Kết quả sử dụng & giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá

Lời nói đầu Trong nền kinh tế xã hội, bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng vậy, muồn tồn tại phát triển phải dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: “muốn chuyển một nền kinh tế từ sản xuất nhỏ sang nền kinh tế sản xuất lớn đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh”. Nước ta tiến lên CNXH tại một xuất phát điểm hết sức thấp, đó là nền công nghiệp lạc hậu, năng xuất thấp, kỹ thuật thủ công, vì vậy để xây dựng một nền sản xuất lớn với

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kết quả sử dụng & giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng xuất lao động ngày càng cao Đảng ta đã xác định phải xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH ở Việt Nam thông qua con đường CNH – HĐH đất nước. Nhưng Đảng ta cũng nhận thức được rằng thời kỳ quá độ là lâu dài và ứng với mức độ công nghiệp hoá trong mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau. Trong quá trình phát triển vai trò và tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, nó là một yếu tố, một chỉ số của sự phát triển xã hội nói chung và của nông thôn nói riêng. Nông nghiệp Nông thôn nước ta hiện nay đang trong quá trình chuyển biến lên sản xuất lớn trên cơ sở CNH – HĐH, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, thực trạng kết cấu, cơ sở hạ tầng nông thôn lạc hậu đã cản trở lớn đến quá trình này. Thọ Xuân là một huyện Nông thôn của tỉnh Thanh Hoá cũng nằm trong tình trạng chung của Nông thôn cả nước, là một huyện chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du Thanh Hoá, nền kinh tế chủ yếu là Nông nghiệp truyền thống, đó là một nền Nông nghiệp chủ yếu là tự cung tự cấp. Để thực hiện đường lối của Đảng, mục tiêu chung CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Thọ Xuân rất cần có một cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp. Do vậy, vấn đề vốn đầu tư cho phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật là vô cùng cần thiết. Do thời gian, trình độ chuyên môn có hạn nên đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề về vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực kinh tế phục vụ cho các hoạt động kinh tế bao gồm: Hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện, hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông… Đặc biệt là giao thông nông thôn đang đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, như các chuyên gia ngân hàng thế giới đã cho rằng: “ Những trở ngại trong giao thông vận tải (không chỉ là chi phí vận tải) thường là trở ngại chính đối với sự phát triển khả năng chuyên môn hoá sản xuất tại từng khu vực có tiềm năng, lợi thế phát triển nhưng thị trường bị bó hẹp (không tiêu thụ được sản phẩm, không được cung cấp các dịch vụ một cách ổn định…) do những trở ngại trong giao thông vận tải. Nhận thức tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng kinh tế trong nông thôn mà nhất là hệ thống giao thông trong nông thôn mà em chọn đề tài: “Đánh giá kết quả sử dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của huyện Thọ Xuân-Thanh Hoá” Đề tài gồm 3 phần chính: Phần I: Lý luận chung. Phần II: Thực trạng sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng của Huyện từ 2000 – 2003. Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Huyện. Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ phòng Tài Chính – Kế Hoạch huyện Thọ Xuân, các phòng ban trực thuộc UBND huyện Thọ Xuân và thầy giáo Ts. Đào Duy Cầu đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Phần I Lý luận chung về vốn đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản Lý luận chung. Khái niệm về đầu tư và vốn đầu tư. 1.1 Khái niệm đầu tư. Hoạt động kinh tế ứng với việc sử dụng các nguồn lực trong một thời gian tương đối dài nhằm đem lại lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn các chi phí về các nguồn lực đã sử dụng được gọi là hoạt động đầu tư. Đầu tư theo nghĩa thứ nhất là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sử dụng một tài sản… ) nhằm thu về các kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai. Nguồn lực dùng để đầu tư bao gồm: Vốn, lao động, đất đai, công nghệ,… Các nguồn lực này được kết hợp với nhau để đưa vào trong quá trình sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhằm tạo ra các tài sản phi vật chất. Kết quả của hoạt động đầu tư phải cao hơn chi phí bỏ ra. Về mặt thời gian: hoạt động đầu tư diễn ra ở hiện tại và kết quả từ hoạt động này ở thời điểm tương lai. Đối tượng đầu tư thì rất rộng lớn bao gồm: cả tài sản vật chất, phi vật chất, tài sản cố định của xã hội, và tài sản lâu bền. Ngoài ra còn rất nhiều khái niệm đầu tư khác tuỳ theo góc độ người xem xét, chẳng hạn ở góc độ tiêu dùng thì đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng ở hiện tại nhằm thu hút được mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai, hoặc ở góc độ tài chính đầu tư là một chuỗi những hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. Đầu tư phát triển: Là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng. Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động có tính chất lâu dài, điều đó được thể hiện: Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó thường kéo dài nhiều năm, tháng. Trong quá trình đó dưới tác động của môi trường đầu tư làm những dự toán của công cuộc đầu tư bị sai lệch, do vậy cần phải quản lý một cách nghiêm ngặt và có sự điều chỉnh kịp thời. . Vốn đầu tư. Vốn đầu tư là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích hoạt động đầu tư, nó bao gồm tất cả các nguồn có thể (đầu tư từ nước ngoài, tiết kiệm của nền kinh tế…) phục vụ cho các hoạt động đầu tư. Đầu tư xây dựng cơ bản. Khái niệm. Là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản (từ việc khảo sát, quy hoạch đầu tư, thiết kế và xây dựng cho đến khi lắp đặt thiết bị, để hoàn thiện việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật…) nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế. Vai trò. Đối với nền kinh tế, đầu tư xây dựng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu và cần thiết cho nền kinh tế. Đầu tư xây dựng cơ bản là một biện pháp quan trọng trong kích cầu đầu tư. Đầu tư xây dựng cơ bản cũng ảnh hưởng đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, làm tăng khả năng khoa học công nghệ của nền kinh tế đất nước, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư xây dựng cơ bản có ảnh hưởng mạnh đến sự ổn định kinh tế. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Là một bộ phận của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là yêu cầu bắt buộc, cấp thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cơ sở hạ tầng là chỉ tiêu cơ bản, là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế, tạo tiền đề thu hút vốn đầu tư phát triển và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn bao gồm tổng thể những yếu tố vật chất, các cơ sở vật chất và thiết chế làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Cũng như hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói chung, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn nhằm hoàn thiện các yếu tố vật chất kỹ thuật phục vụ yêu cầu phát triển các ngành kinh tế nông thôn. Tạo tiền đề cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn và thúc đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một bộ phận quan trọng trong hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, nó là yếu tố quyết định tới sự phát triển kinh tế nông thôn. Hệ thống này bao gồm toàn bộ các cơ sở vật chất kỹ thuật đó là: Hệ thống thuỷ lợi, hệ thống điện, giao thông, thông tin và bưu chính viễn thông… Hệ thống thuỷ lợi. Hệ thống thuỷ lợi bao gồm toàn bộ hệ thống công trình phục vụ cho việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn nước (nước mặt và nước ngầm) và cho việc hạn chế những tác hại do nước gây ra đối với sản xuất, đời sống và môi trường sinh thái. Các công trình chủ yếu thuộc hệ thống thuỷ lợi gồm: Hệ thống các hồ đập giữ nước. Hệ thống các trạm bơm, tưới tiêu nước. Hệ thống đê sông, đê biển. Hệ thống kênh mương. Hiện nay Huyện Thọ Xuân có nguồn mặt nước khá phong phú, ngoài các nguồn như sông Chu, sông Cầu Chày, sông Hoàng còn có một hệ thống kênh rạch, hồ chứa nước như hồ Cửa Trát, hồ Sao Vàng… nên việc tưới tiêu phục vụ sản xuất tương đối thuận lợi. Về nước ngầm của Thọ Xuân cũng nằm trong bối cảnh chung của Thanh Hoá, lớp nước trầm tích nghèo và phân bố không đồng đều. Hệ thống giao thông. Hệ thống giao thông là toàn bộ các phương tiện vật chất thích hợp với mỗi loại hình giao thông nhằm phục vụ cho việc vận chuyển để phục vụ sản xuất và nhu cầu đi lại của dân cư. Hệ thống giao thông là hệ thống hạ tầng đặc biệt đối vơi sự phát triển kinh tế xã hội, nó là cầu nối giữa các vùng kinh tế và giữa các vùng kinh tế với các trung tâm kinh tế xã hội. Đặc biệt hệ thống giao thông có tầm quan trọng, tác động to lớn tới sự phát triển của các vùng nông thôn. Hệ thống điện nông thôn. Hệ thống điện nông thôn là toàn bộ các yếu tố cơ sở vật chất làm nền tảng cho việc cung cấp điện sử dụng vào tưới tiêu, các hoạt động sản xuất và phục vụ sinh hoạt nông thôn. Hệ thống này bao gồm mạng lưới đường dây tải điện từ nguồn cung cấp, hệ thống các trạm biến thế, mạng lưới phân phối. ở một số xã vùng xa hệ thống này còn bao gồm cả các máy phát điện nhỏ bằng động cơ chạy dầu hoặc máy Tuabin nhỏ chạy bằng sức nước, sức gió... Cho đến nay tổng lượng điện năng cung cấp cho nông thôn còn rất ít so với lượng điện sản xuất ra, ước tính chỉ chiếm 10 – 15%. Điện cung cấp cho nông thôn chủ yếu dùng để tưới tiêu nước (40-50%) còn lại dùng cho một số hoạt động khác và sinh hoạt. Hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông. Hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông nông thôn bao gồm toàn bộ các cơ sở vật chất các phương tiện phục vụ cho việc cung cấp thông tin, trao đổi thông tin đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nông thôn. Hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông bao gồm: mạng lưới bưu điện, điện thoại, Internet, mạng lưới truyền thanh, truyền hình của Trung ương, địa phương. Trong điều kiện xã hội hiện đại, thông tin là yếu tố có vai trò to lớn và nhiều khi có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển kinh tế – xã hội và văn hoá. Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin hoàn chỉnh và hiện đại là một nhiệm vụ trọng yếu trong việc xây dựng phát triển hạ tầng đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH nông thôn. Sự cần thiết (vai trò) của cơ sở hạ tầng nông thôn. Trong từng giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Sự phát triển của nông nghiệp – nông thôn được dựa trên một cơ sở kết cấu hạ tầng có trình độ phát triển nhất định. Như vậy, sự phát triển của hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng nông thôn có vai trò to lớn thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: Mức độ và trình độ phát triển cơ sở hạ tầng là một chỉ tiêu phản ánh và đánh giá trình độ phát triển nói chung của nông nghiệp – nông thôn. Thường dùng các chỉ tiêu thể hiện mức độ và trình độ phát triển của từng yếu tố cơ sở hạ tầng như: Số km đường giao thông tính trên 1 km2, tính trên 1000 dân… Trong quá trình phát triển vai trò và tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, nhất là trong xu hướng mở cửa, hội nhập kinh tế nếu thiếu các yếu tố Khoa học – công nghệ, cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động văn hoá xã hội thì sự phát triển là không thể hoặc không được như mong muốn. Như vậy, xây dựng cơ sở hạ tầng trở thành có tính quyết định cho sự phát triển nông nghiêp – nông thôn. Cơ sở hạ tầng, nhất là những hạ tầng trong kinh tế, giữ vai trò quyết định trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nông thôn nước ta hiện nay đang chuyển biến lên sản xuất lớn trên cơ sở thực hiện CNH – HĐH, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, thực trạng kết cấu hạ tầng nông thôn lạc hậu đã cản trở lớn tới quá trình này. Trong đó, những trở ngại trong giao thông vận tải (không chỉ là chi phí vận tải) thường là trở ngại chính đối với sự phát triển khả năng chuyên môn hoá tại từng khu vực có tiềm năng phát triển nhưng không tiêu thụ được sản phẩm hoặc không được cung cấp lương thực, dịch vụ một cách ổn định, nhất là vùng miền núi... Cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển cân đối và toàn diện là một trong những điều kiện để phát triển nông thôn toàn diện hơn. Nông thôn Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, từ nông thôn truyền thống xưa kia đến thời kỳ xây dựng nông thôn mới ngày nay. Nông thôn truyền thống xưa kia dựa trên nền nông nghiệp nhỏ đặc canh cây lúa nước nên rất nghèo. Đến lượt mình trạng thái kém phát triển của nền kinh tế quyết định trạng thái kém phát triển của cơ sở hạ tầng. Ngày nay, nông nghiệp – nông thôn đang trong quá trình phát triển ở giai đoạn mới, có sự tác động mạnh mẽ của đô thị hóa, hoạt động sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên cơ sở công nghiệp hoá. Như vậy, việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển toàn diện, tương ứng với nhu cầu và đáp ứng những đòi hỏi của việc phát triển nông thôn mới là yêu cầu bắt buộc trong quá trình CNH – HĐH nông thôn. Đối với những vùng nông thôn chậm và kém phát triển, tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng còn là cách thức để xoá bỏ sự chênh lệch trong quá trình phát triển. Bằng việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, trước hết là hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc… sẽ tạo cơ sở cho việc giao lưu kinh tế văn hoá phá vỡ sự khép kín của nông thôn truyền thống với toàn nền kinh tế, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận với các nguồn lực phát triển, thúc đẩy sự hình thành và phát triển sản xuất hàng hoá. Phát triển cơ sở hạ tầng là cách thức phân bố rộng khắp những thành tựu của sự phát triển, xoá đi những chênh lệch trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội giữa các vùng trong nước. Kinh nghiệm đầu tư của một số địa phương. Tình hình đầu tư của huyện Hải hậu cho Xây dựng cơ sở hạ tầng Đơn vị: triệu đồng. 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1. Làm đường 2. Trường học 3. Trạm xá 4. Điện 5. Nghĩa trang liệt sĩ 6. Nhà trẻ - 415 - 20 - - 266 345 70 380 - - 481 626 50 - 413 - 10.347 4.114 211 314 750 - 11.322 3.833 65 1.208 1.500 - 8.476 2.500 124 800 1.800 800 Tổng số 435 1.061 1.269 15.736 17.240 14.500 đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở xã đông hoá, kim bảng – hà nam Đơn vị: 1000đ 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Tổng kp 1. Điện 167.081 - 218000 - 14375 - 269639 252014 2. Đường 167081 141871 85990 144050 295383 840478 1011687 2785341 3. Trường học 316000 - 65314 87242 20143 180345 553589 1220633 4. Y tế - - - - 127954 - - 127954 5. Công trình nước sạch - - - - - - 1425000 1425000 6. Trạm bơm mương máng - - - 48352 - 14993 250114 313465 7. Sửa đài liệt sĩ - - - - - - 27980 27980 8. Sân vận động - - - - - - 32000 32000 9. Xoá nhà tranh - - - - 104480 - - 104480 Tổng số 483082 141871 279104 279650 1140268 351009 3367024 6290867 Phương pháp đánh giá kết quả đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Xây dựng cơ sở hạ tầng là một bộ phận của đầu tư xây dựng cơ bản cũng tương tự như đánh giá kết quả đầu tư xây dựng cơ bản. Nó được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được sử dụng và Tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh dịch vụ tăng thêm. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Khái niệm. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện (sử dụng) là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà xưởng và cấu trúc hạ tầng mua sắm trang thiết bị máy móc để tiến hành công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt. Phương pháp tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Đối với những công cuộc đầu tư quy mô lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài thì vốn đầu tư được tính là thực hiện khi từng hoạt động hoặc từng giai đoạn của mỗi công cuộc đầu tư đã hoàn thành. Đối với công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian đầu tư ngắn thì số vốn đã chi được tính là thực hiện khi toàn bộ các công việc của quá trình thực hiện đầu tư kết thúc. Đối với công cuộc đầu tư do ngân sách nhà nước tài trợ để số vốn bỏ ra được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện thì các kết cầu của quá trình đầu tư phải đạt được các tiêu chuẩn quy định và được tính theo. + Đối với vốn đầu tư của công tác xây dựng, vốn đầu tư thực hiện được tính theo phương pháp đơn giá và phải căn cứ theo đơn giá dự toán của nhà nước. + Đối với công tác mua sắm máy móc thiết bị, máy móc cần lắp, vốn thực hiện được tính theo giá mua + công chi phí vận chuyển – chi phí bình quân. + Đối với công tác xây dựng cơ bản và các chi phí khác, nếu có đơn giá thì áp dụng giống công tác xây lắp, chưa có đơn giá thì tính theo phương pháp thực thanh - thực chi. + Đối với những công cuộc đầu tư vốn vay tự có của dân thì chủ đầu tư căn cứ vào quy định, định mức đơn giá chung của nhà nước để tính. Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm. Khái niệm. Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu để đưa vào sử dụng. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các dịch vụ theo quy định được trong dự án đầu tư. Phương pháp tính. Các tài sản cố định được huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của các công cuộc đầu tư xây dựng cơ bản, chúng có thể được thể hiện bằng hiện vật hoặc giá trị. Các chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật như số lượng các tài sản cố định được huy động (số máy biến thế, km đường, ha được tưới tiêu…) công suất hay năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động, số kw giờ của các nhà máy điện, lượng xe lưu thông trên cầu, số ha lúa được tưới tiêu… Phần II. Thực trạng vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện Thọ Xuân (2000-2003). Điều kiện tự nhiên - kinh tế – xã hội ảnh hưởng tới việc sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Điều kiện tự nhiên. Vị trí địa lý - địa hình. Thọ Xuân nằm về phía Tây Bắc TP- Thanh Hoá, có toạ độ địa lý vĩ độ Bắc khoảng 19050” đến 20000”, kinh độ Tây khoảng 105030”. Phía Bắc giáp với huyện Ngọc Lặc. Phía Nam giáp với huyện Triệu Sơn. Phía Đông giáp với huyện Yên Định và Thiệu Hoá. Phía Tây giáp với huyện Ngọc Lặc và Thường Xuân. Thọ Xuân nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du Thanh Hoá. Địa hình thấp hơn trung du 50 – 100 m, nhưng lại cao hơn đồng bằng 4-6m. Có độ dốc lớn hơn đồng bằng và nhỏ hơn vùng trung du nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc bố trí khu dân cư, đầu tư cơ sở hạ tầng, bố trí vùng chuyên canh và thâm canh lớn, phát triển công - nông nghiệp, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế phong phú đa dạng. Vùng trung du: gồm 13 xã= 18.283,18 ha chiếm 60,33% diện tích toàn huyện, nằm ở phía Tây Bắc và ở phía Tây Nam. Là vùng đồi thoải, có độ cao từ 15m đến 150m so với mực nước biển. Địa hình nơi đây dốc thoải gây trở ngại không nhỏ cho việc bố trí hệ thống giao thông, thuỷ lợi. Vùng đồng bằng: Gồm 27 xã nằm dọc 2 phía tả và hữu ngạn sông Chu. Có độ cao khoảng 6-17m, diện tích tự nhiên 12.021,51 ha, chiếm 36,67% diện tích toàn huyện. Đây là vùng tương đối bằng phẳng rất tiện cho việc bố trí các tuyến đường giao thông và thuỷ lợi. Tuy vậy, do nằm dọc theo sông Chu nên thường xuyên phải tu bổ hệ thống đê chống lũ. Mặt khác do nằm về 2 phí sông Chu-một con sông có bề mặt rộng, bãi lớn nên giao thông giữa hai vùng tả và hữu ngạn sông Chu vẫn còn rất khó khăn. Khí hậu thuỷ văn. Khí hậu trên địa bàn nhìn chung tương đối thuận lợi, nhiệt độ không khí bình quân năm là 23,40C, độ ẩm 86%, lượng mưa trung bình 1.859mm/năm, lượng nước bốc hơi 707mm/năm. Mỗi năm có sương mù khoảng 21 -26 ngày. Thường xuất hiện vào các tháng cuối năm làm tăng thêm độ ẩm đất và không khí. Ngoài ra, do có địa hình tương đối dốc phức tạp nên hàng năm Thọ Xuân phải chịu nhiều mưa bão, có lúc lại khô hanh, hạn hán. Điều kiện khí hậu thuỷ văn như vậy cũng một phần ảnh hưởng tới công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Cụ thể là vào mùa mưa không thể hoặc rất ít thực hiện được các hoạt động xây dựng còn mùa khô lại thuận lợi cho hoạt động này. Như vậy, làm ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình tài chính nói chung của Huyện. Điều kiện kinh tế - xã hội. Dân số và lao động. Đến năm 2000 số người sống ở nông thôn có khoảng 218.467 người và 51.689 hộ chiếm 94,75% dân số toàn huyện. Diện tích đất khu nông thôn mỗi hộ thường từ 200 – 500 m2. Việc sử dụng đất khu dân cư những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ, một số xã đã hình thành khu trung tâm hoặc cụm dân cư, phát triển theo quy hoạch thuận lợi cho việc quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho giao lưu, trao đổi, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH – HĐH nông thôn. Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 10/2000 thì dân số toàn huyện là 230.563 người, với 55.024 hộ, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên có chiều hướng giảm dần từ 1,18%/năm (1995) còn 0,89%/năm (2001). Mật độ dân số bình quân là 761 người/km2. Số người trong độ tuổi lao động tăng dần, từ 99.198 người năm 1995 lên 103.638 người năm 2001. Mật độ dân số là tương đối thưa, đặc biệt do có địa hình phức tạp nên phân bố không đồng đều, chỉ tập trung phần lớn ở vùng đồng bằng và các khu trung tâm nên làm giảm chất lượng phục vụ của hệ thống cơ sở hạ tầng. Số người trong độ tuổi lao động ngày càng tăng, trong khi ở nông thôn đa số mang tính thời vụ nên lượng lao động dư thừa là rất lớn, đây là một trong những yếu tố có lợi cho việc tu bổ, xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói riêng. Cơ sở hạ tầng. Thọ Xuân có các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua như: Quốc lộ 15A, chiều dài 12 km, chạy qua các xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn – Xuân Phú. Quốc lộ 47 với chiều dài 15 km, từ thị trấn Lam Sơn qua thị trấn Sao Vàng và xã Xuân Thắng đã được trải nhựa chất lượng cao. Quốc lộ 47B dài 28km, chạy qua các xã Thọ Lộc – Thị trấn Thọ Xuân-Bái Thượng đến nay cũng đã được trải nhựa 10 km, còn 18 km đường đá đang xuống cấp nghiêm trọng. Tỉnh lộ Thọ Xuân – Kiểu chiều dài gần 20 km mới chỉ được rải đá, cần được nâng cấp. Hệ thống giao thông nông thôn với tổng chiều dài khoảng 790 km. Ngoài ra Thọ Xuân còn có hệ thống giao thông đường thuỷ trên sông Chu và sông Nông Giang. Tất cả các hệ thống giao thông trên địa bàn đã và đang phục vụ cho nhu cầu đi lại và giao lưu hàng hoá của nhân dân nhưng rất cần được cải tạo, tu bổ, nâng cấp để việc đi lại giao lưu kinh tế được thuận lợi. Về thuỷ lợi: Do địa bàn huyện có hệ thống sông Chu và sông Cầu Chày chảy qua nên hệ thống đê điều tương đối lớn. Đê sông Chu dài 19,8 km, từ Xuân Châu xuống Thọ Trường với tổng diện tích 70,75 ha do Trung Ương quản lý. Đê hữu sông Chu dài 27,8 km từ Xuân Bái – Xuân Khánh với tổng diện tích 69,43 ha do Trung ương quản lý. Đê sông Cầu Chày (vùng Quảng Phú) dài 11,8 km diện tích 29,5 ha. Ngoài ra còn có các đê sông tự nhiên nhỏ khác với tổng chiều dài hệ thống cho tiêu là 138 km, diện tích 379,19 ha. Nhìn chung hệ thống này bảo vệ tốt cho tiêu, bảo vệ sản xuất nông nghiệp, rất cần được nạo vét tu bổ thường xuyên. Hệ thống tưới với tổng chiều dài 137,58 km diện tích 360,8 ha đã và đang phát huy phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên một số công trình đã xuống cấp đòi hỏi sự quan tâm đầu tư nâng cấp và cải tạo. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có cả hồ thuỷ lợi cung cấp nước tưới cho nội bộ vùng như hộ Cửa Trát (Xuân Phú); hồ Sao Vàng, hồ Đồng Trường (thị trấn Sao Vàng) và hàng ngàn km kênh mương phục vụ nội đồng. Hệ thống phát thanh, truyền thanh từ huyện đến cơ sở được mở rộng, đến nay đã hoàn thiện hệ thống phát thanh. Ngoài ra ở hầu hết các xã đã và đang phát triển khai thác xây dựng Bưu điện văn hoá xã, cho đến nay đã có khoảng 30 xã có Bưu điện văn hoá. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của Thọ Xuân (1996-2002). 1. Kinh tế : Thực hiện đường lối của Đảng và nhà nước . Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XXI và XXII cộng với sự cố gắng nỗ lực của Đảng bộ , nhân dân trong huyện , sự năng động trong lãnh đạo điều hành làm quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất . Trong những năm qua nền kinh tế Thọ Xuân đã đạt được nhịp độ phát triển kinh tế ổn định , toàn diện và tương đối cao . Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong huyện giai đoạn 1996 – 2000 đạt 12,5%/ năm ( tỉnh là 7,3%/ năm ) trong đó nông nghiệp tăng 7,4% ; công nghiệp XDCB tăng 11,00% ; dịch vụ thương mại tăng 15,7% . Mức thu nhập bình quân từ kinh tế lãnh thổ từ 270,6 USD/người/ năm ( 1995 ) tăng lên 472,6 USD/ người/ năm (2000 ), mức tăng bình quân 12,44%/năm. Các sản phẩm chủ yếu như lương thực từ 75052 tấn năm 1996 tăng lên 106000 tấn năm 2000, mức tăng bình quân 8,25%/năm; sản xuất mía nhiên liệu 118250 tấn năm 1996 tăng lên 260000 tấn năm 2000 , mức tăng bình quân 23,97%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ 30,22 tỉ đồng năm 1996 lên 37 tỉ đồng năm 2000, mức tăng bình quân 8,97%/năm. Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng các nghành dịch vụ, công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, giảm tỉ trọng nghành nông – lâm nghiệp. Nghành nông – Lâm nghiệp chiếm tỉ trọng trong GDP từ 65,80% năm 1996 xuống 51,4% năm 2000; nghành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng chiếm tỉ trọng 12,40% năm 1996 lên 16,5% năm 2000; dịch vụ và du lịch chiếm tỉ trọng GDP từ 21,80 % năm 1996 lên 32,10% năm 2000. Thực trạng phát triển các nghành a.Về công nghiệp Thọ Xuân có hai doanh nghiệp công nghiệp lớn của TW và Tỉnh ( Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn và công ty Cổ phần giấy Mục Sơn ) Đóng trên địa bàn, đây là một thuận lợi lớn tạo điều kiện cho kinh tế Thọ Xuân phát triển, nâng cao thu nhập cho nhân dân. Công ty đường đã có những phương án giúp cho nhân dân có điều kiện liên doanh, liên kết góp cổ phần, xây dựng vùng mía nguyên liệu, do vậy mức sống của nông dân, nhất là nông dân miền vùng núi Thọ Xuân không ngừng được nâng cao. Công nghiệp và thủ công nghiệp địa phương thuộc huyện quản lý: Sản xuất chủ yếu là các nghành nông – lâm sản và khai thác vật liệu xây dựng, nhưng nhìn chung chất lượng hàng hoá chưa cao, chưa có sức cạnh tranh. Ngành nghề hiện nay chưa có được sản phẩm hàng hoá lớn, tiêu thụ rộng rãi mà chỉ mới có vài cơ sở sản xuất Cót ép và hàng mộc dân dụng. Về loại hình sản xuất: Số doanh nghiệp công nghiệp ở Thọ Xuân còn quá ít, trong 8 doanh nghiệp chỉ có 2 doanh nghiệp sản xuất có tính công nghiệp là: Doanh nghiệp Việt Hưng, sản xuất tăm tre, mành tre tại khu 3 thị trấn Lam Sơn ( mới thành lập ) và doanh nghiệp Hoà Hà sản xuất bột giấy tại xóm Minh Thành xã Xuân Bái , mỗi năm sản xuất được 1500 đến 2000 tấn bột giấy nguyên liệu có giá trị thu nhập từ 2,5 đến 3 tỉ VNĐ. Sáu doanh nghiệp còn lại thì 5 doanh nghiệp là thầu Xây dựng còn một là công ty Cổ phần thương mại. Tuy số doanh nghiệp công nghiệp của Thọ Xuân còn quá ít ỏi, gía trị sản xuất chưa cao, hiệu xuất chưa lớn, song nó là những doanh nghiệp đầu tiên đi vào sản xuất công nghiệp, có đủ tư cách pháp nhân để vươn ra thị trường trong và ngoài nước. Nhìn chung công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp thời kỳ 1996 đến 2000 giá trị sản xuất có tăng song mức tăng trên thực tế vẫn còn chậm ( trong cả kỳ chỉ tăng 6 tỉ đồng ) chiếm tỉ trọng rất thấp trong cơ cấu thu nhập. Sản phẩm chủ yếu là từ chế biến nông – lâm sản, sản xuất và khai thác các loại vật liệu xây dựng… Các loại sản phẩm cơ khí chế tạo, công nghiệp kỹ thuật cao chưa được phát triển, sản xuất chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, chất lượng sản phẩm chưa cao, thiếu đội ngũ thợ lành nghề… Xác định phương hướng chiến lược cho phát triển ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp còn nhiều vấn đề khó khăn, chưa có định hướng cụ thể cho từng vùng, từng địa phương, từng loại ngành nghề, vốn đầu tư phát triển cho các ngành nghề còn hạn chế, không đủ điều kiện trang bị kỹ thuật, các làng nghề truyền thống thiếu sự hỗ trợ, nâng cao chất lượng, sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều tồn tại và hiệu quả thấp b.Dịch vụ Thương mại. Dịch vụ – Thương mại tiếp tục được phát triển theo yêu cầu phát triển sản xuất, đời sống, các loại hình dịch vụ công ty, dịch vụ tập thể hộ liên doanh, dịch vụ tư nhân… Mở ra đa dạng, từng bước được đầu tư, nâng cao quy mô và chất lượng phục vụ. Dịch vụ, kinh doanh trong sản xuất nông nghiệp của các loại hình hợp tác xã đang từng bước khẳng định vai trò đối với thị trường sản xuất nông thôn. Các tụ điểm thương mại, thị trấn, thị tứ… tiếp tục được hình thành và nhanh chóng tập trung kinh doanh sầm uất, đáp ứng được yêu cầu giao lưu hàng hoá trên tất cả các vùng. Tuy vậy tốc độ phát triển các loại hình dịch vụ thương mại đến thời điểm hiện nay có phần khiêm tốn, việc khai thác thị trường nội địa chưa được quan tâm đúng mức, thiếu các chính sách và biện pháp nâng cao sức trao đổi hàng hoá của nhân dân, nhìn chung sức mua ở các khu vực nông thôn đã có phần cải thiện… Thương mại dịch vụ trong giai đoạn này đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 15,7 % /năm và đã chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của huyện ( năm 2000 là 33,7% đạt giá trị 156 tỉ đồng ) Hoạt động thương mại được phát triển mạnh ở ba thị trấn, các thị tứ trung tâm cụm xã: Nam Giang, Tứ Trụ, Bái Thượng, Xuân Lam và dọc theo các tuyến đường quốc lộ. Mạng lưới dịch vụ mại - dịch vụ đã phát triển đến từng thôn xóm, khu dân cư, với nhiều mặt hàng phong phú đa dạng về chất lượng và chủng loại. Cùng với dịch vụ thương mại nhà nước các loại hình dịch vụ tư nhân trong các khu vực nông thôn cũng được phát triển đa dạng và từng bước có xu hướng hợp tác, nâng cao quy mô kinh doanh dịch vụ. Khả năng thương mại còn tiềm ẩn nhiều yếu tố. Trong những năm qua tuy phát triển nhanh song vẫn mang nặng tính tự phát, chưa thực sự tạo điều kiện khai thác hỗ trợ đầu tư c.sản xuất nông nghiệp: Đã đạt hiệu quả được toàn diện trên các lĩnh vực sản xuất cây trồng, con nuôi. Hiệu xuất sản xuất hàng hoá trong các vùng thâm canh tiếp tục được phát triển, nâng cao chất lượng. Nông – lâm nghiệp là nghành sản xuất chính của Huyện, chiếm 69,79% tổng số lao động 44% cơ cấu kinh tế trong GDP. Năm 1995 giá trị tổng sản lượng nông – lâm nghiệp là 180,62 triệu đồng, đến nă._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0133.doc
Tài liệu liên quan