Kế toán chi phí & tính giá thành kinh doanh buồng ngủ ở Công ty Cổ phần du lịch Nam Định

Lời mở đầu Đông nam á nói chung và Việt Nam nói riêng hiện nay đã và đang tìm mọi biện pháp để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Cùng với các chính sách chủ trương thu hút khách du lịch như các hoạt động văn hoá, các hoạt động quảng bá hình ảnh Việt Nam trên các phương tiện truyền thông,các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch cũng đóng vai trò quan trọng. Công ty cổ phần du lịch Nam Định góp phần không nhỏ trong việc thu hút du lịch đến với Nam Định nói riêng và Việt Nam nói

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Kế toán chi phí & tính giá thành kinh doanh buồng ngủ ở Công ty Cổ phần du lịch Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chung.Với tư cách là công ty hoạt động kinh doanh thì lợi nhuận đóng vai trò cực kỳ quan trọng nó là mục tiêu hoạt động của công ty. Do đó việc hạch toán kế toán trong doanh nghiệp phải thực hiện rõ ràng đúng theo tiêu chuẩn kế toán chung.Để nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này em chọn đề tài: “Kế toán chi phí và tính giá thành kinh doanh buồng ngủ ở công ty cổ phần du lịch Nam Định” Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm ba phần: Phần I Cơ sở lý luận về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch Phần II Tình hình thực tế về kế toán chi phí và tính giá thành kinh doanh buồng ngủ ở công ty cổ phần du lịch Nam Định Phần III Nhận xét kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành kinh doanh buồng ngủ ở công ty cổ phần du lịch Nam Định phần i Cơ sở lý luận về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch I . sự cần thiết khách quan phải hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong các đơn vị kinh Doanh dịch vụ du lịch Du lịch là tập hợp các hoạt động nhằm đảo bảo cho khách du lịch một tiện nghi và điều kiện dễ dàng trong việc mua và sử dụng dịch vụ, hàng hóa trong thời gian khách lưu lại. Hoạt động về dịch vụ du lịch phát triển góp phần đảm bảo mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân một cách toàn diện, cân đối và thống nhất. Từ đó sẽ nâng cao được hiệu quả kinh doanh xã hội, tăng thu nhập quốc dân và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Một vấn đề đặt ra cho bất cứ doanh nghiệp nào kinh doanh trong lĩnh vực du lịch dịch vụ là phải làm thế nào để thu hút được nhiều khách du lịch, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch, tăng lợi nhuận và không ngừng tăng tích lũy cho doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu ổn định và nâng cao đời sống cho người lao động. Muốn làm được điều đó thì trong quá trình hạch toán cần phải quản lý chặt chẽ, hạch toán chính xác và đầy đủ chi phí bỏ ra để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Có như vậy mới đảm bảo bù đắp được chi phí về lao động sống và lao động vật hóa trong quá trình hoạt động du lịch và để lại lợi nhuận cho đơn vị. Vấn đề này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hạch toán chi phí dịch vụ du lịch và tính giá thành sản phẩm, giúp cho bộ máy quản lý của đơn vị thường xuyên nắm được tình hình thực hiện các định mức hao phí về lao động sống, nguyên liệu và các chi phí khác của đơn vị, nắm được tình hình lãng phí và tổn thất trong quá trình phục vụ, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của đơn vị... Ngoài ra còn giúp cho bộ máy của đơn vị nắm được những mặt tốt, những mặt còn tồn tại trong quá trình hoạt động của đơn vị, trên cơ sở đó đánh giá được hiệu quả kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ và hạ giá thành phẩm dịch vụ. Chính vì vậy, tổ chức tốt công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tăng cường và cải tiến công tác quản lý giá thành nói riêng và quản lý đơn vị nói chung. Ii. Chi phí và phân loại chi phí dịch vụ du lịch Chi phí dịch vụ du lịch. Để tiến hành hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch một cách bình thường các đơn vị cần phải tiêu hao một lượng lao động sống, lao động vật hoá nhất định. Cụ thể, những hao phí về vật chất như: khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên liệu vật liệu, điện năng, nhà cửa, trang thiết bị, công cụ lao động nhỏ... những hao phí này gọi chung là hao phí về lao động vật hoá, còn hao phí về lao động sống như tiền lương, tiền công. Ngoài ra, còn có một khoản chi phí mà thực chất là một phần giá trị mới sáng tạo ra đó là các khoản trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ, các loại thuế không được hoàn trả như thuế giá trị gia tăng không được khấu trừ, thuế tài nguyên, lãi vay ngân hàng... Trong tổng chi phí đó thì chi phí về lao động sống chiếm tỷ trọng lớn hơn so với các khoản chi phí khác. Sở dĩ như vậy là vì trong du lịch nói chung và khách sạn nói riêng, sản phẩm dịch vụ du lịch cung cấp cho khách hàng là các lao vụ dịch vụ là kết quả của lao động sống. Khối lượng và chất lượng của các lao vụ dịch vụ này phụ thuộc vào yếu tố con người đó là: kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ, ý thức hay nói cách khác đó là mức độ thích hợp của nhân viên cho một công việc cụ thể. Do đó, bên cạnh những điều kiện vật chất như: số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá... vai trò của yếu tố con người trong quá trình phục vụ không đơn thuần chỉ giới hạn trong mối quan hệ giữa người phục vụ và khách mà còn là phẩm chất tư cách, trình độ tay nghề, kiến thức về văn hoá xã hội, trình độ ngoại ngữ... có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nói tóm lại, chi phí mà doanh nghiệp chi ra để cấu thành nên sản phẩm thì giá trị của sản phẩm bao gồm 3 bộ phận là: c + v + m, trong đó: c là toàn bộ giá trị của tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ như: khấu hao TSCĐ, công cụ lao động nhỏ, nguyên vật liệu, điện năng... còn gọi là hao phí lao động vật hoá. v là chi phí về tiền lương, tiền công phải thanh toán cho người lao động trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm dịch vụ còn gọi là hao phí lao động sống. m là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ. Đứng trên góc độ doanh nghiệp, để tiến hành kinh doanh tạo ra sản phẩm thì doanh nghiệp phải bỏ ra 2 bộ phận là c và v còn gọi là chi phí dịch vụ mà doanh nghiệp phải bỏ ra. Như vậy, chi phí kinh doanh dịch vụ du lịch là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí kinh doanh dịch vụ du lịch, là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành hoạt động kinh doanh trong một kỳ nhất định. Chi phí kinh doanh dịch vụ du lịch được biểu hiện qua hai mặt đó là mặt định tính và mặt định lượng. Về mặt định tính: Nó thể hiện các yếu tố vật chất phát sinh và tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm dịch vụ. Về mặt định lượng: Thể hiện mực tiêu hao cụ thể của từng yếu tố vật chất trong quá trình doanh và được biểu hiện thông qua các thước đo tiền tệ. Về mặt định lượng của chi phí kinh doanh dịch vụ du lịch phụ thuộc vào 2 nhân tố: Nhân tố khối lượng các yếu tố vất chất đã tiêu hao trong một kỳ nhất định. Nhân tố giá cả các yếu tố vật chất đã tiêu hao trong quá trình đó. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, giá cả có sự biến động theo nhịp độ của thị trường thì việc đánh giá chính xác các khoản chi phí là cần thiết nhằm xác định đúng việc chi phù hợp với giá cả thị trường, đảm bảo doanh nghiệp có điều kiện bảo toàn vốn. Mặt khác, trong điều kiện như thế thì công tác tính toán cũng phải khoa học, hợp lý. Do đó cần phải tính toán chính xác, đầy đủ và kịp thời chi phí theo từng thời kỳ, từ đó giúp cho công tác tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch được chính xác và phù hợp. Vì vậy, phân loại chi phí là một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác chi phí và phấn đấu hạ giá thành sản phẩm dịch vụ. 2.Phân loại chi phí kinh doanh dịch vụ. Tuỳ theo góc độ xem xét chi phí mà chi phí được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Việc phân loại chi phí theo tiêu thức thích hợp vừa đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý, vừa đáp ứng được yêu cầu của kế toán tập hợp chi phí kinh doanh dịch vụ, thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ. Nó không những có ý nghĩa quan trọng đối với công tác hạch toán mà còn là tiền đề rất quan trọng của việc lập kế hoạch, kiểm tra và phân tích chi phí dịch vụ trong toàn doanh nghiệp cũng như từng bộ phận cấu thành bên trong doanh nghiệp. Đứng trên góc độ phục vụ công tác hạch toán chi phí và tính giá thành thì có một số cách phân loaị chi phí sau đây: a.Phân loại chi phí theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí. Theo cách phân loại này chi phí trong các doanh nghiệp sản xuất được chia thành các yếu tố chi phí sau (hiện nay chế độ mới chỉ quy định các yếu tố chi phí chỉ áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất, không có quy định riêng cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh dịch vụ). Nguyên liệu, vật liệu chính mua ngoài (gồm cả nửa thành phẩm mua ngoài) Vật liệu phụ mua ngoài (gồm cả bao bì, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ mua ngoài) Nhiên liệu mua ngoài. Năng lượng mua ngoài. Tiền lương của công nhân viên. Trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân viên. Khấu hao TSCĐ. Chi phí bằng tiền khác. Nguyên tắc: phân loại chi phí theo cách này là những khoản chi phí có chung tính chất kinh tế thì được xếp chung vào một yếu tố, không kể chi phí đó phát sinh ở địa điểm nào, dùng vào mục đích gì trong kinh doanh. ý nghĩa: cách phân loại này là cơ sở cho việc tập hợp chi phí theo yếu tố và lập báo cáo chi phí theo yếu tố, cho biết được chi phí của doanh nghiệp theo từng yếu tố so với tổng chi phí phục vụ cho việc giám đốc tình hình dự toán chi phí dịch vụ du lịch. b.Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế (theo khoản mục chi phí) Nguyên tắc: theo cách này chi phí được phân loại theo những khoản chi phí có công dụng kinh tế được sắp xếp vào một khoản mục chi phí, không tính đến chi phí đó là gì và nội dung kinh tế của nó như thế nào. Theo cách phân loại này, chi phí kinh doanh dịch vụ được chia thành các khoản mục sau: Chi phí nguyên liệu vật liệu: khoản mục chi phí này bao gồm các loại chi phí như xà phòng, giấy vệ sinh, thuốc tẩy... Tiền lương của công nhân viên bao gồm: tiền lương chính, tiền lương phụ, tiền thưởng và các khoản có tính chất lương khác của công nhân phục vụ. Trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân viên. Các khoản trích nộp này được tính theo tỷ lệ % quy định bao gồm: BHXH trích 15% trên tổng tiền lương phải trả cho công nhân viên, BHYT là 2% trên tổng tiền lương phải trả cho công nhân viên, KPCĐ là 2% trên tổng tiền lương phải trả công nhân viên. Khấu hao TSCĐ: khoản mục này được tính theo tỷ lệ % trên nguyên giá TSCĐ trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Chi phí điện nước: khoản mục này bao gồm tiền điện, tiền nước phải trả cho bên cung cấp. Chi phí công cụ lao động nhỏ: khoản mục này bao gồm cốc, chén, khăn tắm, ga, đệm, gối... Chi phí đào tạo, tuyên truyền quảng cáo: khoản mục này bao gồm chi phí cho việc đào tạo các lớp tay nghề tập trung, bồi dưỡng chuyên môn, chi phí cho việc quảng cáo... Chi phí vệ sinh. Chi phí sửa chữa. Chi phí bằng tiền khác: khoản mục này bao gồm lãi vay ngân hàng, chi phí vận chuyển thuê ngoài và các chi phí khác. Tuy nhiên tuỳ theo từng loại hoạt động kinh doanh cụ thể, số lượng khoản mục chi phí, nội dung và cấu thành của chúng có khác nhau. ý nghĩa: Cách phân loại này là cơ sở để hạch toán chi phí theo khoản mục, phân tích, kiểm tra chi phí theo khoản mục tạo điều kiện tăng cường chế độ tiết kiệm chi phí tạo điều kiện hạch toán kinh tế nội bộ có hiệu quả. C .Phân loại chi phí theo mối quan hệ chi phí với đối tượng chịu chi phí. Theo cách phân loại này, chi phí được chia thành 2 loại: Chi phí cơ bản: là những chi phí thuộc các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh như chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí khấu hao TSCĐ dùng vào sản xuất và những chi phí trực tiếp khác. Chi phí quản lý phục vụ: là những chi phí cóính chất quản lý, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Những chi phí cơ bản liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tính giá thành thì hạch toán trực tiếp, còn những chi phí cơ bản nào liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thành thì trực tiếp phân bổ các đối tượng tính giá thành theo các tiêu thức thích hợp. Chi phí quản lý phục vụ thì tập hợp riêng theo khoản mục sau đó cuối kỳ phân bổ một lần cho các đối tượng tính giá liên quan theo tiêu thức phù hợp. Ngoài cách phân loại chi phí để phục vụ trực tiếp cho công tác hạch toán chi phí và tính giá thành như trên, còn có cách phân loại chi phí khác để phục vụ cho công tác quản lý chi phí, phân tích chi phí. Đó là phân loại chi phí theo mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm dịch vụ tạo ra và chi phí thì chi phí được chia thành: Chi phí cố định (chi phí bất biến): là những chi phí không thay đổi khi có sự biến đổi về khối lượng sản phẩm dịch vụ tạo ra. Chi phí biến đổi (chi phí khả biến): là những chi phí có mối tương quan tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm dịch vụ tạo ra. 3.Đối tượng và phương pháp kế toán chi fí sản xuất Hạch toán quá trình sản xuất sản phẩm dịch vụ bao gồm hai giai đoạn liên tục kế tiếp nhau và có mối quan hệ với nhau, giai đoạn đầu hạch toán tập hợp các chi phí phát sinh trong kỳ theo từng đối tượng chịu chi phí như từng hoạt động kinh doanh, từng hợp đồng kinh doanh, từng địa điểm kinh doanh... và phân tích các chi phí đó theo yêu cầu quản lý cụ thể như theo khoản mục chi phí, theo yếu tố chi phí... Giai đoạn hai là tính giá thành sản phẩm dịch vụ theo từng đối tượng tính giá thành trên cơ sở số liệu của chi phí đã tập hợp được. Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành là một trong những điều kiện chủ chốt để tính giá thành được chính xác. a.Đối tượng chi phí kinh doanh dịch vụ: Đối tượng tập hợp chi phí kinh doanh dịch vụ là phạm vi giới hạn mà các chi phí kinh doanh dịch vụ cần được tổ chức tập hợp theo đó. Việc lựa chọn các đối tượng tập hợp chi phí ở từng doanh nghiệp có sự khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm, tình hình tổ chức kinh doanh, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Theo đặc điểm tình hình tổ chức hoạt động của doanh nghiệp tiến hành các loại hoạt động kinh doanh như kinh doanh hướng dẫn du lịch, kinh doanh vận chuyển, kinh doanh buồng ngủ, kinh doanh ăn uống... thì đối tượng tập hợp chi phí có thể là từng hoạt động kinh doanh cụ thể. Trong từng hoạt động kinh doanh cụ thể mà có nhiều chủng loại sản phẩm dịch vụ như: buồng đơn, buồng đôi, buồng tập thể thì theo yêu cầu quản lý có thể tập hợp chi phí theo từng loại sản phẩm dịch vụ cụ thể. Theo yêu cầu và trình độ quản lý, nếu tiến hành hạch toán kinh tế nội bộ trong doanh nghiệp thì chi phí có thể được tập hợp theo từng cơ sở, từng địa điểm kinh doanh... để có thể hạch toán kinh tế nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, phân tích và xác định kết quả hạch toán kinh tế của từng cơ sở. Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định hoạt động hay phạm vi mà chi phí phát sinh làm cơ sở cho việc tập hợp chi phí kinh doanh dịch vụ. b.Phương pháp kế toán chi phí sản xuất *Chi phí trực tiếp Chi phí trực tiếp là những chi phí có quan hệ trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt. Theo phương pháp này thì chi phí phát sinh cho đối tượng nào được tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó. Để thực hiện tốt phương pháp này đòi hỏi phải tổ chức việc ghi chép ban đầu (chứng từ gốc) phải theo đúng đối tượng đã xác định. Trên cơ sở đó kế toán tổng hợp số liệu từ các chứng từ gốc theo từng đối tượng tập hợp chi phí liên quan và trực tiếp ghi vào sổ kế toán (tài khoản cấp 1, tài khoản cấp 2, sổ chi tiết). Phương pháp này đảm bảo tập hợp chi phí theo đúng đối tượng chịu chi phí với mức độ chính xác cao. Vì vậy cần phải sử dụng tối đa phương pháp này đối với các chi phí dịch vụ du lịch có đủ điều kiện tập hợp trực tiếp. *Chi phí chung Chi phí chung là những chi phí có liên quan đến những đối tượng tập hợp chi phí mà không phân biệt riêng rẽ ngay từ khi hạch toán ban đầu như chi phí điện nước, chi phí vệ sinh, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí trực tiếp khác. Các chi phí này phát sinh không thể tổ chức ghi chép ban đầu riêng theo từng đối tượng chịu chi phí được mà kế toán phải sử dụng phương pháp gián tiếp hay còn gọi là phương pháp phân bổ gián tiếp. Sử dụng phương pháp này kế toán vẫn tập hợp được chi phí cho từng đối tượng tập hợp chi phí đáp ứng yêu cầu quản lý. Phương pháp này đòi hỏi phải tổ chức ghi chép ban đầu với những chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng theo từng địa điểm phát sinh chi phí, trên cơ sở đó để tập hợp số liệu theo từng điểm phát sinh chi phí. Sau đó chọn tiêu chuẩn phân bổ hợp lý để tính toán, phân bổ chi phí đã tập hợp cho các đối tượng có liên quan. Tiêu chuẩn phân bổ thích hợp là tiêu chuẩn có quan hệ kinh tế tương quan tỷ lệ thuận với chi phí cần phân bổ đảm bảo cho việc phân bổ hợp lý, đồng thời tiêu chuẩn đó đã có thể tính toán hoặc thu thập được một cách dễ dàng. Vì vậy tuỳ theo từng khoản mục chi phí cần phân bổ và điều kiện khách quan cụ thể mà chọn tiêu chuẩn để phân bổ chi phí cho thích hợp, đảm bảo cho chi phí đó được phân bổ cho từng đối tượng có liên quan một cách hợp lý và chính xác nháat lại đơn giản được thủ tục tính toán, phân bổ. Các bước phân bổ như sau: Bước 1: Trước hết tính hệ số phân bổ chi phí theo công thức: Hệ số phân bổ = Tổng chi phí đã tập hợp cần phân bổ Tổng số đại lượng dùng làm tiêu chuẩn phân bổ Bước 2: Tiếp theo tính chi phí phân bổ cho từng đối tượng liên quan theo công thức: Chi phí phân bổ cho đối tượng n = Hệ số phân bổ x Tiêu chuẩn phân bổ cho đối tượng n giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch 1. khái niệm giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch Sự vận động của quá trình kinh doanh dịch vụ trong doanh nghiệp dịch vụ du lịch bao gồm 2 mặt đối lập nhau, nhưng có liên quan mật thiết hữu cơ với nhau. Trong đó, một mặt là các chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra, còn mặt khác là kết quả kinh doanh thu được từ những sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành. Vậy giá thành sản phẩm dịch vụ là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng sản phẩm lao vụ dịch vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm lao vụ, dịch vụ là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình kinh doanh cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức kinh tế, kỹ thuật và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng phục vụ, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giá thành là một căn cứ quan trọng để định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bản chất, chức năng của giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch a. Bản chất giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch Giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ tổ chức quản lý kinh tế, trình độ sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Mặt khác giá thành còn là cơ sở xác định kết quả tài chính, thước đo hao phí lao động cần thiết phải phù đắp trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch theo nguyên tắc hạch toán "lấy thu bù chi và có lãi". Giá thành là công cụ để giám đốc chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Chức năng của giá thành Giá thành có 2 chức năng cơ bản đó là: Chức năng thước đo bù đắp chi phí: Với chức năng này thì chỉ tiêu giá thành sẽ là căn cứ để xác định khả năng bù đắp chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tạo ra sản phẩm và thực hiện giá trị của mình. Chức năng lập giá: Để thực hiện được yêu cầu bù đắp chi phí phải căn cứ vào giá thành sản phẩm dịch vụ. Do đó giá thành có chức năng cơ sở để lập giá. Các loại giá thành sản phẩm dịch vụ Trong kinh doanh dịch vụ, kế toán xác định 2 loại giá thành, đó là giá thành sản xuất của dịch vụ và giá thành toàn bộ của dịch vụ tiêu thụ. Giá thành sản xuất là toàn bộ hao phí của các yếu tố dùng để tạo ra sản phẩm dịch vụ hoàn thành. Giá thành toàn bộ bao gồm giá thành sản xuất và chi phí ở khâu tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của các sản phẩm dịch vụ đã xác định là tiêu thụ. Trong hoạt động kinh doanh du lịch nhiều hoạt động có quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ sản phẩm diễn ra đồng thời nhưng có chi phí sản xuất kinh doanh trùng khớp với chi phí sản xuất trực tiếp phát sinh trong kỳ. Đối tượng tính giá thành sản phẩm dịch vụ Đối tượng tính giá thành sản phẩm lao vụ dịch vụ là những sản phẩm, lao vụ của những hoạt động dịch vụ du lịch đã thực hiện (đã tiêu thụ) tức là những sản phẩm đã hoàn thành, đã trả cho khách và khách chấp nhận trả tiền. Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm lao vụ, dịch vụ đã thực hiện của kế toán. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức kinh doanh các loại sản phẩm dịch vụ, lao vụ do đơn vị sản xuất ra để xác định đối tượng tính giá thành cho thích hợp. Dịch vụ du lịch là một quá trình phức tạp, các loại hàng hóa và dịch vụ đa dạng được "sản xuất" và "bán" theo các quy trình công nghệ rất khác nhau, nên đối tượng tính giá thành trong hoạt động dịch vụ du lịch là các đối tượng khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoạt động kinh doanh riêng biệt. Bộ phận kế toán giá thành có nhiệm vụ là phải xác định đúng đối tượng tính giá thành để tổ chức ghi chép, phản ánh, tập hợp chi phí theo từng đối tượng tính giá thành của từng loại dịch vụ, kiểm tra tình hình thực hiện giá thành. Đối với tổ chức hoạt động kinh doanh du lịch là tiến hành tạo ra sản phẩm dịch vụ như hướng dẫn khách du lịch, phục vụ khách ở phòng ngủ... Mặt khác, quy trình kinh doanh dịch vụ là quy trình giản đơn nên đối tượng tính giá thành là sản phẩm dịch vụ lao vụ đã hoàn thành ở cuối quy trình công nghệ (không có nửa thành phẩm như trong doanh nghiệp sản xuất). Đơn vị tính giá thành của từng loại sản phẩm lao vụ, dịch vụ phải là đơn vị được thừa nhận làm đơn vị tính toán trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với đơn vị tính trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối tượng tính giá thành của hoạt động kinh doanh hướng dẫn du lịch là hoạt động kinh doanh hướng dẫn du lịch, đối với hoạt động kinh doanh vận chuyển là người/km vận chuyển, đối với hoạt động kinh doanh buồng ngủ là phòng/01 ngày đêm theo từng loại buồng, đối với hoạt động kinh doanh ăn uống và hoạt động khác thì việc tính giá thành được tính theo từng sản phẩm. 5.Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa chi phí và giá thành sản phẩm dịch vụ Mặc dù giữa chi phí và giá thành có mối quan hệ với nhau nhưng giữa chúng còn có điểm khác nhau về phạm vi và nội dung. Vì vậy, cần phân biệt phạm vi và giới hạn của chúng để ứng dụng tốt hơn trong việc tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch. Chi phí kinh doanh dịch vụ chỉ tính những chi phí phát sinh trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm) không tính đến nó liên quan đến khối lượng sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành. Từ đó chi phí kinh doanh dịch vụ du lịch tính cho một kỳ, còn giá thành liên quan đến cả chi phí của thời kỳ trước chuyển sang (chi phí dở dang đầu kỳ) và chi phí của kỳ này chuyển sang kỳ sau (chi phí dở dang cuối kỳ). Chi phí kinh doanh dịch vụ gắn liền với khối lượng chủng loại sản phẩm dịch vụ hoàn thành, trong khi đó giá thành lại liên quan mật thiết đến khối lượng và chủng loại sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành. Như vậy sự khác nhau giữa chi phí và giá thành thể hiện ở 2 khía cạnh sau: Về mặt chất: Chi phí kinh doanh dịch vụ là những yếu tố đa hao phí trong quá trình kinh doanh nhưng chưa hẳn đã hoàn thành. Còn giá thành sản phẩm dịch vụ là những yếu tố tiêu hao cho quá trình kinh doanh một lượng sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành. Về mặt lượng: Thường về mặt lượng giữa chúng không có sự thống nhất với nhau. Giá thành sản phẩm dịch vụ có thể bao gồm cả chi phí của thời kỳ trước chuyển sang, chi phí đã chi ra trong kỳ và loại trừ chi phí chuyển sang kỳ sau. Nó được biểu hiện qua công thức sau: Z = Dđk + C - Dck Trong đó: Z : là tổng giá thành sản phẩm Dđk : Chi phí dở dang đầu kỳ C : Chi phí phát sinh trong kỳ Dck : Chi phí dở dang cuối kỳ Khi giá trị dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau thì giá thành sản phẩm dịch vụ trùng khớp với chi phí sản xuất. 6.Mối quan hệ giữa đối tượng chi phí và đối tượng tính giá thành Giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành có những trường hợp trùng nhau nhưng giữa chúng có những nội dung khác nhau mặc dù chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Giống nhau: Về bản chất đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành giống nhau ở một điểm chung là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí, giá thành. Khác nhau: Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định phạm vi (nơi) phát sinh chi phí làm cơ sở cho việc tập hợp chi phí phục vụ cho công tác tính giá thành. Xác định đối tượng tính giá thành có liên quan đến kết quả của quá trình kinh doanh làm căn cứ để lập bảng tính giá thành theo đối tượng đã xác định. Trong kinh doanh du lịch ở một khía cạnh nhất định, đối tượng tập hợp chi phí có phạm vi rộng hơn đối tượng tính giá thành. Có trường hợp một đối tượng tập hợp chi phí có thể có nhiều đối tượng tính giá thành. 7.Phương pháp tính giá thành sản phẩm du lịch dịch vụ Phương pháp tính giá thành là hệ thống các phương pháp, kỹ thuật được sử dụng để tính toán, xác định giá thành sản phẩm dịch vụ. Có nhiều phương pháp được sử dụng để tính giá thành, tuỳ theo đặc điểm tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành kế toán sử dụng phương pháp tính giá thành cho phù hợp. Trong hoạt động kinh doanh dịch vụ buồng ngủ người ta thường sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp tính giá thành giản đơn Phương pháp này thường được áp dụng trong ngành du lịch và quy trình phục vụ hoạt động kinh doanh du lịch giản đơn, đối tượng tập hợp chi phí ở đây thường phù hợp với đối tượng tính giá thành. Đối tượng tập hợp chi phí dịch vụ du lịch là toàn bộ quy trình phục vụ, còn đối tượng tính giá thành là hình thức dịch vụ do quy trình phục vụ đã hoàn thành. Kỳ tính giá thành trong các doanh nghiệp dịch vụ du lịch thường là một tháng hoặc một quý vào ngày cuối tháng hoặc cuối quý. Khi đó giá thành được xác định theo công thức: Tổng giá thành thực tế của khối lượng sản phẩm lao vụ, dịch vụ đã thực hiện = Chi phí trực tiếp của khối lượng lao vụ, dịch vụ chưa thực hiện đầu kỳ + Chi phí phát sinh trong kỳ _ Chi phí trực tiếp của khối lượng lao vụ, dịch vụ chưa thực hiện cuối kỳ Do đặc điểm của ngành kinh doanh dịch vụ du lịch là không có sản phẩm nhập kho, khó xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở dang nên coi như không có sản phẩm dở dang. Vậy phương pháp tính giá thành giản đơn còn gọi là phương pháp tổng cộng chi phí. Sau khi tính được tổng giá thành sản xuất của từng dịch vụ cụ thể thì có thể tính được giá thành đơn vị sản phẩm dịch vụ: Giá thành đơn vị = Tổng giá thành sản xuất của dịch vụ cụ thể Tổng số đơn vị sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành Phương pháp tính giá thành theo hệ số Phương pháp tính giá thành theo hệ số còn gọi là phương pháp tính giá thành quy về sản phẩm chuẩn. Hoạt động kinh doanh buồng ngủ có thể áp dụng được phương pháp này, do nhu cầu của khách du lịch có nhiều mức độ khác nhau, nhu cầu của khách du lịch trong nước và quốc tế cũng khác nhau. Vì vậy trong hoạt động kinh doanh buồng ngủ cũng phát sinh ra nhiều loại buồng để đáp ứng yêu cầu của khách như: loại buồng đặc biệt, buồng loại 1, buồng loại 2, buồng đôi, buồng đơn... Định mức chi phí phục vụ, điều kiện trang thiết bị cho mỗi loại phòng cũng khác nhau. Khi tính giá thành hoạt động kinh doanh buồng ngủ có thể tính giá thành đơn vị cho một giường hoặc tính giá thành cho một phòng ngủ theo từng loại phòng. Song để tính giá thành theo phương pháp này thì phải xác định được hệ số giá thành giữa các loại buồng. áp dụng phương pháp này thì việc xác định hệ số giá thành phải được cơ quan chủ quản xét duyệt và hệ số giá thành phải được áp dụng thống nhất từ khi lập kế hoạch đến khi sử dụng để tính toán, có thể tính riêng cho từng khoản mục. Việc xác định hệ số giá thành giữa các loại buồng, kế toán căn cứ vào các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật để xác định cho mỗi loại buồng một hệ số tính giá thành. Trong đó chọn một loại buồng làm tiêu chuẩn cho hệ số bằng 1.Sau khi xác định hệ số giá thành giữa các loại buồng, kế toán căn cứ vào số lượt buồng thực tế cho thuê của từng loại buồng trong kỳ và căn cứ vào hệ số tính giá thành của từng loại buồng để tính tổng số buồng quy đổi ra loại tiêu chuẩn có hệ số bằng 1 theo công thức: Tổng số buồng ngủ thực hiện quy đổi = Số buồng ngủ thực hiện loại buồng i x Hệ số giá thành loại i Trong đó: i là loại buồng (1, 2, 3...) Do nghiệp vụ kinh doanh buồng ngủ thường không có sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ nên: Tổng giá thành thực tế trong kỳ của hoạt động kinh doanh buồng ngủ = Tổng chi phí trực tiếp trong kỳ của hoạt động kinh doanh buồng ngủ Từ đó tính được giá thành và giá thành đơn vị của từng loại buồng ngủ theo công thức: Tổng giá thành loại buồng i = Tổng giá thành thực tế Tổng số buồng thực hiện quy đổi x Số buồng thực hiện quy đổi loại buồng i Giá thành đơn vị loại buồng i = Tổng giá thành loại buồng i Số phòng thực hiện loại buồng i Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ Ngoài việc áp dụng phương pháp tính giá thành theo hệ số như đã trình bày ở trên, hoạt động kinh doanh buồng ngủ còn có thể tính giá thành theo phương pháp tỷ lệ. Theo phương pháp này, người ta căn cứ vào tổng chi phí thực tế phát sinh trong kỳ của hoạt động kinh doanh buồng ngủ và tổng chi phí định mức (kế hoạch) của hoạt động kinh doanh buồng ngủ để xác định tỷ lệ giá thành theo công thức: Tỷ lệ giá thành = Chi phí thực tế (giá thành thực tế) Chi phí kế hoạch (giá thành kế hoạch) Giá thành thực tế được xác định: Giá thành thực tế = Giá thành kế hoạch x Số lượng sản phẩm thực tế thực hiện x Tỷ lệ giá thành iv. Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm lao vụ, dịch vụ là khâu trọng tâm trong toàn bộ công tác kế toán trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm chính xác sẽ tạo điều kiện xác định đúng đắn những chi phí mà đơn vị đã chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh trên cơ sở đó tính được chính xác kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị góp phần thúc đẩy việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao chất lượng phục vụ để ngày càng thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. 1. nhiệm vụ kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch . Công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm dịch vụ là những chỉ tiêu quan trọng được các nhà doanh nghiệp quan tâm vì chúng gắn liền với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính đúng, tính đủ chi phí và giá thành sản phẩm là tiền đề để tiến hành hạch toán kinh doanh, xác định kết quả hoạt ._.động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua số liệu do bộ phận kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ cung cấp để các nhà lãnh đạo doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của từng loại hoạt động, từng loại dịch vụ cũng như toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phân tích tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn có hiệu quả, tiết kiệm hay lãng phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu kịp thời nhằm hạ thấp chi phí và giá thành sản phẩm dịch vụ. Từ đó đề ra các quyết định phù hợp cho sự phát triển sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản trị doanh nghiệp nhằm tăng cường công tác hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp. Việc phân tích, đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác mà tính chính xác của giá thành sản phẩm lại chịu ảnh hưởng của kết quả tập hợp chi phí kinh doanh. Do vậy tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ sẽ đảm bảo xác định đúng nội dung, phạm vi và các chi phí cấu thành sản phẩm dịch vụ, lượng giá trị các yếu tố chi phí đã được chuyển dịch vào sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành có ý nghĩa quan trọng và là yêu cầu cấp bách trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng những yêu cầu quản lý chi phí và giá thành sản phẩm dịch vụ, kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc thù và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Tổ chức kế toán tập hợp chi phí theo đúng đối tượng đã xác định và phương pháp tập hợp chi phí thích hợp. Thực hiện tính giá thành sản phẩm dịch vụ kịp thời, chính xác theo đúng đối tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành. Thực hiện phân tích tình hình định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành để có những kiến nghị, đề xuất cho lãnh đạo doanh nghiệp ra các quyết định quản lý thích hợp trước mắt cũng như lâu dài đối với sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức tập hợp, kết chuyển hoặc phân bổ chi phí theo đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí đã xác định theo các yếu tố chi phí và khoản mục giá thành. Tài khoản sử dụng Để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ, kế toán sử dụng các tài khoản sau: Tài khoản 621 "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp". Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Trị giá thực tế nguyên vật liệu trực tiếp xuất dùng cho quá trình thực hiện lao vụ dịch vụ trong kỳ. Bên Có: - Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp sử dụng không hết nhập lại kho. - Kết chuyển hoặc phân bổ trị giá nguyên vật liệu trực tiếp vào tài khoản liên quan để tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch Tài khoản này không có số dư cuối kỳ. Tài khoản 622 "Chi phí nhân công trực tiếp". Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ bao gồm: tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp, trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo số tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất. Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Chi phí nhân công trực tiếp thực hiện lao vụ dịch vụ trong kỳ bao gồm: tiền lương, tiền công và các khoản trích tiền lương theo quy định. Bên Có: - Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho các đối tượng chịu chi phí vào cuối kỳ. Tài khoản 622 không có số dư cuối kỳ. Tài khoản 627 "chi phí sản xuất chung" dùng để tập hợp chi phí cơ bản khác như: khấu hao TSCĐ, tiền điện, tiền nước,... và các chi phí quản lý phục vụ chung. Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Các chi phí sản xuất chung phát sinh trong quá trình thực hiện lao vụ dịch vụ. Bên Có: - Các khoản giảm chi phí sản xuất chung. - Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng chịu chi phí. Tài khoản này không có số dư cuối kỳ. Để tổng hợp các chi phí trực tiếp phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch kế toán sử dụng tài khoản sau: Đối với doanh nghiệp sử dụng kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng tài khoản 154 "chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: Các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung kết chuyển cuối kỳ. Kết chuyển chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ (theo phương pháp kiểm kê định kỳ). Bên Có: Trị giá phế liệu thu hồi, giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được, chi phí thực tế của khối lượng lao vụ dịch vụ hoàn thành cung cấp cho khách hàng. Kết chuyển chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đầu kỳ (theo phương pháp kiểm kê định kỳ). Dư Nợ: Chi phí trực tiếp khối lượng lao vụ, dịch vụ chưa hoàn thành. Đối với doanh nghiệp sử dụng kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ, kế toán sử dụng tài khoản 631 "Giá thành sản xuất". Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ - Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ Bên Có: - Giá thành sản phẩm nhập kho, lao vụ dịch vụ hoàn thành kết chuyển vào TK 632 "Giá vốn hàng bán" - Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ kết chuyển vào TK154 "chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" Tài khoản này không có số dư cuối kỳ Trình tự kế toán Khi phát sinh chi phí nguyên vật liệu dùng cho hoạt động kinh doanh du lịch kế toán ghi: Nợ TK621 "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp" Có TK152 "Nguyên liệu vật liệu" Khi tính tiền lương phải trả cho công nhân viên trực tiếp thực hiện lao vụ dịch vụ và trích BHXH trên tiền lương phải trả cho công nhân viên trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch kế toán ghi: Tính tiền lương phải trả cho công nhân viên trực tiếp sản xuất, kế toán ghi: Nợ TK622 "Chi phí nhân công trực tiếp" Có TK334 "Phải trả công nhân viên" Trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp ghi: Nợ TK622 "Chi phí nhân công trực tiếp" Có TK338 "Phải trả phải nộp khác" Cuối kỳ phải tính các chi phí về khấu hao TSCĐ dùng phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, kế toán ghi: Nợ TK627 "Chi phí sản xuất chung" Có TK214 "Hao mòn TSCĐ" Khi phát sinh chi phí về công cụ dụng cụ dùng phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh du lịch: Đối với công cụ dụng cụ loại phân bổ một lần, kế toán ghi: Nợ TK627 "Chi phí sản xuất chung" Có TK153 "Công cụ dụng cụ" Đối với công cụ dụng cụ phát sinh trong kỳ có giá trị tương đối lớn, thời gian sử dụng tương đối dài, phải phân bổ nhiều lần, kế toán ghi: Nợ TK627 "Chi phí sản xuất chung" Có TK142 "Chi phí trả trước" Khi xuất dùng công cụ dụng cụ, kế toán ghi: Nợ TK142 "Chi phí trả trước" Có TK153 "Công cụ dụng cụ" Một số chi phí khác phát sinh có liên quan đến nhiều kỳ cũng cần phải tính toán phân bổ cho hợp lý trong từng thời kỳ như chi phí ngừng việc có tính chất thời vụ, tiền thuê nhà, thuê kho, chi phí tuyên truyền, quảng cáo... Khi phát sinh chi phí dịch vụ mua ngoài như: chi phí điện nước, chi phí vệ sinh, chi phí bằng tiền khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, kế toán ghi: Nợ TK627 "Chi phí sản xuất chung" Có TK lq (111, 112, 331...) Sau khi tập hợp và phân bổ chi phí phát sinh trong kỳ, cuối kỳ kế toán kết chuyển các chi phí đã tập hợp được vào TK154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang". Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán ghi: Nợ TK154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" Có TK621 "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp" Đối với chi phí nhân công trực tiếp, kế toán ghi: Nợ TK154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" Có TK622 "Chi phí nhân công trực tiếp" Đối với chi phí sản xuất chung, kế toán ghi Nợ TK154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" Có TK627 "Chi phí sản xuất chung" Sau khi tập hợp chi phí xong, kế toán tiến hành tính giá thành theo đối tượng phải tính giá. Do đặc điểm của kinh doanh buồng ngủ là không có sản phẩm dở dang tức TK154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" không có số dư cuối kỳ. Khi đó ta có: Tổng chi phí phát sinh trong kỳ = Tổng giá thành Trong chế độ kế toán hiện nay còn có nhiều vấn đề chưa quy định rõ cho từng loại ngành nghề kinh doanh đặc biệt là trong ngành du lịch thương mại. Do vậy, tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng đơn vị, kế toán tự mở sổ chi tiết để phản ánh cụ thể, chính xác các khoản chi phí từ đó làm cơ sở tính giá thành cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi phát sinh chi phí kế toán căn cứ vào chứng từ gốc hàng ngày ghi vào sổ chi tiết có liên quan của từng loại hình hoạt động kinh doanh. Nếu một loại chi phí mà có liên quan đến nhiều loại hoạt động thì phải tiến hành phân bổ cho thích hợp. Cuối tháng dựa vào các sổ chi tiết chi phí kinh doanh theo từng đối tượng và các sổ liên quan tới việc phân bổ chi phí, kế toán chi phí vằ tính giá thành sẽ tập hợp chi phí theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành trong doanh nghiệp dịch vụ du lịch (theo phương pháp kê khai thường xuyên) TK Lq TK 621 TK 154 TK 632 TK 911 TK 622 TK 642 TK 627 K/c giá thành sản xuất dịch vụ Đối với doanh nghiệp áp dụng theo phương pháp kiểm kê định kỳ, cách tập hợp chi tiết vào TK621, TK622, TK627 tiến hành theo định kỳ, trình tự và cách làm giống như kê khai thường xuyên. Cuối kỳ không kết chuyển chi phí trực tiếp sang TK154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" mà kết chuyển sang TK631 vào đầu kỳ sau. Cách tập hợp chi phí quản lý doanh nghiệp cũng giống như phương pháp kê khai thường xuyên chỉ khác là theo định kỳ. Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành trong doanh nghiệp du lịch dịch vụ (theo phương pháp kiểm kê định kỳ). TK Lq TK 621 TK 631 TK 632 TK 911 TK 622 TK 642 TK 627 TK 154 K/c cp sxkd dở dang đầu kỳ K/c cpsx dở dang cuối kỳ phần ii tình hình thực tế về kế toán chi phí và tính giá thành kinh doanh buồng ngủ ở công ty cổ phần du lịch Nam định i. đặc điểm chung của công ty cổ phần du lịch nam định 1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Cổ phần Du lịch Nam Định tổ chức kinh doanh những nhóm nghiệp vụ sau: *. Kinh doanh các dịch vụ lưu trú (buồng ngủ). Để thực hiện dịch vụ này có các tổ như tổ trực buồng, lễ tân ... *. Kinh doanh các dịch vụ ăn uống. Để thực hiện dịch vụ này có các tổ như tổ bàn, tổ bếp ... *. Kinh doanh các dịch vụ vận chuyển. Để thực hiện dịch vụ này có các bộ phận chuyên chở ... *. Kinh doanh các dịch vụ khác như dịch vụ cho thuê kiốt, dịch vụ điện thoại, dịch vụ tenis, giặt là cho khách, masage ... Trong bốn nhóm nghiệp vụ trên, nghiệp vụ kinh doanh buồng ngủ là hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty. Doanh thu chủ yếu của nghiệp vụ kinh doanh buồng ngủ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của khách sạn và lợi nhuận thu được cao hơn hẳn các nghiệp vụ khác. Trong cơ chế thị trường, khách hàng là thượng đế, vì vậy để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, Công ty không ngừng nâng cấp phòng ở, cải tạo nội thất trong các phòng và khu vệ sinh khép kín, trang bị thêm các thiết bị ngoại nhập và lắp thêm các phương tiện hiện đại như: tivi màu, điều hoà nhiệt độ, điện thoại, sopanh, tủ lạnh, đệm ... Công ty có: Phòng đặc biệt (giành cho khách quốc tế) gồm 52 phòng. Phòng loại I gồm 185 phòng. Phòng loại II gồm có 135 phòng. Công ty luôn đặt mục tiêu hàng đầu là lấy thu bù chi và có lãi nên giá cả cho thuê rất mềm dẻo, phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Giá phòng đặc biệt là 300.000 VNĐ/1 phòng/ 1 ngày đêm. Bình quân các phòng còn lại giá từ 100.000đ/ 1 phòng/ 1 ngày đêm Trong năm 2004 nghiệp vụ kinh doanh buồng ngủ ở Công ty đã hoạt động với công suất là 75,25% và số khách lưu trú tại khách sạn trung bình là hai ngày. Tính chất hoạt động của Công ty cũng giống như các khách sạn khác là thời gian kéo dài suốt cả ngày lẫn đêm, kể cả ngày lễ và ngày chủ nhật. Do đó, Công ty đã tính toán để bố trí các ca làm việc phù hợp, đảm bảo việc phục vụ khách một cách thuận lợi nhất tại mọi thời điểm. Hiện nay, tổng số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 451 người trong đó 40 người là lao động gián tiếp còn 411 người là lao động trực tiếp. Hầu hết nhân viên phục vụ đã được đào tạo qua trường lớp nghiệp vụ nên có trình độ chuyên môn cao, năng động trong công việc, phục vụ khách tận tình chu đáo cùng với đội ngũ lãnh đạo Công ty luôn đôn đốc, trực tiếp xuống các phòng ban để nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty để từ đó có biện pháp thích hợp, không ngừng đưa Công ty ngày càng đi lên phù hợp với nhu cầu của thị trường. 2.Đặc điểm quy trình kinh doanh buồng ngủ của Công ty. Quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh buồng ngủ của Công ty theo các giai đoạn sau: Khách đến (đăng ký) Quầy lễ tân (làm thủ tục) Đưa khách lên phòng Thanh toán và tiễn khách Cụ thể nội dung các giai đoạn trên như sau: Khách đến: đây là giai đoạn gặp gỡ, đón tiếp và sắp xếp chỗ ở cho khách. Giai đoạn này đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình phục vụ khách vì đây là bước đầu tiên gây thiện cảm với khách. Quầy lễ tân: Khách đến sẽ tiến hành đăng ký tại quầy lễ tân, quầy lễ tân đón khách với các nhân viên tổ lễ tân trẻ, đẹp, ân cần lịch sự và sắp xếp chỗ ở theo yêu cầu của khách. ở Công ty đối với khách lẻ (không đi theo đoàn) việc thanh toán tiền phòng được tiến hành luôn ở giai đoạn này. Số tiền khách phải thanh toán căn cứ vào loại phòng khách thuê và số ngày khách lưu lại. Còn đối với khách đi theo đoàn, thì công việc đầu tiên là đại diện của đoàn khách với khách sạn tiến hành làm hợp đồng trong đó ghi rõ số lượng phòng, loại phòng khách sử dụng, thời gian khách lưu lại, phương thức thanh toán và các yếu tố cần thiết khác. Sau đó quầy lễ tân lập một phiếu giao cho tổ buồng. Đưa khách lên phòng: giai đoạn này do tổ buồng thực hiện từ việc đưa khách lên phòng đến việc phục vụ các yêu cầu của khách trong thời gian khách lưu lại. Đây là giai đoạn quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty cho nên ngoài việc đáp ứng yêu cầu, Công ty còn tìm kiếm nhu cầu, thị hiếu, sở thích của từng đối tượng khách để ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ, xứng đáng với niềm tin yêu của khách. Thanh toán và tiễn khách: Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình tổ chức phục vụ khách. Công việc chủ yếu trong giai đoạn này là tiễn khách và thanh toán với khách theo phương thức thanh toán đã ghi trong hợp đồng. Sau khi khách trả phòng, nhân viên phục vụ kiểm tra phòng và viết phiếu báo trả phòng đưa cho khách, sau đó khách nộp qua phòng lễ tân. Công đoạn tiễn khách do bộ phận lễ tân thực hiện. 3.Đặc điểm tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý của Công ty. Đặc điểm tổ chức kinh doanh của Công ty. Hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phân Du lịch Nam Định là hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty bao gồm : 1. Kinh doanh lưu trú (buồng ngủ). 2. Kinh doanh ăn uống. 3. Kinh doanh hướng dẫn du lịch. 4. Kinh doanh bán hàng. 5. Kinh doanh vận chuyển. 6. Kinh doanh cho thuê phòng làm việc, nhà ở , kiốt. 7. Kinh doanh dịch vụ tennis, bóng bàn, bể bơi, masage ... Đặc điểm tổ chức quản lý của Công ty. Công ty Cổ phần Du lịch Nam Định là đơn vị được tổ chức thành phòng ban, thực hiện chức năng quản lý nhất định. Ban giám đốc: chịu trách nhiệm chỉ đạo chung toàn bộ hoạt động của Công ty và quyết định mọi hoạt động của Công ty theo đúng kế hoạch được Sở Du lịch phê duyệt. Phòng tổ chức hành chính: chịu trách nhiệm tổ chức quản lý cán bộ, giải quyết chế độ chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội và các chế độ khác cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Phòng kế hoạch: có chức năng lập kế hoạch kinh doanh cho giám đốc Công ty và giao nhiệm vụ cho các bộ phận thực hiện theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch đề ra. Phòng kế toán: chịu trách nhiệm quản lý tiền vốn, tài sản của Công ty, tổ chức hạch toán kế toán theo đúng chế độ thống kê của Nhà nước, giúp cho giám đốc thực hiện công tác giám đốc tài chính đảm bảo cho Công ty hoạt động ngày càng có hiệu quả. Bộ phận buồng: có trách nhiệm chăm lo nghỉ ngơi cho khách trong thời gian khách nghỉ tại Công ty. Bộ phận lễ tân: chịu trách nhiệm quan hệ trực tiếp với khách hàng để đáp ứng nhu cầu của khách và là cầu nối giữa khách với các bộ phận trực tiếp khác như nhà buồng, chế biến .... Bộ phận tu sửa: chịu trách nhiệm sửa chữa những tài sản, thiết bị của Công ty khi bị hỏng. Bộ phận giặt là: chịu trách nhiệm giặt là cho khách khi có yêu cầu. Bộ phận bảo vệ: chịu trách nhiệm về sự an toàn cho khách và tài sản của Công ty. Bộ phận nhà ăn: Bộ phận này phục vụ nhu cầu ăn uống, các cuộc liên hoan, tiệc cưới, hội nghị ... theo yêu cầu của khách. Trung tâm công nghệ thông tin: có chức năng tham mưu cho giám đốc, nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin, quản lý sử dụng các thiết bị điện tử, hệ thống điện, tổng đài, mạng vi tính để đảm bảo thông tin thông suốt trong quá trình hoạt động của Công ty. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty ban giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng kế hoạch Phòng kế toán Bộ phận buồng Bộ phận lễ tân Bộ phận tu sửa Bộ phận giặt là Bộ phận nhà ăn Bộ phận bảo vệ Trung tâm công nghệ TT 4.Đặc điểm tổ chức công tác kế toán ở công ty. Công ty Cổ phần Du lịch Nam Định là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tự chủ trong kinh doanh tài chính, được sử dụng con dấu riêng và hạch toán kế toán thống nhất theo sự hướng dẫn của Sở Du lịch Việt Nam. Trong quá trình kinh doanh, Công ty luôn tuân thủ nguyên tắc lấy thu bù chi, trả lương cho người lao động tại Công ty theo kết quả kinh doanh (700đ tiền lương/1000đ tiền lãi) và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. a.Hình thức tổ chức bộ máy kế toán của Công ty. Công ty là một doanh nghiệp du lịch kinh doanh dịch vụ cho nên các mặt hàng kinh doanh của Công ty rất đa dạng. Công ty luôn coi trọng công tác tổ chức sắp xếp đội ngũ kế toán phù hợp với chức năng nhiệm vụ nhằm phát huy hết vai trò của kế toán nói chung và khả năng của từng nhân viên kế toán nói riêng. Để quản lý tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả cao nhất, Công ty đã áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung. Theo hình thức này, toàn bộ công tác kế toán tổng hợp được thực hiện tại phòng kế toán từ ghi sổ kế toán, lập báo cáo tổng hợp, báo cáo chi tiết đến việc phân tích kiểm tra kế toán. Còn các bộ phận kinh doanh ăn uống có các nhân viên kế toán chịu trách nhiệm tập hợp chứng từ ban đầu sau đó tổng hợp số liệu và gửi về phòng kế toán của Công ty. Về mặt nhân sự, nhân viên kế toán ở các bộ phận này chịu sự quản lý của phòng kế toán. Hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung ở Công ty đảm bảo nguyên tắc tập hợp số liệu chính xác tạo điều kiện cho phòng kế toán tập hợp được các số liệu kịp thời phục vụ cho công tác quản lý cũng như hoạt động kinh doanh của Công ty. b.Hình thức kế toán áp dụng. Để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý kinh tế tài chính và phù hợp với điều kiện kinh doanh của Công ty nhất là trong điều kiện hiện nay Công ty trang bị máy vi tính phục vụ cho công tác kế toán đồng thời để phù hợp với quy mô, đặc điểm hoạt động kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, Công ty áp dụng hình thức Nhật ký chung và phương pháp kế toán hàng tồn kho mà Công ty đang áp dụng là phương pháp kê khai thường xuyên với hệ thống sổ chi tiết, sổ tổng hợp, báo cáo kế toán đầy đủ theo quy định của Bộ Tài chính và pháp lệnh thống kê của Nhà nước. c.Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của Công ty. Bộ máy kế toán của Công ty có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện và kiểm tra toàn bộ công tác kế toán trong phạm vi Công ty, giúp lãnh đạo Công ty thực hiện hạch toán kinh tế, phân tích kinh tế và quản lý kinh tế tài chính. Để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, đảm bảo sự lãnh đạo và chỉ đạo tập trung, thống nhất mọi hoạt động thì bộ máy kế toán của Công ty đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của kế toán trưởng. Nhiệm vụ của từng bộ phận ở phòng kế toán như sau: Kế toán trưởng: chịu trách nhiệm chỉ đạo chung mọi công việc của phòng kế toán đồng thời chịu trách nhiệm trước giám đốc về toàn bộ công tác kế toán của Công ty. Phó phòng kế toán (kế toán tổng hợp): chịu trách nhiệm tổng hợp tất cả số liệu do kế toán viên cung cấp, định kỳ lập báo cáo tài chính theo yêu cầu của các cơ quan quản lý. Ngoài ra còn theo dõi toàn bộ giá thành và vốn chủ sở hữu của Công ty. Kế toán tiền mặt: chịu trách nhiệm thu chi tiền mặt và thực hiện phần hành kế toán với ngân hàng như vay vốn, trả nợ. Kế toán hàng tồn kho và công nợ: với nhiệm vụ chính là theo dõi tình hình tăng, giảm nhập xuất kho hàng hoá, hàng tồn kho và tình hình công nợ của Công ty. Kế toán TSCĐ, CCLĐ nhỏ, vật rẻ tiền: có nhiệm vụ chủ yếu là theo dõi tình hình tăng giảm, nhập xuất và quá trình sử dụng các loại tài sản, công cụ lao động nhỏ, vật rẻ tiền của Công ty. Kế toán theo dõi chi phí nhà hàng và kinh doanh buồng ngủ: có nhiệm vụ tập hợp tất cả các khoản chi phí phát sinh ở nhà hàng và ở phòng ngủ. Kế toán theo dõi các dịch vụ khác: có nhiệm vụ tập hợp tất cả các chi phí phát sinh ở các dịch vụ khác như dịch vụ điện thoại, cho thuê kiôt, dịch vụ tennis, giặt là cho khách ... Kế toán theo dõi doanh thu: có nhiệm vụ theo dõi toàn bộ doanh thu của Công ty. Thủ quỹ: quản lý các khoản vốn bằng tiền của Công ty, phản ánh số hiện có và tình hình tăng giảm quỹ tiền mặt của Công ty và tiến hành phát lương cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. Tổ chức bộ máy kế toán ở Công ty Cổ phần Du lịch Nam Định được khái quát theo sơ đồ sau: Kế toán tổng hợp Kế toán trưởng Kế toán tiền mặt Kế toán theo dõi doanh thu Kế toán theo dõi CP các dịch vụ khác KT theo dõi cp nhà hàng và KD phòng ngủ Thủ quỹ Kế toán TSCĐ và CCLĐ nhỏ Kế toán hàng tồn kho và công nợ Hiện nay, bộ máy kế toán của Công ty được áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung. Bộ máy kế toán của Công ty đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của kế toán trưởng với đội ngũ nhân viên tương đối đồng đều, có năng lực chuyên môn, hầu hết đã qua các lớp đào tạo cơ bản về nghiệp vụ kế toán, hăng say trong công việc, đoàn kết hợp đồng tốt giữa các bộ phận kế toán với nhau, nhờ vậy đã giúp cho Giám đốc Công ty nắm sát được tình hình hoạt động kinh doanh để có quyết định quản lý kịp thời cho Công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra. ii.Thực tế kế toán chi phí và tính giá thành buồng ngủ ở công ty cổ phần du lịch Nam định Đối tượng kế toán chi phí kinh doanh buồng ngủ Trong quá trình kinh doanh buồng ngủ, Công ty cổ phần Du lịch Nam Định đã sử dụng cả tư liệu lao động (yếu tố vật chất) và lao động sống (yếu tố con người). Toàn bộ các chi phí đó bao gồm các khoản mục chủ yếu sau: Tiền lương cán bộ công nhân viên. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chi phí công đoàn. Chi phí khấu hao TSCĐ. Chi phí nguyên vật liệu. Chi phí điện nước. Chi phí công cụ lao động nhỏ. Chi phí học tập đào tạo. Chi phí quản lý hành chính. Chi phí khác bằng tiền như: chi bảo hộ lao động, chi hoa hồng, môi giới, chi quảng cáo ... Phương pháp kế toán chi phí kinh doanh buồng ngủ ở Công ty cổ phần du lịch nam định. Kế toán tập hợp chi phí kinh doanh của Công ty cổ phần Du lịch Nam Định theo từng hình thức "Nhật ký chung" có trình tự luân chuyển sau: Bảng tổng hợp số liệu chi tiết CP kinh doanh Sổ kế toán chi tiết chi phí kinh doanh Sổ cái tài khoản Chứng từ gốc Sổ nhật ký chung Bảng cân đối SPS Báo cáo tài chính Chú thích: Ghi hàng ngày Ghi cuối quý Đối chiếu, kiểm tra. Để tập hợp chi phí kinh doanh buồng ngủ, kế toán công ty sử dụng các tài khoản sau: Tài khoản 154 chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" Tài khoản cấp 2: TK 1544 "Kinh doanh buồng ngủ" Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Trị giá vốn thực tế nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tiền lương công nhân, BHXH, BHYT, KPCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ trong kỳ. - Chi phí sản xuất chung phân bổ cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ trong kỳ. Bên Có: - Kết chuyển chi phí sản xuất sang tài khoản 632 "Giá vốn hàng bán" và tài khoản cấp 2: Tài khoản 6324 "Giá vốn kinh doanh buồng ngủ" để tính giá thành thực tế của lượt buồng cho thuê trong kỳ. - Trị giá vật liệu thu hồi sau quá trình kinh doanh buồng (nếu có) Dư Nợ: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Tài khoản 627 "Chi phí sản xuất chung" Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Trị giá thực tế của chi phí sản xuất chung bao gồm: tiền điện nước, khấu hao TSCĐ, CCDC, chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí học tập đào tạo. Bên Có: - Các khoản giảm chi phí sản xuất chung. - Phân bổ và kết chuyển chi phí sản xuất chung vào giá thành dịch vụ trong kỳ. Tài khoản này không có số dư cuối kỳ. Ngoài ra, Công ty còn sử dụng các tài khoản khác trong hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp do Bộ Tài chính ban hành để phục vụ cho công tác hạch toán như các tài khoản: TK 111, TK112, TK152, TK153, TK334, TK338, TK214, TK142, TK632 3. Quy trình kê toán chi phí kinh doanh buồng ngủ Trình tự kế toán tập hợp chi phí kinh doanh của nghiệp vụ kinh doanh buồng ngủ ở Công ty cổ phần Du lịch Nam Định được tập hợp trên sổ cái tài khoản 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang". Vào cuối quý dựa trên cơ sở số liệu ở sổ nhật ký chung, sổ chi tiết chi phí kinh doanh, tổng hợp chi phí kinh doanh. Cụ thể kế toán Công ty tập hợp khoản mục chi phí phát sinh trong quý I năm 2005 như sau: a. chi phí về tiền lương công nhân viên Chi phí tiền lương phải trả cho nhân viên trực tiếp tham gia các hoạt động kinh doanh được xác định căn cứ vào mức lương cơ bản do Nhà nước quy định và mức lương khoán của Công ty. ở Công ty, tiền lương trả cho nhân viên được chia làm 2 kỳ: Kỳ 1: Vào ngày 10 hàng tháng trả lương cơ bản Kỳ 2: Vào ngày 25 hàng tháng trả lương khoán. Khi phát sinh nghiệp vụ tính tiền lương phải trả cho công nhân viên bộ phận kinh doanh buồng ngủ, kế toán căn cứ vào lương cơ bản và lương khoán của công nhân viên để xác định tiền lương phải trả theo công thức: Tiền lương phải trả cho một công nhân viên = Lương cơ bản + Lương khoán + Phụ cấp không trong định mức + Tiền làm thêm giờ _ BHXH BHYT KPCĐ Căn cứ vào bảng tính tiền lương phải trả cho công nhân viên trong kỳ, kế toán ghi vào sổ nhật ký chung, sổ cái TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" và TK 334 "Phải trả công nhân viên" theo định khoản: Nợ TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" (Chi tiết 1544 kinh doanh buồng) Có TK 334 "Phải trả công nhân viên" Đồng thời ghi vào sổ chi tiết chi phí kinh doanh theo từng khoản mục. Mẫu sổ như sau: Sổ chi tiết chi phí kinh doanh Ghi Nợ TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" (Chi tiết 1544 kinh doanh buồng ngủ) Ghi Có các tài khoản: .... Tháng năm CT Diễn giải Chi tiết các khoản mục chi phí S N Lương CNV NVL CCDC BHXH... Cộng Cộng Căn cứ vào sổ chi tiết chi phí kinh doanh theo khoản mục, cuối quý ghi vào bảng tổng hợp chi phí kinh doanh theo khoản mục : Khoản mục chi phí Hoạt động kinh doanh Buồng ngủ Ăn uống ...... Cộng 1. Tiền lương CNV 2.NVL 3. BHXH, BHYT, KPCĐ ........ Cộng Trong quý I năm 2005 chi phí tiền lương nhân viên trực tiếp phải trả cho bộ phận kinh doanh buồng ngủ tập hợp được là: 1.384.650.000. b. Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ. Trong quý I năm 2005, chi phí về BHXH, BHYT, KPCĐ được trích 19% tổng quỹ lương cơ bản của nhân viên trực tiếp phục vụ hoạt động kinh doanh buồng ngủ là: BHXH = 1.384.650.000*15% =207.697.500 BHYT =1.384.650.000*2% =27.693.000 KPCD =1.384.650.000 *2% =27.693.000 Tổng cộng: 263.083.500 Căn cứ vào bảng trích BHXH, BHYT, KPCĐ kế toán ghi vào sổ nhật ký chung, sổ cái TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang", TK 338 "Phải trả phải nộp khác" theo định khoản: Nợ TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" Có TK 338 "Phải trả phải nộp khác" Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ được theo dõi trên sổ chi tiết chi phí kinh doanh, cuối quý tổng hợp ghi vào bảng tổng hợp chi phí kinh doanh. Thực tế ở Công ty khi phát sinh chi phí về tiền lương công nhân viên, BHXH, BHYT, KPCĐ kế toán tập hợp vào TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" chứ không tập hợp vào TK 622 "Chi phí nhân công trực tiếp" vì Công ty có nhiều loại hình kinh doanh nên khi phát sinh các khoản chi phí này, kế toán chỉ tập hợp vào TK 622 cho tất cả các loại hình kinh doanh chứ không tập hợp riêng cho từng loại hình kinh doanh được. c. Chi phí nguyên vật liệu. Chi phí nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ ở Công ty bao gồm những khoản chi phí như chè, xà phòng, ozave, xịt muỗi, dầu gội đầu, giấy vệ sinh ... Hàng ngày khi phát sinh chi phí nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ, kế toán căn cứ vào phiếu xuất kho ghi vào sổ nhật ký chung, sổ cái TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" (chi tiết TK 1544 kinh doanh buồng), sổ cái TK 152 "Nguyên liệu, vật liệu" theo định khoản : Nợ TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" (Chi tiết TK 1544 kinh doanh buồng ngủ) Có TK 152 "Nguyên vật liệu" Thực tế ở Công ty khi phát sinh chi phí nguyên vật liệu, kế toán tập hợp vào TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" chứ không tập hợp vào TK 621 "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp" vì ở Công ty có nhiều loại hình kinh doanh nên khi phát sinh chi phí nguyên liệu vật liệu, kế toán chỉ tập hợp vào TK 621 cho tất cả các loại hình kinh doanh chứ không tập hợp riêng cho từng loại hình kinh doanh được. Căn cứ vào chứng từ gốc, kế toán ghi vào sổ chi tiết chi phí kinh doanh, cuối quý tổng hợp số liệu ghi vào bảng tổng hợp chi phí kinh doanh theo từng khoản mục. Trong quý I năm 2005, chi phí nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ là : 151.873.188 d. Chi phí công cụ lao động nhỏ. Công cụ lao động nhỏ phục vụ cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ Công ty bao gồm: khăn trải bàn, phích nước, ấm trà, lọ hoa, chăn, màn, khăn tắm, rèm ... Hầu hết công cụ lao động nhỏ ở Công ty đặc biệt là hoạt động kinh doanh buồng ngủ thì chi phí về công cụ lao động nhỏ thường xuyên dùng hàng loạt nên có giá trị lớn. Khi xuất dùng công cụ lao động nhỏ dùng cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ, kế toán căn cứ vào chứng từ gốc để ghi vào sổ nhật ký chung, sổ cái TK 153 "Công cụ lao động nhỏ", TK 142 "Chi phí trả trước ", TK 627 "Chi phí sản xuất chung" theo định khoản: Đối với công cụ lao động nhỏ phân bổ 1 lần, kế toán ghi: Nợ TK ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0734.doc
Tài liệu liên quan