Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty xây dựng số 2 Thăng Long

Lời nói đầu Theo Mác, lao động của con người là một trong ba yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của quá trình sản xuất. Lao động giữ vai trò chủ chốt trong việc tái tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, có chất lượng và đạt hiệu quả cao là nhân tố đảm bảo cho sự phồn vinh của mọi quốc gia. Người lao động chỉ phát huy hết khả năng của mình khi sức lao động mà họ bỏ ra được đền bù xứng đáng. Đó là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động đ

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty xây dựng số 2 Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể người lao động có thể tái sản xuất sức lao động đồng thời có thể tích luỹ được được gọi là tiền lương. Tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội, là nguồn khởi đầu của quá trình tái sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hoá. Vì vậy, việc hạch toán phân bổ chính xác tiền lương vào giá thành sản phẩm, tính đủ và thanh toán kịp thời tiền lương cho người lao động sẽ góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động, tăng tích luỹ và đồng thời sẽ cải thiện đời sống người lao động. Gắn với tiền lương là các khoản trích theo lương bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. Đây là các quỹ xã hội thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đối với người lao động. Chính sách tiền lương được vận dụng linh hoạt ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm và tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh và phụ thuộc vào tính chất của công việc. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế trả lương phù hợp, hạch toán đủ và thanh toán kịp thời có một ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế cũng như về mặt chính trị. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú làm việc tại Công ty xây dựng số 2 Thăng Long cùng với sự hướng dẫn chu đáo của thầy giáo Nguyễn Mạnh Thiều, em chọn đề tài: " Tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty xây dựng số 2 Thăng Long”. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I. Lý luận chung về tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại doanh nghiệp. Chương II. Tình hình thực tế về tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty xây dựng số 2 Thăng Long. Chương III. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty xây dựng số 2 Thăng Long. Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên chuyên đề này không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Vì thế em rất mong nhận được ý kiến đóng góp và xem xét của các thầy cô cùng các chú, các cô trong Công ty xây dựng số 2 Thăng Long và bạn đọc để đề tài nghiên cứu của em ngày càng được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn ! chương i. lý luận chung về tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty xây dựng số 2 Thăng Long. …………………………………………. 1.1. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. 1.1.1. Vị trí, vai trò, ý nghĩa tiền lương đối với sản xuất kinh doanh. Tiền lương là một phạm trù kinh tế phức tạp, mang tính lịch sử có ý nghĩa chính trị và có ý nghĩa xã hội to lớn. Nhưng ngược lại, bản thân tiền lương cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của xã hội, tư tưởng chính trị. Cụ thể là trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của sức lao động, là giá cả của sức lao động biểu hiện ra bên ngoài cảu sức lao động. Còn trong xã hội chủ nghĩa, tiền l ương không phải là giá cả của sức lao động mà là giá trị một phần vật chất trong tổng sản phẩm xã hội dùng sức lao động cho người lao động theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Tiền lương mang một ý nghĩa tích cực tạo ra sự công bằng trong phân phối thu nhập quốc dân. ở Việt Nam, sau công cuộc đổi mới đất nước. Đảng và Nhà nước ngày càng khẳng định vị trí của mình là người địa diện cho toàn dân lo cho dân và sẵn sàng vì dân... Thông qua Đại họi Đảng VII đã chứng minh nước ta đã thực sự thoát khỏi sự bao cấp sẵn sàng đón chờ sự thử thách của quy luật cạnh tranh của thị trường. Điều này đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến bản chất của tiền lương , tiền lương cũng đã thay đổi phù hợp với qui chế mới, tuân theo qui luật cung cầu của thị trường sức lao động, chịu sự điều tiết của Nhà nước, nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và sức lao động. Và như vậy thì bản chất tiền lương là giá cả của sức lao động vì sức lao động thực sự là một loại hàng hoá đặc biệt. Chính vì sức lao động là hàng hoá mà giá cả của nó chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế như: qui luật giá trị, qui luật cung cầu... Tiền lương chính là một phần giá trị mới sáng tạo ra của doanh nghiệp dùng để trả lương cho người lao động. Tuy nhiên trên thực tế cái mà người lao động cần không nhất thiết phải là một khối lượng tiền lương lớn mà cái họ cần là sau khi họ tham gia vào vdà hoàn thành một quá trình lao động tạo ra một khối lượng sản phẩm có giá trị thì họ phải được bù đắp một cách xứng đáng một phần lao động sống mà họ đã bỏ vào quá trình lao động. Và sự đền bù đó thông qua một hình thức tiền lương. Để cụ thể hơn ta đi vào nghiên cứu hai khái niệm về tiền lương đó là tiền lương danh nghĩa và tièen l ương thực tế. Tiền lương danh nghĩa: Là khối lượng tiền trả cho nhân viên dưới hình thức tiền tệ, đó là số tiền thực tế người lao động nhận được. Tiền lương thực tế: Được sử dụng để xác định số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà người lao động nhận được thông qua tiền lương danh nghĩa. Tiền lương thực tế phụ thuộc vào hai yếu tố sau: - Tổng số tiền nhận được (tiền lương danh nghĩa). - Chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Qua khái niệm của chúng có thể thấy rằng giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cụ thể: Tiền lương thực tế = Trong doanh nghiệp, để phục vụ cho công tác hạch toán, tiền lương có thể được chia thành hai loại: Tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động gián tiếp, trong đó chi tiết theo tiền lương chính và tiền lương phụ. Tiền lương chính: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian người lao động thực hiện nhiệm vụ chính củâ họ, gồm tiền lương trả theo cấp bậc và các khoản phụ cấp kèm theo. Tiền lương phụ: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian họ thực hiện nhiệm vụ khác, ngoài nhiệm vụ chính và thời gian người lao động nghỉ phép, nghỉ tết, nghỉ vì ngừng sản xuất… được hưởng theo chế độ. Tiền lương chính của công nhân trực tiếp sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất ra sản phẩm, tiền lương phụ của công nhân trực tiếp sản xuất không gắn với từng loại sản phẩm. Vì vậy, việc phân chia tiền lương chính và tiền lương phụ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phân tích kinh tế. 1.1.2. Các nguyên tắc trả lương. Để đảm bảo cung cấp thông tin cho nhà quản lý đòi hỏi hạch toán lao động và tiền lương phải đảm bảo những nguyên tắc sau: Thứ nhất: Nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng lao động. Nguyên tắc này nhằm khắc phục chủ nghĩa bình quân trong phân phối, mặt khác tạo cho người lao động ý thức với kết quả lao động của mình. Nguyên tắc này còn đảm bảo trả lương công bằng cho người lao động giúp họ phấn đấu tích cực và yên tâm công tác. Còn số lượng, chất lượng lao động được thể hiện một cách tổng hợp ở kết quả sản xuất thông qua số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc thông qua khối lượng công việc được thực hiện. Thứ hai: Nguyên tắc đảm bảo tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao mức sống. Quá trình sản xuất chính là sự kết hợp đồng thời các yếu tố như quá trình tiêu hao các yếu tố lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trì óc của con người sử dụng lao động các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Để đảm bẩo tiến hành liên tục quá trình sản xuất, trước hết cần phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động. Về bản chất, tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm và giá cả hàng hoá. Mặt khác tiền lương còn là đảm bảo kinh tế để khuyến khích hàng hoá lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ. Nói cách khác, tiền lương chính là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động. Thứ ba: Bảo đảm mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Việc thực hiện nguyên tắc này giúp cho Nhà nước tạo sự cân giữa các ngành, khuyến khích sự phát triển nhanh chóng ngành mũi nhọn đồng thời đảm bảo lợi ích cho người lao động. Tiền lương có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào. Tuy nhiên để thấy hết được tác dụng của nó thì ta phải nhận thức đúng đầy đủ về tiền lương, lựa chọn phương thức trả lương sao cho thích hợp nhất. Có được sự hài lòng đó, người lao động mới phát huy hết khả năng sáng tạo của mình trong công việc. 1.1.3. Nhiệm vụ kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Tiền lương và các khoản trích theo lương không chỉ là vấn đề quan tâm riêng của người lao động mà còn là vấn đề mà nhiều phía cùng quan tâm và đặc biệt chú ý. Hạch toán lao động, kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương không chỉ liên quan đến quyền lợi của người lao động, mà còn đến chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, liên quan đến tình hình chấp hành các chính sách về lao động tiền lương của Nhà nước. Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở doanh nghiệp phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau. (1) Tổ chức hạch toán đúng thời gian, số lượng, chất lượng và kết quả lao động của người lao động, tính đúng và thanh toán kịp thời tiền lương và các khoản tiền quan khác cho người lao động. (2) Tính toán, phân bổ hợp lý chính xác chi phí tiền lương, tiền công và các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ cho các đối tượng sử dụng liên quan. (3) Định kỳ tiến hành phân tích tình hình sử dụng lao động, tình hình quản lý vả chi tiêu quỹ lương. Cung cấp các thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận có liên quan. 1.2. Hình thức tiền lương, quỹ tiền lương và các quỹ trích theo lương. 1.2.1. Các hình thức tiền lương. Việc tính và trả lương có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý. Trên thực tế, thường áp dụng các hình thức tiền lương sau: - Hình thức tiền lương thời gian: Là hình thức tiền lương tính theo thời gian làm việc, cấp bậc kỹ thuật và tháng lương của người lao động. Theo hình thức này, tiền lương thời gian phải trả được tính bằng: = x Mức lương thời gian Tiền lương thời gian với đơn giá tiền lương cố định được gọi là tiền lương thời gian giản đơn. Tiền lương thời gian giản đơn có thể kết hợp chế độ tiền lương thưởng để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc, tạo nên tiền lương thời gian có thưởng. Để áp dụng trả lương theo thời gian, doanh nghiệp phải theo dõi ghi chép thời gian làm việc của người lao động và mức lương thời gian của họ Các doanh nghiệp chỉ áp dụng tiền lương thời gian cho những công việc chưa xây dựng được định mức lao động, chưa có đơn giá tiền lương sản phẩm. Thường áp dụng cho lao động làm công tác văn phòng như hành chính, quản trị, thống kê, tổ chức lao động, kế toán, tài vụ… Hình thức tiền lương theo thời gian có nhiều hạn chế là chưa gắn chặt tiền lương với kết quả và chất lượng lao động. - Hình thức tiền lương theo sản phẩm: Là hình thức tiền lương tính theo số lượng, chất lượng sản phẩm, công việc đã hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng và đơn giá tiền lương tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc đó. Tiền lương sản phẩm phải trả tính bằng: =x Việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài sản về hạch toán kết quả lao động. Tiền lương sản phẩm có thể áp dụng đối với lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, gọi là tiền lương sản phẩm trực tiếp, hoặc có thể áp dụng đối với người gián tiếp phục vụ sản xuất sản phẩm gọi là tiền lương sản phẩm gián tiếp. Để khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm doanh nghiệp, có thể áp dụng các đơn giá lương sản phẩm khác nhau. - Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá tiền lương cố định, gọi là tiền lương sản phẩm giản đơn. - Tiền lương sản phẩm giản đơn kết hợp với tiền thưởng về năng suất, chất lượng sản phẩm, gọi là tiền lương sản phẩm có thưởng. - Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá lương sản phẩm tăng dần áp dụng theo mức độ hoàn thành vượt mức khối lượng sản phẩm, gọi là tiền lương sản phẩm luỹ tiến. - Tiền lương sản phẩm khoán: Theo hình thức này có thể khoán việc, khoán khối lượng, khoán sản phẩm cuối cùng, khoán quỹ lương. Hình thức tiền lương sản phẩm có nhiều ưu điểm: Do hình thức trả lương này tuân thủ theo nguyên tắc trả lương thoe số l ượng, chất lượng lao động gắn thu nhập về tiền lương với kết quả sản xuất của mỗi công nhân. Do vậy kích thích nâng cao năng suất lao động khuyến khích công nhân ra sức học tập văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ để nâng cao trình độ chuyên môn, ra sức phát huy sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, cải tiến phương thức lao động sử dụng tốt máy móc, thiết bị, nâng cao năng suất lao động... 1.2.2. Quỹ tiền lương. Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương tính theo công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp quản lý chi trả lương. Quỹ tiền lương bao gồm: - Tiền lương thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm và tiền lương khoán. - Tiền lương trả cho người lao động sản xuất ra sản phẩm hỏng trong phạm vi chế độ quy định. - Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên nhân khách quan, trong thời gian được điều động công tác làm nghĩa vụ theo chế độ quy định thời gian nghỉ phép, thời gian đi học. - Các loại phụ cấp làm đêm, thêm giờ. - Các khoản tiền lương có tính chất thường xuyên. Quỹ tiền lương kế hoạch trong doanh nghiệp còn được tính các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội trong thời gian người lao động ốm đau thai sản, tai nạn lao động… Việc phân chia quỹ lương như trên có ý nghĩa trong việc hạch toán tập hợp chi phí sản xuất , chi phí lưu thông, trên cơ sở đó xác định và tính toán chính xác chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm. Để đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp thì việc quản lý và chi tiêu quỹ tiền lương phải được đặt trong mối quan hệ phục vụ tốt cho việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi tiêu tiết kiệm và hợp lý quỹ tiền lương. 1.2.3. Quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số quỹ tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp (chức vụ, khu vực…) của công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích bảo hiểm xã hội là 20%. Trong đó 15% do đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động nộp, được tính vào chi phí kinh doanh, 5% còn lại do người lao động đóng góp và được tính trừ vào thu nhập của họ. Quỹ bảo hiểm xã hội được chi tiêu cho các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Quỹ này do cơ quan bảo hiểm xã hội quản lý. Quỹ bảo hiểm y tế: Được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám chữa bệnh, thuốc chữa bệnh, viện phí… cho người lao động trong thời gian ốm đau, sinh đẻ… Quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng. Tỷ lệ trích bảo hiểm y tế hiện hành là 3%, trong đó 2% tính vào chi phí kinh doanh và 1% trừ vào thu nhập của người lao động. Kinh phí công đoàn. Hình thành do việc trích lập theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng, tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ trích kinh phí công đoàn theo chế độ hiện hành là 2%. Số kinh phí công đoàn doanh nghiệp trích được, một phần nộp lên cơ quan quản lý công đoàn cấp trên, một phần để lại doanh nghiệp chi tiêu cho hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp. Tiền lương phải trả cho người lao động, cùng các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn hợp thành chi phí nhân công trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài chế độ tiền lương và các khoản trích theo lương, doanh nghiệp còn xây dựng chế độ tiền thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiền thưởng bao gồm thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và thưởng trong sản xuất kinh doanh: thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh sáng kiến… (lấy từ quỹ tiền lương). 1.3. Tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. 1.3.1. Chứng từ tính lương và các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội. Để quản lý lao động về mặt số lượng, các doanh nghiệp sử dụng sổ danh sách lao động. Sổ này do phòng lao động tiền lương lập (lập chung cho toàn doanh nghiệp và lập riêng cho từng bộ phận) để nắm tình hình phân bổ, sử dụng lao động hiện có trong doanh nghiệp. Chứng từ sử dụng để hạch toán thời gian lao động là bảng chấm công. "Bảng chấm công" được lập riêng cho từng người lao động và được tổng theo từng bộ phận, tổ, đội lao động sản xuất trong đó ghi rõ ngày làm việc, nghỉ việc của mỗi người lao động. Bảng chấm công do tổ trưởng hoặc trưởng các phòng ban, trực tiếp ghi và để nơi công khai để người lao động giám sát thời gian lao động của họ. Cuối tháng, bảng chấm công được dùng để tổng hợp thời gian lao động, tính lương cho từng bộ phận, tổ đội sản xuất khi các bộ phận đó hưởng lương theo thời gian. Hạch toán kết quả lao động, tuỳ theo loại hình và đặc điểm sản xuất ở từng doanh nghiệp, kế toán sử dụng các loại chứng từ ban đầu khác nhau. Các chứng từ đó là các báo cáo về kết quả sản xuất "Bảng theo dõi công tác ở tổ", "Giấy báo ca", "Phiếu giao nhận sản phẩm", "Phiếu khoán", "Hợp đồng giao khoán", "Phiếu báo làm thêm giờ". Chứng từ hạch toán lao động được lập do tổ trưởng ký, cán bộ kiểm tra kỹ thuật xác nhận. Chứng từ này được chuyển cho phòng lao động tiền lương xác nhận và được chuyển về phòng kế toán để làm căn cứ tính lương, tính thưởng. Hạch toán kết quả lao động là cơ sở để tính lương cho người lao động hay bộ phận lao động hưởng lương theo sản phẩm. Căn cứ vào: Giấy nghỉ ốm, biên bản điều tra tai nạn lao động, giấy chứng sinh… để kế toán tính trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động. Để thanh toán tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, trợ cấp cho người lao động, hàng tháng kế toán doanh nghiệp phải lập "bảng thanh toán tiền lương" cho từng tổ đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban căn cứ vào kết quả tính lương cho từng người. Trong bảng thanh toán lương được ghi rõ từng khoản tiền lương. Lương sản phẩm, lương thời gian, các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và số tiền lao động được lĩnh. Các khoản thanh toán về trợ cấp bảo hiểm xã hội cũng được lập tương tự. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra xác nhận ký, giám đốc ký duyệt. "Bảng thanh toán lương và bảo hiểm xã hội" sẽ được căn cứ để thanh toán lương và bảo hiểm xã hội cho người lao động. Tại các doanh nghiệp, việc thanh toán lương và các khoản khác cho người lao động thường được chia làm hai kỳ: Kỳ 1 tạm ứng và kỳ 2 sẽ nhận số còn lại sau khi đã trừ các khoản khấu trừ. Các khoản thanh toán lương, thanh toán bảo hiểm xã hội, bảng kê danh sách những nưgời chưa lĩnh lương, cùng với các chứng từ báo cáo thu, chi tiền mặt phải được chuyển về phòng kế toán kiểm tra, ghi sổ. 1.3.2. Tài khoản kế toán sử dụng Để kế toán tính và thanh toán tiền lương, tiền công và các khoản khác với người lao động, tình hình trích lập và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, kế toán sử dụng các tài khoản sau: - TK 334 "Phải trả công nhân viên". Tài khoản này để phản ánh các khoản thanh toán với công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương, tiền công, trợ cấp bảo hiểm xã hội, tiền thưởng và các khoản thuộc về thu nhập của công nhân viên. Bên Nợ: - Các khoản khấu trừ vào tiền lương, tiền công của công nhân viên. - Tiền lương, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội và các khoản khác đã trả, đã ứng cho công nhân viên. - Tiền lương công nhân viên chưa lĩnh. Bên Có: - Tiền lương, tiền công và các khoản khác phải trả cho công nhân viên Dư Nợ (nếu có): Số trả thừa cho công nhân viên. Dư Có: Tiền lương, tiền công và các khoản khác còn phải trả công nhân viên. Kế toán phải mở sổ chi tiết theo dõi riêng thanh toán tiền lương và thanh toán bảo hiểm xã hội. - TK 338 "Phải trả phải nộp khác": TK này dùng để phản ánh các khoản phải trả và phải nộp cho cơ quan pháp luật, cho các tổ chức đoàn thể xã hội, cho cấp trên về kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các khoản khấu trừ vào lương theo quyết toán của toà án, giá trị tài sản, các khoản khấu trừ vào lương theo quyết toán của toà án, giá trị tài sản thừa chờ xử lý, các khoản vay mượn tạm thời… Bên Nợ: - Các khoản đã nộp cho cơ quan quản lý. - BHXH phải trả cho CNV - Các khoản đã chi về kinh phí công đoàn - Xử lý giá trị tài sản thừa - Các khoản đã trả đã nộp khác. Bên Có: - Trích BHXH, Kinh phí công đoàn, BHYT vào chi phí sản xuất kd, khấu trừ vào lương CNV. - Giá trị tài sản thừa chờ xử lý - Số đã nộp, đã trả lớn hơn số phải nộp, phải trả được cấp bù - Các khoản phải trả khác. Dư Nợ (nếu có): Số trả thừa, nộp thừa, vượt chi chưa được thanh toán. Dư Có: Số tiền còn phải trả, phải nộp giá trị xuất thừa chờ xử lý. - TK 338 - Chi tiết có 5 tài khoản cấp 2 3381 - Tài sản thừa chờ giải quyết 3382 - Kinh phí công đoàn 3383 - Bảo hiểm xã hội 3384 - Bảo hiểm y tế 3388 - Phải nộp khác - TK 335: "Chi phí phải trả" tài khoản này dùng để phản ánh các khoản được ghi nhận là chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh trong kỳ nhưng thực tế chưa phát sinh (mà sẽ phát sinh trong kỳ này hoặc trong nhiều kỳ sau). Bên Nợ: - Các chi phí thực tế phát sinh thuộc nội dung chi phí phải trả - Chi phí phải trả lớn hơn số chi phí thực tế được hạch toán giảm chi phí kinh doanh. Bên Có: - Chi phí phải trả dự tính trước đã ghi nhận và hạch toán vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Dư Có: - Chi phí phải trả đã tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh những thực tế chưa phát sinh. Ngoài các tài khoản: 334, 338, 335 kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương còn sử dụng một số tài khoản khác như TK 622, TK 627, TK 111, TK 112, TK 138… 1.3.3. Tổng hợp phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương Tiền lương phải trả trong kỳ theo từng đối tượng sử dụng, hàng tháng kế toán tiền hành tổng hợp và tính trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo quy định trên cơ sở tổng hợp tiền lương phải trả và các tỷ lệ trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo chế độ hiện hành đang áp dụng. Tổng hợp phân bổ tiền lương, tính trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được thực hiện trên bảng "phân bổ tiền lươn và bảo hiểm xã hội". Trên bảng phân bổ này, ngoài tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn còn phản ánh việc trích trước các khoản chi phí phải trả, cụ thể kỳ trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất… Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội được lập hàng tháng trên cơ sở các chứng từ về lao động và tiền lương trong tháng. Kế toán tiến hành phân loại và tổng hợp tiền lương, tiền công phải trả theo từng đối tượng sử dụng lao động, theo trực tiếp sản xuất từng loại sản phẩm ở từng phân xưởng, quản lý và phục vụ sản xuất ở từng phân xưởng và theo quản lý chung của toàn doanh nghiệp. Trong đó phân biệt tiền lương, các khoản phụ cấp và các khoản khác để ghi vào các cột thuộc phần ghi có TK334 "phải trả CNV" ở các dòng phù hợp. Căn cứ vào tiền lương thực tế phải trả và căn cứ vào tỷ lệ trích quy định về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn để tính trích và ghi vào các cột phần ghi có TK 338 " phải trả phải nộp khác" thuộc 3382, 3383, 3384 ở các dòng phù hợp. Căn cứ vào các tài liệu liên quan và căn cứ vào việc tính trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất để ghi vào cột có TK 335 "chi phí phải trả". Tổng hợp số liệu phân bổ tiền lương, các khoản trích bảo hiểm xã họi, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và các khoản trích trước, được sử dụng cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất để ghi sổ kế toán tập hợp chi phí sản xuất cho các đối tượng sử dụng. 1.3.4. Kế toán tổng hợp tiền lương, tiền công và các khoản trích theo lương. Kế toán tổng hợp tiền lương và các khoảng trích theo lương được thực hiện trên các tài khoản TK 334, TK 338, TK335 và các tài khoản liên quan khác. Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu được thực hiện như sau: - Hàng tháng tính tiền lương phải trả cho công nhân viên và phân bổ cho các đối tượng, kế toán ghi. Nợ TK 622: Tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất. Nợ TK 627 (6271): Tiền lương phải trả cho lao động gián tiếp và nhân viên quản lý phân xưởng. Nợ TK 641 (6411): Tiền lương phải trả cho nhân viên bán hàng … tiêu thụ sản phẩm. Nợ TK 642 (6421): Tiền lương phải trả cho bộ phận quản lý doanh nghiệp. Nợ TK 241: Tiền lương phải trả cho CNV trong tháng. Có TK 334: Tổng số tiền lương phải trả cho CNV trong tháng. - Số tiền thưởng phải trả cho công nhân viên: Nợ TK 431 (4311): Thưởng thi đua từ quỹ khen thưởng. Nợ TK 622, 6271, 6421, 6411: Thưởng trong sản xuất kinh doanh. Có TK 334: Tổng số tiền thưởng phải trả. - Trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn hàng tháng. Nợ TK 622, 627, 641, 642, 241: Phần tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Nợ Tk 334: Phần trừ vào thu nhập của công nhân viên. Có TK 338 (3382, 3383, 3384): Tổng kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phải trích. - Tính bảo hiểm xã hội phải trả công nhân viên. Trường hợp công nhân viên ốm đau, thai sản… kế toán phản ánh định khoản tuỳ theo quy định cụ thể về việc phân cấp quản lý sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. + Trường hợp phân cấp quản lý sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội, doanh nghiệp được giữ lại một phần bảo hiểm xã hội trích được, để trực tiếp sử dụng chi tiêu cho công nhân viên theo qui định, thì khi tính số bảo hiểm xã hội phải trả trực tiếp cho công nhân viên, kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 338 ( 3383) - Phải trả, phải nộp khác. Có TK 334 - Phải trả công nhân viên. + Trường hợp chế độ tài chính quy định toàn bộ số trích bảo hiểm xã hội phải nộp lên lên cấp trên, việc chi tiêu trợ cấp bảo hiểm xã hội cho công nhân viên tại doanh nghiệp được quyết toán sau khi chi phí thực tế, thì khi trích bảo hiểm xã hội phải trả trực tiếp cho công nhân viên tại doanh nghiệp, kế toán ghi: Nợ TK 138 (1388). Có TK 334. - Các khoản khấu trừ vào thu nhập của công nhân viên, kế toán ghi: Nợ TK 334 - Tổng số các khoản khấu trừ. Có TK 333 (3338) - Thuế thu nhập phải nộp. Có TK 141 - Số tạm ứng trừ vào lương. Có TK 138 - Các khoản bồi thường vật chất, thiệt hại. Thanh toán tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hôị, tiền thưởng cho công nhân viên. + Nếu thanh toán bằng tiền: Nợ TK 334 - Các khoản đã thanh toán. Có TK 111 - Thanh toán bằng tiền mặt. + Nếu thanh toán bằng vật tư hàng hoá. 1. Ghi giá vốn vật tư hàng hoá. Nợ TK 632 Có TK 152, 153,154,155… 2. Ghi nhận giá thanh toán: Nợ TK 334 - Phải trả công nhân viên. Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ. Có Tk 3331 (33311) - Thuế GTGT phải nộp. - Khi chuyển tiền nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: Nợ TK 338 (3382, 3383, 3384). Có TK 111, 112. - Chi tiêu kinh phí công đoàn để lại doanh nghiệp: Nợ TK 338 - Phải trả, phải nộp khác (3382). Có TK 111,112. - Cuối kỳ, kết chuyển tiền lương công nhân viên đi vắng chưa lĩnh: Nợ TK 334 - Phải trả công nhân viên. Có TK 338 (3388). - Trường hợp số đã trả, đã nộp về kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, kể cả số vượt chi lớn hơn số phải trả, phải nộp, khi được cấp bù: Nợ TK 111, 112 (số tiền được cấp bù đã nhận). Có TK 338 (3382, 3383) (số được cấp bù). Tại các doanh nghiệp sản xuất, để tránh sự biến động của giá thành sản phẩm, doanh nghiệp có thể tiến hành trích trước tiền lương công nhân nghỉ phép tính vào chi phí sản xuất sản phẩm, coi như một khoản chi phí phải trả, cách tính như sau: = x Tỷ lệ trích trước. Tỷ lệ trích trước = Tổng số lương phép kế hoạch năm của công nhân trực tiếp sản xuất Tổng số lương cơ bản kế hoạch năm của công nhân trực tiếp sản xuất x 100% - Hàng tháng khi trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất, kế toán ghi: Nợ TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp. Có TK 335 - Chi phí phải trả. - Số tiền lương công nhân nghỉ phép thực tế phải trả: Nợ TK 335 - Chi phí phải trả. Có TK 334 - Phải trả công nhân viên. Tuỳ theo hình thức kế toán doanh nghiệp áp dụng mà kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương được ghi trên các sổ kế toán phù hợp. Ta có sơ đồ hạch toán như sau: Chương II: Tình hình thực tế về tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty xây dựng số 2 Thăng Long. ………………………………………………. 2.1. Đặc điểm, tình hình chung của Công ty Xây dựng số 2 Thăng Long 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty xây dựng số 2 Thăng Long. Tên công ty : Công ty xây dựng số 2 Thăng Long Địa chỉ : Đường Phạm Văn Đồng - Cổ Nhuế - Từ Liêm - Hà Nội Tel : 8574434 - 8575406 Fax : 7540587 Công ty xây dựng số 2 Thăng Long là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Xây dựng Thăng Long - Bộ Giao thông vận tải. Công ty được thành lập ngày 20/10/1966 với tên gọi : Xí nghiệp cơ khí xây lắp Thăng Long. Theo nghị định 388/ HĐBT ngày 21/01/1991 và quyết định thành lập lại Doanh nghiệp Nhà nước theo Thông báo số 497/TL ngày 23/07/1993 đồng ý cho Công ty thành lập Công ty xây dựng và kiến trúc Thăng Long. Với quyết định số 4003/QĐ - TCCB/LĐ ngày 22/08/1995 của Bộ Giao thông vận tải Công ty xây dựng và kiến trúc Thăng Long được đổi tên thành Công ty xây dựng công trình kiến trúc Thăng Long. Ngày 09/11/1999, theo quyết định số 3113/1999/QĐ/GTVT Công ty xây dựng công trình kiến trúc Thăng Long đổi tên thành Công ty xây dựng số 2 Thăng Long, có tư cách pháp nhân, có quyền hạch toán độc lập, tự tổ chức đấu thầu tìm nhận công trình xây dựng. Trong những ngày đầu mới thành lập, Công ty gặp rất nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện vật chất chất kỹ thuật, vốn liếng, công nghệ... Nhưng với sự lãnh đạo của Bộ, ngành xây dựng cùng với tinh thần tự lực tự cường, chủ động sáng tạo và những phấn đấu hết sức cố gắng, nỗ lực của cán bộ công nhân viên, Công ty ngày càng phát triển , đời sống của cán bộ công nhân viên được ổn định, công ty đã tự khẳng định mình bằng rất nhiều các công trình mới có giá trị và vô cùng thiết thực. Một số công trình tiê._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3083.doc