KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC và thực trạng ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Tỷ giá là một trong những vấn đề rất được quan tâm trong một nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, đang từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Bởi hoạt động thương mại quốc tế của các nước này ngày càng phát triển và đòi hỏi phải có sự tính toán so sánh về giá cả, tiền tệ với các nước đối tác. Chính tỷ giá là một công cụ quan trọng được sử dụng trong tính toán này. Đặc biệt Việt Nam đang ở tình trạng

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2175 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC và thực trạng ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lạm phát tăng cao việc điều chỉnh chế độ tỷ giá hợp lý là hết sức cần thiết cho tình hình xuất nhập khẩu của việt nam hiện nay. Cấu trúc bài viết gồm các phần: PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ. PHẦN II: KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM. PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP XÚC TIẾN VÀ ĐƯA CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ. Tuy nhiên, không phải đồng tiền nào cũng được nhận để thanh toán bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải được ngân hàng nước đó thu mua. Những đồng tiền có thể chuyển đổi thành nội tệ của một nước khác được gọi là ngoại tệ, nó được xem là phương tiện thanh toán và đầu tư quốc tế. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh được sử dụng rộng rãi, phổ biến như: USD (Mỹ), JPY (Nhật), Bảng (Anh),... PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ 1-/ Khái niệm tỷ giá, thị trường ngoại hối Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh về mặt giá trị giữa hai đồng tiền của hai quốc gia,ví dụ:1USD=16,950VND Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra hoạt động mua bán ngoại tệ và vốn bằng ngoại tệ. Đặc điểm của thị trường ngoại hối ở mỗi quốc gia có thể khác nhau. Ở Mỹ thị trường ngoại hối được tổ chức thành thị trường qua tay, tại đó hàng trăm nhà kinh doanh (đa số là ngân hàng) sẵn sàng mua và bán các khoản tiền gửi ghi bằng ngoại tệ. Tính cạnh tranh trên thị trường này là rất lớn. Mua bán trên thị trường ngoại hối là những giao dịch trị giá trên một triệu USD. 2-/ Vai trò của tỷ giá Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia: Thứ nhất, nó là phương tiện để thực hiện trao đổi thương mại quốc tế. Một quốc gia muốn mua hàng hoá ở nước khác phải đổi đồng tiền nước mình ra tiền nước đó để thực hiện các giao dịch. Tỉ giá hối đoái sẽ qui định tỉ lệ qui đổi giữa hai loại đồng tiền đó. Thứ hai, nó tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu. Khi đồng tiền của một nước tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn. Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá, hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn (các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân. Thứ ba, tỷ giá là công cụ điều tiết vĩ mô. Tác động vào tỷ giá sẽ làm ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu từ đó ảnh hưởng tới tổng cầu, sản phẩm quốc dân, thất nghiệp,... Việc điều hành tỷ giá không tốt có thể dẫn tới lạm phát, khủng hoảng. Tỷ giá còn góp phần vào việc cải thiện cung cầu về ngoại tệ, giải quyết vấn đề nợ nước ngoài,... 3-/ Các loại tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái chính thức và Tỷ giá hối đoái song song Tỷ giá hối đoái có thể được quy định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, và được gọi là tỷ giá thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng có thể được quy định bởi các cơ quan quản lý nhà nước trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, cả thị trường lẫn cơ quan quản lý nhà nước cùng tham gia quy định tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái khi đổi tại ngân hàng thương mại và quầy giao dịch ngoại hối phục vụ khách hàng lẻ thường chênh lệch so với tỷ giá công bố có thể vì một trong hai lý do sau: (1) đã được tính gộp cả phí dịch vụ; (2) có hai tỷ giá đồng thời, một tỷ giá hối đoái chính thức (có thể do cơ quan quản lý nhà nước qui định, hoặc do cả thị trường lẫn cơ quan quản lý nhà nước quy đinh) và một tỷ giá không chính thức (còn gọi là tỷ giá hối đoái song song hay tỷ giá chợ đen) do thị trường quyết định. Ở Việt Nam, ngay cả tỷ giá hối đoái chính thức cũng có vài loại: tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại, và tỷ giá hạch toán. Tỷ giá mua vào và bán ra ngoại tệ niêm yết tại một số ngân hàng để phục vụ khách đổi tiền là tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại có tính thêm phí dịch vụ. Còn tỷ giá đổi tiền tại các cửa hàng kinh doanh vàng bạc ngoại tệ của tư nhân hay khi đổi tiền trong nhân dân chính là tỷ giá hối đoái song song. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và Tỷ giá hối đoái thực tế Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá hối đoái không xét đến tương quan giá cả hay tương quan lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái có xét đến tương quan giá cả giữa hai nước hoặc tương quan tỷ lệ lạm phát giữa hai nước. Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau: Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nước ngoài / Giá nội địa = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Tỷ lệ lạm phát nước ngoài / Tỷ lệ lạm phát trong nước. Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái song phương. Còn tỷ giá hối đoái hiệu lực là tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng tiền khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn). Tỷ giá này được tính dựa trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song phương giữa đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có loại danh nghĩa và loại thực tế 4-/ Những nhân tố tác động tới tỷ giá: Sự hình thành TGHĐ là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó là mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, độ lệch về lãi suất và lạm phát giữa các nước. Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao. Mức chênh lệch về lãi suất giữa các nước là yếu tố thứ hai ảnh huờng đến TGHĐ. Nước nào có lãi suất tiền gửi ngắn hạn cao hơn lãi suất tiền gửi của các nước khác thì vốn ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cho cung ngoại tệ tăng lên, TGHĐ sẽ giảm xuống. Mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do, khi đó tỷ giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền. Nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại. Chênh lệch lạm phát dựa vào thuyết ngang giá sức mua của đồng tiền PPP. Theo thuyết này, mức giá của một nước tăng lên tương đối so với mức tăng giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm cho đồng tiền của nước đó giảm giá và ngược lại. Như vậy, yếu tố chênh lệch lạm phát chỉ có ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá trong dài hạn. Việc nghiên cứu yếu tố này để làm cơ sở dự đoán biến động của tỷ giá trong ngắn hạn sẽ đem lại kết quả không đáng tin cậy. Ngoài những yếu tố nêu trên TGHĐ còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác, chẳng hạn như yếu tố tâm lý, chính sách của chính phủ, uy tín của đồng tiền, nguồn vốn đầu tư vào ra… Nhìn chung, TGHĐ biến động tăng hoặc giảm là do tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, để có một mức tỷ giá phù hợp cho từng thời kỳ, chúng ta cần phải xác định được các yếu tố chủ quan, khách quan; trực tiếp và gián tiếp tác động lên tỷ giá. Trên cơ sở đó, mà đưa ra những quyết định chính sách đúng đắn trong việc điều hành tỷ giá nhằm đạt các mục tiêu kinh tế cụ thể 5-/ Sự can thiệp điều hành tỷ giá: Thông thường, Ngân hàng Trung ương là người thay mặt Chính phủ can thiệp vào thị trường ngoại hối. Ngân hàng Trung ương đóng vai trò quan trọng, to lớn trong việc điều hành tỉ giá song không phải là vô hạn. Trên thị trường ngoại hối ngân hàng Trung ương đóng vai trò kép: Ngân hàng mua bán ngoại tệ và sử dụng các công cụ can thiệp khi cần thiết. a-/ Các loại hình can thiệp của NHTƯ: Can thiệp trách nhiệm: Khi tỷ giá của một đồng tiền trong hệ thống tỷ giá cố định đạt tới cận điểm hoặc đỉnh điểm qui định can thiệp thì phải can thiệp. Theo khuôn khổ hệ thống Bretton-woods, các nước thành viên có trách nhiệm duy trì sự dao động của đồng tiền nước mình trong miền dao động tỷ giá so với USD đã qui định trước. Khi cán cân thanh toán của một quốc gia bị mất cân đối hết sức nghiêm trọng (mặc dù đã dùng mọi biện pháp mà không cải thiện được), thì mới được phép tăng hoặc giảm tỷ giá hối đoái của nội tệ. Can thiệp tự do (ngược lại với can thiệp trách nhiệm): Có thể xảy ra không chỉ trong hệ thống tỷ giá cố định mà ngay cả trong hệ thống tỷ giá thả nổi. Thông thường, sự can thiệp của NHTƯ phải được tiến hành trước khi sự dao động của tỷ giá hối đoái đạt tới những điểm cần can thiệp, nhằm giảm bớt sự căng thẳng của tình hình. Sự can thiệp của NHTƯ vào thị trường ngoại hối, ngoài các hiệu ứng phụ, có 2 hiệu ứng chính sau đây: thứ nhất, tác động trực tiếp vào khối lượng ngoại tệ; thứ hai, gián tiếp gây biến động thông qua mức lãi suất trong nước. b-/ Hệ thống công cụ can thiệp: Phương án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song nó phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành. Mỗi chế độ ngoại hối đều có phương án điều chỉnh can thiệp thích hợp. Trên thực tế, đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp lãi suất chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường hối đoái, quĩ bình ổn hối đoái, giảm giá hoặc tăng giá đồng nội tệ,... Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức “báo động” cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa. Tuy nhiên, chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động một cách qua lại gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá là không giống nhau, do đó những biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút được vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế - chính trị - xã hội không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng 1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trường New-York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp ba thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản. Các nghiệp vụ thị trường hối đoái. Thông qua các nghiệp vụ mua-bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của Nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Một sự can thiệp hữu hiệu trong đó đồng tiền trong nước được bán để mua tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Thu thêm dự trữ quốc tế; (2) Một sự tăng trong cung tiền tệ; (3) Một sự sụt giá của đồng nội tệ. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước được mua bằng cách bán tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Dự trữ quốc tế giảm; (2) Cung tiền tệ giảm; (3) Đồng tiền trong nước tăng giá. Tuỳ điều kiện mỗi quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, qui mô tác động. Với những nước có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên qui mô rộng lớn, đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới. Việc lựa chọn các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỉ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết định. Nếu chủ quan, thiếu cân nhắc đầy đủ kỹ càng việc lựa chọn này thì hậu quả nhiều khi khó mà lường hết được. Điều chỉnh tỷ giá theo phương pháp này, Chính phủ thường gặp phải phản ứng trái ngược nhau của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn tự lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu giữa những người đang nắm giữ trong tay số lượng lớn ngoại tệ và những người trong túi chỉ có nội tệ. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một điều kiện không thể thiếu là Chính phủ phải có một lượng dự trữ ngoại tệ đủ sức để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí hay xảy ra các biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là: - Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia (như Anh, Hà Lan,...) - Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (như Pháp, Mỹ, Thuỵ Sỹ,...) Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng ngoại tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa, việc tạo lập được quĩ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế. Vấn đề phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc giảm thấp sức mua của đồng tiền so với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hoặc giảm của tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng không phải không có sự khác nhau. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên liên tục của Nhà nước nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái được sử dụng làm chuẩn. Khác hẳn với phá giá đồng tiền, một biện pháp mạnh, cực đoan, chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết. Phá giá không phải là giải pháp đúng cho mọi trường hợp. Nó phải được vận dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thích hợp. Nếu không hiệu ứng tiêu cực của hành động phá giá sẽ đẩy tình hình vào thế khủng hoảng trầm trọng hơn. Bên cạnh giảm giá sức mua đồng nội tệ là việc nâng giá sức mua đồng nội tệ. Nó thường được áp dụng trong các trường hợp: - Giá hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu được xác định thấp so với giá trên thị trường quốc tế. - Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nước bạn hàng nhằm tạo thế cân bằng trong thương mại quốc tế. - Tăng khả năng nhập khẩu, kiềm chế lạm phát. - Ngăn ngừa các loại ngoại tệ đang bị mất giá tràn vào nước mình. Sự can thiệp điều hành tỷ giá trong lịch sử không phải luôn giống nhau. Thực tế mỗi công cụ can thiệp điều chỉnh tỷ giá lại được vận dụng một cách linh hoạt tương ứng với mỗi điều kiện, chế độ tỷ giá cụ thể. Trong lịch sử đã xuất hiện các chế độ bản vị vàng, bản vị đô la, chế độ tỷ giá thả nổi, chế độ tỷ giá linh hoạt,... Các chế độ này sẽ được nghiên cứu ở phần tiếp theo. 6-/ Các chế độ tỷ giá trong lịch sử: Chế độ bản vị vàng: Khi áp dụng chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm bản vị (còn gọi là chế độ bản vị vàng) thì việc lựa chọn phương án xử lý tỷ giá ít phải đặt ra vì chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền ít bị mất giá, tỷ giá xác định qua nội dung vàng của các đồng tiền ít khi bị biến động. Trong chế độ bản vị vàng thì biên độ dao động của tỷ giá là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng (vận tải, bảo hiểm, đóng gói và thủ tục phí,...) giữa các nước hữu quan. Biên độ dao động này gọi là “điểm vàng”. Khi tỷ giá vượt qua điểm vàng thì nước mắc nợ sẽ không dùng đồng tiền quốc gia của mình để mua ngoại tệ dùng vào việc trả nợ mà họ sẽ chuyển vàng ra nước ngoài để trả nợ. Với đặc trưng này, chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, sức mua đồng tiền ít bị biến động. Để biết chế độ bản vị vàng hoạt động như thế nào ta hãy xem xét ví dụ sau: kho bạc Mỹ chấp nhận đổi 1USD lấy 1/20 lạng vàng, ở Anh 1 Bảng đổi được 1/4 lạng vàng. Do đó, tỷ giá hối đoái giữa đồng Bảng Anh và đồng USD Mỹ là 1 Bảng = 5 USD. Bây giờ đồng Bảng Anh bắt đầu tăng giá cao hơn 5 USD. Nếu một người nhập khẩu Mỹ mua thực phẩm ở Anh trị giá 100 Bảng thì họ phải trả nhiều hơn 500 USD so với trước. Song người nhập khẩu có cách lựa chọn khác, đó là mua vàng bằng 500 USD ở Mỹ rồi trả số vàng đó sang Anh để thanh toán tiền hàng. Việc chở vàng sang Anh rẻ hơn khi giá đồng Bảng Anh vẫn cao hơn giá 5 USD (cộng thêm số tiền chi phí vận chuyển vàng từ Mỹ sang Anh). Việc chuyển vàng từ Mỹ sang Anh làm cho cơ số tiền tệ của Anh tăng lên và cơ sở tiền tệ của Mỹ giảm xuống. Kết quả tăng lên trong cung ứng tiền tệ làm tăng mức giá cả của Anh trong khi việc cung ứng tiền tệ của Mỹ giảm xuống làm mức giá cả của Mỹ giảm xuống. Kết quả mức giá tại Anh tăng lên so với mức giá tại Mỹ làm cho đồng Bảng Anh giảm giá. Quá trình này tiếp tục cho đến khi giá trị của đồng Bảng Anh giảm xuống trở lại bằng 5 USD. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chế độ này tỏ ra có nhiều ưu điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách tự phát, không cần đến sự can thiệp của Nhà nước theo cơ chế: Sự tăng giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng kim loại trong nền kinh tế. Chế độ tỷ giá cố định Bretton woods (1944). Theo chế độ này, tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của USD Mỹ (1 USD = 0,888671 gam vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại quĩ tiền tệ quốc tế (IMF). Nếu vượt quá biên độ này thì Ngân hàng Trung ương phải can thiệp bằng cách mua vào hoặc bán ra một số lượng USD nhất định. Theo chế độ này, vàng vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau qua cái cầu nối là USD (lúc bấy giờ 1 ounce = 35 USD). Từ cuối những năm 50 trở đi, vai trò của Mỹ ngày càng giảm sút trên thị trường thế giới, cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt, dự trữ suy giảm và nợ nước ngoài tăng đã làm cho đồng USD ngày càng mất giá nghiêm trọng. Sự mất giá liên tục của đồng USD làm cho nạn đầu cơ trên các thị trường hối đoái quốc tế tăng lên. Hàng tỷ USD được tung ra trên thị trường để mua cái đồng tiền được giá. Các Ngân hàng Trung ương của các thành viên IMF cũng không đủ sức can thiệp để giữ giá đồng USD theo nguyên tắc tỷ giá cố định Bretton-woods. Trong bối cảnh đó, Mỹ buộc phải phá giá đồng USD. Đồng USD - đồng tiền chủ chốt, chỗ dựa cho các đồng tiền khác, trở nên bất ổn định kéo theo sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton-woods. Chế độ tỷ giá thả nổi (Floating rate): Chế độ tỷ giá thả nổi ra đời sau khi chế độ tỷ giá cố định Bretton - woods sụp đổ. Với chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá được hình thành trên cơ sở diễn biến của cung và cầu ngoại hối trong nền kinh tế mà không bị ràng buộc như trước đây. Tỷ giá thả nổi có vai trò rất quan trọng trong điều tiết xuất - nhập khẩu và góp phần làm ổn định trở lại nền kinh tế đang có nguy cơ suy thoái. Thả nổi tỷ giá là xu hướng tất yếu của kinh tế thị trường, song việc áp dụng nó như thế nào lại là vấn đề phải cân nhắc kỹ để lựa chọn. Do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới còn có những sự khác nhau nhất định nên tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể mà các nước tự lựa chọn cho mình một chế độ phù hợp. Đến nay chế độ tỷ giá thả nổi được chia làm 2 loại: - Chế độ tỷ giá thả nổi tự do. - Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Chế độ tỷ giá thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can thiệp nào của Chính phủ hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định, tuy nhiên trên thực tế thì hầu như không có chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Chế độ tỷ giá này được áp dụng ở những nước có nền kinh tế phát triển cao, thị trường tài chính phát triển và hoàn chỉnh. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là chế độ mà trong đó cung - cầu ngoại hối là cơ bản, nhưng không phải hoàn toàn, trong những trường hợp cần thiết Chính phủ sẽ có những biện pháp can thiệp nhằm giữ vững sự ổn định sức mua đồng tiền trong nước. Lựa chọn chế độ tỷ giá nào luôn là bài toán hóc búa đối với mọi quốc gia. Thực tế đã chứng minh đó là cả một nghệ thuật. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã thành công trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp. Bên cạnh đó, không ít quốc gia đã phải trả giá đắt cho việc sai lầm khi lựa chọn chế độ tỷ giá. Qua đây, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích vận dụng vào thực tế ở Việt Nam. Kinh nghiệm lựa chọn chế độ tỷ giá một số nước và thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá ở Việt Nam sẽ được phân tích sâu hơn ở Phần II. PHẦN II KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM I-/ KINH NGHIỆM LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC Chế độ tỷ giá cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có quản lý đều có mặt tích cực và mặt hạn chế nhất định. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá nào phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nó phụ thuộc vào mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì. Mỗi chế độ tỷ giá lại có một cơ chế hoạt động riêng. Việc vận dụng sáng tạo, hợp lý chế độ tỷ giá vào nền kinh tế không phải đơn giản, dễ dàng. Thực tế, việc lựa chọn chế độ tỷ giá không hợp lý sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã cho thấy điều đó. 1-/ Đức: Nước Đức lựa chọn cho mình chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Chính phủ Đức đã can thiệp điều hành tỷ giá để chống lại khủng hoảng kinh tế (sản xuất giảm tuyệt đối, lạm phát cao, thất nghiệp hàng loạt) đầu những năm 80. Chính phủ Đức mưa toan tìm lối thoát thông qua giải pháp mở rộng xuất khẩu bằng lợi thế phá giá, thế nhưng năm 1980 khi DM mất giá 12% lại là năm Đức có mức xuất siêu thấp nhất (8,9 tỷ DM). Lúc đó ở Đức có hai cách nhìn nhận vấn đề phá giá. Một là, sẽ cải thiện. Hai là, làm giá nhập khẩu tăng, khuyến khích lạm phát lên cao. Đến lượt mình lạm phát tất yếu tác động tiêu cực vào xuất khẩu, sản xuất. Vậy là hiệu ứng phá giá tan mất, tình hình thêm phức tạp. Còn các chủ xuất khẩu Đức thừa nhận phá giá DM hoàn toàn không thể khắc phục khó khăn. Kề từ 1/1980 chưa đầy hai năm, DM đã 5 lần mất giá so với USD với mức đáng kể (14 đến 15%), song tỷ giá lại nhanh chóng quay trở lại mức xuất phát điểm trước khi phá giá. Chiến lược khôi phục kinh tế của Đức lúc bấy giờ thất bại, ngoài các nhân tố nội địa, còn chịu tác động không thể cưỡng nổi từ chính sách đồng tiền nặng của Chính quyền Rigân (vốn từ Đức, Anh “tháo chạy” sang Mỹ, Canada,...). Vấn đề kinh tế của Đức chỉ được giải quyết khi Chính phủ mới của ông Hellmut Kol áp dụng phương sách khác: giảm can thiệp Nhà nước; sử dụng các cơ chế, chính sách tài chính; giảm mạnh thuế; khuyến khích sản xuất nội địa; thực thi chính sách thắt chặt. 3-/ Các nước ASEAN và NICs Các nước ASEAN và NICs theo đuổi chính sách tỷ giá ổn định, hướng về xuất khẩu. Theo đó, việc can thiệp vào tỷ giá của Chính phủ nhằm ổn định tỷ giá, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài. Không một nước nào chủ trương phá giá làm động lực cho xuất khẩu, vai trò của tỷ giá chỉ là hỗ trợ. Việc điều chỉnh tỷ giá ở các nước này có một số điểm chung: Thứ nhất, do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên lúc đầu họ áp dụng nhiều loại tỷ giá, nội tệ định giá cao trong cơ chế cố định. Sau thời kì 1971-1973 thực hiện phá giá, sau đó nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức và thị trường. Thứ hai, khi đạt được tỷ giá thị trường cân đối, họ áp dụng cơ chế điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu là chính. Các nước gắn nội tệ vào giỏ ngoại tệ mạnh. Thứ ba, các nước nỗ lực ổn định hoá các quan hệ tỷ giá, tỷ giá hối đoái thực tế, có dự trữ ngoại tệ để khống chế biên độ dao động của tỷ giá ở mức thấp. Thứ tư, khi tỷ giá tăng họ điều chỉnh tỷ giá để không cản trở xuất khẩu, song luôn gắn bó việc điều chỉnh này với nhiệm vụ khống chế lạm phát. Thứ năm, nhìn chung đồng nội tệ của các nước này có xu hướng tăng giá ổn định so với USD. Việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định, ổn định hoá các quan hệ tỷ giá hướng vào xuất khẩu trong thời gian đầu đã phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên việc theo đuổi chế độ tỷ giá này trong một thời gian dài đã dẫn đến những bất cập. Nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua. Khi nợ nước ngoài đến thời kì đáo hạn lại là lúc cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nghiêm trọng. Mặc dù nguồn ngoại tệ lúc này khan hiếm nhưng hoạt động xuất khẩu lại bị chững lại. Do đó nguồn thu ngoại tệ không đủ bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai. Chính phủ các nước vẫn tiếp tục tung dự trữ ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định. Lợi dụng tình hình đó, nhà đầu cơ người Mỹ Soros đã đầu cơ vào đồng tiền các nước ASEAN. Khi ngoại tệ khan hiếm tới đỉnh điểm, đồng nội tệ có nguy cơ phải phá giá thì Soros bán khống một lượng lớn nội tệ ra thị trường làm cho đồng bản tệ hoàn toàn mất giá. Chính phủ Thailand phải tuyên bố phá giá đồng Bath, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, chấm dứt chế độ tỷ giá cố định. Qua các sự kiện khủng hoảng ở Đức, bão táp tài chính ASEAN chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích. Việc theo đuổi, áp dụng chế độ tỷ giá nào là cả một nghệ thuật. Nên chăng Việt Nam sẽ gắn chặt đồng nội tệ với đồng tiền nước khác, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định (như các nước ASEAN) hay sẽ chủ trương thả nổi hoàn toàn tỷ giá và phá giá nội tệ để chống đỡ khủng hoảng, hướng về xuất khẩu. Áp dụng máy móc một chế độ tỷ giá nào đều là sai lầm bởi vì mỗi chế độ tỷ giá đều có mặt mạnh và mặt hạn chế. Việc lựa chọn, áp dụng chế độ tỷ giá như thế nào là hợp lý, phù hợp với đặc thù của Việt Nam sẽ được phân tích kỹ ở phần tiếp theo. II./ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 1-/ Bối cảnh lạm phát và chế độ tỷ giá thời gian qua ở Việt Nam "Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo, lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này." Ý kiến của TS.Nguyễn Quang A Lạm phát ở Việt Nam được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của một rổ gồm 494 mặt hàng thiết yếu, chia ra làm 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ. Tỷ trọng, tỷ lệ đóng góp vào CPI (còn gọi là quyền số) của sự tăng giá của các nhóm hàng và dịch vụ chính là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống 42,85% (trong đó lương thực 9,86 và thực phẩm 25%); nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng 9,99%; giao thông, bưu chính viễn thông 9,04%; thiết bị đồ dùng gia đình 8,62%; may mặc, mũ nón, giày dép 7,21%  Đóng góp vào CPI của mỗi nhóm hàng bằng sự thay đổi giá của các nhóm hàng đó (so với thời điểm gốc, thí dụ năm trước, tháng trước) nhân với quyền số tương ứng. CPI bằng tổng của những đóng góp đó. Với tỷ trọng gần 43% sự gia tăng giá thức ăn góp phần rất lớn vào CPI ở Việt Nam.Sự đóng góp của thức ăn vào CPI như sau: Hình 1. Đóng góp của thức ăn vào chỉ số giá cả (%, trục bên trái); chỉ số giá tiêu dùng (trục phải) ở Việt Nam. Qua đây ta cũng thấy diễn biến của CPI (so với cùng kỳ năm trước, đường cong tính theo trục bên phải). Có thể thấy đóng góp vào CPI của thức ăn luôn cao (cỡ 50 đến 80%) ở Việt Nam. Theo”FAO Food Price Index”-chỉ số giá thức ăn thế giới nghiên cứu bởi FAO(tổ chức Lương Nông của Liên Hợp Quốc) thì biến động chỉ số giá thức ăn thế giới từ 2005 đến 3-2008 có thể thấy trên Hình 2 dưới đây.   Hình 2: Biến động chỉ số giá thức ăn thế giới (trục hoành: từ tháng 1 đến tháng 12) từ năm 2005 đến tháng 3-2008 (so với mức giá 1998-2000 được lấy là 100), nguồn FAO Có thể thấy từ tháng 10-2006 chỉ số giá thức ăn thế giới bắt đầu tăng nhanh nhưng đến tháng 3-2007 vẫn dưới 140 điểm, nhưng từ tháng 4-2007 đến tháng 3-2008 đã từ 140 lên trên 220. Giá thức ăn trong nước không nhất thiết tăng theo giá thế giới, tuy nhiên do độ mở khá cao của nền kinh tế Việt Nam giá thức ăn trong nước (và đóng góp vào CPI của nó) cũng bắt đầu tăng nhanh từ tháng 4-2007 như có thể thấy trên Hình 1, dù lạm phát vẫn ở mức dưới 8%. Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh theo nhịp độ tăng giá thức ăn thế giới từ tháng 9-2007, nhất là trong 4 tháng đầu năm 2008 khi CPI tháng 4 lên đến 21,42% so với tháng 4-2007(lương thực tăng 25,1%; thực phẩm tăng 15,6% so với tháng 12-2007).  Tất nhiên lạm phát không chỉ do tăng giá thức ăn gây ra, việc tăng giá năng lượng, vật liệu (với quyền số gần 10%) cũng góp phần không nhỏ, và giá thế giới của các mặt hàng đó cũng tăng cao. Tăng trưởng tín dụng, lượng cung tiền cũng góp phần tăng lạm phát. Tuy nhiên nguyên nhân chính của lạm phát trong thời gian qua là sự tăng giá thức ăn và năng lượng trên thế giới đã tác động đến giá của các mặt hàng có quyền số lớn như đã nêu ở trên. Và nếu vậy thì các biện pháp chống lạm phát bằng hình thức thắt chặt chính sách tiền tệ là chưa hoàn toàn trúng.  Vấn đề là ở chế độ tỷ giá hối đoái. Đồng Việt Nam đã được neo vào đồng USD từ lâu. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines (phil), Trung Quốc (China), Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh). Biến động tỷ giá như vậy từ 1-2005 đến tháng 4-2008 được biểu hiện trên Hình 3 dưới đây: Hình 3: Tỷ giá VND/USD giai đoạn tháng 1/2005 đến tháng 9/2007 Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc,  Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5978.doc