Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu

Tài liệu Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu: ... Ebook Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3498 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Đối với doanh nghiệp lợi ích kinh tế là sự sống còn của đơn vị đồng thời phải đảm bảo hài hoà với lợi ích xã hội. Với những doanh nghiệp cạnh tranh thì giá cả do thị trường quyết định nên muốn đạt được lợi ích kinh tế, tăng lợi nhuận thì doanh nghiệp phải tiết kiệm được chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm mà không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường giá thành cũng phản ánh khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đồng thời có thể tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Đòi hỏi doanh nghiệp cần phải quản lý tốt để làm sao vừa khoa học vừa chặt chẽ các yếu tố chi phí sản xuất. Kế toán là một trong những công cụ của quản lý. Cho nên việc tổ chức công tác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa to lớn cho việc quản lý chi phí giá thành và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nó cung cấp đầy đủ các thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cho lãnh đạo doanh nghiệp tiến hành đánh giá tình hình thực hiện các định mức và dự toán chi phí để có thể đưa ra các quyết định hợp lý. Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu là một doanh nghiệp nằm trên cao nguyên Mộc Châu, đây là cao nguyên rộng lớn nhất nước ta. Công ty đã có gần 50 năm kinh nghiệm chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa, đây là một mô hình khép kín từ chăn nuôi bò sữa - thu gom - chế biến - tổ chức thị trường tiêu thụ các sản phẩm sữa. Các sản phẩm sữa Mộc Châu đã dần dần đi vào tâm trí của khách hàng và người tiêu dùng. Công ty đã trải qua những thăng trầm nhất định và cũng đã tích luỹ cho mình nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên sự cạnh tranh của nền kinh tế đã đặt ra cho ban lãnh đạo Công ty vấn đề bức xúc là làm sao tiết kiệm hơn nữa chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, để thu được lợi nhuận cao và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Tổ chức công tác Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu” làm đề tài cho bản báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình. Đề tài của Em được chia thành 3 phần Chương 1: Lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Doanh nghiệp sản xuất Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc châu. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc châu. Trong thời gian vừa qua Em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các Thầy Cô giáo trong bộ môn kế toán. Đặc biệt là sự hướng dẫn trực tiếp của Cô giáo - Thạch sỹ Bùi thị Thu Hương, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các anh chị trong phòng Kế toán Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc châu, sự cố gắng của bản thân Em đã hoàn thành chuyên đề của mình. Tuy nhiên do trình độ hiểu biết còn hạn chế nhất là trong quá trình tiếp cận những vấn đề trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nền bài viết của Em còn có những hạn chế. Vì vậy Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô và bạn đọc để Em có thể hiểu vấn đề sâu sắc và đúng đắn hơn phục vụ cho quá trình học tập và công tác của Em sau này. Em xin chân thành cảm ơn./. Mộc châu, Ngày 20 tháng 4 năm 2008 Sinh viên Lê thị Vinh CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT. 1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất là sự kết hợp của 3 yếu tố như: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là sản phẩm lao vụ, dịch vụ. Quá trình đó làm phát sinh chi phí sản xuất và lượng chi phí sản xuất để tạo ra một khối lượng sản phẩm hoàn thành nhất định là giá thành sản xuất sản phẩm. Mục tiêu của các doanh nghiệp ( ngoại trừ doanh nghiệp hoạt động công ích) khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Vì vậy để có thể đánh giá doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không người ta phải dựa vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua chỉ tiêu lợi nhuận là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Do vậy muốn nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng lợi nhuận các nhà quản lý phải tìm cách tiết kiệm chi phí và sử dụng các nguồn lực sao cho hợp lý nhất. Từ đó đặt ra yêu cầu với kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp. Mặt khác, với mỗi loại sản phẩm được tạo ra, các doanh nghiệp luôn quan tâm đến hiệu quả mà nó mang lại. Muốn biết được hiệu quả sản xuất một loại sản phẩm mang lại cho doanh nghiệp là bao nhiêu? Trước tiên doanh nghiệp phải biết được số chi phí đã bỏ ra cho từng loại sản phẩm dịch vụ là bao nhiêu? Khả năng hạ thấp các loại chi phí này như thế nào? Chỉ tiêu cung cấp những thông tin trên là giá thành sản phẩm. Không những thế, giá thành sản phẩm còn là yếu tố cơ bản để xác định giá bán. Trong điều kiện hiện nay, khi các sản phẩm ngoại nhập đang ồ ạt tấn công vào thị trường nước ta thì giá bán đang được các doanh nghiệp xem như là một trong những vũ khí cạnh tranh sắc bén nhất. Chính vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp luôn cố gắng hạ thấp chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm đem lại lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Thực vậy, hạ thấp giá thành sản phẩm là một trong những nhân tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm. Giá thành hạ, doanh nghiệp định giá bán thấp hơn so với thị trường làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao, việc tiêu thụ sẽ dễ dàng hơn, sản phẩm được tiêu thụ với khối lượng lớn làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, để doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng. Tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách khoa học, hợp lý và đúng đắn có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành sản phẩm cũng như công tác quản lý nói chung của đơn vị, chi phối đến chất lượng của các phần hành kế toán khác cũng như chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý kinh tế tài chính trong đơn vị. Gần đây, khi nền kinh tế của chúng ta đang chuyển dần sang cơ chế thị trường, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã có những thay đổi để phù hợp với tình hình mới. Song cũng cần phải thấy rằng sự thay đổi đó mới chỉ dừng lại ở mức hình thức chứ chưa có những thay đổi thật sự về nội dung hạch toán. Chính vì vậy việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm là rất cần thiết với nền kinh tế nói chung và với doanh nghiệp sản xuất nói riêng. 1.2. Yêu cầu quản lý, nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. 1.1.1. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý. Giá thành sản xuất còn là cở sở để đánh giá hạch toán kinh tế nội bộ, phân tích chi phí và tạo ưu thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các nhà quản trị là làm thế nào để hạch toán chính xác những chi phí đã bỏ ra, tiến hành phân loại chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phải quản lý chi phí theo định mức đã được xác định, giảm thiếu những chi phí không hợp lý, hợp lệ. 1.1.2. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải xác định rõ nhiệm vụ của mình. Trứơc hết cần nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phảm trong toàn bộ hệ thống kế toán doanh nghiệp, mối quan hệ với các bộ phận kế toán có liên quan, trong đó kế toán các yếu tố chi phí là tiền đề cho kế toán chi phí và tính giá thành. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, khả năng hạch toán, yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để lựa chọn, xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo phương án phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm tốt chức sản xuất kinh doanh, đặc điểm của sản phẩm, khả năng và yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. Tổ chức bộ máy kế toán một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công rõ ràng trách nhiệm của từng nhân viên, từng bộ phận kế toán có liên quan đặc biệt bộ phận kế toán các yếu tố chi phí. Thực hiện tổ chức chứng từ, hạch toán ban đầu, hệ thống tài khoản, sổ sách phù hợp với các nguyên tắc chuẩn mực, chế độ kế toán đảm bảo đáp ứng được yêu cầu thu nhận- xử lý - hệ thống hoá thông tin về chi phí, giá thành của doanh nghiệp. Tổ chức lập, phân tích các báo cáo kế toán về chi phí, giá thành sản phẩm giúp các nhà quản trị doanh nghiệp ra được các quyết định một cách nhanh chóng, phù hợp với quá trình sản xuất – tiêu thụ sản phẩm. 1.3 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất. 1.3.1. Chi phí sản xuất Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là quá trình tiêu dung các yếu tố sản xuất kinh doanh để tạo ra các loại sản phẩm, lao vụ và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dung của xã hội. Sự tiêu hao các yếu tố này đã tạo ra các chi phí tương ứng như chi phí về tư liệu lao động, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về lao động sống. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài các hao phí về lao động sống cần thiết, lao động vật hoá để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phaỉ bỏ ra rất nhiều các khoản chi phí khác. Như vậy: Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoat động kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho một kỳ nhất định. Bản chất của chi phí là: - Những phí tổn ( hao phí) về tài nguyên, vật chất, sức lao động…gắn liền với mục đích sản xuất. - Lượng chi phí phụ thuộc vào khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao trong kỳ và đơn giá của yếu tố sản xuất đã hao phí, chi phí sản xuất phải được đo lường bằng thước đo tiền tệ và xác định trong một khoảng thời gian nhất định... Việc nhận thức chi phí còn phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận trong từng loại kế toán khác nhau: - Trên góc độ kế toán tài chính: Chi phí được nhìn nhận như một khoản phí tổn phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để đạt được một lựơng sản phẩm, lao vụ nhất định. Ví dụ: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài…được kế toán ghi nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu bằng chứng chắc chắn. - Trên góc độ kế toán quản trị: Chi phí không chỉ đơn thuần nhận thức như kế toán tài chính mà nó còn được nhận thức theo phương thức nhận diện thông tin ra quyết định. Vì vậy chi phí có thể là phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày. Chi phí cũng có thể là phí tổn ước tính đề thực hiện dự án, những phí tổn mất đi khi lực chọn phương án này mà bỏ qua cơ hội kinh doanh khác. Chi phí được xem xét trên khía cạnh là thông tin thích hợp hay không thích hợp cho việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp hơn là chú trọng vào chứng minh bằng các chứng từ… 1.3.2. Phân loại chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại khác nhau, đểt huận tiện cho công tác quản lý hạch toán, kiểm tra chi phí và phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý, chi phí sản xuất kinh doanh thường được phân loại theo những tiêu thức thích hợp. 1.3.2.1 Phân loại chi phí sản xuất theo hoạt động và công dụng kinh tế. Bản chất của cách phân loại này là phân loại theo công dụng của chi phí, chi phí đó phát sinh ở đâu, có tác dụng như thế nào đối với việc hình thành nên thực thể sản phẩm và đóng vai trò gì trong giá thành sản phẩm. Theo cách phân loại này chi phí bao gồm 3 khoản mục sau: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm các chi phí về nguyên liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp vào việc chế tạo sản phẩm. - Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp phải trả và các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất theo quy định. - Chi phí sản xuất chung: Là chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ cho sản xuất chung tại bộ phận các phân xưởng, đội sản xuất. Chi phí sản xuất chung bao gồm các yếu tố chi phí sản xuất sau: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, chi phí dụng cụ đồ dùng văn phòng, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền. Cách phân loại này là cơ sở để ghi sổ kế toán, xây dựng kế hoạch giá thành và tính giá theo khoản mục. 1.3.2.2 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí. Theo cách phân loại này, căn cứ vào nội dung tính chất kinh tế của chi phí, những chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế được xếp vào cùng một yếu tố chi phí, bất kể chi phí đó phát sinh ở đâu và có tác dụng như thế nào, chỉ tính vào yếu tố chi phí phát sinh lần đầu không tính vào những chi phí luân chuyển nội bộ. Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí được chia ra các yếu tố sau: - Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ… sử dụng vào sản xuất – kinh doanh. - Yếu tố chi phí nhân công: Bao gồm các khoản về chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương, BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức. - Yếu tố khấu hao máy móc thiết bị: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. - Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. - Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. 1.3.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ở doanh nghiệp. Nghiên cứu phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ở doanh nghiệp thì chi phí sản xuất được chia làm 2 loại: + Chi phí ban đầu: Là chi phí doanh nghiệp phải lo liệu, mua sắm chuẩn bị từ lúc đầu để tiến hành hoạt động sản xuất như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí dịch vụ mua ngoài... được mua sắm từ bên ngoài. + Chi phí luân chuyển nội bộ: Là các khoản chi phí phát sinh trong quá trình phân công và hợp tác lao động trong nội bộ doanh nghiệp như: Giá trị lao vụ, dịch vụ cung cấp lẫn nhau giữa các bộ phận sản xuất phụ, cung cấp cho sản xuất chính, giá trị của nửa thành phẩm tự chế được sử dụng cho các bộ phận sản xuất tiếp theo...các phân loại này cho phép xác định chính xác nội dung từng loại chi phí luân chuyển nội bộ từ đó có phương pháp hạch toán và xác định cụ thể từng lọai chi phí giúp xác định được phương pháp, trình tự tính giá thành của sản phẩm sản xuất trong kỳ của doanh nghiệp. 1.3.2.4 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính. Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành 2 loại: - Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua. - Chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần khấu trừ từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Cách phân loại này giúp doanh nghiệp xác định được lợi nhuận thuần của hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời giúp các nhà quản trị biết được cần phải tăng giảm những khoản chi phí nào hợp lý để đạt được lợi nhuận cao nhất. 1.4. Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm. 1.4.1. Giá thành sản phẩm “Giá thành sản phẩm (Zsp) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành” Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng sản xuất kinh doanh, phản ánh hiệu quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức kinh tế, kỹ thuật và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản xuất, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giá thành còn là căn cứ xác định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất. Giá thành sản phẩm có chức năng quan trọng trong việc xác định giá bán của sản phẩm trên thị trường. Định giá sản phẩm bán ra phải làm sao bù đắp được chi phí sản xuất và hơn thế nữa là phải có lãi. Do đó giá thành được coi là yếu tố quan trọng trong rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc xác định giá bán của sản phẩm đó trên thị trường. Tuy nhiên, với những mặt hàng ta phải chấp nhận giá thị trường thì căn cứ vào giá thành từng loại sản phẩm và giá thị trường của sản phẩm đó để quyết định nên sản xuất mặt hàng nào, vị trí quy mô sản xuất đối với từng loại sản phẩm bao nhiêu là có hiệu quả nhất. Để quản lý có hiệu quả và kịp thời đối với hoạt động sản xuất của mình, doanh nghiệp cần biết số chi phí đã chi ra cho từng loại hoạt động, từng loại sản phẩm, dịch vụ, số chi phí chi ra đã cấu thành trong số sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành là bao nhiêu, tỷ trọng từng loại chi phí, khả năng hạ thấp các loại chi phí này...chỉ tiêu thoả mãn những thông tin mang nội dung trên chính là giá thành sản phẩm. 1.4.2. Phân loại giá thành sản phẩm Có nhiều cách phân loại giá thành khác nhau nhưng để giúp cho việc nghiên cứu và quản lý tốt sản phẩm kế toán chia làm hai loại chủ yếu sau: - Giá thành sản xuất: Là loại giá thành bào gồm toàn bộ chi phí tính cho sản phẩm sản xuất hoàn thành. Giá thành sản xuất bao gồm các loại chi phí sản xuất sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. - Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ là loại giá thành bao gồm giá thành sản xuất và chi phí ngoài giá thành sản xuất ( chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp) tính cho sản phẩm tiêu thụ. Theo cách phân loại này giá thành sản phẩm được chia thành ba loại: + Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp tính toán giá thành này và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Đây là mục tiêu, là cơ sở để so sánh, phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm. + Giá thành định mức: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm. Thường việc định giá này được tiến hành ở bộ phận kế hoạch thông qua các dự toán trước khi chính thức sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, giúp cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Giá thành thực tế: Là giá thành được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh được tập hợp trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ. Chỉ khi nào kết thúc quá trình sản xuất chế biến tạo ra sản phẩm giá thành thực tế mới tính toán được. Nó là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả đạt được của doanh ngiệp cũng như hiệu quả sử dụng các biện pháp kinh tế kỹ thuật, là cơ sở xác định kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Về mặt bản chất hai chỉ tiêu này giống nhau vì đó đều biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ là căn cứ để tính giá thành sản phẩm công việc, sản phẩm đã hoàn thành, sự tiết kiệm hoặc lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất, quản lý các yếu tố đầu vào. Tuy nhiên, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại có sự khác nhau nhất định. Trước hết chi phí sản xuất được xác định cho một thời kỳ nhất định bất kể chi phí đó dùng cho sản xuất sản phẩm nào và sản phẩm đó đã hoàn thành hay chưa. Còn giá thành sản phẩm lại tính cho từng loại sản phẩm, công việc cụ thể là những chi phí gắn liền với sản phẩm, khối lượng công việc hoàn thành không kể nó phát sinh trong kỳ nào, tiếp đến giá thành sản phẩm không bao gồm các chi phí đã phát sinh trong kỳ này thuộc chi phí dở dang cuối kỳ nhưng lại cộng thêm chi đã phát sinh ở kỳ trước được phân bổ cho chi phí sản xuất ở kỳ này do đó: Tổng giá Chi phí SX Chi phí SX Chi phí SX Thành sản = dở dang + Phát sinh - dở dang Phẩm SX đầu kỳ Trong kỳ cuối kỳ Trong trường hợp đặc biệt khi chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ bằng chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ hoặc không có sản phẩm làm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ thì: Tổng giá thành SP sản xuất = Tổng chi phí SX phát sinh trong kỳ Như vậy chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm là hai mặt thống nhất của một quá trình, một bên là chi phí sản xuất - đầu vào dẫn đến kết quả đầu ra là giá thành sản phẩm, vì vậy tiết kiệm chi phí sản xuất sẽ hạ được giá thành sản phẩm. 1.5. Tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp sản xuất 1.5.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành. 1.5.1.1 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là khâu đầu tiên đối với công tác tập hợp chi phí sản xuất, nếu xác định hợp lý, khoa học thì công tác tập hợp chi phí sẽ hệ thống và hiệu quả hơn. Khi xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất, các nhà quản trị phải căn cứ vào: + Mục đích sử dụng của chi phí + Đặc điểm tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh. + Quy trình công nghệ sản xuất. + Loại hình sản xuất + Khả năng trình độ và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tình hình cụ thể mà đối tượng kế toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp có thể là: - Từng sản phẩm, chi tiết sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hang. - Từng phân xưởng, giai đoạn công nghệ sản xuất. - Toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, toàn doanh nghiệp. Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có vai trò quan trọng trong công tác quản lý chi phí sản xuất tại doanh nghiệp. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất được xác định hợp lý, khoa học sẽ là cơ sở để tổ chức kế toán chi phí sản xuất ngay từ việc hạch toán ban đầu đếnt ổ chức tổng hợp số liệu, ghi chép trên tài khoản sổ chi tiết chi phí sản xuất... đồng thời các chi phí phát sinh sau khi đã được tập hợp xác định theo các đối tượng kế toán chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, lao vụ và dịch vụ theo đối tượng đã xác định. 1.5.1.2 Đối tượng tính giá thành sản phẩm, kỳ tính giá thành và mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Đối tượng tính giá thành sản phẩm là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành đòi hỏi phải tình tổng giá thành và giá thành đơn vị. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc thì từng loại sản phẩm được xác định là đối tượng tính giá thành. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất hàng loạt thì từng loại sản phẩm là một đối tượng tính giá thành. Đối với quy trình công nghệ sản xuất giản đơn thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành cuối cùng của quy trình công nghệ, còn các doanh nghiệp coa quy trình công nghệ sản xuất và chế biến phức tạp thì đối tượng tính giá thành có thể là nửa thành phẩm ở từng giai đoạn và thành phẩm hoàn thành ở giai đoạn, công nghệ cuối cùng và cũng có thể là từng bộ phận, từng chi tiết sản phẩm và sản phẩm đã lắp ráp hoàn thành. Kỳ tính giá thành: Để đáp ứng yêu cầu quản lý chỉ tiêu giá thành sản phẩm của Doanh nghiệp dựa trên đặc điểm của việc sản xuất, kỳ tính giá thành có thể là tháng, quý, năm. Mối quan hệ giữa đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành giống nhau về bản chất, chúng đều là phạm vi, giới hạn nhất định để tập hợp chi phí sản xuất phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí và tính giá thành sản phẩm. Tuy vậy hai khái niệm này vẫn có sự khác nhau nhất định. Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là xác định phạm vi, giới hạn tổ chức kế toán chi phí sản xuất trong khi xác định đối tượng tính giá thành là xác định phạm vi, giới hạn của chi phí liên quan đến kết quả sản xuất đã hoàn thànhc ủa quá trình sản xuất. Một đối tượng kế toán chi phí sản xuất có thể bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành và ngược lại. 1.5.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là cách thức kế toán sử dụng để tập hợp, phân loại các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo các đối tượng chi phí đã xác định. Tuỳ thuộc vào khả năng quy nạp của chi phí vào các đối tượng tập hợp chi phí, kế toán áp dụngphương pháp tập hợp chi phí sản xuất một cách thích hợp. Tại các doanh nghiệp thường sử dụng hai phương pháp sau đây: 1.5.2.1. Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp. Phương pháp này được sử dụng để tập hợp các loạic hi phsi sản xuất riêng biệt. Theo phương pháp này, chi phí phát sinh trực tiếp liên quan đến đối tượng tập hợp chi phí nào thì chi phí sẽ được tập hợp, quy nạp trực tiếp cho đối tượng đó. Do đó, có thể căn cứ vào chứng từ ban đầu để hạch toán trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí. Phương pháp này có độ chính xác cao, nên cần áp dụgn tôi đa trong điều kiện cho phép. 1.5.2.2. Phương pháp tập hợp chi phí và phân bổ gián tiếp. Phương pháp này được sử đụng để tập hợp các chi phí gián tiếp, các chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí đã xác định mà kế toán không thể tập hợp trực tiếp chi phí cho từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt. Theo phương pháp này kế toán tập hợp chung các chi phí liên quan đến nhiều đối tượng, sau đó thực hiện phân bổ cho từng đối tượng kế toán riêng biệt theo tiêu thức phân bổ phù hợp. Việc phân bổ tiến hành theo trình tự sau: - Xác định hệ số phân bổ theo công thức C H = ------ T Trong đó: C là tổng chi phí phân bổ cho các đối tượng T là tổng đối tượng tiêu chuẩn phân bổ của các đối tượng cần phân bổ. - Xác định chi phí cần phân bổ cho từng đối tượng tập hợp cụ thể: Ci = H x Ti TRong đó: Ci Phần chi phí phân bổ cho đối tượng i Ti Đối tượng tiêu chuẩn cần phân bổ i Với phương pháp phân bổ gián tiếp, mức độ chính xác của chi phí sản xuất tính cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phụ thuộc vào tính hợp lý của tiêu chuẩn phân bổ được lựa chọn. Việc xác định tiêu chuẩn phân bổ chi phí có thể xác định riêng rẽ theo từng nội dung chi phí cần phân bổ. Khi đó phải xác định hệ số phân bổ theo từng nội dung chi phí này) hoặc cũng có thể xác định chung cho tất cả các chi phí cần phân bổ. Việc xác định tiêu chuẩn phân bổ tuỳ thuộc vào đặc thù cụ thể của doanh nghiệp. 1.5.3. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên. 1.5.3.1. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất *. Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Nội dung: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là toàn bộ các khoản chi phí về nguyên vật liệu chính, nửa thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ...sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện các lao vụ dịch vụ. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế trong kỳ được xác định dựa vào các yếu tổ: - Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp xuất dùng cho quá trình sản xuất trong kỳ. - Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp còn lại đầu kỳ. - Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp còn lại cuối kỳ. - Trị giá phế liệu thu hồi ( nếu có) Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế trong kỳ được xác định theo công thức sau: Chi phí Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá NVL trực NVL NVL NVL phế liệu tiếp thực = trực tiếp + trực tiếp - trực tiếp - Thu tế trong Còn lại xuất dùng Còn lại hồi kỳ đầu kỳ Trong kỳ cuối kỳ ( nếu có) *. Chứng từ kế toán sử dụng: Khi phát sinh các khoản chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán căn cứ vào các chứng từ sau để hạch toán: - Phiếu xuất kho ( Mẫu 02-VT) - Phiếu nhập kho ( Mẫu 01-VT) - Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ ( Mẫu số 04-VT) - Bảng kê mua hàng ( Mẫu số 06-VT) - Bảng phân bổ nguyên liêu, vật liệu, công cụ, dụng cụ ( Mẫu số 07-VT) - Các chứng từ liên quan khác... *. Tài khoản kế toán sử dụng: Để tiện cho việc theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng TK621 – “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất (phân xưởng, bộ phận sản xuất, công việc, sản phẩm…). Tài khoản có kết cấu TK621 Tập hợp chi phí nguyên vật liệu xuất dung trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ dịch vụ -Giá trị vật liệu xuất dung không hết - Trị giá của phế liệu thu hồi ( nếu có) - Cuối kỳ phân bổ và kết chuyển chi phí NVLTT sử dụng cho sản xuất trong kỳ để tính giá thành. - Kết chuyển chi phí ngyên vật liệu trực tiếp vượt trên mức bình thường Tài khoản này không có số dư cuối kỳ. Cuối kỳ kế toán thực hiện kết chuyển hết để tính giá thành sản phẩm Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK152,153,(142) TK111,112,331,141 TK154 TK152,111,138 TK154 TK133 TK621 Giá trị NVL sử dụng Xuất kho NVl dùng trực tiếp cho không hết nhập lại kho, sản xuất sản phẩm tận thu Mua NVl sử dụng ngay cho sx Kết chuyển CPNVLTT cho không qua kho đối tượng chịu chi phí TK 632 Thuế Cuối kỳ K/C chi phí NVLTT GTGT đầu vào vượt trên mức bình thường Giá thành thực tế của bán thành phẩm của công đoạn trước *. Kế toán chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ bao gồm: Tiền lương chính, tiền lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo số tiền lươn._.g của công nhân trực tiếp sản xuất. Chi phí nhân công trực tiếp sản xuất thường được tính váo đối tượng chịu chi phí liên quan. Trường hợp CPNCTT liên quan đến nhiều đối tượng mà không hạch toán được trực tiếp như: Tiền lương phụ, các khoản phụ cấp thì có thể tập hợp chung sau đó chọn tiêu thức thích hợp để tính toán phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí liên quan. Tiêu chuẩn để phân bổ CPNCTT có thể là: định mức tiền lương của từng đối tượng hoặc kế hoạch hoặc giờ công thực tế, hay khối lượng sản phẩm sản xuất, tuỳ theo điều kiện cụ thể… Để theo dõi CPNCTT kế toán sử dụng TK 622 – “Chi phí nhân công trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Tài khoản có kết cấu TK 622 Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm thực hiện lao vụ, dịch vụ phát sinh - Kết chuyển để tính giá thành sản phẩm - Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vượt trên mức bình thường Tài khoản này không có số dư cuối kỳ. Cuối kỳ kế toán thực hiện kết chuyển hết để tính giá thành sản phẩm. Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp TK334 TK338 TK335 TK111,112,141 TK154 TK622 Tiền lương thực tế công nhân Kết chuyển để tính trực tiếp phải thanh toán giá thành sản phẩm Trích theo lương BHXH,BHYT KPCĐ theo tỷ lệ quy định TK 632 Trích trước tiền lương nghỉ phép Cuối kỳ K/C chi phí NCTT vượt trên mức bình thường Tiền công của những người bên ngoài (không nằm trong đơn vị) *. Kế toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí phục vụ và quản lý sản xuất gắn liền với từng phân xưởng gắn liền với từng phân xưởng sản xuất. Chi phí sản xuất chung là chi phí tổng hợp bao gồm các khoản: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu và dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ dùng ở phân xưởng, chi phí dịch vụ thuê ngoài và chi phí bằng tiền khác dùng ở phân xưởng. CPSXC được tập hợp theo từng phân xưởng hoặc bộ phận sản xuất kinh doanh. Việc tập hợp được thực hiện hàng tháng và cuối mối tháng kế toán tiến hành phân bổ và kết chuyển vào đối tượng hạch toán chi phí. Kế toán sử dụng TK627 – “Chi phí sản xuất chung” để kế toán tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung. Kết cấu tài khoản chi phí sản xuất chung TK627 Tập hợp chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ -Kết chuyển chi phí để tính giá thành -Kết chuyển phần chi phí không được tính vào giá thành Tài khoản này không có số dư cuối kỳ. Cuối kỳ kế toán thực hiện kết chuyển hết để tính giá thành sản phẩm. Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung TK334,338 TK152,155 TK153,142,242 TK111,112,331 TK154 TK632 TK214 TK133 TK627 Tiền lương và các khoản Kết chuyển để tính giá thành trích theo lương của CBCNV Xuất kho NVL, SP dùng Phần chi phí không hết tại phân xưởng không được tính vào giá thành Xuất kho công cụ dụng cụ Sử dụng dịch vụ mua ngoài Trích khấu hao TSCĐ tại phân xưởng Sau khi đã tập hợp riêng cho từng khoản mục tính giá thành và kết chuyển phân bổ chi phí để tính giá thành. Theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng tài khoản 154 – “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” để tập hợp chi phí cho toàn phân xưởng đồng thời mở chi tiết cho từng đối tượng tính giá. Sơ đồ: Kế toán chi phí sản xuất và giá thành TK621 TK622 TK627 TK138,152 TK155 TK157 TK632 TK154 Kết chuyển CPNVLTT Trị giá SP hỏng phải bồi thường, phế liệu thu hồi do SP hỏng Kết chuyển CPNCTT Giá thành thực tế SP hoàn thành nhập kho Kết chuyển CPSXC Giá thành thực tế SP gửi bán không qua kho Giá thành thực tế SP thành bán ngay 1.5.4. Tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ Những doanh nghiệp sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ thường là những doanh nghiệp sản xuất nhỏ, ít chủng loại sản phẩm hàng hoá. Kế toán sử dụng TK631 – “Giá thành sản xuất” để tập hợp chi phí sản xuất cho toàn doanh nghiệp và chỉ sử dụng cho TK154 để kết chuyển chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, sang kỳ sau lại kết chuyển TK631 tiếp tục tính giá TK154, TK631 cũng được mở chi tiết cho từng đối tượng tính giá Sơ đồ: Hạch toán tài khoản giá thành sản xuất TK154 TK621 TK622 TK627 TK632 TK152 TK138 TK154 TK631 Chi phí sản phẩm dở dang Giá thành sản xuất của SP đầu kỳ hoàn thành trong kỳ Kết chuyển CPNVLTT Phế liệu thu hồi do SP hỏng Kết chuyển CPNCTT Tiền bồi thường phải thu về do sản phẩm hỏng Kết chuyển CPSXC Kết chuyển chi phí dở dang cuối kỳ 1.5.5. Đánh giá sản phẩm dở dang Trong quá trình sản xuất không phải lúc nào doanh nghiệp cũng sản xuất ra những sản phẩm hoàn chỉnh mà còn có cả những sản phẩm dở dang. Nó thường xen giữa các giai đoạn sản xuất, cuối tháng hay cuối quý. Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành kế toán phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm làm dở. Đánh giá sản phẩm dở dang hợp lý sẽ quyết định đến tính trung thực hợp lý của giá thành. Mặc dù vậy việc tính toán sản phẩm dở dang cũng rất phức tạp, nó phục thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng doanh nghiệp. Chi phí sản xuất sản phẩm dở dang có thể được đánh giá theo một trong các phương pháp sau: 1.5.5.1. Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Theo phương pháp này, giá trị sản phẩm dở dang chỉ tính phần theo chi phí NVL chính trực tiếp hoặc CPNVLTT, còn các khoản chi phí khác tính cả cho sản phẩm hoàn thành. Mặt khác, khi tính theo phương pháp này, để đơn giản giảm bớt khối lượng tính toán, kế toán thường sử dụng quan niệm CPNVLTT hoặc CPNVLTT bỏ hêt một lần ngay từ đầu quy trình sản phẩm. Vì vậy, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ tính bằng công thức sau: Giá trị sản phẩm Chi phí phát sinh dở dang đầu kỳ + trong kỳ Số lượng Giá trị sản phẩm = x sản phẩm dở dang cuối kỳ Số lượng sản phẩm + Số lượng sản phẩm dở dang hoàn thành dở dang cuối kỳ cuối kỳ Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo CPNVLTT đơn giản nhưng độ chính xác không cao, chỉ nên áp dụng đối với doanh nghiệp có CPNVLTT chiếm tỷ trọng lớn, khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ ít và không biến động nhiều so với đầu kỳ. 1.5.5.2. Đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương Theo phương pháp này, phải tính toán tất cả các khoản mục chi phí sản phẩm dở dang và mức độ chế biến của chúng để tính đổi khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương. Sau đó xác định từng khoản mục chi phí cho sản phẩm dở dang. Giá trị sản phẩm Chi phí phát sinh dở dang đầu kỳ + trong kỳ Số lượng Giá trị sản phẩm = x sản phẩm dở dang cuối kỳ Số lượng sản phẩm + Số lượng sản phẩm dở dang hoàn thành dở dang cuối kỳ cuối kỳ Đối với các khoản mục chi phí bỏ dần trong quá trình sản xuất (như NVL trực tiếp, NVL chính trực tiếp) thì tính cho sản phẩm hoàn thành và sản phẩm dở dang như sau: Đối với các khoản chi phí bỏ dần trong quá trình sản xuất (như CPNCTT, CPSXC) thì tính cho sản phẩm dở dang theo công thức: Giá trị sản phẩm Chi phí phát sinh dở dang đầu kỳ + trong kỳ Số lượng Giá trị sản phẩm = x sản phẩm dở dang cuối kỳ Số lượng sản phẩm + Số lượng sản phẩm tương đương hoàn thành tương đương Trong đó: Khối lượng sản phẩm = Số lượng sản phẩm dở dang x Mức độ hoàn thành tương đương cuối kỳ Kết quả tính theo phương pháp này có tính chính xác cao nhưng phải mất nhiều thời gian, khối lượng tính toán lớn và phải xác định được mức độ chế biến hoàn thành của sản phẩm dở dang. Thường áp dụng với những sản phẩm có chi phí NVL không lớn, khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ nhiều và biến động lớn so với đầu kỳ. 1.5.5.3. Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí sản xuất định mức Đối với các doanh nghiệp đã xây dựng được hệ thống định mức và dự toán chi phí cho từng loại sản phẩm thì doanh nghiệp có thể áp dụng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí sản xuất định mức. Theo phương pháp này, kế toán căn cứ vào khối lượng sản phẩm dở dang, mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang ở từng công đoạn sản xuất để tính giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức. 1.5.6. Kỳ tính giá thành Kỳ tính giá thành là thời kỳ mà bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính giá thành cho đối tượng cần tính giá thành. Xác định kỳ tính giá thành sản phẩm được khoa học, hợp lý, đảm bảo cung cấp kịp thời các số liệu, tài liệu cần thiết cho việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. Để xác định kỳ tính giá thành cho phù hợp phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và chu kỳ sản xuất của sản phẩm. - Trường hợp sản xuất nhiều mặt hàng, kế hoạch sản xuất ổn định, chu kỳ sản xuất ngắn, xen kẽ, liên tục thì kỳ tính giá thành là hàng tháng. - Trường hợp sản xuất mang tính thời vụ (sản xuất Nông nghiệp), chu kỳ sản xuất dài thì kỳ tính giá thành là hàng năm hay kết thúc mùa vụ. - Trường hợp tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm hoặc hàng loạt sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất thì kỳ tính giá thành thích hợp là thời điểm sản phẩm hoặc hàng loạt sản phẩm đã hoàn thành. 1.5.7. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý, kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Có nhiều phương pháp tính giá thành, tuỳ thuộc vào điều kiện tổ chức yêu cầu quản lý và quy trình sản xuất mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp tính giá thành sau: 1.5.7.1. Phương pháp trực tiếp (phương pháp giản đơn) Theo phương pháp này, giá thành sản phẩm được tính bằng cách căn cứ trực tiếp vào chi phí sản xuất đã tập hợp được theo từng đối tượng kế toán chi phí sản xuất trong kỳ và giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ, cuối kỳ để tính giá thành sản phẩm. Phương pháp này phù hợp với những sản phẩm có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn, khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất ngắn, đối tượng tính giá thành tương đối phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính gía thành hàng tháng phải phù hợp với kỳ báo cáo. 1.5.7.2. Phương pháp hệ số Theo phương pháp này để xác định giá thành cho từng loại sản phẩm cần quy đổi sản phẩm khác nhau về một sản phẩm là sản phẩm tiêu chuẩn theo hệ số quy đổi đã được xây dựng sẵn, hệ số quy đổi bằng 1 gọi là sản phẩm chuẩn. Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp có cùng quy trình công nghệ sản xuất, cùng sử dụng một nguyên liệu, kết quả thu được đồng thời nhiều loại sản phẩm khác nhau. 1.5.7.3. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ (loại trừ giá trị sản phẩm phụ) Theo phương pháp này để tính giá thành sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ được tính bằng nhiều cách như: Giá trị ước tính, giá trị kế hoạch… Phương pháp này được áp dụng chủ yếu trong các doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp chế biến. 1.5.7.4. Phương pháp đơn đặt hàng Theo phương pháp này giá thành được tính riêng biệt theo từng đơn đặt hàng nên việc tổ chức kế toán chi phí phải được chi tiết hoá theo từng đơn đặt hàng. Giá thành của từng đơn đặt hàng là toàn bộ chi phí phát sinh kể từ lúc bắt đầu thực hiện cho đến lúc hoàn thành đơn đặt hàng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật được thoả thuận trong hợp đồng sản xuất. Ngoài các phương pháp trên, còn có nhiều phương pháp tính giá thành như: Phương pháp tỷ lệ, phương pháp phân bước, phương pháp định mức… CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN GIỐNG BÒ SỮA MỘC CHÂU 2.1 Khái quát chung về cơ cấu tổ chức, tình hình hoạt động của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc châu 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc châu Công ty Cổ phần Giồng bò sữa Mộc Châu trực thuộc Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam thuộc bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Tên giao dịch: Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu Địa chỉ: Thị trấn Nông trường - Huyện Mộc Châu - Tỉnh Sơn La Điện thoại: 022 866 065 Mã số thuế: 5500154060 Để có được như ngày nay Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu đã trải qua những chuyển đổi đáng kể ngay từ đầu khi mới được thành lập. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1960: Công ty có tiền thân là Nông trường quân đội, được thành lập ngày 8/4/1958 do các chiến sỹ thuộc trung đoàn 280, sau khi giải phóng Tây bắc được Đảng và Bác Hồ giao nhiệm vụ làm kinh tế, mở mang phát triển vùng Tây bắc. Lúc này số lao động của nông trường được bố trí lao động sản xuất ở các đội và trung tâm nông trường Bộ, với nhiệm vụ là trồng cây lương thực và chăn nuôi bò sữa, ngành chế biến sữa ra đời, ban đầu chỉ là một tổ chế biến sữa. Giai đoạn từ năm 1961 đến 1982: Nông trường quân đội Mộc Châu trở thành Nông trường Quốc doanh, đi sâu vào công tác tổ chức quản lý làm ăn lớn, hình thành những mô hình kinh tế để các hợp tác xã noi theo. Trong thời kỳ này Nông trường được tặng thường Huân chương lao động hạng nhất, Nông trường có 15 đội và 1 Nông trường bộ do Ban giám đốc trực tiếp chỉ đạo, sản lượng sữa có năm đạt tới 3.200 tấn, năng xuất sữa 13,5lít/con/ngày. Lợi nhuận đạt 12 triệu đồng/năm. Giai đoạn từ năm 1983 đến năm1987: Quy mô của xí nghiệp được mở rộng không ngừng và lai tạo được nhiều giống bò mới. Quy mô xí nghiệp liên hiệp Mộc Châu định hình ở diện tích 14.420ha. Trong đó đất Nông nghiệp 4.420ha và gần 3.000 con bò sữa thuần chủng giống nhập từ Cu ba, hàng năm sản xuất trên 3.000 tấn sữa, có 1.000 đất ha trồng cỏ được quy hoạch hiện đại trên 2.800ha đất dành cho sản xuất cây thức ăn hàng năm và thô xanh cho đàn bò. Xây dựng được 19 trại bò hiện đại trong đó có 16 trại bò sữa, 4 trại vắt sữa bằng máy, 1 trung tâm nuôi bê, 1 bệnh viện bò, 1 trại bê và bò tơ lỡ từ 5 đến 24 tháng tuổi với tổng diện tích gần 2 vạn m2, chuồng trại được bê tông hoá, diện tích trồng cỏ được thâm canh cao với nhiều giống cỏ cao cấp như cỏ Mộc Châu, cỏ gà lai, cỏ vua, cỏ sao và nhiều loại cây trồng giàu đạm khác. Từ năm 1987 đến nay: Trong những năm đầu của giai đoạn này, chịu ảnh hưởng của tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, đất nước còn gặp nhiều khó khăn về mọi mặt, Nông trường Mộc Châu cũng trong hoàn cảnh đó: Trong thời kỳ này, đất nước ta chuyển sang hướng sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có quyết định số: 147/NN/CT/QĐ, ngày 01 tháng 06 năm 1982 về tổ chức lại xí nghiệp, đến ngày 01 tháng 01 năm 1987 Nông trường Quốc doanh Mộc Châu I được thành lập hoạt động theo cơ chế độc lập, tự chịu trách nhiệm. Đến tháng 7 năm 1993 Nông trường được đổi tên là Nông trường bò sữa Mộc Châu, lúc này Nhà nước giao thêm nhiệm vụ là sản xuất con giống. Đến ngày 14 tháng 02 năm 1995 đổi tên là: Công ty Giống bò sữa Mộc Châu. Là một Doanh nghiệp hoạt động trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công ty có thể mở các chi nhánh đại diện ở trong và ngoài nước phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam. Đến ngày 28 tháng 9 năm 2004 Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã có quyết định số: 3306 QĐ/TCCB quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước Công ty Giống bò sữa Mộc Châu thành Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu. Với mục đích không ngừng nâng cao lợi ích của các cổ đông, sản xuất sản phẩm có chất lượng. Tăng tích luỹ phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước + Vốn điều lệ của Công ty: 17.100.700.000 đồng + Trong đó Nhà nước chiếm 51%: 8.721.000.000 đồng + Vốn cổ đông khác chiếm 1,45%: 247.900.000 đồng + Vốn cổ đông người lao động chiếm 47,55%: 8.131.800.000 đồng Nằm trên cao nguyên Mộc châu có độ cao 1050 m so với mực nước biển, do vậy Công ty có những khó khăn nhất định, nhưng nhìn vào những giải thưởng qua các đợt: Quả cầu bạc, giải thưởng chất lượng cao Việt Nam 2001, giải sao vàng đất Việt năm 2003 do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cấp, giải cúp sen vàng, và cùng nhiều huy chương vàng, bạc và giấy khen các loại…Đã thấy rõ được những thành tựu đóng góp xứng đáng vào việc xây dựng và phát triển cao nguyên Mộc Châu ngày càng phồn thịnh. Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu đang được Nhà nước đầu tư thành trung tâm giống bò sữa của cả nước. 2.1.2. Đặc điểm về tổ chức quản lý của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc châu 2.2.2.1. Chức năng nhiệm vụ của Công ty Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Việc điều hành, quản lý Công ty được tiến hành theo chế độ trực thuộc Tổng Công ty trên cơ sở quyền làm chủ tập thể của cán bộ công nhân viên chức. Với nhiệm vụ chính là chăn nuôi bò sữa, cung cấp con giống bò sữa, sản xuất chế biến các sản phẩm từ sữa và sản xuất thức ăn chăn nuôi, mục đích của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu đó là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trên toàn quốc. Hàng năm Công ty đã đóng góp cho Ngân sách Nhà nước hàng tỷ đồng. Bên cạnh đó còn góp phần giải quyết công ăn việc làm cho dân cư địa phương và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên của Công ty. 2.2.2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ Nhìn chung, quy trình sản xuất của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu được chia thành nhiều công đoạn khác nhau, từ việc thu mua sữa tươi từ các hộ gia đình về trạm thu mua ở 10 khu vực, cuối buổi được vận chuyển về nhập vào nhà máy để đưa vào sản xuất chế biến. Công ty có quy trình công nghệ khép kín từ khâu đưa các nguyên liệu đầu vào: sữa tươi, đường,… cho đến khâu đóng gói, rót chai, nhập kho thành phẩm. Hiện nay Công ty có 1 nhà máy chế biến sữa gồm 2 xưởng chế biến sữa, 1 nhà máy chế biến thức ăn gia súc và 10 khu vực chăn nuôi với trên 600 hộ chăn nuôi bò sữa. Nhà máy chế biến sữa gồm có: Dây chuyền chế biến sữa thanh trùng, dây chuyền chế biến sữa tiệt trùng và các máy móc thiết bị phụ trợ khác, ngoài ra 1 tổ lái xe chuyên vận chuyển sữa đi tiêu thụ. Các sản phẩm sữa Mộc Châu được chế biến từ 100% sữa bò tươi nguyên chất, trên dây chuyền chế biến sữa hiện đại theo công nghệ tiên tiến của tập đoàn Tetrapak Thuỵ Điển, được quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 – 2000 và HACCP Code 2003. Trên cùng 1 dây chuyền công nghệ có thể sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau (như sản xuất sữa túi và sữa chai), nhưng cũng có thể chỉ sản xuất 1 loại sản phẩm (sản xuất bơ). Do chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm sản xuất ra là sữa nên khi kết thúc ca máy cũng là khi sản phẩm hoàn thành. Do đó đặc điểm sản xuất của Công ty là không có sản phẩm dở dang. 2.1.3. Đặc điểm bộ máy quản lý của Công ty Trải qua thời gian hoạt động lâu dài cùng sự thay đổi của cơ chế thị trường, cơ chế quản lý và yêu cầu sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức bộ máy cũng có nhiều thay đổi theo sự phát triển của Công ty. Hiện nay bộ máy quản lý của Công ty theo mô hình trực tuyến dưới sự lãnh đạo chung của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng GĐ, Phó TGĐ, các phòng ban, trưởng chi nhánh… để hoạt động KD có hiệu quả. S¬ ®å 2.1: tæ chøc bé m¸y qu¶n lý T¹i C«ng ty Cæ phÇn Gièng bß s÷a Méc ch©u Tæng c«ng ty ch¨n nu«i Héi ®ång QT Ban kiÓm so¸t Tæng gi¸m ®èc Phã Tæng gi¸m ®èc Kü thuËt Phã Tæng Gi¸m ®èc kinh doanh Phßng KD-TT Phßng kÕ to¸n Phßng SXKD P. tæ chøc lao ®éng Nhµ ph©n phèi, ®¹i lý Hé nhËn kho¸n ch¨n nu«i Nhµ m¸y CB thøc ¨n gia sóc sóc Nhµ m¸y chÕ biÕn s÷a Qua sơ đồ trên ta thấy bộ máy của Công ty đã xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban và mối quan hệ công tác giữa các phòng ban, các khu vực sản xuất từ đó đảm bảo cho việc cung cấp các thông tin một cách chính xác và có quyết định kịp thời, xử lý những thông tin đó tạo ra sự thông suốt trong công việc. - Hội đồng quản trị: Gồm có bốn người là cơ quan quản lý của Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, có nhiệm vụ quyết định chiến lược phát triển phương án đầu tư tài chính của Công ty, có nhiệm vụ quyết định chiến lược phát triển phương án đầu tư tài chính của Công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức Tổng giám đốc và các cán bộ quản lý khác. - Ban kiểm soát: Gồm có ba thành viên do Đại hội cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra tính trung thực và hợp pháp trong quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, trong ghi chép sổ sách kế toán và báo cáo kế toán, thẩm tra tính trung thực và chính xác bảng cân đối kế toán, báo cáo tài chính hàng năm của Công ty. - Tổng giám đốc: Là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo của Công ty , có năng lực tổ chức chỉ đạo và được sự tín nhiệm của các cổ đông trong Công ty. Tổng giám đốc phụ trách chung và có quyền điều hành toàn bộ hoạt động của Công ty về các vấn đề trong quá trình sản xuất kinh doanh, trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng tháng, quý năm trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của thị trường và của Công ty. Các quy chế, quy định của Công ty về quản lý nghiệp vụ, kỹ thuật chất lượng, nội quy kỹ thuật lao động, đào tạo và tuyển dụng, nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển sản phẩm mới nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trưởng. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức công tác quản lý, tổ chức công tác tài chính kế toán, kế hoạch sản xuất kinh doanh, Tổng giám đốc là người ký kết các hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động và mời chuyên gia cố vấn cho Công ty (nếu cần) và chịu trách nhiệm trước pháp luật và nhà nước về tất cả các hoạt động kinh doanh của Công ty. - Phó Tổng giám đốc phụ trách kinh doanh: Chỉ đạo và điều hành các phòng ban, nhà máy sản xuất có liên quan trong việc thực hiện mua sắm sửa chữa và bảo quản lưu kho các loại nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị, vật liệu xây dựng và các loại nguyên vật liệu vận dụng khác (gọi chung là vật tư phụ tùng) phục vụ cho nhu cầu sản xuất và công tác bán các sản phẩm Công ty kinh doanh. Tổ chức thực hiện việc bán hàng. Thực hiện một số công việc khác do Tổng giám đốc giao. Báo cáo Tổng giám đốc xem xét giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền của mình hoặc không giải quyết được. - Phó Tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật: Chỉ đạo điều hành các phòng ban, khu vực chăn nuôi bò sữa, nhằm tạo ra vùng nguyên liệu ngày càng tằng về số lượng và ổn định về chất lượng, giải quyết các hợp đồng sản xuất trong Công ty, chỉ đạo xây dựng kế hoạch sản xuất chung của Công ty hàng tháng, quý, năm và dài hạn…Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc giao. Báo cáo Tổng giám đốc xem xét giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền của mình hoặc không giải quyết được. Tóm lại: Các phó Tổng giám đốc phụ giúp và thay mặt Tổng giám đốc trực tiếp quản lý các vấn đề ơ chi nhánh, các phòng ban, nhà máy chế biến, các khu vực sản xuất và báo cáo đầy đủ, kịp thời cho Tổng giám đốc khi cần thiết. Các phó Tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về các vấn đề mà mình phụ trách, đồng thời cũng là người quyết định các công việc trong Công ty khi Tổng giám đốc đi vắng nếu được uỷ quyền của Tổng giám đốc. - Phòng tổ chức lao động: Quản lý về nhân sự tại Công ty, xây dựng kế hoạch và tiêu chuẩn tuyển dụng lao động, theo dõi nguồn lao động nhận khoán, soạn thảo các công văn giấy tờ, các quyết định của Tổng giám đốc yêu cầu, lưu trữ, gửi, tiếp nhận các công văn đi, đến, các chế độ BHXH đối với người lao động, kế hoạch đào tạo, thi đua khen thưởng, bên cạnh đó còn có nhiệm vụ tổ chức đời sống và các mặt sinh hoạt cho cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. - Phòng sản xuất kinh doanh: Có nhiệm vụ lập kế hoạch sản xuất theo từng tháng, quý, năm. Lập kế hoạch dài hạn của 5 năm, 10 năm sản xuất kinh doanh của Công ty và các hộ chăn nuôi. Phòng sản xuất kinh doanh còn nghiên cứu thị trường để lập ra kế hoạch tổ chức có hiệu quả, đúng pháp luật quy định và phù hợp với chủ trương kế hoạch sản xuất kinh doanh và các quy định của Công ty. Khi có những mặt hàng mà khách hàng yêu cầu phòng sản xuất kinh doanh phải bố trí cho nhà máy sản xuất đáp ứng kịp thời cho khách hàng, lập thành kế hoạch và có kế hoạch thực hiện. Các công tác đầu tư xây dựng cơ bản, lập dự án đầu tư, phòng còn có chức năng quản lý đất đai, số lượng bò trong từng hộ gia đình. - Phòng kế toán tài chính: Quản lý toàn bộ tài sản và vốn do Nhà nước giao, các cổ đông góp vốn, bảo toàn phát triển và sử dụng các loại vốn có hiệu quả. Lập kế hoạch tài chính (Ngắn hạn, dài hạn, trung hạn) tổ chức theo dõi hạch toán các nhiệp vụ kinh tế phát sinh và tổng hợp quyết toán kết quả sản xuất kinh doanh hàng tháng, quý, năm cho Công ty, lập các báo cáo theo quy định của pháp luật một cách nhanh gọn và chính xác. Có kế hoạch soạn thảo các hợp đồng kinh tế, thanh quyết toán các hợp đồng và hàng tháng thanh toán sản phẩm cho các hộ, làm tròn nghĩa vụ nộp Ngân sách Nhà nước, tổ chức hạch toán toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật thống kê. - Phòng kỹ thuật: Nắm vững các thông tin kinh tê, kế hoạch sản xuất sữa, nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm và quản lý kỹ thuật sản xuất, thiết bị máy móc, điện nước, quản lý kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp. Quản lý đàn gia súc của các hộ trong toàn Công ty và dịch vụ kỹ thuật (Phòng bệnh, chữa bệnh) cho đàn gia súc trong từng hộ gia đình. - Nhà máy chế biến sữa: Hoạt động dưới sự chỉ đạo của giám đốc nhà máy, nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh tháng, quý, năm. Sản xuất, chế biến các sản phẩm sữa. - Xưởng chế biến thức ăn gia súc: Sản xuất và bán các loại thức ăn phục vụ cho chăn nuôi bò sữa, phân vi sinh bón cho đồng cỏ, ngô cây…cung cấp thức ăn xanh cho đàn bò. - Hộ nhận khoán: Ký kết hợp đồng kinh tế, cung cấp sữa cho Công ty, chịu sự quản lý của Công ty về kỹ thuật, chịu sự điều phối của Công ty về đầu con và đất đai. - Chi nhánh, đại lý: Là một bộ phận quan trọng của Công ty, đại diện cho Công ty thực hiện tiêu thụ sản phẩm sữa, mở rộng thị trường và cung ứng vật tư cho chế biến. * Tình hình cơ bản của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu (trong 3 năm gần đây) - Tình hình lao động và sử dụng lao động Bảng: Bảng phân tích trình độ lao động Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch năm 2006-2005 Chênh lệch năm 2007-2006 Người % Người % 1. Hệ Đại học 33 35 37 2 9.5 2 5.7 2. Hệ Cao đẳng 12 14 14 2 16.7 - - 3. Hệ trung cấp 62 71 80 9 14.5 9 12.6 4. Hệ công nhân kỹ thuật 37 65 68 28 75.6 3 8.2 Tổng 132 171 185 39 29.5 14 8.2 Công ty đã tập trung và chú trọng vào trình độ tay nghề của công nhân bởi đó là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của Công ty. Qua bảng phân tích trình độ lao động trên ta thấy Năm 2006 hệ Đại học đã tăng thêm 2 người, ứng với 9.5% so với năm 2005. Ở năm 2007 tăng hơn so với năm 2006 cũng là 2 người tương ứng 5.7%, từ đó chứng tỏ Công ty ngày càng chú trọng tuyển thêm cán bộ công nhân có tay nghề trình độ cao. Hệ Cao đẳng: Năm 2006 cũng tăng so với năm 2005 là 2 người, tương ứng với 16.7% và giữ nguyên tỷ lệ này cho đến hết năm 2007. Hệ trung cấp: Có mức tăng dần qua các năm, năm 2005 thấp hơn so với năm 2006 là 9 người, tương ứng với 14.5%. Năm 2007 cao hơn so với năm 2006 cũng là 7 người tương ứng với 12.6%. Hệ công nhân kỹ thuật: Đây là đội ngũ khá đông đảo trong Công ty, là đội ngũ lao động tạo ra của cải vật chất cho Công ty. Năm 2006 đã tăng hơn so với năm 2005 là 28 người, tương ứng với 75.6%. Năm 2007 so với năm 2006 tăng ít hơn, với tỷ lệ 4.6% tương ứng với 3 người. Qua những số liệu trên ta thấy, số lượng lao động của Công ty cũng tăng dần qua các năm nhưng không đáng kể. Trong khi đó quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng mở rộng. Doanh nghiệp cần tuyển dụng thêm nguồn nhân lực có trình độ để đảm bảo kỹ năng phát triển sản xuất kinh doanh của mình. Về cơ cấu lao động Bảng: Bảng cơ cấu lao động trực tiếp, gián tiếp Chỉ tiêu Năm 2005 2006 2007 Người % Người % Người % Lao động gián tiếp 28 21.2 32 18.7 35 18.9 Lao động trực tiếp 104 78.8 139 81.3 150 81.1 Tổng 132 100 171 100 185 100 Từ bảng số liệu trên ta thấy rằng số người lao động gián tiếp tăng lên nhưng không đáng kể. Tuy vậy tỷ lệ % trong tổng số lao động lại có xu hướng giảm đi. Năm 2006 giảm so với năm 2005 là 2.5%. Và năm 2007 lại tăng so với năm 2005 là 0.2%. Xét về lao động trực tiếp thì số lao động tăng dần trong các năm. Năm 2006 nhiều hơn so với năm 2005 là 35 người, tương ứng với tỷ lệ tăng là 2.5%. Tới năm 2007 tỷ lệ này lại giảm so với năm 2006 là 0.3% nhưng số lao động lại tăng lên 11 người. - Tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty Công ty Cổ phần giống bò sữa Mộc Châu đang hoạt động với 51% vốn của nhà nước, 49% số vốn do cổ đông và người lao động đóng góp. Bảng cho thấy vốn bằng tiền, các khoản phải thu ngắn hạn và TSCĐ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản. Trong Công ty hàng tồn kho chủ yếu là các loại thành phẩm tồn kho và bao bì. Nếu ta so sánh giữa năm 2006 và năm 2007 hay nói cách khác so sánh giữa số đầu kỳ và cuối kỳ thì tài sản ngắn hạn có xu hướng tăng lên, tính đến thời điểm cuối năm 2007 tài sản ngắn hạn đạt 54,751 (triệu đồng) tăng hơn 22 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng 67.35%. Sở dĩ tài sản ngắn hạn tăng lên phần lớn là do hàng tồn kho tăng 17,629 (triệu đồng) tương ứng với 181.93% (chủ yếu là do Công ty tăng lượng bao bì dự trữ). Tiền và các khoản tương đương tiền cũng tăng 8,484 (triệu đồng) tương ứng với tốc độc tăng 312.72%. Nếu các điều kiện khác không đổi thì điều này chứng tỏ số vòng quay vốn lưu động giảm, làm tăng tình trang ứ đọng tiền mặt là biểu hiện không tốt. Tài sản dài hạn của Công ty có xu hướng giảm đi. Tuy nhiên tài sản dài hạn khác năm 2007 thì lại tăng lên 527 (triệu đồng) tương ứng với 1,817.24% là do Công ty đã trích trước chi phí trả trước dài hạn và đầu tư dài hạn khác. Nguồn vốn của Công ty có xu hướng tăng lên chứng tỏ Công tu có khả năng tài chính tương đối ổn định. Tính đến cuối năm 2007, nguồn vốn đạt 98,174 (triệu đồng) tăng so với cuối năm 2006 là 18,881 (triệu đồng) ứng với 23.81%. Trong hai năm 2006, 2007 thì nợ phải trả có xu hướng giảm ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6312.doc
Tài liệu liên quan