặt khác, lại chỉ đạo sát sao việc đào tạo đội ngũ quản lý điện nông thôn miền núi. Từ năm 1996 đến nay, đã có trên 1500 lượt người được tham gia 24 lớp bồi huấn do Điện lực Thanh Hoá chủ chì. Ngay tại Điện lực đã biên chế một lực lượng chuyên trách theo dõi công tác điện nông thôn, biên soạn tài liệu hướng dẫn công tác quản lý, vận hành lưới điện, quản lý giá bán điện…cấp cho các xã. Ngoài ra, còn tổ chức đào tạo hỗ trợ hiệu chỉnh, kiểm định công tơ đo đếm điện được tiến hành chu đáo, trong đó điện lực chỉ thu 1000 đồng tiền điện kiểm định còn bù lỗ 8000 đồng cho một công tơ. Đến nay đã có 47000 công tơ được hiệu chỉnh bảo đảm cho việc đo đếm chính xác và giảm được tổn thất điện. Những hoạt động thiết thực trên của điện lực Thanh Hoá đã tạo nên kết quả khả quan về mô hình quản lý, bán điện đến hộ nông dân, bảo đảm an toàn trong cung ứng và sử dụng điện khu vực nông thôn miền núi Thanh Hoá. Hiện nay đã có 30/460 xã vừa bán điện đến hộ dân trên trục hạ thế vừa bán điện cho thôn xóm tại công tơ tổng, không còn xã nào tồn tại mô hình khoán thầu điện do tư nhân quản lý điện đến hộ nông dân với giá thấp hơn giá trần của Chính phủ. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh vẫn còn 131 xã dân phải mua điện với giá trên 700 đồng / Kw và 11 huyện miền núi với số dân trên 1 triệu người, nhưng mới có 80 % số xã có điện trong tổng số 198 xã. Vì vậy mà trong kế hoạch 2001-2005 Điện lực Thanh Hoá đã kiến nghị với Trung Ương và Công ty điện lực 1 xem xét hỗ trợ đồng bào miền núi sớm có điện dùng, ở những nơi nào không thể kéo điện lưới quốc gia, có thể tổ chức mô hình điện tại chỗ hoặc dùng các dạng năng lượng khác thay thế điện lưới. II. Kế hoạch 5 năm phát triển mạng lưới điện nông thôn 1. Kế hoạch 5 năm. Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá chiến lược và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước, của doanh nghiệp nhằm xác định các mục tiêu định hướng, các nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể, các cân đối, các giải pháp có giá trị hiện hành trong khoảng thời gian 5 năm. 1.1.Đặc điểm của kế hoạch 5 năm. + Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch: Kế hoạch được hình thành từ đòi hỏi khách quan của thị trường, xuất phát từ thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch chứa đựng cá c yếu tố không khả thi. Một kế hoạch đúng là kế hoạch đó phải phản ánh được lợi ích của các bên tham gia quan hệ thị trường. + Kế hoạch mang tính định hướng: Kế hoạch chỉ đưa ra một loạt các phương hướng sẽ phải đạt được trong tương lai với các chỉ tiêu cụ thể. Điều này có nghĩa là không sử dụng các biện pháp mệnh lệnh hành chính trực tiếp mà chủ yếu sử dụng các biện pháp gián tiếp để hướng mọi nỗ lực vào thực hiện định hướng đó. Trong xây dựng kế hoạch: coi việc xây dựng kế hoạch là thành nên các kịch bản, từ đó xây dựng nên nhiều phương án ứng với điều kiện cụ thể. Qua đó, ta có thể đưa ra các giải pháp lựa chọn phương án tối ưu. Mặt khác, chỉ tiêu kế hoạch phải được xây dựng trong một khoảng thời gian và phải tạo ra được các phương án thay thế khác nhau. Trong triển khai thực hiện kế hoạch: áp dụng nguyên tắc thay đổi theo kiểu “ hàng hải”, nghĩa là dựa vào mục tiêu, theo dõi mục tiêu và điều khiển theo sự biến động của bên ngoài. Trong việc tổ chức hệ thống quản lý kế hoạch: Lựa chọn cán bộ kế hoạch, giao quyền cho các đơn vị trực thuộc. Tạo điều kiện thuận lợi cho cấp dưới phát huy hết khả năng của mình. 1.2.Vai trò của kế hoạch 5 năm. + Điều tiết, phối hợp và làm ổn định nền kinh tế vĩ mô, vi mô. Đảm bảo tăng trưởng bền vững trong khuôn khổ huy động được đầy đủ việc làm, ổn định giá cả, sử dụng tốt các nguồn lực, đảm bảo công bằng xã hội và xu hướng toàn cầu hoá. + Mang tính định hướng hoạt động cho một thời kỳ ( 5 năm): Các chương trình phát triển, các dự án thực hiện…Các chỉ tiêu, mục tiêu mang tính hướng dẫn, khuyến khích, thuyết phục mà không mang tính pháp lệnh. Vai trò này là vai trò cơ bản của kế hoạch. + Là một công cụ kiểm tra, đánh giá các gia đoạn thực hiện kế hoạch, từ đó có thể đưa ra các giải pháp tối ưu và các kế hoạch điều chỉnh sao cho phù hợp. 1.3. Nội dung của kế hoạch 5 năm + Xây dựng các nhiệm vụ, mục tiêu và các chỉ tiêu định hướng phát triển doanh nghiệp; chỉ tiêu sản xuất kinh doanh; chỉ tiêu về giá thành; chỉ tiêu về lợi nhuận, tiền lương; chỉ tiêu về đầu tư xây dựng; chỉ tiêu về vốn. + Xây dựng các giải pháp thực hiện Các giải pháp trong sản xuất: Về nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc, vốn sản xuất, nhân công. Các giải pháp trong kinh doanh: Kế hoạch giá thành, marketing, nhân sự phục vụ kinh doanh. Các giải pháp trong đầu tư xây dựng: Giải pháp vốn đầu tư. Quy hoạch, môi trường, đấu thầu. Các giải pháp về sửa chữa và sửa chữa lớn trong sản xuất và kinh doanh. 1.4. Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm. -Phương pháp kế hoạch 5 năm thời kỳ. ( phương pháp truyền thống) Xây dựng kế hoạch 5 năm mang tính thời kỳ, khoảng thời gian là 5 năm, mốc phân đoạn thời gian là cố định ( tính các chỉ tiêu bình quân hàng năm hoặc cho năm cuối cùng kế hoạch). VD: Xây dựng kế hoạch 1996-2000, kế hoạch 2001-2005. + Ưu điểm: Phương pháp này dễ tính toán vì muốn xây dựng kế hoạch cho 5 năm tiếp theo thì lấy số liệu kế hoạch thực tế của kỳ trước rồi nhân với hệ số phát triển bình quân của các giai đoạn trước. Bên cạnh đó, ta cũng dễ quản lý, dễ theo dõi đánh giá hơn khi dựa vào các chỉ số bình quân khi thực hiện kế hoạch. + Nhược điểm: Vì là chỉ tiêu bình quân và được xác định trong khoảng thời gian dài ( 5 năm), nên có nhiều tác động bên ngoài vào quá trình thực hiện kế hoạch (như: khủng hoảng, lạm phát, sự thay đổi của chính sách.) mà ta khó có thể dự đoán trướcđược, nên các chỉ tiêu đưa ra bị gò bó, khó điều chỉnh thay thế cho phù hợp với điều kiện ngoại cảnh. -Phương pháp kế hoạch 5 năm cuốn chiếu. Khoảng thời gian cố định là 5 năm. Nhưng mốc phân đoạn thì không cố định mà được luân chuyển. Được xây dựng cụ thể các chỉ tiêu kế hoạch cho một năm đàu, sau đó dự tính một số chỉ tiêu cho năm thứ hai và đưa ra một số chỉ tiêu dự báo cho các năm còn lại. Kế hoạch 5 năm sẽ được điều chỉnh khi hoàn thành kế hoạch của một năm đầu và được chuyển mốc thời gian bằng cách thêm một năm tiếp theo. VD: Xây dựng kế hoạch 2001-2005, khi thực hiện xong kế hoạch năm 2001 thì xây dựng tiếp kế hoạch 2002-2006 sau khi đã điều chỉnh ( nếu có) một số thay đổi bên ngoài ở năm 2001. + Ưu điểm: Khắc phục tính cứng nhắc và tình trạng duy ý trí của phương pháp “ truyển thống”, xử lý kịp thời các tác động chưa lường trước vào kế hoạch, vừa đảm bảo tính định hướng của kế hoạch, đảm bảo tính linh hoạt, tính cập nhật và chính xác hơn. + Nhược điểm: Khó trong xây dựng quản lý vì phải luôn thu thập số liệu mới và điều chỉnh kế hoạch. Điều đó gây sự tốn kém và khó thực hiện các kế hoạch và bị thay đổi nhiều lần nếu kế hoạch điều chỉnh không chuẩn. 2. Sự cần thiết xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển mạng lưới điện nông thôn 2.1 Khái niệm. Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn là một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Nó xác định tổng nhu cầu điên năng cho khu vực nông thôn trong thời kỳ kế hoạch, đồng thời xác định các giải pháp cụ thể, các chính sách có liện quan nhằm thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn. 2.2 Nội dung của kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn - Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện ở nông thôn trong thời gian 5 năm qua. Đánh giá những mục tiêu phát triển mạng lưới điện đã đạt được, những khó khăn tồn tại và bài học kinh nghiệm. -Dự báo tình hình phát triển, khả năng, cơ hội và thách thức trong tương lai. -Xây dựng các mục tiêu và các chỉ tiêu định hướng phát triển mạng lưới điện ở khu vực nông thôn. + Chỉ tiêu về điện thương phẩm. + chỉ tiêu về điện tổn thất. + Chỉ tiêu về tỷ trọng số hộ nông dân ở khu vực nông thôn có điện. + Các chỉ tiêu về hệ thống lưới điện và nguồn điện + Các chỉ tiêu về sự phát triển về kinh tế và xã hội ở khu vực nông thôn. .... - Xác định các nhiệm vụ, các chỉ tiêu cụ thể về phát triển mạng lưới điện chia ra từng năm đối với từng hệ thống lưới điện. - Xác định các giải pháp, các cơ chế chính sách nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển điện nông thôn có giá trị trong thời gian 5 năm. 2.3 Sự cần thiết phải xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển mạng lưới điện nông thôn. - Trước hết đối với những chương trình mang tầm cơ quốc gia như phát triển điện ở khu vực nông thôn, thì với khoảng thời gian 5 năm là phù hợp. Vì nó gắn với khoảng thời gian của một nhiệm kỳ chính trị của đất nước. Đồng thời với khoảng thời gian này cũng đảm bảo là không là dài quá đối với nhu cầu cung cấp thiết cho việc cấp điện cho nông thôn. - Việc thực hiện mục tiêu cho phát triển ngành điện nói và cho phát triển điện khu vực nông thôn nói riêng đòi hỏi phải có một thời gian đủ dài thì mới có thể. Vì việc đầu tư cho lưới điên nông thôn ( đầu tư ._.cho cơ sở hạ tầng ở nông thôn ) không thể trong một sớm một chiều mà có thể thấy được hiệu quả của việc phát triển, những khó khăn và thuận lợi. Cho nên với khỏng thời gian là 5 năm là phù hợp cho chúng ta đánh giá được hiệu quả của chương trình. -Phát triển mạnglưới điện nông thôn là một chương trình đòi hỏi số vốn thực hiện là rất lớn, mà việc thu hồi vốn lại không những lâu dài mà nhiều khi còn khó có khả năng thực thi. Vì vậy mà chủ yếu nguồn vốn được dựa vào ngân sách Nhà nước và sự giúp đỡ của các tổ chức cũng như các quốc gia khác trên thế giới. Vì vậy mà việc phát triển cho điện nông thôn phải được xây dựng thành kế hoạch trong một thời gian trước mắt và phải tính đến thời gian trình duyệt, cũng như có thời gian để tìm và huy động nguồn vốn. -Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nó được thực hiện cùng với sự tính toán đến việc phát triển các ngành khác để phục vụ cho phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn như: kế hoạch về phát triển đường giao thông nông thôn, phát triển y tế, kế hoạch về xoá nạn mù chữ và giáo dục tiểu học…Để xây dựng và thực hiện các chương trình này thì đòi hỏi phải có thời gian không thể thực hiện được trong một khoảng thời gian ngắn. III. Sự cần thiết phải phát triển mạng lưới điện nông thôn của tỉnh Thái Nguyên. Giới thiệu tổng quan chung về tình hình tự nhiên của tỉnh Thái Nguyên Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, nằm trong vùng trung du miền núi Bắc bộ. Có tổng diện tích tự nhiên là 3541,6 Km2, bao gồm 7 huyện , một thị xã và một thành phố. Toàn tỉnh có dân số gần 1,2 triệu người . Là một tỉnh không lớn chỉ chếm 1,13 % diện tích và 1,41 % dân số của cả nước. Tỉnh Thái Nguyên có đường ranh giới tiếp giáp với Bắc Cạn ở phía Bắc, với Vĩnh Phúc, Tuyên Quang ở phía tây, phía đông tiếp giáp với Lạng Sơn, Bắc Giang và ở phía nam với thủ đô Hà Nội. Với vị trí địa lý, là một trong những trung tâm chính trị kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi Đông bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du với vùng miền núi đồng bằng bắc bộ. Sự giao lưu đó được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình dẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút. Khí hậu Thái Nguyên là khí hậu của vùng nhiệt đới gió mùa, với lượng mưa khá lớn, trung bình từ 2000 đến 2500 mm, tổng lượng nước mưa tự nhiên của tỉnh dự tính lên tới 6,4 tỷ m3/nam. Tuy nhiên, lượng mưa phân bố không đồng đều theo thời gian và không gian. Ngoài ra, Thái Nguyên cũng có lợi thế về thị trường và khả năng hợp tác kinh tế đối ngoại. Vì nằm ở trung tâm Việt Bắc nên có một vị trí đặc biệt quan trọng: Là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong khu vực miền núi Đông bắc với đồng bằng sông hồng và các tỉnh phía nam, là lá chắn của thủ đô Hà Nội về phía Bắc là hậu phương trực tiếp của các tỉnh biên giới. Về mặt kinh tế Thái Nguyên cũng có một vị trí quan trọng trong vùng cũng như trong cả nước. 2. Sự cần thiết phải phát triển mạng lưới điện nông thôn của tỉnh Thái Nguyên. Thứ nhất, Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Việt Bắc, trên địa bàn nông thôn của tỉnh có rất nhiều thành phần dân tộc sinh sống. Là tỉnh có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cả vùng. Đồng thời, còn có vai trò quan trọng trong vấn đề an ninh quốc phòng và ổn định chính trị của các dân tộc anh em khu Việt Bắc. Chính vì vậy mà việc phát triển mạng lưới điên nông thôn của tỉnh Thái Nguyên không chỉ nhằm phát triển lợi ích về mặt kinh tế mà còn bao hàm cả các lý do về chính trị và an ninh quốc phòng. Cho nên không thể chậm trễ trong vấn đề nay mà phải tích cực đẩy nhanh công việc phát triển điện ở khu vực nông thôn cuả tỉnh Thái Nguyên nhằm thúc đẩy việc hoàn thành công cuộc điện khí hoá nông thôn. Thứ hai, dân số của tỉnh Thái Nguyên chiếm đến 77 % tập trung ở khu vực nông thôn. Và trong những năm gần đây ngành nông nghiệp Thái Nguyên đã có bước phát triển rất nhanh, đạt được tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định dẫn đến đời sống của những người nông dân ngày càng được khấm khá và nhu cầu sử dụng điện năng càng ngày đòi hỏi ngày càng cao. Với mạng lưới điện như hiện nay thì không thể đủ cung cấp điện sinh hoạt và sản xuất cho những người dân đạt được hiệu quả cao. Thứ ba, muốn chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, để khai thác tối đa tiềm năng, tăng hiệu quả sản xuất của sản phẩm thì các mặt hàng nông lâm hải sản phải được qua chế biến. Nhưng hiện nay các mặt hàng mới chủ yếu ở dạng thô, tỷ lệ sơ chế còn cao, đặc biệt năng suất cây trồng vật nuôi còn thấp, do chưa áp dụng trình độ kỹ thuật và máy móc vào việc sản xuất chưa tiến hành cải tạo giống để nâng cao hiệu quả kinh tế, tập quán canh tác còn lạc hậu. Chính vì vậy mà điện về nông thôn để giúp cho việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá các sản phẩm cây trồng vật nuôi cũng như đưa kỹ thuật và máy móc vào sản xuất để nâng cao hiệu quả của các sản phẩm nông nghiệp. Thứ tư, phát triển kinh tế nhiều thành phần của đất nước ta cũng như của tỉnh Thái Nguyên là một giải pháp chiến lược chứ không phải là giải pháp tình thế. Phải thấy rằng sự tăng trưởng của bất kỳ thành phần kinh tế nào, bất kỳ khu vực nào, nông thôn hay thành thị cũng đều góp phần làm phát triển nền kinh tế tỉnh. Do vậy, phải bình đẳng trong ssản xuất kinh doanh giữa các thành phần, phải đảm bảo được tính cạnh tranh và thúc đẩy. Tuy nhiên, hiện nay giá thành điện của khu vực nông thôn của tỉnh là rất cao so với thành thị ( có nới giá điện gấp đối đến 3 lần), đây là điều kiện bất lợi đối với sản xuất ở khu vực nông thôn. Do vậy, mà việc phát triển mạng lưới điện là vấn đề cần thiết để giảm bớt thiệt thòi về giá điện hiện nay đối với khu vực nông thôn của tỉnh Thái Nguyên. Thứ năm, hiện nay vấn đề ô nhiễm về môi trường của tỉnh Thái Nguyên đang là vấn đề hết sức nan giải. Trong những năm gần đây thì tình hình thời tiết cũng như khí hậu xảy ra bất thường, các trận lũ lụt cung xđến không ổn định. Nguyên nhân này một phần nhỏ không là do đồng bào ở khu vực nông thôn vẫn sử dụng nguồn năng lượng truyền thống như than , củi .. để sử dụng cho mục đích sinh hoạt và sản xuất. Vì vậy đã gây ảnh hưởng xấu tới môi trường tự nhiên của tỉnh. Cho nên việc phát triển mạng lưới điện về nông thôn sẽ giúp cho người dân nơi đây chuyển sang việc sử dụng năng lượng truyền thống sang sử dụng năng lượng điện để có lợi hơn về môi trường. Chương II Tình thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn giai đoạn 1996-2000 I.Thực trạng phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên Mạng lưới điện nông thôn của tỉnh Thái Nguyên thời kỳ trước những năm 1996 Bảng 1: Báo cáo tổng kết về tình hình điện nông thôn 12/1996 Stt Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1 Số huyện có điện lưới Số huyện 11 Tỷ lệ % % 92 2 Số xã có điện lưới Số xã 122 Tỷ lệ % % 66 3 Số hộ nông dân có điện lưới Số hộ 25.535 Tỷ lệ % % 72,5 4 Điện tiêu thụ cho nông thôn KWh 16.547.486 5 Điện tiêu thụ bình quân ở nông thôn Kwh/người/ năm 68,48 6 Giá bán điện bình quân Đ/Kwh Tại công tơ tổng Đ/Kwh 475,28 Đến hộ nông dân Đ/Kwh 751,22 Nguồn số liệu: Trích báo cáo tổng kết của Điện lực Thái Nguyên 12/1996 Thời kỳ trước năm 1996 hệ thống mạng lưới điện nông thôn của tỉnh Thái Nguyên còn rất nghèo nàn, đa số nguồn điện lúc đầu do Nhà máy điện cao ngạn ( đã dừng hoạt động vào cuối năm 1993). Sau khi Nhà máy điện Cao Ngạn không cung cấp điện nữâ, thì điện được lấy từ Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình và đều được tập trung vào việc phát triển cho nền công nghiệp nặng của tỉnh ( như: khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng và các hầm mỏ ...). Còn điện giành cho việc phát triển nông nghiệp ở khu vực nông thôn thì không được quan tâm và chú trọng. Với 184 xã của toàn tỉnh (Bao gồm cả Bắc Cạn khi đó chưa tách tỉnh) thì có đến 62 xã là chưa có điện lưới. Các trạm biến áp với công suất lớn, hệ thống lưới điện cao thế ( 220 Kv, 110 Kv) và trung thế ( 35 Kv, 10 Kv) chỉ được tập trung ở Thành phố và thị trấn hay những nơi nào mà có các ngành công nghiệp phát triển, còn khu vực nông thôn thì hoàn toàn chỉ có lưới điện hạ thế và các trạm biến áp với công suất nhỏ. Đa số chỉ được xây dựng và kéo đến trung tâm xã để phục vụ cho nhu cầu thông tin, văn hoá và sinh hoạt của xã. Đặc biệt, đối với các xã vùng sâu và quá xa so với các khu trung tâm mà nguồn lưới điện không thể kéo đến được do vậy mà phải sử dụng các nguồn điện ngoài lưới như: máy nổ, hay các trạm thuỷ điện nhỏ để phục vụ cho nhu cầu tối thiểu của xã. Mặt khác, thời kỳ này có các chương trình phát triển điện nông thôn do các tổ chức quốc tế hay quỹ hỗ trợ phát triển chưa được đầu tư vào. Vì vậy mà nguồn vốn thực hiện rất ít ỏi, chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước cung cấp còn địa phương thì không đáng kể và của nhân dân thì hầu như chưa có. Vì vậy không thể tiến hành một cách phát triển mạng lưới điện nông thôn của tỉnh trên diện rộng mà chỉ tiến hành đầu tư chú trọng những nơi trọng điểm và cần thiết như một số nơi có thể có điều kiện phát triển kinh tế, những nơi mà nằm trong vùng trọng điểm hay vùng phát triển chiến lược của tỉnh. Tóm lại, về mạng lưới điện nông thôn của tỉnh Thái Nguyên trước những năm 1996 là rất kém phát triển và nghèo nàn đã gây cản trở không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thái Nguyên nói chung và nông thôn nói riêng. Vì vậy mà trong kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn của tỉnh giai đoạn 1996-2000 Điện lực đã quyết tâm phấn đấu để nâng cao số hộ nông dân được sử dụng điện nhằm giảm bớt được sự chênh lệch và mất công bằng giữa nông thôn và thành thị trong tỉnh. 2. Kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1996-2000. 2.1 Kế hoạch thực hiện vốn đầu tư cho xây dựng mạng lưới điện nông thôn của tỉnh Thái Nguyên. Bảng2: Kế hoạch thực hiện vốn đầu tư thời kỳ 1996-2000. ( Nguồn số liệu: Báo cáo kế hoạch thực hiện vốn đầu tư giai đoạn 1996-2000 của phòng Điện nông thôn Điện lực Thái Nguyên) Đơn vị : triệu đồng 1996 1997 1998 1999 2000 Ngân sách của Nhà nước 44.060 59.300 58.310 60.028 62.890 Ngân sách của địa phương và nhân dân 14.932 19.784 21.192 19.892 18.178 Nguồn của các tổ chức quốc tế - - - - - Tổng cộng 58.992 79.084 79.502 79.920 99.068 Ta thấy rằng, vấn đề phát triển lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên, là loại hình đầu tư vào kết cấu hạ tầng nhằm thúc đẩy các hoạt động kinh tế chính trị xã hội của khu vực nông thôn trong tỉnh. Nhưng về mặt tài chính lại không có khả năng hoàn vốn vì mức đầu tư kinh phí để đưa điện về nông thôn đòi hỏi quá lớn, mức tiêu thụ điện lại không tương xứng, do vậy mà doanh thu tiền điên không đủ trang trải các chi phí quản lý và khấu hao tài sản, nên các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài không tham gia. Vì những khó khăn trên mà Điện lực Thái Nguyên đã đề ra chỉ tiêu thực hiện trong thời kỳ kế hoạch 1996-2000 là: Tích cực huy động mọi nguồn vốn kể cả ngân sách của Nhà nước và các tổ chức quốc tế, đồng thời tuyên truyền và huy động sự đóng góp và ủng hộ của các hộ dân trong khu vực phát triển lưới điện. Đây cũng là chủ trương chung của Nhà nước ta trong việc phát triển điện nông thôn khi mà nguồn vốn còn eo hẹp. Nhưng trong suốt thời kỳ 1996- 2000 đầu tư của nhân dân ở khu vực nông thôn là quá nhỏ bé. Theo kết quả tổng kết về thực hiện nguồn vốn đầu tư 1996-2000 ở nông thôn của Điện lực Thái Nguyên ta thấy: Năm 2000 nguồn vốn của ngành là 62.890 triệu đồng, trong khi ngân sách của địa phương và nhân dân chỉ là 18.178 triệu đồng. Chính vì vấn đề thiếu vốn mà việc xây dựng không được đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật vân hành, kém an toàn, tổn thất điện cao và chất lượng điện xấu. Việc phát triển mạng lưới điện nông thôn thì phải Nhà nước và địa phương cùng làm. Nhưng chính quyền địa phương xã các hộ nông dân thì lại ỷ lại vào Nhà nước và coi đây là trách nhiệm của ngành điện lực. Chính vì vậy, mà số vốn mà ngân sách địa phương và dân đóng góp chưa cao. Còn với các tổ chức quốc tế thì mãi đến thời gian những năm 1999 mới có 3 chương trình của các tổ chức SIDA và WB giúp đỡ cho tỉnh Thái Nguyên, những chỉ là cải tạo và xây dựng trạm biến áp mới để chống quá tải điện ở khu vực thành phố, còn ở nông thôn thì vẫn chưa có. Cho nên kế hoạch phát triển điện nông thôn của Thái Nguyên được thực hiện chủ yếu dựa vào nguồn vốn của ngành điện. 2.2 Kế hoạch phát triển nguồn điện để phục vụ cho nhu cầu nông thôn của tỉnh Thái Nguyên. Bảng 3:Tình hình cung cấp điện cho khu vực nông thôn giai đoạn 1996-2000 Đơn vị : KWh 1996 1997 1998 1999 2000 Nhiệt điện (ĐQG) 135.213.551 142.304.985 167.009.000 172.892.478 220.894.595 Thuỷ điện nhỏ 992 900 845 845 722 Thuỷ điện cực nhỏ 100 * * * 49 Nguồn điện khác _ _ _ _ _ Nguồn số liệu: Báo cáo công tác quản lý điện nông thôn giai đoạn 1996-2000 của Phòng điện nông thôn- Điện lực Thái Nguyên. Chú ý : * Không thống kê 2.2.1 Nguồn nhiệt điện trong tỉnh và nguồn điện quốc gia Về nguồn nhiệt điện trong thời gian đầu là do Nhà máy điện Cao ngạn với công suất (2x12) MW cung cấp cho nhu cầu điện của toàn tỉnh Thái Nguyên và khu vực nông thôn. Nhưng do Nhà máy đã tạm ngừng hoạt động vào cuối năm 1993 và từ những năm 1993 cho đến năm 1998 nhà máy chỉ làm nhiệm vụ chạy bù công suất vô công, để đảm bảo ổn định lưới điện của khu vực và đến cuối năm 1998 thì Nhà máy ngừng hẳn hoạt động. Vì vậy mà nguồn nhiệt điện để cung cấp cho tỉnh thời kỳ này là rất ít. Nên nguồn điện chính để phục vụ cho nhu cầu của tỉnh và nông thôn Thái Nguyên được lấy từ Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình. Bảng 4: Các chỉ tiêu kinh doanh điện năng ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên. Các chỉ tiêu Kế hoạch 1996-2000 Thực hiện Tỷ lệ Điện thương phẩm (KWh) 158.800.000 167.702.921 106 % Điện tổn thất (KWh) 20.124.350 Tỷ lệ tổn thất (%) 15 12 -3% Sản lượng điện trung bình ngày 435.068 459.509 Nguồn số liệu: Phòng điên nông thôn - Điện lực Thái Nguyên Đến cuối năm 2000 tổng sản lượng điện nhận được cho khu vực nông thôn là 220.895.366 KWh. Đã tăng so với năm 1996 là 85.680.723 KWh ( năm 1996 sản lượng điện nhận cho khu vực nông thôn là 135.214.643 KWh) Trong đó sản lượng điện thương phẩm trung bình cho cả thời kỳ ở nông thôn là 167.702.921 KWh, tổn thất điện là 20.124.350 KWh ( chiếm 12 %) giảm so với kế hoạch đề ra là 3 %. Sản lượng điện trung bình ngày cho khu vực nông thôn là 459.509 KWh. Trong đó sản lượng ngày cao nhất là 605.396 KWh, còn sản lượng điện cho ngày thấp nhất là 384.792 KWh. Điện phục vụ cho nhu cầu dùng thuỷ lợi là 1.282.753 KWh và cho nông lâm trường là 396.755 KWh (năm 2000). So với năm 1996 điện sử dụng cho thuỷ lợi là 972.344 KWh và nông lâm trường là 290.700 KWh 2.2.2 Nguồn thuỷ điện nhỏ Với hệ thống sông suối khá dày đặc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các trạm thuỷ điện nhỏ với công suất thấp, thường nhỏ nhất là 5 KW và lớn nhất là 75 KW. Do điều kiện có hạn của mạng lưới điện nên hầu như toàn bộ các trạm thuỷ điện này đều được tập trung ở các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh hoặc trong các đơn vị quân đội. Năm 1996 toàn tỉnh có 28 trạm thuỷ điện nhỏ được đặt chủ yếu tại các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa, với tổng công suất đặt là 452 KW. Nhưng do qua nhiều năm vận hành và do thiếu trình độ quản lý, thiếu thiết bị phụ tùng thay thế và do nguồn nước ngày càng bị cạn kiệt, không ổn định ( do rừng đầu nguồn bị khai thác bừa bãi) về mà khô. Mặt khác, các trạm thuỷ điện nhỏ này lại chủ yếu do quân đội và địa phương quản lý nên nguồn thuỷ điện nhỏ này càng kém hiệu qủa trong khi sử dụng. Nhiều trạm ngày càng bị tháo dỡ hay bị hỏng mà không có khả năng phục hồi trở lại. Song song với việc ngày càng bất lợi cho thuỷ đện nhỏ thì mạng lưới điện quốc gia đang được mở rộng và phát triển nên tính cạnh tranh của các trạm thuỷ điện này càng yếu đi. Do vậy mà trong kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn của điện lực thái nguyên giai đoạn 1996-2000 cũng như Uỷ ban nhân dân tỉnh không chú trọng và xây dựng mới thêm các trạm thuỷ điện nhỏ để cung cấp điện mà chỉ duy trì sự tồn tại của các trạm này. Cho nên đến cuối năm 2000 số trạm thuỷ điện nhỏ chỉ còn là 16 trạm đã giảm đi 5 trạm, trong đó có 4 trạm không hoạt động do bị hỏng mà không có khả năng phục hồi, còn một trạm do lưới điện của tỉnh đã tới nơi nên trạm thuỷ điện này đã ngừng hoạt động và bỏ. 2.2.3 Nguồn thuỷ điện cực nhỏ Đối với nguồn thuỷ điện cực nhỏ chủ yếu chỉ tập trung ở những nơi xa xôi so với thị trấn và thành phố, những nơi mà nguồn lưới điện quốc gia chưa tới và cũng phải mất một thời gian dài mới có thể kéo đến được. Chính vì vậy mà số lượng các trạm thuỷ điện cực nhỏ này khó có thể thống kê một cách chính xác (thường Điện lực chỉ thống kê vào năm đầu và năm cuối của thời kỳ kế hoạch). Theo số liệu thống kê được của phòng điện nông thôn của Điện lực Thái Nguyên thì năm 1996 ước lượng khoảng 600-700 máy, với công suất từ 100 đến 200 W. Việc sử dụng nguồn điện này chủ yếu là do tư nhân đầu tư và để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, vì công suất nhỏ nên khó có thể phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Nguồn điện này cũng chỉ sử dụng cần thiết khi mà nguồn lưới điện quốc gia chưa đến, do nó cũng giống như các trạm thuỷ điện nhỏ là có rất nhiều nhược điểm: Kém hiệu quả, thiếu phụ tùng thay thế và hạn chế về nguồn nước không được ổn định...Cho nên việc sử dụng nguồn điện này cho nông thôn chỉ là nhu cầu cấp bách, không được Nhà nước khuyến khích đầu tư. Không những vậy mà trong kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn giai đoạn 1996-2000 còn nhằm giảm dần sự phát triển của nguồn điện này do nhiều sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt. Tính đến cuối năm 2000 tổng số trạm thuỷ điện cực nhỏ này theo thống kê chỉ còn khoảng 300 đến 350 trạm và chủ yếu ở vùng sâu vùng xa và phân bố hầu hết ở các huyện Định Hoá và Võ Nhai. 2.2.4 Các nguồn điện khác Đối với các nguồn điện khác như sử dụng bằng khí đốt, Pin mặt trời và sử dụng sức gió, thì cho đến cuối năm 2000 thì chưa có một nguồn điện nào được sử dụng từ các nguồn nguyên liệu này. Do điều kiện về khí hậu và thuỷ văn của tỉnh Thái Nguyên không phù hợp với việc phát triển nguồn điện bằng sức gió hay bằng năng lượng mặt trời. Mặt khác việc xây dựng các trạm điện bằng khí đốt, Pin mặt trời và động cơ gió hiện nay đòi hỏi vốn đầu tư là rất lớn và là quá cao so với các hộ nông dân ở các vùng nông thôn và những vùng sâu của tỉnh Thái Nguyên. Cho nên nguồn điện được sử dụng từ các nguồn năng lượng này cho đến cuối năm 2000 là không có và cũng không có hướng phát triển trong tương lai đối với các vùng nông thôn trên địa bàn của Thái Nguyên. 2.3 Hệ thống lưới điện và các trạm biến áp của khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1996-2000. Bảng5: Hệ thống lưới điện khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1996-2000 1996 1997 1998 1999 2000 Lưới điện cao thế Đường dây km 220Kv - - - - - 110Kv - - - 21,5 21,5 TBA - - - 1 1 Lưới điện trung thế Đường dây km 35Kv 132,3 132,3 164 192,3 192,3 10Kv 68,8 78,9 78,9 91,8 91,8 TBA 35Kv 10Kv 43 49 43 54 49 54 52 56 52 56 Lưới điện hạ thế Đường dây km 6Kv 125,7 145,7 186,2 192,5 212,17 0,4Kv 350 400,8 499,4 546 600 TBA 6Kv 79 82 86 91 105 0,4Kv 102 125 145 166 186 Nguồn số liệu: Phòng điện nông thôn- Điện lực Thái Nguyên 2.3.1 Lưới điện cao thế Đây là mạng lưới điện 220 Kv và 110 Kv. Đối với hệ thống lưới điện cao thế của tỉnh Thái Nguyên khá phát triển ngay từ thời kỳ đầu. Nhưng hầu như chỉ được tập trung ở Thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công (những nơi mà có các trung tâm công nghiệp) còn không phát triển vào khu vực nông thôn của tỉnh. Cả đường dây trung thế và hạ thế còn rất nghèo nàn. Nhận thấy nhu cầu điện của nông dân ở nông thôn Thái Nguyên chưa cần tới sự phát triển của đường dây cao thế, đặc biệt là lưới 220Kv, vì vậy nếu mà xây dựng lúc này sẽ gây lãng phí nên trong kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn giai đoạn 1996-2000 chưa chú trọng cho phát triển lưới điện cao thế 220. Bên cạnh đó việc đầu tư cho đường dây cao thế và xây dựng các trạm biến áp là rất tốn kém. Vì vậy, từ năm 1996 đến năm 2000 thì không khu vực nào ở nông thôn của tỉnh Thái Nguyên có đường dây 220Kv và các trạm cao thế. Tính đến cuối năm1999 thì tổng chiều dài của đường dây 220 Kv của toàn tỉnh Thái Nguyên là 38,8 Km do Công ty truyền tải 1 thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam quản lý được nối liền từ Sóc Sơn đến thành phố nhằm phục vụ cho việc truyền tải điện năng của quốc gia để phục vụ cho nhu cầu điện của toàn tỉnh Thái Nguyên. Còn đối với đường dây 110 Kv thì tính cho đến cuối năm 1999 toàn tỉnh có 138,1 Km chiều dài. Trong đó chỉ có 21,5 Km là cho khu vực nông thôn được kéo từ Thành phố Thái Nguyên đến Gò Đầm được xây dựng vào cuối năm 1998. Đối với lưới điện 110 Kv ngày càng quan trọng đối với việc cung cấp điện cho nông thôn trong tương lai, vì vậy mà lưới 110 cũng đang được Điện lực Thái Nguyên xem xét trong các kế hoạch đưa điện về nông thôn. Lưới điện trung thế Lưới điện trung thế (lưới điện 35 Kv và 10 Kv) đây là lưới điện được quan tâm trong vấn đề nâng cao chất lượng của mạng lưới điện nông thôn hiện nay và được đề cập tới trong kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn giai đoạn 1996-2000. Việc phát triển mạng lưới điện trung thế trong thời kỳ này nhằm tăng số lượng đường dây trung thế đến các trung tâm huyện và thị trấn sao cho đến cuối năm 2000 không còn trung tâm huyện và thị trấn nào không có lưới điện trung thế và đảm bảo được 70% số xã có đường dây trung thế, ngoài ra nâng cấp thêm đường dây trung thế ở nông thôn còn đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng của đường truyền, giảm được tổn thất điện cho khu vực này. Đến cuối năm 2000 số xã có lưới điện trung thế là 110 xã đạt 75,8% vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra (Kế hoạch 1996-2000 của Công ty điên lực 1 giao cho Điện lực Thái Nguyên đến hết năm 2000 phải hoàn thành được 65 % lưới điện trung thế đến các xã ở nông thôn của tỉnh Thái Nguyên). Tổng số đường dây 35 Kv kéo về các vùng nông thôn tính đến cuối năm 2000 là 97 đường dây với tổng chiều dài là 192,3 Km và 52 trạm biến áp ( bao gồm cả trạm trung gian và trạm chống quá tải), đường dây 10 Kv có 14 lộ và đường dây với tổng chiều dài là 98,8 km và 56 trạm biến áp (cả trạm trung gian và trạm chống quá tải). Trong khi đó năm 1996, tổng số đường dây 35 Kv kéo về các vùng nông thôn chỉ có 5 đường dây với tổng chiều dài 132,3 Km, 43 trạm biến áp và đường dây 10 Kv có 10 lộ với tổng chiều dài là 68,8 Km, 49 trạm biến áp. Đối với đường dây trung thế ngày càng có vị trí quan trọng trong việc phát triển mạng lưới điện nông thôn về tương lai sau này. 2.3.3Lưới điện hạ thế. Đây là lưới điện 6 Kv và 0,4 Kv. Là mạng lưới điện cuối cùng để kéo điện từ nguồn lưới đến tận các xã, các thôn bản và các hộ gia đình ở nông thôn. Chính vì vậy mà phát triển lưới điện này cũng là việc phát triển mạng lưới điện nông thôn một cách rộng ra đến các hộ nông dân chưa có điện. Nên phát triển mạng lưới điện nông thôn về chiều rộng nó gắn liềnvới việc phát triển mạng lưới điện hạ thế. Ngoài ra, đây cũng là mạng lưới điện mà gây ra nhiều tổn thất về điện năng nhất cũng như sự cố đường dây và gây nhiều khó khăn trong cả việc quản lý. Vì vậy mà trong kế hoạch 1996-2000, ngoài việc mở rộng lưới điện hạ thế, Điện lực Thái Nguyên còn tăng cường chú trọng đến vấn đề sửa chữa đại tu đường dây cũng như quản lý một cách chặt chẽ, tránh gây thất thoát điện và nhằm giảm tổn thất cũng như sự cố xảy ra. Đến cuối năm 2000 tổng đường dây hạ thế là 812,17 Km (cả đường dây 6 và 0,4 Kv) và 291 trạm biến áp (cả trạm trung gian và trạm chống quá tải). Trong đó, đường dây 6 Kv cho khu vực nông thôn có 33 lộ và đường với tổng chiều dài là 212,17 Km gồm 105 trạm biến áp,còn đường dây 0,4 có tổng chiều dài là 600Km và 186 trạm biến áp. Trong khi đầu năm 1996 đường dây 6 Kv chỉ có 26 lộ và đường dây với tổng chiều dài là 125,7 Km và đường dây 0,4 là 350 Km Qua 5 năm thực hiện ta thấy mạng lưới hạ thế của tỉnh Thái Nguyên phát triển một cách nhanh chóng, đây cũng là mạng lưới trọng tâm trong giai đoạn này để đưa điện về nông thôn theo đúng kế hoạch. Nhờ vậy mà số hộ nông dân được sử dụng lưới điện ngày càng tăng. 2.3.4 Tình hình vận hành lưới điện Tình hình sự cố lưới điện chủ yếu tập trung vào các đường dây trung thế và hạ thế. Tổng số lần sự cố trong khâu vận hành lưới điện của toàn tỉnh Thái Nguyên là 138 lần (năm2000), trong đó khu vực nông thôn là 121 lần sự cố. Trong khi sự cố trong khâu vận hành ở khu vực nông thôn trong năm 1996 chỉ là 57 lần. Vì vậy trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 kế hoạch đề ra cho lưới điện nông thôn làm sao phải giảm dần về sự cố qua các năm, để đảm bảo cho mạng lưới điện được thông suốt nhằm giảm tổn thất cho Điện lực cũng như tránh gây khó khăn đối với người tiêu dùng. 2.4 Kế hoạch 1996-2000 đối với công tác hỗ trợ, kiểm tra, hướng dẫn và quản lý mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên. Bảng 6: Báo cáo sự cố về lưới điện và trạm biến áp ở khu vực nông thôn giai đoạn 1996-2000 Đơn vị 1996 2000 Lưới và trạm biến áp 110Kv Lần - 3 Lưới và trạm biến áp 35-10Kv Lần 92 98 Lưới và trạm biến áp 6-0,4Kv Lần 129 131 Nguồn số liệu: Phòng điện nông thôn - Điện lực Thái Nguyên Để việc phát triển và quản lý điện ở khu vực nông thôn theo đúng quy định của ngành cũng như của Chính Phủ nhằm đảm bảo cho việc sử dụng điện an toàn, tiết kiệm. Nên công tác hỗ trợ, kiểm tra, hướng dẫn và quản lý lưới điện khu vực nông thôn luôn được chú trọng và duy trì thường xuyên trong suốt thời kỳ thực hiện kế hoach 1996-2000. Ngay từ những năm đầu của kế hoạch, Điện lực Thái Nguyên đã triển khai thực hiện thông tư liên tịch số 01 và quyết định 22 của Thủ Tướng Chính Phủ về phát triển mạng lưới điện nông thôn và báo cáo của Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh phối hợp với các cơ quan, ban ngành hữu quan và chính quyền địa phương tiến hành triển khai công tác kiểm tra, hướng dẫn quản lý sử dụng điện ở khu vực nông thôn. Qua 5 năm thực hiện đã tiến hành kiểm tra được 73 xã, với tổng số là 185 lần ở các huyện Đại Từ, Định Hoá, Phú Lương, Đồng Hỷ...Qua kiểm tra đã kịp thời chỉ ra các sai sót, hạn chế trong công tác quản lý. Từ đó, đã có những biện pháp điều chỉnh, tổng hợp được tình hình cụ thể và có kế hoạch báo cáo với Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh để có cơ sở nhằm đề ra các định hướng, giải pháp cho công tác quản lý mạng lưới điện nông thôn. Với nhận thức rằng đây là một công tác quan trọng trong kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn vì vậy mà Điện lực Thái Nguyên đã phối hợp với chính quyền địa phương và trường trung cấp công nghiệp Thái Nguyên tổ chức đào tạo hơn 200 công nhân quản lý điện nông thôn với sự hỗ trợ của điện lực về tài liệu, giáo trình và cử cán bộ cùng kết hợp giảng dạy. Năm 1999-2000 điện lực đã kết hợp với Trung tâm dịch vụ việc làm của tỉnh và các trường chuyên nghiệp mở 6 lớp đào tạo công nhân quản lý điện nông thôn với tổng số 356 học viên và tổng số tiền hỗ trợ cho mỗi học viên là 200000 đồng / người. Tổng kinh phí hỗ trợ cho toàn đợt là 171.300.000 đồng. Những công nhân này trước khi được giao nhiệm vụ quản lý lưới điện của xã đều phải học, kiểm tra quy trình kỹ thuật an toàn và quy trình kinh doanh cũng như công nhân ngành điện. Ngoài ra, Điện lực còn cử các đoàn công tác quản lý kỹ thuật an toàn, kinh doanh, cách hạch toán tài chính, xây dựng giá bán điện theo đúng quy định của Nhà nước, hướng dẫn công tác lập ghi chép số sách. Định kỳ hàng tháng, quý. Kết hợp cùng với các chi nhánh đi kiểm tra thực tế công tác quản lý, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót. Chính nhờ vậy mà công tác quản lý điện nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên đã đạt được kết quả đáng khích lệ: Tỷ lệ tổn thất lưới điện nông thôn các xã bình quân mỗi năm đều dưới 15 %. Điện lực Thái Nguyên còn phối hợp với đài truyền hình Thái Nguyên, các địa phương tiến hành tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng điện an toàn, đặc biệt là trong những mùa mưa bão. ( Cụ thể mỗi năm Điện lực đã kết hợp với Đài truyền hình Thái Nguyên xây dựng 02 chương trình: An toàn sử dụng điện trong mùa mưa bão và an toàn sử dụng điện trong mùa hanh khô. Được phát hành trong các tháng 4,5 và 6. Ngoài ra, còn đăng trên báo Thái Nguyên để tuyên truyền về cách sử dụng điện an toàn). II. Đánh giá về tác động của kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1996-2000. Tác động đến lượng khách hàng sử dụng điện nông thôn. Bảng 7: Công tác phát triển khách hàng ở khu vực nông thôn giai đoạn 1996-2000 Đơn vị: Số hộ 1996 1997 1998 1999 2000 Số khách hàng 25.535 28.694 30.128 32.897 39.499 Tư gia 25.014 28.153 29.523 32.199 38.649 Cơ quan 521 541 605 698 850 Nguồn : Phòng điện nông thôn - Điện lực Thái Nguyên Sau 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn, thì hệ số sử dụng điện của khách hàng ở nông thôn đã tăng lên một cách nhanh chóng qua các năm. Đây là con số đầu tiên đánh giá cho chúng ta có thể biết được kết quả của việc thực hiện kế hoạch. Số khách hàng tăng nhanh phần nào đã góp phần đánh giá được hiệu quả của việc phát triển mạng lưới điện ở nông thôn. Cho đến hết tháng 11 năm 2000, tổng số hộ nông dân được sử dụng điện là 39.499 hộ chiếm tỷ lệ là 78,25 %, đã tăng so với năm 1996 là 15.964 hộ, mỗi năm tăng thêm khoảng 3000 công tơ mới (trong đó có cả công tơ 3 pha và công tơ 1 pha). Tuy nhiên, số hộ sử dụng đã tăng, nhưng do thời kỳ đầu việc quản lý việc sử dụng công tơ còn chưa đồng bộ và kém hiệu quả dẫn đến tình trạng gian lận của các hộ khi sử dụng điện và gây thiệt hại đáng kể cho ngành điện trong việc kinh doanh và bán điện. Ngoài ra số hộ dùng điện còn chưa tương xứng với số công tơ hiện có, do có nhiều hộ gia đình dùng chung một công tơ, nên đã gây nhiều phiền phức cho nhân viên thu tiền điện cũng như vấn đề quản lý việc sử dụng điện của các hộ gia đình. 2. Tác động đến giá thành sử dụng điện của hộ nông dân. Bảng 8: Giá điện ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên Đơn vị: số xã 1996 1997 1998 1999 2000 Số xã có giá <700đ/KWh 58 62 69 72 79 Số xã có giá từ 700đ/KWh đến 900đ/KWh 38 34 32 32 30 Số x._.ng các công trình xây dựng mạng lưới điện nông thôn, Điện lực cần đến sự giúp đỡ của các đơn vị chuyên môn khác nhằm xây dựng nên các công trình có chất lượng cao và sử dụng hợp lý nguồn vốn. Để có được điều đó Điện lực phải tiến hành mời thầu để chọn ra nhà đầu tư thực hiện công trình. Đứng trước tầm quan trọng của hoạt động này, làm cách nào để lựa chọn được một nhà thầu có đủ năng lực, phẩm chất thực hiện nhiệm vụ là khá khó khăn. Vì vậy, khi đấu thầu cần lưu ý một số vấn đề sau: + Sự chuẩn bị chu đáo sẽ tác động rất lớn đến thành công của công tác đầu thầu. Môi trường đấu thầu phải lành mạnh, tránh tình trạng tiêu cực tham những làm cho khâu chọn lựa bị sai lệch. Khối lượng của công việc cho một gói thầu phải được xác định rõ ràng để sau này tránh tình đùn đẩy trách nhiệm giữa các gói thầu. + Kinh nghiệm của nhà thầu và chủ thầu là yêu cầu cực kỳ quan trọng trong quá trình xét duyệt thầu. Đối với nhà thầu kinh nghiệm nhiều sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện các công trình đầu tư được kỹ lưỡng và chất lượng cao. Đối với chủ thầu, kinh nghiệm trong việc chọn lựa đóng vai trò quyết định. Chủ thầu có nhiều kinh nghiệm thì mới có thể nhận biết được khả năng thực tế của các nhà thầu, dự đoán được mức giá của gói thầu, từ đó có thể đánh giá được giá mua thầu của các nhà thầu là có hợp lý hay không. + Muốn thu được thành công trong công tác đấu thầu thì các cán bộ tổ chức cần có kỹ năng đàm phán, cân bằng được lợi ích của chủ thầu và nhà thầu, để từ đó thoả mãn tốt nhất các yêu cầu của đầu tư xây dựng. Ngoài ra, một điều cực kỳ quan trọng đối với chủ đầu tư là phải biết khai thác điểm mạnh, điểm yếu của từng nhà thầu trong quá trình đấu thầu, để từ đó ước lượng được mức giá cả và khả năng hoàn thiện nhiệm vụ của các nhà thầu. 2.5 Xin cấp phép xây dựng. Sau khi đã tiến hành công tác khảo sát thực tế biết được những địa điểm mà ta tiến hành xây dựng các trạm điện cũng như xác định được tuyến đường điện sẽ đi qua, và xác định được nhà thầu thì Điện lực (chủ đầu tư ) sẽ tiến hành xin cấp phép xây dựng cho công trình theo các quy định hiện hành, để bên B sớm có thể tiến hành thi công. Trước hết tất cả các công trình xây dựng đối với mạng lưới điện đều phải được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Sau đó các công trình khi xây dựng phải được sự đồng ý của sở xây dựng tỉnh cho phép tiến hành xây dựng. Còn với những công trình mà đường điện thuộc hành lang của đường giao thông thì phải có giấy phép xin phép sở giao thông cho phép tiến hành xây dựng trên hành lang quy định của trục đường. Cuối cùng là phải xin được sự đồng ý của chính quyền địa phương (xã, phường) mà đại diện là phòng địa chính của xã (phường) cho đặt địa điểm xây dựng các trạm biến áp. 2.6 Giải phóng mặt bằng và việc đền bù. Để cho bên B có thể thực hiện được cồng trình thì Điện lực (chủ đầu tư ) phải tiến hành công tác giải phóng mặt bằng của công trình. Việc bồi thường cho những nơi mà công trình đi qua yêu cầu phải có tính pháp lý. Bồi thướng đất đai mùa màng, công trình kiến trúc đất đai, nhà cửa, cây cối và tài sản khác phải được tính theo quy định của Chính phủ, sau khi tiến hành bồi thường Điện lực phải yêu cầu các hộ gia đình tiến hành nhanh chóng việc di dời nhanh chóng để cho Điện lực sớm có mặt bằng giao cho bên B thực hiện công trình theo đúng tiến độ đã đề ra. 2.7 Giám sát việc thực hiện công trình. Trong quá trình xây dựng thì Điện lực phải thường xuyên có kế hoạch kiểm tra việc thực hiện của đơn vị thi công công trình, tiến hành giám sát chặt chẽ công việc xây dựng đảm bảo được công việc theo đúng kế hoạch và theo đúng hợp đồng đã ký giữa chủ dầu tư và đơn vị thi công. Ngoài ra trong quá trình thực hiện nếu bên thi công có phát sinh thì phải thông báo với chủ đầu tư để có hướng giải quyết. 2.8 Nghiệm thu công trình Sau khi công trình xây dựng hoặc cải tạo lưới điên nông thôn được hoàn thành thì Điện lực Thái Nguyên sẽ cùng với đơn vị thi công và đại diện của chi nhánh sở tại sẽ tiến hành công tác nghiệm thu công trình, trong quá trình nghiệm thu nếu phát hiện ra những thiếu sót hay những công việc chưa đúng như trong điều khoản của hợp đồng thì yêu cầu bên thi công có biện pháp sửa chữa và khắc phục. Khi nghiệm thu xong công trình thì Điện lực sẽ tổ chức đóng điện cung cấp cho người dân trong khu vực. Công việc đóng điện sẽ phải được thông báo trước cho địa phương trước khi đóng điện. 3. Các đơn vị tham gia thực hiện đưa điện về phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên. Đầu tiên là Điện lực Thái Nguyên với tư cách là chủ đầu tư, đơn vị mà trực tiếp tham gia công việc đưa điện về nông thôn cho khu vực tỉnh Thái Nguyên và cụ thể hơn đó là Phòng phát triển điện nông thôn của Điện lực Thái Nguyên sẽ là đơn vị chuyên trách nhiệm vụ này. Thứ hai, là Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, việc xây dựng hệ thống điện nằm trên địa bàn của tỉnh Thái Nguyên thì trước hết nó phải được sự đồng ý của cơ quan chủ quản cho phép xây dựng thì mới có thể tiến hành các công việc. Thứ ba là các sở ban ngành của tỉnh có nhiệm cấp các giấy phép cần thiết có liên quan khi thực hiện các công trình điện. Như: sở xây dựng cấp giấy phép xây dựng cho công trình xay dựng, Sở giao thông vận tải thì cấp những giấy phép liên quan đến hành lang đường giao thông của công trình, Sở nông nghiệp và phát triển điện nông thôn sẽ cấp các thủ tục cho các công trình điện mà đi qua các khu vực có diện tích đất rừng , Sở địa chính cấp giấy phép xin đất và tiến hành các thủ tục đền bù đất, ngoài ra còn có các sở, ban ngành khác có liên quan như, Sở kế hoạch và đầu tư... Thứ tư là các đơn vị thi công công trình ( các B ), đây là các đơn vị thực hiện công việc xây dựng, có thể là các công ty đóng trên địa bàn tỉnh thực hiện ( như: Công ty xây lắp điện Thái Nguyên , Công ty cổ phần bê tông Thái Nguyên...) hay các công ty ở nơi khác ( Công ty xây lắp điện I...). Thứ năm là địa phương và nhân dân nơi có công trình được thực hiện có nhiệm vụ tiếp nhận công trình và được hưởng thụ kết quả của chương trình. III. Định hướng thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005. 1. Nguồn vốn thực hiện Bảng 14: Nguồn vốn thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005. Đơn vị : Triệu đồng 2001 2002 2003 2004 2005 Ngân sách nhà nước 55.000 55.000 60.000 60.000 60.000 Ngân sách địa phương 15.000 18.000 18.000 10.000 10.000 Nước ngoài -SIDA -WB -ADB 20.000 30.000 35.000 - - 10.000 10.000 15.000 20.000 20.000 - - - 30.000 30.000 Tổng: 100.000 113.000 128.000 120.000 120.000 Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch - Ban quản lý dự án điện nông thôn -Công ty điên lực I Dự án cho phát triển năng lượng điện nông thôn cho Điện lực Thái Nguyên - Công ty điện lực I, với tổng mức đầu tư cho giai đoạn 2001-2005 cho khu vực nông thôn tỉnh là 290 tỷ đồng. Sẽ đưa điện về 24 xã còn lại của tỉnh hiện nay đang chưa có lưới điện để hoàn thành nốt chương trình điện khí hoá về tất cả các xã trong toàn tỉnh, đưa điện đến tận xã cuối cùng chưa có điện, đồng thời với khoảng gần 100 tỷ đồng cho việc cải tạo xây mới thêm hệ thống lưới điện cũ nát và bị xuống cấp. Sẽ xây dựng thêm khoảng 150 Km đường dây trung thế và 25 trạm biến áp, 250Km đường dây hạ thế và 35 tạm biến áp. Tổng số vốn đầu tư bình quân khoảng 200.000.000 đồng/ xã/năm. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân, Trung ương và địa phương “ cùng làm đã được thể chế hoá thì nguồn vốn của địa phương và nhân dân đóng góp là không thể thiếu được và đã được thực hiện qua nhiều năm.Trong thời gian tới Điện lực sẽ phải phối hợp chặt chẽ với các ngành và các cấp của địa phương để huy động được nguồn vốn của địa phương và nhân dân đóng góp một cách có hiệu quả. Việc đóng góp vốn của nhân dân là rất quan trọng, vì nguồn vốn do nhân dân đóng góp sẽ được chính người dân ở đó giám sát tại chỗ các công trình thuộc nguồn vốn của họ, do vậy mà việc đầu tư sẽ đảm bảo được hiệu quả cao và tránh hiện tượng tiêu cực xảy ra. Theo kế hoạch số vốn đóng góp của địa phương và nhân dân trong 5 năm tới sẽ đạt khoảng 88 tỷ đồng, nhưng số vốn này sẽ không được phân bổ đều trong các năm. Trong những năm đầu khi thực hiện đưa điện về nông thôn thì sự đóng góp của người dân sẽ lớn vì phải kéo điện về các xã hiện tại chưa có điện, đồng thời phải bao phủ lưới điện những nơi mà người dân vẫn phải tiến hành câu móc điện từ ngoài vào do quá xa so với đầu nối của cột điện. Còn giai đoạn sau thì nguồn vốn này chủ yếu đầu tư vào cải tạo đường dây và chống quá tải lưới điện. Đối với vốn của SIDA thì phải tiến hành xây dựng các dự án cấp điện cho các xã khó khăn mà nằm trong chương trình trợ giúp về phát triển mạng lưới điện nông thôn của tổ chức này. Vì đây là nguồn vốn ưu đãi nên công tác thực hiện sẽ được tiến hành nhanh chóng và khẩn trương để có được nguồn vốn này cho phát triển mạng lưới trong khoảng 3 năm đầu của kế hoạch. Còn với nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển Châu á thì việc sử dụng nguồn vốn này phải thực sự là cần thiết và mang tính cấp bách, vì cho dù nó là khoản vay ưu đãi nhưng vẫn làm tăng thêm nợ nần cho ngành điện. 2. Đối với vấn đề thể chế và chính sách. Thể chế và hành chính trong ngành còn yếu là nguyên nhân là do sự chưa có trình độ đáp ứng ứng và hệ thống tổ chức được yêu cầu hoạt động môi trường có tính thương mại ngày càng tăng. Ngoài ra các cơ quan trong Điện lực và các ban phụ trách về điện nông thôn còn yếu trong khả năng phân cấp ra quyết định tới cán bộ trực tiếp làm việc và sự giám sát quản lý hành chính mà không gây trở ngại đến quá trình, hoặc sẽ tự thực hiện các vấn đề nói trên. Do đó sẽ dẫn đến một số hậu quả là: Khả năng huy động vốn cho đầu tư thấp dẫn đến tình trạng người tiêu dùng ở nông thôn có thu nhập thấp lại phải đóng góp phần lớn vào việc xây dựng hệ thống điện; tổn thất cao trong lưới điện nông thôn là do thiếu hụt tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ thuật thích hợp do dây dẫn, và thiết bị; Việc bảo hành tồi tệ với chất lượng thấp và việc cung ứng điện không ổn định làm giảm việc sử dụng điện trong sản xuất rõ ràng là một tổ chức hoạt động không hiệu quả , chưa có tinh thần tự quản cao, cạnh tranh về mặt kỹ thuật chưa cao và được sự lãnh đạo không tốt là một trong các nguyên nhân trọng nhất. Vì vậy, mà trong kế hoạch tới việc cải tổ các chính sách và thể chế được coi là một phần của kế hoach phát triển mạng lưới điện nông thôn như: Xây dựng hệ thống điện khí hoá nông thôn hiệu quả về mặt chi phí được duy trì và vận hành theo các quy định của Chính phủ; Đảm bảo sự ổn định về tài chính và sự vững mạnh của các tổ chức trong Điện lực tham gia vào việc cung cấp điện nông thôn và dịch vụ dự phòng; Thúc đẩy sự phân cấp quản lý tới các địa phương và cấp thấp hơn; Phát triển năng lực thể chế và khung chính sách khuyến khích sử dụng điện đối với các hộ nông dân, đặc biệt là các vùng sâu vùng xa; Những biện pháp đó sẽ đem lại hiệu quả là giảm bớt được sự thiếu hụt tính tự quản và trách nhiệm liên hợp ở tất cả tổ chức làm tăng hiệu quả hoạt động và năng suất lao động. Việc xây dựng một cơ chế quản lý hiệu quả cũng là một yếu tố tích cực đẩy nhanh tiến trình điện khí hoá nông thôn. Giảm dần việc phân phối điện nông thôn hiện nay đang do các tổ chức quy mô làng xã thực hiện không có cơ sở pháp lý, thiếu các nguồn tài trợ và khả năng cạnh tranh về kỹ thuật rất kém. 3. Phân tích các tác động về mặt kinh tế và xã hội. Theo quan điểm của kế hoạch thì dự án đầu tư là đơn vị nhỏ nhất của kế hoạch định hướng phát triển, do đó bao giờ nó cũng có mục tiêu thể hiện ở hai góc độ: + Mục tiêu trước mắt: Là các mục tiêu cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án. + Mục tiêu phát triển: Là những lợi ích kinh tế xã hội do thực hiện dự án đem lại. Với những chỉ tiêu của kế hoạch đề ra việc xây dựng các dự án khả thi nhằm thực hiện kế hoạch là một việc làm cần thiết và hết sức quan trọng trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản các công trình đưa điện về nông thôn tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên khi xây dựng kế hoạch ta cần chú ý đến một số điểm sau nhằm xây dựng được các dự án phát triển mạng lưới điện nông thôn đáp ứng được các yêu cầu và nhiệm vụ đề ra. Đánh giá tổng quan về kinh tế xã hội của dự án: Trước một dự án bất kỳ cho phát triển điện nông thôn, Điệnlực đều phải xem xét mặt này trước tiên. Đó là tình hình kinh tế -xã hội của khu vực nông thôn ( ngân sách,thu nhập của nông dân ...); các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thổ nhưỡng..) ảnh hưởng như thế nào đến thời điểm ra đời của kế hoạch, hoạt động của kế hoạch sau này ; các điều kiện (dân số, lao động, văn hoá...)có ảnh hưởng đến lợi ích của Điên lực và người nông dân được hưởng thụ; các điều kiện về pháp lý (hệ thống pháp luật, chính sách...) tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn. Các công trình đầu tư xây dựng lưới điện luôn chịu tác động của môi trường qua thời gian sử dụng và cũng thải ra môi trường những chất thải độc hại như; chất thải của máy biến thế, điện từ trường, hiên tượng phóng sét, hien tượng ô xy hoá...Vì vậy, khi đầu tư xây dựng phải chú ý đến các vấn đề đó nhằm hạn chế trước những tác động tiêu cực, cần xác định địa điểm bố trí , lựa chọn được công nghệ , kỹ thuật phù hợp với yêu cầu, tránh tình trạng để công trình hư hỏng nặng hoặc có tác động lớn đến môi trường mới giải quyết thì sẽ làm ảnh hưởng, có hại cho môi trường. 4. Thực hiện kế hoạch tái định cư cho ngưới bị ảnh hưởng Công tác đền bù và tái định cư cho ngưới dân là công dân vận, công tác kinh tế, đồng thời là cả một nghệ thuật. Muốn vậy những người thực hiện phải có trình độ cả về lý luận và thực tiễn, phải luôn đặt mình vào địa vị của người bị thiết hại để giải quyết công việc được chu tất. Phải đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai công bằng, đúng thực tế, giải quyết đền bù thoả đáng, có lý, có tình, không ép dân nhưng cũng không để nhà nước thiệt hại. Vì nếu không đúng thực tế sẽ gây bất bình trong dân, làm mất lòng dân, dẫn đến thắc mắc, khiếu kiện. Vì vậy mà khi tiến hành công tác tái định cư cho người dân thì sẽ phải tiến hành thực hiện như sau: Xây dựng được quan điểm tích cực đối với vấn đề tái định cư bắt buộc. Chương trình tái định cư phải được đặt ra ngay trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi của dự án. Xây dựng vùng tái định cư trên cơ sở quy hoạch dân cư, phát triển kinh tế xã hội của khu vực với hướng sản xuất cụ thể nhằm đảm bảo cho người dân tái định cư có đời sống vật chất và tinh thần ổn định, phát triển tốt hơn. Cơ sở hạ tầng cho vùng tái định cư bao gồm đường giao thông, đường nước sản xuất và sinh hoạt, trường học, cơ sở y tế... Phải phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương từ tỉnh đến huyện, xã, thôn làng, bản. Kinh nghiệm cho thấy địa phương nào quan tâm chú trọng công tác này thì việc thực hiện tiến hành sẽ trở nên suôn sẻ hơn, nhanh chóng hơn và ngược lại. Một điều nữa là trong khi thực hiện không có quyền buộc các hộ dân chấp hành mà chỉ có thể vận động, thuyết phục và thương lượng. Những trường hợp cố tình không chấp hành sau nhiều lần vận động, giáo dục mà vẫn không có kết quả thì đề xuất địa phương có biện pháp cứng rắn hơn, nếu cần có thể tiến hành biện pháp cưỡng chế thi hành. IV. Giải pháp nhằm thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới điện nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005 1.Giải pháp về mặt huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư. Đối với nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài mà đặc biệt là vốn viện trợ cho các chương trình điện nông thôn thì Điện lực phải tổ chức chỉ đạo với các chi nhánh, phối hợp với các địa phương xem xét các xã mà phù hợp với những yêu cầu của các tổ chức viện trợ này. Sau đó tiến hành điều tra hiện trạng, xác định khối lượng và giá trị thực tế, hoàn tất các thủ tục , cuối cùng tiến hành lập phương án và trình lên Công ty để xin duyệt nguồn vốn viện trợ. Theo đúng quy trình thì khi có dự toán được duyệt mới được ghi vốn để đầu tư. Trong khi đó một năm chỉ có hai lần ra kế hoạch là kế hoạch tạm giao đầu năm và kế hoạch điều chỉnh (khoảng tháng 10 hàng năm). Do vậy nếu thủ tục đầu tư tiến hành chậm sẽ lỡ dịp ghi kế hoạch, công trình không có vốn để thi công. Hoặc giả sử nếu có ghi vốn dự phòng cho các công trình chưa đủ thủ tục mà thủ tục của công trình đó làm chậm thì sẽ không chuyển vốn được cho công trình khác gây tình trạng “giam vốn” trong khi lượng vốn không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư. Với những đặc điểm đó Điện lực và các phòng ban cần đẩy nhanh tiến độ lập và duyệt các dự án. Tiếp đó, phải kiểm tra giám sát quá trình đầu tư xây dựng đảm bảo chất lượng, hiệu quả và nhanh chóng đưa công trình vào sử dụng. Việc nâng cao tiến độ đồng bộ các khâu từ lập thủ tục chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án đến quyết toán công trình sẽ tạo điều kiện nhanh chóng đưa công trình vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh làm tăng hiệu quả ứ đọng vốn lưu động, đồng thời sử dụng nguồn vốn khấu hao cơ bản hiệu quả cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn cố định. Còn với nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi của Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển Châu á, thì xác định đầu tư cho nguồn vốn này phải thực sự có hiệu quả mà phải thực sự cần thiết. Do nguồn vốn để xây dựng cho đầu tư của ngành điện là quá lớn, nhiều chi phí phát sinh, bộ máy quảnlý thì bị phình ra, mà doanh thu thì lại không tăng đáng kể. Do vậy mà việc nghiên cứu các mô hình quản lý giá bán điện cho nông thôncho phù hợp nhằm giảm chi phí ,huy động được lao động tại địa phương dưới nhiều hình thức, đại lý bán điện nông thôn, thuê tài sản lưới điện nông thôn, các hợp tác xã dịch vụ điện... vẫn là những việc làm cấp bách mang tính cấp bách hiện nay.Theo ông Đỗ Văn Lộc-giám đốc Công ty điện lực I “Dù quản lý lưới điện nông thôn dưới hình thức nào thì chính quyền địa phương vẫn là nhân tố quyết định cho mọi thành công, ở địa phương nếu các cấp chính quyền quan tâm, trực tiếp chỉ đạo, thường xuyên kiểm tra giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia quản lý điện, loại bỏ những chi phí bất hợp lý thì đem lại hiệu quả rất rõ rệt”. Vì vậy, mà phải có các biện pháp kích thích sự đầu tư của nhân dân chúng địa phương. Tổ chức tốt công tác kế toán ở Điện lực là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra kiểm soát quá trình kinh doanh, sử dụng các loại vốn nằm đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên kế toán là hệ thống thông tin thực hiện, các số liệu, tài chính liệu kế toán tự nó chưa chỉ ra các biện pháp cần thiết. Vì vậy, định kỳ Điện lực phải thực hiện công tác phân tích tài chính và tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn để từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn thành tích tiến bộ so với thới kỳ trước để phát huy, còn các nguyên nhân gây ra tồn tại thì có biện pháp tháo gỡ khắc phục kịp thời.Vì vậy Điện lực cần hoàn thiện nội dung phân tích tài chính, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ tài chính cho cán bộ kế toán trong Điện lực . 2. Các giải pháp về mặt tổ chức và thực hiện việc tiếp quản mạng lưới điện nông thôn. Công tác quản lý điên nông thôn cần tiếp tục khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, đơn vị thuộc các thành phần kinh tế. Để giảm giá bán điện đến hộ nông dân phải tiến hành đồng bộ các biện pháp quản lý và kỹ thuật. Sớm chấn chỉnh củng cố tổ chức mô hình quản lý điện nông thôn, cần và chuyển đổi và thành lập các đơn vị theo đúng quy định của pháp luật: hợp tác xã dịch vụ điện, doanh nghiệp tư nhân , công ty cổ phần và sớm bỏ hình thức cai thầu trắng như trước đây ở một số xã. Cần tổ chức đào tạo chuyên môn cho nhân viên quản lý điện nông thôn, có chế độ khuyến khích cá nhân làm tốt công tác quản lý, đồng thời giữ ổn định lực lượng nhân viên làm công tác quản lý điện ở các xã (hàng năm Điên lực sẽ phải chi hàng chục triệu đồng để hỗ trợ công tác đào tạo nhân viên ở các địa phương) . Mặt khác, cần tăng cường vai trò quản lý của Điện lực về điện nông thôn của các cấp chính quyền, nhất là đối với cấp xã. Cần quan tâm nhiều hơn đến công tác tuyên truyền an toàn điện ở nông thôn. Tăng cường công tác kiểm tra, loại bỏ các chi phí bất hợp pháp trong giá thành điện, chống các hiện tượng lấy cắp điện, dùng điện không trả tiền, loại bỏ phụ thu tiền điện đối với các hộ nông dân dưới bất kỳ hình thức nào. Điện lực Thái Nguyên sẽ tiếp tục hỗ trợ các huyện, xã trong công tác đào tạo và quản lý điện nông thôn, tuyên truyền an toàn về điện, tham gia cùng với các sở hữu quan hoàn thành thông hướng dẫn thực hiện Quyết định 22/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt sẽ tiến hành tổ chức tốt công tác tiếp nhận lưới điện nông thôn, thống nhất với các địa phương về trình tự thực hiện, thời gian thực hiện, trình tự giao nhận và tiến hành vận hành quản lý ngay sau khi có quyết định tiếp nhận. 3.Giải pháp về mặt kỹ thuật Tăng cường nâng cao chất lượng công tác quản lý kỹ thuật để công tác này đi vào nề nếp, củng cố và tăng cường kỹ thuật vận hành, nghiêm túc thực hiện quy phạm quản lý kỹ thuật. Thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất (kiểm tra ngày, kiểm tra đêm) thiết bị trạm và đường dây nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những khiếm khuyết, tình trạng làm việc không an toàn của thiết bị, lưới điện để ngăn ngừa trước những nguy cơ gây sự cố, gắn trách nhiệm của người kiểm tra, sửa chữa vào chất lượng lưới điện. Thực hiện tốt công tác điều tra, phân tích, xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các sự cố để có biện pháp khắc phục, rút kinh nghiệm trong quản lý, định hướng sử dụng thiết bị trên lưới nhằm loại bỏ kịp thời những thiết bị chất lượng kém. Thực hiện tốt công tác quản lý, thí nghiệm định kỳ và bảo dưỡng, đại tu thiết bị đúng hạn và bảo đảm chất lượng. Tăng cường kiểm tra chất lượng thiết bị mua: Chỉ mua hàng có nhãn mác đầy đủ, có uy tín, có bảo hành sản phẩm, làm đẩy đủ các thí nghiệm trước khi lắp lên lưới. Có thống kê theo dõi chất lượng thiết bị đang sử dụng, khi phát hiện chất lượng sản phẩm kém chất lượng thông báo kịp thời cho Điện lực để loại bỏ sản phẩm đó trên lưới và không tiếp tục cho mua cho đến khi nhà sản xuất có chứng minh các sản phẩm cải tiến của họ, Mặt khác yêu cầu các nhà sản xuất tăng cường chất lượng sản phẩm của họ phù hợp với yêu cầu của mình. Có kế hoạch thay thế dần các thiết bị đã cũ, lạc hậu, độ tin cậy vận hành thấp hoặc hết tuổi thọ (như: máy biến áp, cáp ngầm, rơ le bảo vệ..). Lắp đặt các thiết bị phân đoạn trên lưới trung thế nhằm hạn chế vùng ảnh hưởng mất điện và nhanh chóng khôi phục việc cấp lại điện khi có sự cố. Xử lý điện trở tiếp dịa các trạm và đường dây đảm bảo theo tiêu chuẩn quy định, đặc biệt là ở những nơi có nhiều giông sét. Thay sử cách điện có chất lượng kém thường hay bị sự cố, mặt khác phải tiến hành công tác vệ sinh sứ thường xuyên hoặc định kỳ ở những khu vực dễ gây bẩn bề mặt sứ. Đối với các khu vực nhiễm bụi nhiều cũng phải tăng cường cách điện bằng cách dùng sứ có cấp điện áp cao hơn ( ví dụ : dùng sứ 22Kv cho lưới 15 Kv, dùng sứ 15 Kv cho sứ 10 Kv và dùng sứ 10 Kv cho sứ 6 Kv). Đối với van chống sét: chỉ mua của chính hãng đại diện, chú ý chọn thông số của chống sét theo chế độ trung tính nối đất hoặc không, đảm bảo các thông số kỹ thuật khi lắp đặt và thí nghiệm định kỳ đúng tiêu chuẩn của nhà chế tạo. Xây dựng cấu trúc lưới mạch vòng vận hành hở để linh hoạt trong chuyển đổi nguồn cung cấp điện hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong các trường hợp sự cố. 4. Các giải pháp về phương án phòng chống bão lụt trong mùa mưa bão cho lưới điện nông thôn. Để làm tốt công tác phòng chống bão lụt hàng năm, đảm bảo an toàn chư người và thiết bị, hạn chế thấp nhất những thiệt hại và khắc phục nhanh hậu quả do bão lụt gây ra, kịp thời cung ứng điện phục vụ cho sản xuất và đời sống của nông thôn, thì các đơn vị trong Điện lực phai rhtực hiện các nội dung sau: Ban chỉ huy phòng chống lụt bão, các đội xung kích đượcthành lập ở các Chi nhánh điện có sức khoẻ, nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao để giải quyết nhanh các sự cố lớn, khi cần có thể huy động khắc phục hậu quả sau bão lụt giữa các khu vực trong toàn tỉnh. Công tác lập kế hoạch phòng chống bão lụt cần phải có nội dung cụ thể, sát thực, có tiến độ cho từng loại công việc, đặc biệt quan tâm đến những công trình trọng điểm như: Đê, đập, vật tư nhiên liệu dự phòng...tại các Chi nhánh và tại các công trình. Tiến hành phát quang tuyến hành lang, kiểm tra củng cố cột, móng cột, dây dẫn, xà sứ ở lưới điện, nâng cao thêm độ an toàn của thiết bị ở những khu vực trọng yếu. 5. Kết hợp việc phát triển mạng lưới điện nông thôn với việc phát triển các công trình cơ sở hạ tầng khác cho khu vực nông thôn. Việc xây dựng mạng lưới điện thường là cố định thường ít dịch chuyển (vì mỗi lần dịch chuyển sẽ gây rất nhiều tốn kém). Do vậy khi tiến hành xây dựng thì Điện lực phải tổ chức kết hợp với các cơ quan ban ngành mà sẽ có những công trình xây dựng trên cùng một hành lang tuyến đường, đứng ra bàn bạc trước để có thể có các kế hoạch sao cho việc xây dựng lưới điện sẽ không có ảnh hưởng về sau này đối với công tác xây dựng đường xá cầu cống cũng như các công trình khác, nếu không sẽ gây tốn kém trong việc di dời. Quá trình xây dựng mạng lưới điện nên được tiến hành cùng với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn như: xây dựng đường xá, trường học , bệnh viện... thì sẽ tạo được hiệu quả cao hơn đối với việc phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực nông thôn. V. Một số kiến nghị. 1. Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế nước ta nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã có nhiều đổi mới, đặc biệt là kinh tế khu vực nông thôn. Để tạo điều kiện cho thuận cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên, Chính phủ cũng như Tổng công ty điện lực Việt Nam và Công ty điện lực I đã có rất nhiều văn bản pháp luật, những quy định mới trong mọi lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vự phát triển mạng lưới điện nông thôn nói riêng. Điều đó rất được Điện lực cũng như nhân dân hoanh nghênh và ủng hộ. Tuy nhiên, cũng cần có sự chuẩn bị chu đáo và hoàn thiện hơn đối với việc ban hành một nghị định hay một văn bản quy định. Đặc biệt cần nhanh chóng ra đời các văn bản hướng dẫn đi kèm với các quyết định trên làm cơ sở thực hiện. Đơn cử một ví dụ: tháng 04 năm 1999Công ty điện lực I ra một văn bản số 54/1999/ĐNT/ĐLI về công tác tiếp nhân lưới điện trung áp nông thôn nhưng mãi đến tháng 1 năm 2000 mới có văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện. 2. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo để các tỉnh chú trọng trong việc ban hành đơn giá đền bù phù hợp với thị trường , luôn chỉnh đổi bổ xung văn bản mới thay thế, đồng thời có tham khảo những tỉnh lân cận. Thực tế có những đơn giá đền bù từ 3 đến 6 năm trước nay vẫn còn hiệu lực thi hành. Ngoài vấn đề trượt giá thì vấn đề đền bù quá cũ không còn phù hợp mặt bằng giá thị trường hiện nay, đây thực sự là lực cản vô hình. Mặt khác các tỉnh kề nhau nhưng giá đền bù tài sản cùng chủng loại lại có sự chênh lệch khá lớn, tạo nên sự so sánh và các hộ bị thiệt hại khó chấp thuận. 3.Đề nghị Chính phủ cho hướng giải quyết một phần đất thổ cư trong hành lang tuyến do xây dựng công trình điện nên các hộ không thể xây dựng nhà. Nghị định 22 của Chính phủ về đền bù quy định:” đền bù về đất cho toàn bộ diện tích đất thu hồi...” mà đối với ngành điện đất thu hồi là đất để thi công móng trụ điện và xây dựng các trạm biến áp còn đất dưới hành lang không phải đất thu hồi nên không được đền bù. Tuy vậy, việc không đền bù dất trong hành lang an toàn lưới điện chỉ hợp lý với đất nông nghiệp, vì đất này vẫn tiếp tục canh tác được. Riêng đối với đất thổ cư, đặc biệt là đất ở thị xã quý hiếm mà người dân chuẩn bị làm nhà nay đường điện đi qua không thể làm nhà nhưng cũng không được đền bù. Trong khi giá trị của những lô đất đó rất cao, có khi lên đến hàng trăm triệu đồng. Rõ ràng những hộ nói trên bị thiệt hại nhưng nếu đền bù thì trái với văn bản Chính phủ quy định, mà không đền bù thì dân không cho thi công. Đây là vướng mắc phổ biến cần phải nhanh chóng giải quyết. 4.Kiến nghị với Công ty khi mà Điện lực trình công ty duyệt lên công ty kế hoạch mà được Công ty duyệt thì Công ty nên giao vốn tập trung cho các công trình và tạo điều kiện cho công trình nhanh chóng được hoàn thành. Tránh tình trạng giao vốn tràn lan nhưng không đủ để công trình phải kéo dài và bỏ dở. Các công trình mà Điện lực làm chủ đầu tư, thì Công ty điện lực I nên cho phép Điện lực có quyền được lựa chọn B thi công. 5.Đề nghị các đơn vị tư vấn thiết kế nâng cao hơn nữa trách nhiệm trong việc lập hồ sơ nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc đền bù di dời nhà cũng như tài sản bị thiết hại. Có những trường hợp thấy giá trị đền bù quá lớn, Ban quản lý dự án lưới điện đã đề xuất với các đơn vị tư vấn thiết kế, được họ chấp thuận và điều chỉnh. Kết quả không chỉ tiết kiệm về kinh tế vì hạn chế tối đa về đền bù mà còn có lợi về lĩnh vực xã hội, tránh gây xáo trộn lớn làm ảnh hưởng đến cuộc sống, phong tục tập quán của người dân. Kết luận. Đối với cả nước nói chung cũng như với các địa phương nói riêng và tỉnh Thái Nguyên, để phát triển kinh tế của khu vực nông thôn, thực hiện được công cuộc hiện đại hoá đối với nông thôn thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải phát triển mạnglưới điện nông thôn. Với những chỉ tiêu kế hoạch đề ra cho giai đoạn 2001-2005, làm thế nào để thực hiện các chi tiêu đó, thậm chí thực hiện được vượt mức các chỉ tiêu đó là một điều không phải dễ dàng gì. Trên thực tế việc thực hiện thành công được vấn đề này, bên cạnh sự cố gắng của Điên lực Thái Nguyên và Công ty điện lực I thì đòi hỏi phải có sự phối hợp cao giữa các ngành các cấp của chính quyền địa phương. Chỉ có như vậy thì mới có thể thực hiện tốt kế hoach đưa điện về nông thôn, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn của tỉnh Thái Nguyên. Nội dung bài viết về phát triển điện nông thôn là rất rộng và rất phức tạp, trong nghiên cứu cũng như trình độ bản thân còn nhiều hạn chế, nên không thể xem xét được cụ thể từng khía cạnh từng vấn đề chi tiết, đồng thời cũng không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự hướng dẫn, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cũng như những ý kiến góp ý của các bạn. Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Vũ Thị Ngọc Phùng và các cán bộ trong phòng kế hoạch và đầu tư Điện lực Thái Nguyên đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29821.doc