Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình hiện nay

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế cá thể, tiểu chủ có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, gắn liền với sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa. Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển theo mô hình kế hoạch hóa tập trung bao cấp, chỉ tồn tại một hình thức sở hữu công hữu với hai thành phần kinh tế: quốc doanh và tập thể. Do đó, kinh tế cá thể, tiểu chủ không được tạo điều kiện phát triển, hơn nữa còn bị coi là “phi XHCN”, là “đối tượng cải tạo XHCN”. Mặc

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dù vậy, trên thực tế nó vẫn hoạt động dưới dạng “kinh tế ngầm”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức thực tiễn, trong đổi mới tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế. Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm giải phóng và khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển LLSX, kinh tế cá thể, tiểu chủ có điều kiện phục hồi và phát triển. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, bộ phận kinh tế này ở nước ta đã phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định là một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế quốc dân. Theo số liệu từ cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp năm 2002, hàng năm tỷ trọng đóng góp của kinh tế cá thể, tiểu chủ vào tổng sản phẩm trong nước ở mức trên 30%. Đồng thời, kinh tế cá thể, tiểu chủ còn đóng vai trò rất quan trong việc giải quyết việc làm. Đến năm 2005, khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ cả nước đã có trên 3 triệu hộ hoạt động trong các ngành và các lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp và trên 10 triệu hộ hoạt động sản xuất nông nghiệp, thu hút khoảng 28,6 triệu lao động tham gia làm việc (chiếm 65,6% số lao động có việc làm cả nước và 74,6% lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh) [4, tr.233]. Do đó, kinh tế cá thể, tiểu chủ đã góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, rất thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội mang tính đặc thù đó đã tạo điều kiện cho kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình phát triển nhanh chóng, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp với mô hình kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Hiện nay kinh tế cá thể, tiểu chủ đã và đang có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh. Trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh tế cá thể, tiểu chủ đang chiếm giữ tỷ trọng rất lớn. Theo số liệu của Cục Thống kê Thái Bình năm 2004 cho thấy: kinh tế cá thể, tiểu chủ chiếm tới 38,4% giá trị sản xuất nông nghiệp; 77,7% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ và chiếm 45,4% giá trị sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình còn bộc lộ nhiều yếu kém, hạn chế như: quy mô nhỏ bé, phân tán, manh mún, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề của người lao động thấp, sức cạnh của hàng hóa thấp... Mặt khác, những khó khăn vướng mắc về cơ chế chính sách, về tâm lý xã hội... cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của bộ phận kinh tế này. Trên thực tế kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Vì vậy, với mong muốn được góp phần làm rõ hơn những cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế cá thể, tiểu chủ, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển trong phạm vi cả nước nói chung, Thái Bình nói riêng, vấn đề: "Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình hiện nay" được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kinh tế cá thể, tiểu chủ là vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp cả về lý luận và giải pháp thực tiễn. Do vậy, nó đã và đang là đối tượng nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học. Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau, được công bố dưới dạng chuyên đề, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các kỷ yếu đề tài cấp bộ, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí…như: - GS.TS Hồ Văn Vĩnh (chủ biên), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến vị trí, vai trò của KTTN trong nền kinh tế nhiều thành phần; vấn đề quản lý của nhà nước đối với KTTN, thực trạng KTTN ở nước ta, phương hướng, giải pháp, chiến lược phát triển KTTN trong tình hình hiện nay. - TS. Hà Huy Thành (chủ biên), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân - lý luận và chính sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân, đánh giá, phân tích thực trạng phát triển khu vực KTTN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, đồng thời trình bày những quan điểm, chính sách và đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTTN trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Luận văn thạc sĩ Đồng Hương Gấm, Kinh tế tư nhân ở tỉnh Lạng Sơn, thực trạng và giải pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Tác giả đã phân tích, đánh giá vị trí, vai trò và xu hướng vận động của KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN. Phân tích thực trạng KTTN ở tỉnh Lạng Sơn, từ đó đề ra những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả KTTN ở Lạng Sơn. - Lê Xuân Tùng, Các thành phần kinh tế và quan hệ sản xuất, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989. Tác giả đã đề cập đến các quan điểm lý luận và nhận thức mới của Đảng ta về cách mạng QHSX, những chính sách mới của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. - Cùng một số bài viết của các tác giả: PGS.TS Nguyễn Đình Kháng; TS. Lê Xuân Bá, PGS.TS Hồ Trọng Viện, PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên. Tóm lại, với nhiều mức độ và cách tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu phân tích những đặc điểm, vai trò, thực trạng của kinh tế cá thể, tiểu chủ, đề xuất những giải pháp thúc đẩy phát triển bộ phận kinh tế này ở nước ta. Song, cho đến nay chưa có nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được công bố, tôi hy vọng góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trên địa bàn tỉnh Thái Bình. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Mục đích nghiên cứu của luận văn là khẳng định vị trí, vai trò của kinh tế cá thể, tiểu chủ, làm rõ xu hướng vận động của nó, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình, trong đó nhấn mạnh những vấn đề đặt ra, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp phù hợp để phát triển bộ phận kinh tế này ở Thái Bình trong thời gian tới. - Nhiệm vụ: + Đánh giá vị trí, vai trò của kinh tế cá thể, tiểu chủ trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. + Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển của kinh tế cá thể, tiểu chủ (thuộc thành phần KTTN) ở Thái Bình hiện nay: Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân. + Luận chứng những quan điểm cơ bản và đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Kinh tế cá thể, tiểu chủ (thuộc thành phần KTTN). - Phạm vi nghiên cứu: Địa bàn tỉnh Thái Bình trong giai đoạn (từ năm 2001 đến nay). 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, những chủ trương, chính sách của Nhà nước về các thành phần kinh tế nói chung, kinh tế cá thể, tiểu chủ nói riêng. Ngoài ra, luận văn kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài. - Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp lôgíc và lịch sử. Ngoài các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, điều tra… 6. Những kết quả đạt được của luận văn - Trên cơ sở lý luận chung, luận văn phân tích, khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của kinh tế cá thể, tiểu chủ và xu hướng vận động của nó trong nền KTTT định hướng XHCN. - Đánh giá đúng thực trạng kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Thái Bình, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng của bộ phận kinh tế này ở tỉnh Thái Bình hiện nay. - Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành trong tỉnh, tham khảo, hoạch định các chính sách nhằm phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ nói riêng và phát triển kinh tế, xã hội nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 kinh tế cá thể, tiểu chủ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.1. Những vấn đề lý luận về kinh tế cá thể, tiểu chủ 1.1.1. Khái niệm, bản chất và các hình thức tổ chức của kinh tế cá thể, tiểu chủ 1.1.1.1. Khái niệm kinh tế cá thể, tiểu chủ * Về kinh tế cá thể: Trong sự phân loại các thành phần kinh tế của V.I Lênin không có tên thành phần kinh tế cá thể, nó được Người sử dụng bằng khái niệm “kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ”. ở nước ta khái niệm kinh tế cá thể xuất hiện vào thời kỳ cải tạo XHCN (1958 - 1960) khi có phong trào hợp tác hóa mà thực chất là tập thể hóa đưa các hộ sản xuất kinh doanh độc lập, riêng lẻ vào kinh tế tập thể dưới các hình thức HTX. Trong Chỉ thị 81/CT – TW (14/5/1958), có đoạn viết: “Đặc điểm của thủ công nghiệp cá thể là sản xuất phân tán, vốn ít, công cụ thô sơ kỹ thuật lạc hậu...”. ở đây kinh tế cá thể được quy định bởi hai tiêu thức: một là trình độ thấp; hai là sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Các loại hình kinh tế có thuộc tính nhỏ lẻ phân tán đã được gộp chung lại vào một khái niệm “kinh tế cá thể”. Như vậy, kinh tế cá thể là loại hình kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân những người nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán kinh doanh dịch vụ, hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX và lao động chủ yếu của chính hộ hay cá nhân đó. * Về kinh tế tiểu chủ: Trong sự phân loại thành phần kinh tế của V.I Lênin cũng không có thành phần kinh tế tiểu chủ. Cũng như kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ là loại hình kinh tế được nâng lên thành thành phần kinh tế, là một khái niệm xuất hiện trong thực tế đúng ra là tên gọi một loại hình kinh tế. Khái niệm thành phần kinh tế tiểu chủ cũng được ra đời trong điều kiện cải tạo XHCN nền kinh tế. Trong những năm vừa qua, thực hiện công cuộc đổi mới với những chủ trương chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước ta, kinh tế nông thôn đã có bước khởi sắc. Các mô hình kinh tế trang trại đã hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong các trang trại ngoài lao động trong gia đình còn phải thuê mướn thêm một số lao động. Do vậy, kinh tế trang trại là một hình thức của kinh tế tiểu chủ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Đồng hành với kinh tế trang trại, các làng nghề truyền thống cũng được phục hồi và phát triển nhanh chóng, các làng nghề đã được thu hút và sử dụng một số lượng lớn lao động, thu hút nguồn vốn rất lớn trong dân cư, tạo nhiều việc làm thúc đẩy sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn và thành thị. Trong điều kiện đó, một số người sản xuất cá thể đã trở thành tiểu chủ trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp. Như vậy, kinh tế tiểu chủ cũng là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX như kinh tế cá thể nhưng có thuê thêm lao động ngoài lao động của chủ. Loại hình kinh tế tiểu chủ đã được ghi nhận trong Báo cáo Chính trị tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII và được khẳng định lại tại Đại hội Đảng lần thứ VIII. Từ sự trình bày trên có thể định nghĩa: “kinh tế CT, TC (của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp và dịch vụ cá thể) bao gồm những đơn vị kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân quy mô nhỏ về TLSX và hoạt động chủ yếu dựa vào sức lao động của từng hộ” [40, tr.14]. Đại hội Đảng lần thứ IX, trong chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã khẳng định: "Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, hình thành nhiều thành phần kinh tế" [16, tr.98], cụ thể gồm 6 thành phần: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế CT, TC; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, kinh tế CT, TC tại Đại hội Đảng lần thứ IX được thừa nhận là một trong sáu thành phần kinh tế. Đến Đại hội X, với quan điểm: Phải có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng phát triển, không phân biệt đối xử, kỳ thị, định kiến với bất cứ thành phần kinh tế nào. Ban Chấp thành Trung ương khoá IX đã biểu quyết nhất trí nêu phương án để trình với Đại hội về vấn đề thành phần kinh tế. Theo phương án này, ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế như sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu [17, tr.336]. Đại hội X khẳng định ở nước ta tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; KTTN; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Việc phân định các thành phần kinh tế của Đại hội IX và Đại hội X có sự khác nhau, song nội hàm khái niệm kinh tế CT, TC vẫn không thay đổi. 1.1.1.2. Bản chất của kinh tế cá thể, tiểu chủ Khi nghiên cứu lý luận về thành phần kinh tế chúng ta thấy tiêu thức cơ bản để xác định một thành phần kinh tế, một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, thuộc về thành phần kinh tế nào chính là dựa trên QHSX mà cơ sở của nó là quan hệ sở hữu về TLSX. Do vậy, khi nghiên cứu bản chất của kinh tế CT, TC phải xem xét trên ba mặt của QHSX đó là quan hệ sở hữu về TLSX, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. * Xét về quan hệ sở hữu: Kinh tế CT, TC dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX. Đó là hình thức sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm chủ yếu bằng sức lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình. Đây không phải là hình thức đặc trưng của một phương thức sản xuất nhất định mà nó tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Riêng với bộ phận kinh tế tiểu chủ cũng dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX nhưng có sự thuê mướn nhân công ngoài lao động của chủ. Vậy bản chất của các loại hình kinh tế này là gì? Nó có khác với kinh tế tư bản tư nhân (bộ phận có bóc lột lao động làm thuê) không? kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tiểu chủ giống nhau ở chỗ: cùng thuê mướn lao động, lao động làm thuê tạo ra một lượng giá trị thặng dư nhất định cho người chủ. Như vậy tiêu chí chung để xác định một ông chủ là nhà tư sản ở chỗ: họ có thuê mướn nhân công và bóc lột giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Nhưng không phải bất cứ người nào thuê mướn lao động cũng trở thành nhà tư bản. Sự phân biệt giữa nhà tư bản và người tiểu chủ được thể hiện ở chỗ: khi người chủ còn trực tiếp tham gia lao động và chưa phải là chủ của một số tiền nhất định đủ để: + Mua các TLSX cần thiết. + Thuê sức lao động để hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận họ thu được phải đủ: đảm bảo cho gia đình và bản thân họ có mức sống cao trong xã hội; có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, thì họ vẫn là người tiểu chủ. Từ sự phân tích trên ta thấy kinh tế tiểu chủ khác với kinh tế tư bản tư nhân ở chỗ: người chủ sở hữu TLSX vẫn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Bản thân họ và các thành viên trong gia đình vẫn là lực lượng lao động chính trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Số lao động làm thuê không nhiều và giá trị thặng dư do lao động tạo ra không đáng kể, quy mô vốn đầu tư thấp hơn so với kinh tế tư bản tư nhân. Do đó, mặc dù có thuê lao động nhưng nguồn thu nhập của kinh tế tiểu chủ vẫn chủ yếu dựa vào vốn và lao động của bản thân và gia đình người chủ. * Xét về quan hệ quản lý: Do dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX, quan hệ quản lý của bộ phận kinh tế này có đặc điểm: dựa trên sự tự điều hành, tổ chức, phân công công việc trong nội bộ gia đình dựa trên quyền lực của người chủ trong gia đình. Các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ phục tùng sự phân công, điều khiển của người chủ đối với các vấn đề sản xuất kinh doanh. Quan hệ giữa người chủ gia đình với các thành viên trong gia đình không phải là quan hệ chủ thợ hay quan hệ bóc lột mà là quan hệ mang tính chất gia trưởng. Tuy vậy, trong quá trình phát triển nhiều hộ CT, TC do nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất đã thuê nhân công. Như vậy đã xuất hiện mầm mống bóc lột, nhưng chừng nào người chủ vẫn trực tiếp tham gia lao động sản xuất, nguồn thu nhập chủ yếu vẫn dựa vào lao động của họ và gia đình thì ranh giới giữa bóc lột và bị bóc lột vẫn chưa được xác định rõ ràng. * Xét về quan hệ phân phối: Thực chất của quan hệ phân phối là giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất. Phân phối phải đảm bảo được lợi ích của các cá nhân mới nâng cao được hiệu quả kinh doanh. Phân phối phải dựa trên quan hệ sở hữu về TLSX. Đối với kinh tế CT, TC do dựa vào sức lao động của bản thân là chủ yếu, nên sản phẩm và kết quả lao động chủ yếu thuộc về chính hộ hay cá nhân đó. ở đây quan hệ phân phối là sự tự phân phối trong nội bộ gia đình của các hộ kinh doanh nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của các thành viên trong gia đình. Đối với các hộ tiểu chủ có thuê mướn nhân công thì phân phối kết quả sản xuất còn căn cứ vào giá trị sức lao động của lao động làm thuê. Nhờ thực hiện quan hệ phân phối như vậy nên các loại hình kinh tế CT, TC đã gắn kết được lợi ích vật chất của các thành viên trong hộ với kết quả sản xuất kinh doanh, phát huy được khả năng sáng tạo, lòng nhiệt tình lao động của từng thành viên, nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ đối với tài sản, nguồn vốn và hiệu quả kinh doanh của cơ sở sản xuất kinh doanh CT, TC. 1.1.1.3. Các hình thức tổ chức kinh doanh của kinh tế cá thể, tiểu chủ Như trên đã trình bày kinh tế CT, TC được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động chủ yếu dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX và lao động của chính hộ gia đình hay cá nhân đó. Do đó về hình thức tổ chức kinh doanh, kinh tế CT, TC ở nước ta chủ yếu được tổ chức dưới hình thức hộ gia đình sản xuất kinh doanh. Trong nông nghiệp hình thức tổ chức cơ bản của kinh tế CT, TC là hộ nông dân tự chủ và trang trại gia đình. ở nước ta hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về việc xếp kinh tế hộ nông dân vào thành phần kinh tế tập thể hay kinh tế CT, TC. Từ khi Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4/1988) ra đời, các hộ nông dân được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, vì vậy hộ nông dân đã được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ. Với việc được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cùng với 5 quyền của người sử dụng ruộng đất (theo luật đất đai) họ đã trở thành những người chủ trên thực tế. Trên cơ sở chính sách của Nhà nước, hộ nông được tự do lựa chọn phương hướng sản xuất, xác định quy mô tổ chức, hình thức tổ chức quản lý và tự do hạch toán kinh doanh. Như vậy, hộ nông dân là người trực tiếp tổ chức thực hiện quá trình sản xuất và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế. Trong khi đó các HTX hiện nay không còn quản lý hộ nông dân theo kiểu cũ mà chỉ hỗ trợ một số khâu dịch vụ nhất định trong quá trình sản xuất cho các hộ nông dân. Do đó hiện nay hộ nông dân về thực chất là hộ CT, TC và được xếp vào kinh tế CT, TC. Trang trại gia đình cũng là một trong những hình thức tổ chức kinh doanh của kinh tế CT, TC nó thuộc loại hình kinh tế tiểu chủ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức ra đời phổ biến từ kinh tế hộ, phát triển dựa trên cơ sở tích tụ quyền sử dụng đất đai, vốn, lao động và các chủ thể kinh doanh, hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích thu lợi nhuận cao. Xét về QHSX thì trang trại gia đình cũng giống như kinh tế hộ nông dân, cũng dựa trên sở hữu cá thể về TLSX nhưng có trình độ chuyên môn hoá cao hơn, quy mô ruộng đất, vốn và lao động lớn hơn, do đó hiệu quả kinh tế cũng cao hơn nhiều so với kinh tế hộ nông dân. Như vậy, kinh tế trang trại chính là hộ tiểu chủ trong nông nghiệp. Kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay được coi là điểm tựa để phát triển hàng hoá quy mô lớn, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, mặt nước, tạo việc làm, đem lại cách làm mới, phát triển thị trường ở nông thôn. Trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ, kinh tế CT, TC được tổ chức dưới hình thức xưởng, thợ gia đình, các hộ kinh doanh thương mại và dịch vụ. Với những tiềm năng và thế mạnh của các làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã tạo điều kiện cho một số người sản xuất cá thể vươn lên mở rộng quy mô sản xuất, thu hút và sử dụng một khối lượng khá lớn lao động, vốn và trở thành những tiểu chủ trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp. 1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của kinh tế cá thể, tiểu chủ Trên cơ sở phân tích khái niệm, bản chất và các hình thức tổ chức của kinh tế CT, TC, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, kinh tế CT,TC là loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh mang tính chất của một hộ gia đình. Mối quan hệ giữa các thành viên trong hộ chủ yếu là quan hệ hôn nhân, huyết thống. Trong gia đình, các thành viên gắn bó với nhau bởi quan hệ ruột thịt, vợ chồng con cái, ông bà, anh em đã gắn kết họ thành một khối thống nhất, có trách nhiệm cao đối với tài sản, vốn liếng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hộ kinh tế CT,TC thực sự là một khối thống nhất không thể tách rời giữa quyền sử dụng đất đai, quyền tham gia lao động và quyền phân phối sản phẩm của các thành viên trong hộ. Các thành viên đều có chung một mục đích và có sự thống nhất rất cao về lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Mỗi người trong hộ đều lao động theo khả năng và trách nhiệm gắn với vai trò của họ trong gia đình. Do đó, mô hình kinh tế hộ cho phép hạn chế đến mức tối đa các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Trong hộ, mọi người hiểu rõ năng lực, sở trường của từng thành viên nên việc bố trí, sắp xếp công việc tương đối phù hợp, hiệu quả. Quan hệ quản lý ở đây là trực tuyến nên thông tin nhanh chóng. Chính vì vậy, hộ CT, TC là loại hình có sự nhất trí cao trong khâu tổ chức quản lý sản xuất. Mô hình kinh tế hộ, bên cạnh những lợi thế cũng có những hạn chế nhất định: do dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nên không tránh khỏi xu hướng biệt lập, khép kín, mang nặng tính tự cung tự cấp. Do đó, họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nắm bắt thông tin thị trường, hạn chế khả năng tiếp thị, quảng bá cho sản phẩm dẫn tới khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm cũng như trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, sản xuất kinh doanh của kinh tế CT, TC chủ yếu là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ lao động thấp, dễ bị phân hoá trong nền KTTT. Quy mô sản xuất kinh doanh của hộ CT, TC là quy mô nhỏ (cả về diện tích đất canh tác, quy mô vốn, lao động). Do quy mô sản xuất nhỏ nên đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng không nhiều lao động, nên hộ CT, TC có thể chủ động thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh, dễ dàng đối phó với những biến động thị trường. Song, cũng do quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít nên các cơ sở sản xuất kinh doanh không có điều kiện để trang bị những máy móc hiện đại, dẫn tới công nghệ lạc hậu, nhất là trong các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Trong nông nghiệp lao động thủ công vẫn là chủ yếu. Do đó, năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Do bản chất của kinh tế CT, TC dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX, hình thức tổ chức của kinh tế CT, TC là hộ nông dân tự chủ nên trình độ lao động của bộ phận kinh tế này rất thấp. Các chủ hộ sản xuất kinh doanh (trong nông nghiệp) là những người nông dân, phần lớn trong số họ có trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp. Không ít người trong số họ có tư tưởng cố hữu, bảo thủ, trì trệ. Những đặc tính này đã gây trở ngại cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật và cách thức làm ăn mới vào sản xuất nông nghiệp. Có thể nói, kinh tế CT, TC là loại hình mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, kinh doanh manh mún, tự cung tự cấp, do đó dễ bị phân hoá trong nền KTTT. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế CT, TC ở nước ta nói chung. Chính đặc điểm này quy định xu hướng phát triển của bộ phận kinh tế này trong tương lai. Thứ ba, hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ CT, TC vừa nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của các thành viên trong hộ vừa nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Hộ CT, TC là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng (tiêu dùng của hộ xét cả khía cạnh tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho các cá nhân), nó ảnh hưỏng trực tiếp đến sản xuất của hộ. Nó là đơn vị sản xuất tự thực hiện quá trình tái sản xuất dựa trên cơ sở phân bố các nguồn lực (lao động, đất đai, vốn, kỹ thuật, nguồn thu nhập) vào các ngành sản xuất để thực hiện tất cả các chức năng của nó nhằm mục đích đảm bảo tiêu dùng cá nhân và thu lợi nhuận. Do có sự kết hợp cả hai mục đích: tiêu dùng và lợi nhuận, nên nguyên tắc kinh doanh theo đuổi mục tiêu lợi nhuận luôn được kết hợp chặt chẽ với các giá trị gia đình. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh không thuận lợi, do sức ép của nhu cầu trong gia đình, các hộ sản xuất kinh doanh CT, TC vẫn sẵn sàng tiếp tục hoạt động sản xuất (cho dù không có lợi nhuận hoặc ít lợi nhuận) để duy trì việc làm cho các thành viên trong gia đình. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vì nếu mua máy móc để sử dụng thay lao động thủ công, thì số lao động trong gia đình sẽ thất nghiệp. Chính vì vậy, kinh tế CT, TC là loại hình kinh tế có ý nghĩa chiến lược tình thế, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Thứ tư, kinh tế CT, TC là loại hình hoạt động sản xuất đa ngành, trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong hầu hết các khâu của quá trình sản xuất -xã hội hoạt động ở khắp các địa bàn từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi. Tuy cơ cấu sản xuất kinh doanh của kinh tế CT, TC phong phú đa dạng, hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế nhưng nông nghiệp vẫn là ngành chủ yếu và là cơ sở cho mọi hoạt động kinh tế của các hộ CT, TC. Bởi vì mục tiêu chính của nông nghiệp gia đình vẫn nhằm đảm bảo đủ khẩu phần lương thực tối thiểu cho mọi thành viên trong hộ gia đình, sau đó mới tính đến lợi nhuận. Do đó sản xuất nông nghiệp luôn được coi là cơ sở kinh tế cho phép kết hợp và phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các hộ CT,TC ở nước ta. Hơn nữa kinh tế CT, TC với cơ cấu đa ngành nghề hoạt động khắp các địa bàn nên nó có khả năng to lớn trong việc huy động, khai thác và sử dụng tối đa các tiềm năng sẵn có như: vốn, lao động, tay nghề, bí quyết nghề, đất đai… tận dụng thời gian và không gian để phát triển sản xuất. Chính vì vậy, nó là bộ phận kinh tế tạo nhiều việc làm cho lao động, nhất là lao động nhàn rỗi ở địa bàn nông thôn, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do các hộ CT, TC sinh sống chủ yếu ở nông thôn, miền núi với điều kiện sản xuất, kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, thiếu thông tin nên các hộ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hóa, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Tóm lại, kinh tế CT, TC ở nước ta dù hoạt động ở lĩnh vực nào, địa bàn và môi trường nào cũng mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản nói trên. Tuy nhiên, tùy từng loại hình tổ chức của kinh tế CT, TC có thể biểu hiện ở những mức độ khác nhau. Với những đặc điểm trên chúng ta khẳng định kinh tế CT, TC là loại hình sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của một nền kinh tế kém phát triển, sản xuất nhỏ còn phổ biến đang trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. 1.2. Vai trò và xu hướng vận động của kinh tế cá thể, tiểu chủ 1.2.1. Vai trò của kinh tế cá thể, tiểu chủ đối với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Thực tiễn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã cho thấy kinh tế CT, TC ở nước ta đã trở thành lực lượng kinh tế quan trọng và có những đóng góp đáng kể vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước. Đến nay, khu vực kinh tế CT, TC cả nước đã có trên 3 triệu hộ hoạt động trong các ngành và các lĩnh vực kinh tế và trên 10 triệu hộ hoạt động sản xuất nông nghiệp (chiếm khoảng hơn 20 triệu lao động) [29, tr.122]. Riêng hộ CT, TC phi nông nghiệp phát triển rộng khắp ở thành thị và nông thôn, đặc biệt ở hàng trăm làng nghề. Kinh tế CT, TC đã góp phần quan trọng vào tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, huy động các nguồn vốn đầu tư vào phát triển, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. 1.2.2.1. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo Lao động - việc làm là vấn đề đặc biệt quan tâm của toàn xã hội. Đảng và nhà nước ta luôn đặt vấn đề lao động - việc làm vào vị trí hàng đầu trong các chính sách kinh tế, xã hội, coi đó là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng cần phải giải quyết. - Nhu cầu hàng năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực lớn đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương, bởi lẽ: không có việc làm sẽ dẫn tới tình trạng “thất nghiệp” – một trong những nguyên nhân cơ bản gây suy thoái kinh tế và làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như: trộm cắp, ma tuý, buôn lậu, nghèo đói... Do đó, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư không chỉ là những vấn đề kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc. - Hiện nay, kinh tế CT, TC đang đóng vai trò quyết định trong giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao, nhu cầu việc làm mới rất lớn. Tuy trong mấy năm vừa qua tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có giảm (từ 6,44% năm 2000 xuống 6,01% năm 2002 và 5,6% năm 2003), tỷ lệ thời gian không lao động ở nông thôn khoảng 26 - 27% và cũng đang có xu hướng giảm, nhưng hiện nay, với 1,5 – 1,8 triệu lao động mới bổ sung hàng năm thì sức ép tạo việc làm mới vẫn còn rất lớn đối với nước ta. Trong khi đó, theo con số thống kê năm 200._.3, khu vực kinh tế nhà nước mới giải quyết được việc làm cho 3,858 triệu lao động (chiếm gần 10% lực lượng lao động cả nước) [1, tr. 59]. Lao động trong khu vực này có đang có xu hướng giảm do cải cách hành chính và sắp xếp lại. Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cũng đang trong quá trình chuyển đổi và có xu thế giảm tỷ lệ lao động. Số lao động còn lại của cả nước (90%) thuộc về KTTN (trong đó chủ yếu của kinh tế CT, TC). Trong điều kiện đó, kinh tế CT, TC càng khẳng định vai trò to lớn trong giải quyết việc làm cho đại bộ phận lao động trong toàn xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước. - Trên thực tế, kinh tế CT, TC có những điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn lực lao động, ở chỗ: + Kinh tế CT, TC thích hợp với quy mô vốn nhỏ, suất đầu tư cho một chỗ làm việc của khu vực kinh tê này thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. + Không hoặc ít có nhu cầu tăng quy mô vốn. + Không cần đầu tư vào công nghệ vừa đòi hỏi vốn lớn, vừa rủi ro cao. + Nhanh chóng thu hồi vốn, đồng thời vừa năng động, vừa dễ rút ra khỏi thị trường. + Là khu vực kinh doanh phù hợp với tâm lý kinh doanh của người Việt Nam. Do quy mô vốn nhỏ nên các cơ sở sản xuất kinh doanh CT, TC có khả năng thích nghi rất cao với điều kiện nông thôn, nơi có nhiều lao động dôi dư, lao động nông nhàn, trình độ dân trí thấp và đời sống còn nhiều khó khăn. Với những ưu thế trên, kinh tế CT, TC trong những năm gần đây đã thu hút được khối lượng lớn lao động. Theo công bố của Ban chỉ đạo điều tra lao động – việc làm Trung ương cho thấy: lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7/2005 trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, tập trung chủ yếu trong khu vực KTTN là 38,355 triệu người, chiếm 88,2% số lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước [2, tr.5]. Trong đó số lao động làm việc trong khu vực KTTN thì lao động trong hộ kinh doanh CT, TC có số lượng lớn (28,6 triệu lao động, chiếm 65,6% số lao động có việc làm cả nước, 74,6% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh) [4, tr. 182]. Trong 5 năm (2001 – 2005) khu vực KTTN (trong đó có kinh tế CT, TC) đã thu hút hơn 2 triệu việc làm mới. Hiện nay cả nước có 151.004 doanh nghiệp dân doanh và trên 10 triệu hộ kinh doanh CT, TC, đã và đang đảm bảo cho khoảng 90% lực lượng lao động trong xã hội có việc làm [4, tr. 184]. Nhờ tạo ra việc làm cho người lao động, kinh tế CT, TC đã góp phần tạo ra thu nhập cho các tầng lớp dân cư, cải thiện đời sống nhân dân. Hiện nay thu nhập bình quân của một lao động trong khu vực kinh tế CT, TC khoảng 600.000 đồng/người/tháng. Mức thu nhập bình quân trên tuy còn khiêm tốn nhưng có ý nghĩa rất to lớn trong việc cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo và thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Như vậy, có thể nói, trong điều kiện lực lượng lao động ở nước ta ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, trong khi khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể khả năng thu hút lao động rất hạn chế thì kinh tế CT, TC ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần xoá đói giảm nghèo. 1.2.2.2. Kinh tế cá thể, tiểu chủ khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được khởi xướng từ Đại hội VI là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm mục đích giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Những chủ trương đó đã được tiếp tục khẳng định qua các kỳ đại hội Đảng, được cụ thể hoá bằng các văn bản, pháp luật của Nhà nước, tạo nên môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế, mọi người dân yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh. Nhờ vậy đã khơi dậy được những nguồn lực, những tiềm năng còn tiềm ẩn trong dân cư, phát huy sức sáng tạo của nhân dân, huy động ngày càng nhiều các nguồn lực về vốn, lao động, tài nguyên... cho công cuộc CNH, HĐH nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu kinh tế , xã hội. Một trong những tiềm năng lớn của kinh tế CT, TC là nguồn vốn: Kinh tế CT, TC tuy quy mô nhỏ nhưng với số lượng lớn cơ sở sản xuất kinh doanh CT, TC nên đã huy động được nhiều nguồn vốn nằm rải rác trong dân cư vào sản xuất kinh doanh. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong 5 năm 2001 – 2005, tổng vốn đầu tư của kinh tế CT, TC có đăng ký kinh doanh là 23.378 tỷ đồng. Các trang trại đã thu hút 11.500 tỷ đồng [4, tr.183]. Ngoài ra còn nhiều cơ sở quy mô quá nhỏ, nhiều hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp hoặc sản phẩm có tính chất thời vụ nên chủ hộ không đăng ký kinh doanh và chưa có những điều tra tổng thể nên chưa xác định được tổng nguồn vốn mà các hộ CT, TC đầu tư. Thực tế số vốn kinh doanh của các hộ CT, TC còn lớn hơn nhiều so với số đăng ký. Có thể nói các số liệu trên chưa phản ảnh thật đầy đủ nhưng cũng cho thấy sự đóng góp của kinh tế CT, TC trong việc huy động vốn vào đầu tư phát triển ở nước ta thời gian qua. Ngoài nguồn vốn, kinh tế CT, TC cũng tạo nhiều điều kiện thuận lợi để huy động một nguồn nhân lực lớn cho phát triển sản xuất kinh doanh. ở nông thôn, hình thức kinh doanh hộ và trang trại thu hút một lượng lao động khá lớn. ở thành thị, các cơ sở cá thể và tiểu chủ kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, thủ công nghiệp, là những nơi tạo ra khá nhiều việc làm. Đây không những là nơi thu hút, giải quyết việc làm mà còn là môi trường để phát huy khả năng sáng tạo, tính năng động, nhạy bén trong sản xuất kinh doanh của người lao động. Trên thực tế, đã có không ít những chủ thể sản xuất kinh doanh CT, TC đã trở thành những cá nhân điển hình tiên tiến, có những sáng kiến, kinh nghiệm tạo ra những sản phẩm mới, được xã hội công nhận tôn vinh. Họ thực sự là những người dám, nghĩ dám làm, tự chịu trách nhiệm trước những thử thách của cơ chế thị trường. Chính họ là nguồn lực quan trọng, trong tương lai sẽ trở thành những ông chủ xí nghiệp lớn, bứt phá khỏi quy mô nhỏ, trở thành những doanh nhân làm chủ cơ sở sản xuất quy mô lớn hơn. Cùng với việc huy động một khối lượng lớn về vốn và lao động, khu vực kinh tế CT, TC còn khai thác và sử dụng các nguồn lực khác như: đất đai, tài nguyên, công nghệ nhỏ truyền thống ở địa phương... ở nước ta, một số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều diện tích đất chưa được đưa vào sử dụng. Do vậy, với việc phát triển kinh tế CT, TC đặc biệt với loại hình kinh tế trang trại, nhiều diện tích đất đã được đưa vào sử dụng có hiệu quả. Bên cạnh việc khai thác và sử dụng những nguồn lực trên, kinh tế CT, TC còn có vai trò quan trọng trong khôi phục và phát triển những ngành nghề truyền thống. Với những phương pháp đào tạo nghề theo kiểu “cha truyền con nối”, với những kinh nghiệm và bí quyết trong sản xuất kinh doanh, kinh tế CT, TC đã góp phần lưu giữ và khôi phục lại những ngành nghề truyền thống có thời gian đã bị mai một. Hiện nay cả nước có 2.017 làng nghề, trong đó có khoảng 300 làng nghề truyền thống (kể cả phố nghề) có từ hàng trăm năm nay, bao gồm hàng triệu gia đình, thu hút hàng triệu lao động [4, tr.184]. Các làng nghề đã có mặt ở hầu khắp các địa phương trên cả nước, nhiều địa phương đã có những làng nghề truyền nối trong từng hộ gia đình, từng dòng họ với những sản phẩm nổi tiếng đặc trưng cho từng vùng như: làng gốm Bát Tràng (Hà Nội); chạm khắc gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh), chiếu cói Nga Sơn, dệt thổ cẩm (Hoà Bình), Chế tác đá mỹ nghệ Non nước (Đà Nẵng)... Qua đó phát huy được những kinh nghiệm sản xuất, tay nghề, bí truyền sản xuất, kinh nghiệm quản lý đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ trong từng gia đình và dòng họ, gắn công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy, với tính chất phong phú, đa dạng, gọn nhẹ, linh hoạt, năng động, kinh tế CT, TC có ưu thế về khả năng huy động các nguồn lực phân tán tại chỗ như: vốn, lao động, đất đai, tài nguyên, công nghệ truyền thống... vào sản xuất kinh doanh. Nhờ đó giải quyết việc làm cho đông đảo người lao động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. 1.2.2.3. Kinh tế cá thể, tiểu chủ đóng góp quan trọng vào việc gia tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) và đóng góp ngân sách nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Sự phát triển kinh tế CT, TC thời gian qua đã khơi dậy những tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế, xã hội. Nguồn tiềm năng đó là trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh, tiền vốn, sức lao động, tài nguyên và các nguồn lực khác. Nhờ khai thác và sử dụng tốt những nguồn tiềm năng này vào quá trình sản xuất, kinh tế CT, TC đã tạo ra một khối lượng lớn sản phẩm cho xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập của người lao động, tạo động lực thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển, góp phần vào tăng trưởng của nền kinh tế. Kinh tế CT, TC trong thời gian qua đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của cả nước và tăng ngân sách nhà nước. Bảng 1.1: Giá trị sản lượng của kinh tế cá thể, tiểu chủ trong GDP của nền kinh tế [32, tr.53] 1995 1998 2000 2002 2003 2004 Tổng giá trị sản phẩm (tỷ đồng) 82.450 125.335 142.705 169.122 196.084 225.116 Tỷ trọng trong GDP (%) 36,0 34,0 32,3 31,6 31,6 31,5 Qua bảng trên, giá trị sản lượng của kinh tế CT, TC trong GDP của nền kinh tế có xu hướng ngày càng tăng. Bình quân hàng năm bộ phận kinh tế này đã đóng góp vào GDP cả nước 32,8% - một tỷ lệ khá cao so với các thành phần kinh tế khác. Như vậy, trong thời gian vừa qua, kinh tế CT, TC đã góp phần cùng các thành phần kinh tế khác thúc đẩy nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao (7,51%) liên tục trong năm năm 2001 – 2005 [17, tr. 14] Không chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kinh tế CT, TC còn góp phần làm tăng ngân sách nhà nước. Năm 2000: kinh tế CT, TC cùng với kinh tế tư bản tư nhân nộp ngân sách 11.003 tỷ đồng, chiếm 16,1% tổng thu ngân sách nhà nước, trong đó hộ nông nghiệp nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp là 1.598 tỷ đồng. Năm 2001: nếu dựa vào tỷ trọng của kinh tế CT, TC trong thu nộp ngân sách nhà nước thì số tiền lên đến 2.020 tỷ đồng, riêng hộ nông nghiệp nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp là 630 tỷ đồng [3, tr.34]. Theo số liệu của Bộ tài chính: năm 2004 số thu từ KTTN (trong đó có kinh tế CT, TC và tư bản tư nhân đạt khoảng 13.100 tỷ đồng, chiếm khoảng 7,8% tổng thu ngân sách nhà nước. Nếu loại số thu từ dầu khí và thu xuất nhập khẩu (thường chiếm 60% tổng thu ngân sách nhà nước) thì KTTN đóng góp 13% tổng ngân sách nhà nước [1, tr.10]. Ngoài đóng góp trực tiếp vào ngân sách, một số hộ CT, TC còn tích cực tham gia và có đóng góp đáng kể vào xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở tất cả các địa phương trong cả nước. Qua những số liệu trên cho thấy, những đóng góp của kinh tế CT, TC vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước là không nhỏ, nó càng khẳng định vai trò to lớn trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta. 1.2.2.4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam là nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở khu vực nông thôn và hơn 60% lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, Việt Nam đang thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Trong thời gian qua, cơ cấu kinh tế đang có bước chuyển dịch tích cực: + Trong GDP: Tỷ trọng nông nghiệp từ 24,5% năm 2000, giảm xuống còn 20,9% năm 2005. Tỷ trọng công nghiệp từ 36,7% năm 2000, tăng lên 41% năm 2005. Tỷ trọng dịch vụ 38,8% năm 2000 và năm 2005 đạt 38,1% [17, tr. 145]. Để thực hiện mục tiêu của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là: “đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp hơn 2,1 lần so với năm 2000; Trong 5 năm 2006 – 2010, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5 – 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP khu vực nông nghiệp khoảng 15 – 16%; công nghiệp và xây dựng 43 – 44%; dịch vụ 40 – 41% [17, tr. 24-25], thì một trong những giải pháp quan trọng là đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế CT, TC. Thực tế đã cho thấy, kinh tế CT, TC có vai trò to lớn trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH, bởi vì: Hiện nay, ở nước ta kinh tế CT, TC chiếm tuyệt đại bộ phận của ngành nông nghiệp cũng như khu vực kinh tế nông thôn. Các hình thức kinh tế hộ gia đình của nông dân, kinh tế trang trại và các cơ sở sản xuất kinh doanh CT, TC hoạt động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn đang có xu hướng phát triển khá nhanh, tạo nên sự thay đổi to lớn bộ mặt của nhiều vùng nông thôn. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong những năm gần đây nông thôn cả nước có 18 – 20% số hộ gia đình tham gia hoạt động phi nông nghiệp. ở những vùng nông thôn có hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng cả giá trị và lao động nông nghiệp giảm, lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tăng, thu nhập của người lao động nhờ đó cũng tăng thêm. Trong những năm gần đây, số cơ sở sản xuất và lao động CT, TC phi nông nghiệp có xu hướng tăng. Theo kết quả tổng điều tra các cơ sở sản xuất kinh doanh CT, TC 2 năm 2003 và 2004 của Tổng cục thống kê cho thấy: Bảng 1.2: Số cơ sở và lao động của khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp [33] 2003 2004 Tổng số cơ sở (cơ sở) 2.712.177 2.913.907 - Công nghiệp 782.622 760.042 - Thương mại 1.924.555 2.153.865 Tổng số lao động (người) 4.842.622 4.988.232 - Công nghiệp 1.987.401 1.842.752 - Thương mại 2.855.261 3.145.480 Qua bảng trên cho thấy, năm 2004 số cơ sở và lao động của khu vực kinh tế CT, TC phi nông nghiệp đều tăng so với năm 2003, chứng tỏ cơ cấu lao động đã có sự dịch chuyển từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp. Như vậy, sự phát triển của kinh tế CT, TC đã thu hút ngày càng nhiều lao động nông nghiệp vào các ngành phi nông nghiệp. Có thể nói, các cơ sở sản xuất kinh doanh CT, TC trong lĩnh vực phi nông nghiệp là những chủ thể cơ bản ban đầu đóng vai trò thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng CNH, HĐH. Cùng với sự gia tăng số cơ sở, lao động trong các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì ngay trong lĩnh vực nông nghiệp, các hộ sản xuất nông nghiệp cũng đang phát triển theo hướng như: phân vùng chuyên canh, ứng dụng công nghệ sinh học (nuôi trồng những giống cây, con có hiệu quả kinh tế cao, phương pháp canh tác tiên tiến); cơ giới hoá sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến nông sản, mở rộng các ngành, nghề... Từ đó, tỷ trọng các ngành nông nghiệp (nông, lâm nghiệp, thuỷ sản) trong cơ cấu các ngành kinh tế giảm (tuy số lượng tuyệt đối vẫn tăng) và tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Đồng thời, với sự phát triển kinh tế CT, TC, thúc đẩy sản xuất nông phẩm hàng hoá, mở rộng thị trường nội địa, thực hiện thuỷ lợi hoá và xây dựng đường giao thông nông thôn, phát triển thông tin liên lạc, các khu thương mại dịch vụ, vui chơi giải trí..., từ đó làm thay đổi bộ mặt văn hoá nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, đó cũng là yếu tố góp phần vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1.2.2.5. Kinh tế cá thể, tiểu chủ sản xuất ra nhiều hàng hoá đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Với đặc điểm là sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, hoạt động trên khắp các địa bàn cả nước, cùng với tiềm năng sẵn có, kinh tế CT, TC đã và đang tỏ rõ là một bộ phận kinh tế quan trọng, cung cấp đầy đủ và kịp thời các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu cho toàn xã hội. Tuy số lượng sản phẩm mỗi đơn vị sản xuất ra không nhiều do quy mô nhỏ, nhưng với số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh CT, TC lớn, nên đã tạo ra được một khối lượng lớn các sản phẩm hàng hoá đa dạng, phong phú về chủng loại và mẫu mã, từ các mặt hàng giản đơn đến các mặt hàng cao cấp, từ những nhu cầu tiêu dùng nhỏ nhất: như cái kim, sợi chỉ, hộp tăm, đôi đũa... đến những nhu cầu lớn, xuất khẩu những hàng cao cấp ra nước ngoài. Trong những năm qua, các sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu như: hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản, gạo, cà phê, thủ công mỹ nghệ, rau quả, thực phẩm, gỗ và sản phẩm từ gỗ phần lớn được cung cấp từ các bộ phận kinh tế này. Có thể nói kinh tế CT, TC là những đơn vị sản xuất nắm bắt rất nhanh các yêu cầu của thị trường để từ đó tìm cách đáp ứng nó. Chính vì vậy, bộ phận kinh tế này không những góp phần tạo ra khối lượng lớn hàng hoá phục vụ nhu cầu thị trường và xuất khẩu mà còn góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng như: tạo sự cân đối quỹ hàng hoá, tiền tệ, bình ổn giá cả, cân đối phát triển kinh tế giữa các vùng, ổn định đời sống nhân dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Tóm lại, kinh tế CT, TC là một khu vực năng động, đầy tiềm năng, đang không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Với những vai trò của kinh tế CT, TC nêu trên đã chứng tỏ chủ trương, đường lối chính sách của Đảng ta về phát triển bộ phận kinh tế này là hoàn toàn đúng đắn. Mặc dù còn những hạn chế nhất định như “tính tự phát sinh ra CNTB” nhưng những đóng góp của kinh tế CT, TC cho nền kinh tế đất nước trong thời gian qua là không thể phủ nhận. Để tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò của kinh tế CT, TC, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nó đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần có những chủ trương, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ bộ phận kinh tế này phát triển trong thời gian tới, để cùng với các thành phần kinh tế khác thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. 1.2.3. Xu hướng vận động của kinh tế cá thể, tiểu chủ Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều hình thức sở hữu TLSX, trong đó có hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX. Như phần trên đã nghiên cứu, bản chất của loại hình sở hữu này, sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX hay sở hữu tư nhân cá thể, sở hữu tiểu chủ là sở hữu của người sản xuất trực tiếp (nông dân, thợ thủ công, tiểu thương). Xét về bản chất, sở hữu tư nhân cá thể, sở hữu tiểu chủ là cơ sở kinh tế của cá nhân (của từng hộ gia đình) người lao động, là cơ sở để vận dụng sức lao động của từng cá nhân và gia đình người lao động. Điều này quy định sự hạn chế của sở hữu tư nhân cá thể trong phát triển LLSX: “nó gạt bỏ sự tập trung sản xuất nên nó cũng gạt bỏ sự hợp tác, sự phân công lao động trong cùng một quá trình sản xuất, gạt bỏ việc thống trị xã hội điều tiết, gạt bỏ sự phát triển tự do của LLSX xã hội, nó chỉ thích hợp với những giới hạn tự nhiên chật hẹp của sản xuất xã hội mà thôi [25, tr.591]. Vì vậy, để phát triển LLSX thì không thể duy trì loại hình sở hữu tư nhân cá thể và kinh tế cá thể, vì: “muốn làm cho phương thức sản xuất này tồn tại vĩnh viễn thì điều đó có nghĩa là muốn ra lệnh giữ lạimột tình trạng kém cỏi phổ biến” [25, tr.592]. Tuy nhiên, cũng cần nhận rõ sở hữu tư nhân cá thể là cơ sở của nền sản xuất nhỏ mà nền sản xuất nhỏ lại là điều kiện để hình thành sản xuất lớn. Muốn có sản xuất lớn, con đường tự nhiên tất yếu là sở hữu tư nhân CT, TC phải chuyển hoá thành sở hữu tư bản tư nhân, kinh tế CT, TC phải chuyển thành kinh tế tư bản tư nhân. Chỉ có ở trình độ này sở hữu tư nhân mới có khả năng xã hội hoá LLSX. Khi LLSX được xã hội hoá, đến lượt nó lại đòi hỏi xã hội hoá sở hữu tư bản tư nhân ở trình độ cao hơn để mở đường cho nó phát triển. Chính từ nhận thức đó, chúng ta phải xem xét xu hướng phát triển của kinh tế CT, TC để có những định hướng cho nó đi đúng quỹ đạo của XHCN. Đề ra những chính sách khuyến khích nó phát triển, phát huy những mặt tích cực, những tiềm năng thuộc về thế mạnh của bộ phận kinh tế này, đồng thời hạn chế, ngăn chặn những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế. Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, kinh tế CT, TC vận động theo các xu hướng cơ bản sau: Một là, phát triển kinh tế CT, TC phải gắn với sự phát triển kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá hay sản xuất hàng hoá là nền kinh tế mà ở đó các chủ thể sản xuất ra sản phẩm để bán, chính vì vậy trong nền kinh tế hàng hoá các chủ thể sản xuất kinh doanh phải sản xuất ra sản phẩm để bán và thu lại giá trị bằng tiền của hàng hoá. Có nghĩa là quá trình sản xuất phải mang lại thu nhập tính bằng tiền cho người sản xuất. Trong thực tế, một số hộ CT, TC vẫn còn tình trạng tự cấp tự túc (ngay cả các hộ sản xuất bậc trung, hộ giàu có, khá giả), với mục đích sản xuất chỉ đảm bảo đủ số lương thực thực phẩm cần thiết cho gia đình mình, khi có sản phẩm dư thừa mới đem ra thị trường bán. Những hộ này sống sung túc nhưng lại có ít tiền nên sức mua rất thấp. Chính loại hộ bậc trung, khá giả nhưng mang tính chất tự cấp, tự túc này là trở ngại cho phát triển nông nghiệp hợp lý và sự phát triển KTTT. Cạnh tranh gay gắt sẽ thúc đẩy sự phân hoá các hộ nông dân bậc trung này thành những người bị phá sản phải đi làm thuê và một số ít trở thành chủ trang trại kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, mua sức lao động trên thị trường. Xu hướng vận động của các hộ này là: - Nếu không muốn bị phân tán thì phải thành lập các HTX hay các tổ, nhóm hợp tác để tập trung quyền sử dụng đất hoặc hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. - Phân hoá 2 cực như nói trên. - Làm vệ tinh cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, kể cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước, như: cung ứng nguyên liệu, nông sản theo hợp đồng ổn định, dài hạn, nhận gia công... Vì vậy, các hộ tự cấp, tự túc trong quá trình vận động, thông qua các chính sách và biện pháp thích hợp, sẽ dần dần chuyển thành các hộ sản xuất hàng hoá. Đến một trình độ nhất định, hình thành các xu hướng phát triển phù hợp hơn để tính “tự cung tự cấp” sớm bị tiêu vong. Hai là, kinh tế CT, TC phát triển gắn liền với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. Về lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh rằng, các thành phần kinh tế tuy có bản chất kinh tế, xã hội khác nhau, nhưng do sự phân công lao động xã hội nên các thành phần kinh tế đó không thể tồn tại một cách biệt lập mà có mối liên hệ tác động lẫn nhau và phụ thuộc vào nhau. Các thành phần kinh tế, các khu vực kinh tế chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ phụ thuộc vào nhau qua các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Các thành phần kinh tế là những bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Như vậy, mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò nhất định trong nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau. Chính trong những mối liên hệ ràng buộc phụ thuộc lẫn nhau đó đã tạo tiền đề, cơ sở thúc đẩy nhau cùng phát triển năng động theo cơ chế thị trường. Chính vì vậy, đòi hỏi việc định hướng, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế CT, TC phải được đặt trong một tổng thể chiến lược phát triển chung của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong mối quan hệ với chiến lược phát triển của các thành phần kinh tế khác. Đồng thời phải tạo môi trường kinh tế, xã hội thuận lợi cho các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng trước pháp luật. Ba là, phát triển kinh tế CT, TC phải kết hợp các mục tiêu độc lập tự chủ, CNXH trong cơ chế thị trường mở cửa hội nhập quốc tế. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, con đường của Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Sự lựa chọn đó đã được lịch sử chứng minh và thực tiễn sau 20 năm đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, chứng tỏ sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới chỉ là định hướng chung của đất nước. Do vậy, cần phải làm rõ và cụ thể hoá nó trong điều kiện cơ chế thị trường mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau năm 1986 đã tạo môi trường và điều kiện cho kinh tế CT, TC phát triển. Song chúng ta cần nhận rõ các thành phần KTTN (trong đó có kinh tế CT, TC) đều thuộc phạm trù kinh tế dễ chệch hướng, tự phát sang CNTB, là “hậu bị quân” của CNTB, “hàng ngày, hàng giờ tự phát sinh ra CNTB” như nhận xét của Lênin. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, với vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước, với sự phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và nhất là các chủ thể của kinh tế CT, TC đều là nhân dân lao động, được rèn luyện và thử thách qua các cuộc đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo thì nguy cơ chệch hướng sang CNTB khó trở thành hiện thực. Mặc dù vậy, để kinh tế CT, TC phát triển đúng định hướng XHCN, chúng ta cần phải: một mặt, không ngừng phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, tạo điều kiện để kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; mặt khác, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế CT, TC để hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của nó, hướng sự phát triển của bộ phận kinh tế này đi theo đúng quỹ đạo XHCN mà ta đã lựa chọn trong điều kiện cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế. Bốn là, liên kết, hợp tác là xu hướng vận động khách quan của kinh tế CT, TC. Với đặc điểm của kinh tế CT, TC: quy mô nhỏ lẻ, phân tán, manh mún, hoạt động chủ yếu dựa vào lao động của cá nhân các thành viên trong gia đình, vốn ít, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh hàng hoá yếu... Bên cạnh đó, cùng với tác động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, cạnh tranh sẽ dẫn tới xu hướng vận động của kinh tế CT, TC bị phân hoá thành 2 loại: + Thứ nhất: Một bộ phận có khả năng về vốn, có kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, quản lý, có đầu óc tổ chức sản xuất kinh doanh, có thể dần dần tích luỹ vốn, tích tụ tư liệu sản xuất và lao động để phát triển thành kinh tế trang trại (trong nông nghiệp) hoặc kinh tế tiểu chủ (trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp). Trong số này có một bộ phận sẽ vươn lên trở thành những doanh nghiệp có quy mô sản xuất kinh doanh lớn mà ta thường gọi là kinh tế tư bản tư nhân. Thực tiễn khả năng đã và đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta, cụ thể là: cả nước đã có 130.000 trang trại, 66.750 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh và 2.017 làng nghề tiểu thủ công nghiệp [29, tr.122]. + Thứ hai: Đại bộ phận các hộ sản xuất cá thể muốn tồn tại và phát triển được trong nền KTTT thì sớm hay muộn cũng phải liên kết hợp tác lại với nhau dưới nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ hợp tác 1-2 khâu hay nhiều khâu tuỳ thuộc ở nhu cầu của sản xuất và trình độ phát triển của LLSX quyết định. Thực tiễn của nền kinh tế nước ta hiện nay cho thấy: trong lĩnh vực nông nghiệp đã có khoảng 50 triệu dân với 10 triệu hộ nông dân đã chuyển sang kinh tế hộ tự chủ; trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở thành thị và nông thôn cũng đã khôi phục và phát triển với 3 triệu hộ kinh doanh CT, TC [29, tr.122]. Các khu vực này đang phát triển quan hệ liên kết, hợp tác và thành lập HTX kiểu mới. Tính đến 30/6/2004, cả nước có 16.899 liên hiệp HTX, thu hút 13,6 triệu lao động [24, tr.5]. Tóm lại, các xu hướng vận động và phát triển nói trên của kinh tế CT, TC xét cho cùng đó là quá trình thực hiện xã hội hoá nền sản xuất trên cơ sở xã hội hoá sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn trên cả các mặt LLSX, QHSX, phương thức tổ chức quản lý, nền sản xuất. Con đường hợp quy luật là chuyển hoá sở hữu tư nhân CT, TC thành sở hữu tư bản tư nhân, kinh tế cá thể và tiểu chủ thành kinh tế tư bản tư nhân. Đây là quá trình mang kết quả hai mặt, một mặt tập trung sản xuất để xã hội hoá, một mặt làm phá sản hàng triệu người sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Vì vậy, cần khuyến khích, hỗ trợ các tiểu chủ có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh những ngành nghề có tương lai phát triển, bứt lên thành sản xuất lớn tư bản, số khác khuyến khích trở thành kinh tế tập thể hay những đơn vị vệ tinh gia công cho các doanh nghiệp. Đây cũng là hướng đi tích cực để phát triển. Một vấn đề quan trọng đặt ra: chúng ta không chỉ nhận biết dự báo xu hướng phát triển của kinh tế CT, TC để nhận biết nó sẽ phát triển như thế nào trong thời gian tới mà điều quan trọng là nó sẽ đi theo định hướng nào, nó sẽ vận động, thay đổi như thế nào. Trong điều kiện nền KTTT định hướng XHCN của nước ta, đương nhiên nó mang định hướng XHCN. Chính vì vậy, kinh tế CT, TC phụ thuộc rất nhiều vào vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước. 1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ ở một số nước và một số tỉnh – bài học kinh nghiệm 1.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ ở một số nước và một số tỉnh Trên thế giới hiện nay đã có nhiều nước thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó rất quan tâm tới kinh tế CT, TC. Chính phủ của các nước đã đưa ra các giải pháp chiến lược có tính khả thi nhằm tạo điều kiện phát triển bộ phận kinh tế này. Nhờ vậy, kinh tế CT, TC ở các nước đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kinh tế CT, TC ở Việt Nam đang trong quá trình phục hồi và phát triển. Chính vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc và một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam trong phát triển kinh tế CT, TC để rút ra những bài học cho Thái Bình là hết sức cần thiết. Dưới đây xin nêu một vài ví dụ cụ thể. 1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc là một quốc gia có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, chính trị, xã hội với Việt Nam. Trong quá trình phát triển kinh tế CT, TC ở Trung Quốc cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, cho đến khi Trung Quốc thực hiện công cuộc cải cách kinh tế, bộ phận kinh tế này mới được phục hồi và phát triển. Bước đột phá của công việc cải cách mở cửa theo hướng thị trường của Trung Quốc là sự chuyển biến về nhận thức và thực hiện phát triển KTTN của Đảng cộng sản Trung Quốc. Những năm 1978 – 1987, kinh tế CT,._.dễ dàng và thuận lợi hơn, cụ thể là: + Tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tạo cho khu vực kinh tế CT,TC được bình đẳng trong tiếp cận vốn, bình đẳng về lãi suất. Muốn vậy các trang trại, các hộ, cũng phải được dùng giá trị quyền sử dụng đất vào việc thế chấp để vay vốn ngân hàng. + Về đối tượng cho vay, các tổ chức tín dụng cần tập trung cho vay các đối tượng sau: Đầu tư phát triển các loại cây trồng vật nuôi có khả năng cạnh tranh để tăng khối lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đầu tư phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn, đặc biệt chú trọng đến phát triển các làng nghề. Đầu tư vào những dự án ứng dụng những thành tựu KHCN mới vào sản xuất đổi mới công nghệ, thay thế những máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu. + Đẩy mạnh tốc độ phát triển các dịch vụ ngân hàng. Các tổ chức tín dụng cần đẩy mạnh tốc độ phát triển các dịch vụ nghề, đặc biệt là dịch vụ thanh toán, với tiện ích ngày càng cao, nhanh, chính xác, an toàn, thủ tục thuận tiện để thu hút khách hàng thuộc kinh tế CT,TC đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, mỗi ngân hàng có biện pháp thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản cá nhân, tạo điều kiện để phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, đồng thời hỗ trợ cho hoạt động nắm bắt khách hàng tốt hơn. Nâng cao chất lượng tư vấn, cung cấp thông tin để khách hàng hiểu rõ về quy chế cho vay, lập dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, nhằm tạo điều kiện cho khách hàng trong quá trình thực hiện thủ tục vay vốn. + Tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn. Phát triển kinh tế CT,TC nằm trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Do vậy nhu cầu vay vốn trung và dài hạn tăng nhanh ở bộ phận kinh tế này. Các tổ chức tín dụng cần có định hướng tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn theo các nội dung sau: Xây dựng chính sách lãi suất huy động tiền trung và dài hạn hợp lý để thu hút được nhiều nguồn vốn của khách hàng. Thực hiện bảo hiểm tiền gửi để bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền. áp dụng hình thức huy động vốn phù hợp với nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Trên cơ sở tăng cường được nguồn vốn, các tổ chức tín dụng mới mở rộng việc cho vay trung và dài hạn cho các hộ CT, TC. + Đơn giản hoá các thủ tục vay vốn và nâng cao trình độ thẩm định các dự án xin vay. Sớm cải cách hành chính theo hướng đơn giản hoá các thủ tục vay vốn để các cơ sở kinh doanh CT,TC có thể vay vốn một cách nhanh chóng, kịp thời triển khai các phương án sản xuất kinh doanh. Cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại cán bộ ngân hàng nhằm nâng cao kiến thức, trình độ cho cán bộ, nhân viên ngân hàng, đặc biệt để nâng cao trình độ, thẩm định tín dụng. Tăng cường kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, trên quan điểm nắm bắt tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để có đánh giá tổng quát, nhất về khách hàng cho vay. 3.2.2.4. Chính sách hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ Lao động và khoa học công nghệ là những yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả sản xuất. Để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của thị trường trong điều kiện hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của kinh tế CT, TC, Nhà nước, chính quyền địa phương cần có những chính sách hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao trình độ khoa học – công nghệ cho bộ phận kinh tế này, cụ thể: - Về đào tạo nguồn nhân lực: + Mở rộng, phát triển thêm hệ thống các trường đào tạo nghề và hướng nghiệp ở trong tỉnh để có chương trình đào tạo lao động thích hợp với yêu cầu của thị trường. Cần đầu tư nâng cấp thích đáng cho các cơ sở dạy nghề trên. Hiện nay, toàn tỉnh mới có một số trung tâm dạy nghề như: chi nhánh của trường Đại học Công nghiệp 4 – Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm dạy nghề của Sở Lao động – Thương binh xã hội, một số trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề của các huyện và các cơ sở dạy may công nghiệp. Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo nghề vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học nghề của lao động trong tỉnh, trong đó có lao động của kinh tế CT, TC. + Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng miễn phí để nâng cao trình độ hiểu biết đường lối chủ chương của Đảng, pháp luật của nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là các chủ hộ trong các ngành tiểu thủ công nghiệp, các nghề truyền thống và năng lực kinh doanh cho các chủ hộ, chủ trang trại. + Khuyến khích các hình thức truyền nghề, dạy nghề ở các làng nghề, xã nghề. + Thành lập các trung tâm tư vấn về quản lý, về đầu tư, pháp luật bằng nguồn ngân sách nhà nước và đóng góp của các doanh nghiệp, các hộ CT, TC; hình thành các câu lạc bộ của những chủ trang trại, các hộ trong từng ngành nghề nhằm nâng cao sự hiểu biết về KTTT, am hiểu pháp luật cũng như học tập kinh nghiệm lẫn nhau. - Trên cơ sở nâng cao trình độ chuyên môn cũng như năng lực kinh doanh của các chủ hộ và người lao động của kinh tế CT, TC, cần có biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước, chính quyền tỉnh để đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh của các hộ, nhất là các hộ nông dân. Cụ thể: + Mở rộng, nâng cao hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ CT, TC. Xây dựng phát triển rộng khắp mạng lưới thú y, kiểm dịch động thực vật, giúp các hộ CT, TC trong nông nghiệp xây dựng hệ thống chuồng trại, thường xuyên tổ chức các mô hình, các điểm trình diễn trồng trọt, chăn nuôi với kỹ thuật mới cho năng suất cao, chất lượng tốt. + Khuyến khích ứng dụng công nghệ sinh học (công nghệ gen, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh) trong chọn, tạo và nhân giống, thực hiện công nghệ chế biến, bảo quản nông sản thực phẩm sau thu hoạch. + UBND tỉnh cần xây dựng cơ chế chính sách tạo điều kiện ban đầu cho thị trường khoa học, công nghệ. Xác lập dần yếu tố hình thành quan hệ cung cầu về thị trường khoa học, công nghệ trên địa bàn tỉnh. + Tạo điều kiện về cơ sở vật chất để phát triển khoa học công nghệ như hỗ trợ vốn, ngân sách của địa phương, xây dựng quỹ phát triển khoa học công nghệ, quỹ khen thưởng, chính sách sử dụng nhân tài phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ tại địa phương. 3.2.3. Tích cực mở rộng môi trường tiêu thụ sản phẩm cho các hội cá thể, tiểu chủ Cùng với việc giải quyết vấn đề vốn, nâng cao chất lượng nguồn lao động, đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất thì vấn đề tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho hàng hoá cũng không kém phần quan trọng. Trong điều kiện hiện nay Việt Nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và cuối năm sẽ phấn đấu gia nhập tổ chức Thương mại thế giới - WTO. Sự giao lưu kinh tế đó mở ra cơ hội phát triển nhưng cũng tạo ra thách thức lớn đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh của Việt Nam, đặc biệt là đối với kinh tế CT,TC (bộ phận kinh tế có tiềm lực và sức cạnh tranh yếu). Vì vậy, việc tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của kinh tế CT,TC nhất là hàng nông nghiệp, thuỷ sản càng trở nên hết sức cần thiết. Để giải quyết được vấn đề này, cần có một hệ thống giải pháp thiết thực có tính khả thi nhằm mở rộng thị trường trong và ngoài tỉnh, cụ thể: Thứ nhất, Nhà nước và các cấp chính quyền tỉnh cần có những chính sách và biện pháp giúp các hộ CT, TC tiếp cận thị trường. Nhà nước và các cấp chính quyền tỉnh có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và tổ chức mạng lưới bán buôn và tìm kiếm, giữ vững, mở rộng thị trường cho các thành phần kinh tế nói chung, kinh tế CT,TC nói riêng. Vừa qua, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 80/2002/QĐ - TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Thực hiện quyết định này đã giúp nông dân và các hộ CT, TC khắc phục khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Vì thế, cần tiếp tục tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng rộng khắp và nhanh chóng hơn nữa. Nên thiết lập những trung tâm thông tin đảm bảo cho kinh tế CT, TC nhận được những thông tin cần thiết về pháp luật, chính sách quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Các đài phát thanh, truyền hình tỉnh và các huyện nên mở rộng các kênh thông tin cần cho nhà nông, tăng cường hệ thống báo chí, truyền thanh tới các vùng xa trung tâm. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp các hộ CT,TC tiếp cận thị trường thông tin qua việc tổ chức các hội nghị khách hàng, các hội trợ triển lãm. Tăng cường các hình thức tiếp thị sản phẩm của kinh tế CT,TC trên những phương tiện thông tin đại chúng. Thứ hai, phát triển hệ thống giao thông vận tải, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá của kinh tế CT, TC. Thái Bình từ khi có cầu Tân Đệ việc trao đổi hàng hoá trong tỉnh với các tỉnh khác đựơc thuận lợi hơn, hàng hóa đã được lưu chuyển từ các tỉnh về Thái Bình và ngược lại ngày càng tăng. Tuy vậy, ở một số nơi hệ thống cầu đường đã xuống cấp nhiều vùng dân cư ven sông vẫn phải đi phà qua sông như tuyến giao thông từ Thái Thụy đi sang huyện Vĩnh Bảo – Hải Phòng qua sông Hoá còn phải đi phà. Chính vì thế trong thời gian tới cần nâng cấp và phát triển hệ thống giao thông theo hướng sau: Xây dựng hệ thống giao thông, cầu cống tạo điều kiện lưu thông thuận lợi cho các hộ dân cư. Xây dựng các cầu: Hiệp, Hồng Quỳnh, hoàn thành nâng cấp đường 217, đường từ Vô Hối đi Diêm Điền, đường 39B, đường 223, đường đến các làng nghề, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá của các hộ CT, TC được thuận lợi. Thành lập các tổ chức HTX dịch vụ vận tải phân bổ rõ ràng các tuyến quy định, bến bãi ký kết hợp đồng vận tải hàng hoá tăng cường phát triển các dịch vụ kỹ thuật sửa chữa bảo dưỡng phương tiện vận tải. Thứ ba, phát triển công nghệ chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Hàng nông sản, hàng tươi sống của các hộ CT, TC nếu được bảo quản tốt sẽ có giá trị sử dụng cao và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy, phát triển công nghệ chế biến là một trong những giải pháp quan trọng để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các hộ CT, TC ở Thái Bình. Thực tế những năm vừa qua ở Thái Bình cho thấy các nhà máy, Công ty, đơn vị chế biến đã phát triển mạnh như: Công ty đông lạnh xuất khẩu Diêm Điền, Nhà máy bột cá Thuỵ hải, Nhà máy chế biến nông sản Văn Đạt. Các nhà máy này đã thu mua một khối lượng lớn nguyên liệu nông, thuỷ sản trong dân cư để sản xuất chế biến hàng nông, thuỷ sản xuất khẩu có giá trị cao. Tuy nhiên, hiện nay công nghệ bảo quản sau thu hoạch chưa được chú trọng phát triển, nên phần lớn sản phẩm đựơc tiêu thụ dưới dạng thô và chỉ có thể tiêu thụ trong địa bàn tỉnh. Để phát triển công nghệ chế biến trong thời gian tới cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây: - Thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu,vùng sản xuất chuyên canh tập trung xây dựng cơ sở công nghiệp chế biến gắn cùng với vùng nguyên liệu với các hộ sản xuất nông nghiệp thuỷ sản. - Kết hợp nhiều loại quy mô công nghệ chế biến nhiều trình độ công nghệ từ quy mô nhỏ như hộ gia đình đến quy mô lớn như nhà máy, xí nghiệp chế biến để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm nông, lâm thuỷ sản tạo nhiều việc làm và có thể sử dụng nhiều lao động thủ công… - Có cơ chế chính sách hỗ trợ về thông tin, kỹ thuật giúp cho các hộ trong việc sản xuất nguyên liệu như : Trồng cây gì, nuôi con gì, một mặt để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các xí nghiệp chế biến mặt khác tạo điều kiện tăng năng xuất lao động đem lại thu nhập cho các hộ CTTC đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng CNH, HĐH mà tỉnh đã đề ra. 3.2.4. Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các hình thức liên kết và hợp tác sản xuất kinh doanh giữa các hộ cá thể, tiểu thủ với nhau và với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác Trong nền KTTT, cạnh tranh và hợp tác, liên kết luôn diễn ra, cạnh tranh dẫn tới liên kết và liên kết làm tăng sức mạnh lại thúc đẩy cạnh tranh. Việc thực hiện liên kết giữa các hộ CT,TC với nhau và với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác bắt nguồn từ đặc điểm và nhu cầu phát triển khu vực kinh tế này. Trong khi hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như sức cạnh tranh còn yếu, lại phải đối phó với áp lực cạnh tranh hết sức gay gắt của thị trường khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập, việc liên kết hợp tác là giải pháp, là xu hướng tất yếu giúp cho các hộ CT,TC có thể giải quyết tốt hơn các vấn đề của sản xuất kinh doanh giảm bớt rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo kinh nghiệm của nhiều địa phương và cơ sở có thể thực hiện liên kết theo các hướng sau đây. Một là, liên kết, hợp tác để giải quyết “đầu vào” và “đầu ra” cho sản phẩm. Một số tổ chức kinh tế cùng ngành nghề (trong đó có kinh tế CT,TC) hợp tác với nhau để giải quyết “ đầu vào ” tìm nguồn nguyên liệu cho sản xuất; hoặc một vài cơ sở kinh doanh CT,TC có thể chuyên làm nhiệm vụ tìm nguồn nguyên liệu, để cung ứng cho các doanh nghiệp hoặc cho các cơ sở kinh doanh CT,TC khác.Hình thức này nên áp dụng phổ biến trong các tổ chức khai thác, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, vừa giải quyết được nguồn nguyên liệu vừa đảm bảo giá cả nguyên liệu ổn định. Các doanh nghiệp và hộ CT,TC cần tìm thị trường, tức là “đầu ra” cho sản phẩm, họ có thể liên kết với nhau bằng nhiều hình thức. Một trong những hình thức đó là cho thuê lại các hợp đồng (tức là thực hiện lại các hợp đồng phụ, đặt hàng gia công) theo hệ thống từ các doanh nghiệp lớn đến các doanh nghiệp nhỏ và tới các hộ CT,TC. Các tổ chức phải tiến hành sản xuất gia công chế biến theo đúng mẫu thiết kế quy cách chất lượng sản phẩm theo hợp đồng với các tổ chức tiêu thụ hàng hoá. Sự liên kết theo 2 hướng trên sẽ có tác dụng giải quyết “đầu vào” và “đầu ra” cho sản phẩm. Hai là, liên doanh liên kết để góp phần tạo vốn. Tình trạng phổ biến của các hộ CT,TC ở Thái Bình hiện nay là thiếu vốn trầm trọng. Trong khi đó việc vay vốn tại các ngân hàng còn khó khăn do nhiều nguyên nhân. Các tổ chức kinh tế không đủ vốn để thế chấp hoặc do dự án chưa đủ tính khả thi, thiếu chắc chắn do nhân viên ngân hàng ngần ngại cho vay hoặc do bị hình sự hoá thủ tục vay vốn… Do vậy, các hộ CT,TC cũng như các tổ chức kinh tế khác của tư nhân rất cần liên doanh liên kết thông qua các hình thức cho vay bằng tín chấp, hùn vốn, thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng mua bán hàng hoá thanh toán chậm để tăng nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Ba là, liên kết, hợp tác để trao đổi thông tin. Một trong những khó khăn của kinh tế CT,TC là thiếu thông tin hiện nay kinh tế CT,TC thiếu rất nhiều thông tin, đặc biệt là các thông tin về hệ thống pháp luật, về thị trường, về nguồn vốn, về đối tác.Riêng về hệ thống quy phạm pháp luật, nhiều cơ sở kinh doanh CT,TC cũng khó nắm bắt đầy đủ và kịp thời, hơn nữa hệ thống pháp luật nước ta hiện đang được xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh. Do đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, chồng chéo lại hay thay đổi, trong khi các hộ CT,TC rất cần tìm hiểu và cập nhập các thông tin về pháp luật để nắm vững và thực hiện. Một mặt của thông tin về thị trường là những thông tin về pháp luật kinh doanh của các nước nhập khẩu. Các hộ CT,TC nước ta cần biết luật lệ cụ thể đối với từng mặt hàng, trong từng khoảng thời gian, Những vấn đề này bản thân mỗi tổ chức kinh tế, nhất là các tổ chức kinh tế CT,TC lại càng khó có điều kiện tìm hiểu nắm bắt. Để tiếp cận các hệ thống thông tin hết sức quan trọng đó, cần có sự liên kết giữa các hộ với nhau và với các tổ chức kinh tế khác để cùng nhau chia sẻ thông tin trao đổi ý kiến để thực hiện những quy định được tốt hơn. Như vậy, đứng trước những khó khăn vướng mắc, kinh tế CT,TC rất cần có sự liên kết để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh. Sự liên kết hợp tác cần được khuyến khích phát triển theo hướng đa dạng hoá, bao gồm đa dạng về hình thức, về nội dung và quy mô, trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc của kinh tế hợp tác mà nguyên tắc hàng đầu là liên kết tự nguyện nhằm thực hiện tốt chủ trương Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra: “khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn” [16, tr.98]. 3.2.5. Tăng cường quản lý nhà nước Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh công tác quản lý, kiểm tra giám sát của nhà nước không chỉ ở việc ngăn chặn các sai phạm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mà điều quan trọng còn tạo hành lang pháp lý cho các hộ CT,TC tuân thủ và thực hiện theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua ở Thái Bình tình trạng vi phạm pháp luật vẫn còn phổ biến như: trốn lậu thuế, hoạt động không có giấy phép kinh doanh, hàng giả… Để nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước đối với kinh tế CT,TC cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, xác định rõ chức năng quản lý của nhà nứơc đối với kinh tế CT,TC để nắm vững tình hình đăng kí kinh doanh và hoạt động của các hộ CT,TC. Muốn vậy cần thực hiện tốt việc phân công, phân cấp trong việc quản lý kinh tế CT,TC, cụ thể là: - Sở Kế hoạch và đầu tư thực hiện chức năng “tiền kiểm” trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, việc tổ chức đăng kí kinh doanh quy định thống nhất trong toàn tỉnh. Bộ phận đăng kí kinh doanh cấp huyện trực thuộc phòng tài chính kế hoạch xây dựng mối quan hệ giữa các phòng đăng kí kinh doanh cấp tỉnh và cấp huyện về chuyên môn nghiệp vụ. - Sở tài chính thực hiện nhiệm vụ “hậu kiểm” hướng dẫn thực hiện chính sách tài chính; thực hiện nghĩa vụ thu nộp ngân sách nhà nước; tổng hợp tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; báo cáo tài chính và xây dựng cơ chế giám sát hoạt động đối với kinh tế CT,TC. - UBND Tỉnh có trách nhiệm quản lý và tổng hợp tình hình hoạt động của các hộ kinh doanh CT,TC trên địa bàn toàn tỉnh. - Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực có liên quan đến kinh tế CT,TC như: đầu tư, đất đai, xây dựng thuộc các sở, ngành: Sở kế hoạch và đầu tư, xây dựng, địa chính, tài chính …Để tạo điều kiện giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính, đổi mới phong cách làm việc, đề cao trách nhiệm phục vụ nhân dân. Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh CT,TC nhằm ngăn chặn các biểu hiện sai phạm trong sản xuất kinh doanh. Việc kiểm tra giám sát phải đảm bảo đúng chức năng, thẩm quyền và quy định của pháp luật. Tránh tình trạng kiểm tra tuỳ tiện, gây phiền hà cản trở đến hoạt động sản xuất của các cơ sở sản xuất kinh doanh CT,TC. - Coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo có trình độ, tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc và đặc biệt là có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. - Cần chống các hành vi lợi dụng thanh tra, kiểm tra để sách nhiễu hộ gia đình, vụ lợi cá nhân. Người kiểm tra mắc sai phạm phải chịu trách nhiệm hình sự và vật chất đối với thiệt hại của các hộ kinh tế CT,TC mình kiểm tra. 3.2.6. Thành lập các tổ chức đại diện, tổ chức hỗ trợ đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ Các tổ chức đại diện cho kinh tế CT,TC như hội nghề nghiệp, các hiệp hội có vai trò rất to lớn trong việc giúp đỡ các hộ trao đổi và học tập kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong việc nắm bắt thông tin thị trường, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước, về vấn đề nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ mới,vấn đề tiêu thụ sản phẩm và bảo vệ lợi ích chính đáng của các hộ. Để phát triển các tổ chức đại diện và các tổ chức hỗ trợ gia đình cần có các giải pháp sau: - Khuyến khích thành lập các hiệp hội nghề nghiệp trên tinh thần tự nguyện. Tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đảng về tự do lập hội, thể chế hoá những quy định về thành lập các hiệp hội nghề nghiệp, thúc đẩy thành lập và hoạt động của các hội nghề nghiệp. - Xây dựng quy chế và hướng dẫn thực hiện quy chế về thành lập các tổ chức đại diện cho kinh tế hộ. Cử các chuyên gia có kinh ngiệm giúp đỡ và hướng dẫn xây dựng điều lệ về tổ chức đại diện và quy chế hoạt động của các tổ chức đại diện cho kinh tế CT,TC. - Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ gia đình hướng vào các nội dung sau đây: Cung cấp thông tin, tư vấn đào tạo, hỗ trợ về vốn, kỹ thuật thị trường. Các trung tâm hỗ trợ kinh tế CT,TC có thể đặt tại các thị xã, thị trấn hoạt động theo nguyên tắc tự hạch toán nhưng cần có sự hỗ trợ của nhà nước về vốn, mặt bằng và cán bộ chuyên gia. Kết luận chương 3 Từ những đánh giá thực trạng và dự báo những xu hướng vận động của kinh tế CT, TC ở Thái Bình, luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng của bộ phận kinh tế này. Luận văn có mong muốn những giải pháp đề xuất trên sẽ được đưa vào thực tiễn, để kinh tế CT, TC trong thời gian tới ngày càng phát triển mạnh mẽ và khẳng định vị trí, vai trò là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế của Thái Bình. Kết luận Trong những năm vừa qua thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, kinh tế CT,TC đã có điều kiện hồi sinh và phát triển. Việc thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong TKQĐ ở nước ta đã thổi một luồng sinh khí mới vào môi trường kinh doanh của kinh tế CT,TC ở Thái Bình nói riêng và cả nước nói chung. Tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy bộ phận kinh tế này phát triển và ngày càng khẳng định là một trong bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Với những đóng góp to lớn của kinh tế CT,TC ở Thái Bình trong giải quyết việc làm góp phần xoá đói giảm nghèo; huy động các nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư và sản xuất kinh doanh; đóng góp tỷ trọng khá lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và tạo ra một lượng hàng hoá lớn phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá- tiền tệ đã chứng tỏ chủ trương, đường lối chính sách của Đảng ta về phát triển hàng hoá nền kinh tế nhiều thành phần là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong TKQĐ. Nhờ những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, kinh tế CT,TC ở Thái Bình đã đạt được những kết quả tích cực cho thấy đây là khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng cần được khai thác và phát huy tuy nhiên bên cạnh đó còn bộc lộc nhiều hạn chế như làm ăn phi pháp, trốn thuế, hoạt động không có giấy phép kinh doanh làm hàng giả…làm ảnh hưởng và gây tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng và xã hội. Mặt khác nhiều cơ sở còn gặp khó khăn về vốn, mặt hàng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Những hạn chế khó khăn đó không những ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đến thu nhập của đại bộ phận dân cư thuộc kinh tế CT,TC mà còn làm mất đi vai trò và động lực phát triển của bộ phận kinh tế này, đồng thời làm ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế xã hộ trong toàn tỉnh. Do đó, để khắc phục những hạn chế, khó khăn, thúc đẩy kinh tế CT,TC phát triển lành mạnh, đúng hướng, trong thời gian tới cần quán triệt quan điểm: tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế, nhiều thành phần; quán triệt các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế CT,TC. Đồng thời tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích kinh tế CT,TC phát triển, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo thêm nhiều việc làm, có mức tăng trưởng cao và đóng góp nhiều hơn nữa vào tổng sản phẩm toàn tỉnh. - Qua việc đánh giá cai trò, vị trí cũng như thực trạng phát triển kinh tế CT,TC ở Thái Bình, luận văn cũng nhằm mục đích làm rõ xu hướng vận động và phát triển của kinh tế CT,TC ở Thái Bình trong thời gian tới. Thực tiễn phát triển kinh tế CT,TC ở Thái Bình trong thời gian vừa qua đã cho thấy, đây không phải là loại hình kinh tế chủ yếu để làm giàu nhưng rất cần thiết trong bước quá độ sang nền kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên xét về tương lai lâu dài nó không thể tồn tại mãi mãi vì như Mác - Ăngghen đã nhận định “ …muốn làm cho phương thức sản xuất này tồn tại vĩnh viễn thì điều đó có nghĩa là muốn ra lệnh giữ lại một tình trạng kém cỏi phổ biến” [25, tr.592]. Chính vì vậy trong tương lai nó tất yếu sẽ phải bị phân hoá, chuyển hoá sang hình thức khác như Đại hội IX đã chỉ ra: “Khuyến khích các hình thức liên kết hợp tác giữa các hộ CT, TC hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp” [16, tr.98]. Đó chính là những dự báo xu hướng và cũng là một trong những giải pháp khả thi mà kinh tế CT,TC cần đạt tới. Trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò thực trạng và làm rõ xu hướng vận động của kinh tế CT,TC, luận văn đã đề xuất một số phương hướng để kinh tế CT,TC của tỉnh Thái Bình tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Đồng thời đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của bộ phận kinh tế này. Chúng ta tin tưởng rằng với chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần, sự hỗ trợ về chính sách cho bộ phận kinh tế CT,TC, cùng với sự nỗ lực của bản thân bộ phận kinh tế này. Trong thời gian tới kinh tế CT,TC ở Thái Bình sẽ ngày càng khẳng định vị trí là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân và góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế, xã hội mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề ra. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Vũ Đình ánh (2004), “Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”, Lý luận chính trị, (5), tr. 53 - 60. 2. Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm, (2005), Công bố điều tra lao động việc làm năm 2005 ngày 17/11/2005, Hà Nội. 3. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương (2002), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Bộ Kế hoạch và đầu tư, (2005), Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010, Hà Nội. 5. Trần Ngọc Bút (2002), Phát triển kinh tế tư nhân định hướng XHCN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình, (2002), Tổng điều tra các cơ sở hành chính sự nghiệp, Thái Bình. 7. Cục Thống kê Thái Bình (2004), Đề cương báo cáo phân tích cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004, Thái Bình. 8. Cục Thống kê Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình hoạt động của các cơ sở kinh doanh cá thể phi nông nghiệp 2001 - 2005, Thái Bình. 9. Cục Thống kê Thái Bình (2004), Niên giám thống kê 2004, Thái Bình. 10. Cục Thống kê Thái Bình (2005), Niên giám thống kê 2005, Thái Bình. 11. Cục Thống kê Thái Bình (2005), Báo cáo kết quả thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội chủ yếu 5 năm (2000 – 2005), Thái Bình. 12. Cục Thống kê Thái Bình (2005), Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội 5 năm 2001 – 2005, Thái Bình. 13. Cục Thống kê tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2005. 14. Nguyễn Thị Diệp (2003), Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở Nghệ An trong quá trình đổi mới, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Thái Bình (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, Thái Bình. 19. Đồng Hương Gấm (2004), Kinh tế tư nhân ở tỉnh Lạng Sơn, thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 20. Huỳnh Thị Gấm (2004), “Chính sách và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp ở nước ta”, Lý luận chính trị (1); tr. 47 – 51. 21. Tô Đức Hạnh (chủ biên) (2006), Phát triển kinh tế cá thể ở Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 22. Diệu Hương, Hà Tiểu Lâm (2002), "Khu vực KTTN Trung Quốc, chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt", Nghiên cứu Kinh tế, (287). 23. Nguyễn Đình Kháng (2002), “Kinh tế tư nhân và xu hướng phát triển của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Lý luận chính trị, (4), tr. 7 – 13. 24. Liên minh HTX Trung ương (2004), Báo cáo tình hình hoạt động của Liên minh HTX năm 2004 của BCH Liên minh HTX khoá II. 25. C. Mác – Ph.Ăngghen (1982), Tuyển tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. 26. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Nguyễn Văn áng (đồng cb)(2004), Kinh tế xã hội, nhân văn trong phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Sở Lao động thương binh xã hội – Cục thống kê Thái Bình (2005), Kết quả cuộc điều tra lao động - việc làm ở Thái Bình năm 2001 – 2004. 28. Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Nguyễn Văn Thường – Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên), (2005), Kinh tế Việt Nam năm 2004, những vấn đề nổi bật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 30. Tỉnh uỷ Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. 31. Tỉnh uỷ Thái Bình (2005), Báo cáo khái quát thực trạng và phương hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2005 đến 2010. 32. Tổng cục thống kê (2004), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội. 33. Tổng cục thống kê (2005), Kết quả tổng điều tra các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể năm 2003, 2004, Nxb thống kê, Hà Nội. 34. Bùi Sỹ Truỳ (2003), Nông nghiệp nông thôn Thái Bình, thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. 35. Nguyễn Văn Tuất (2002), “Một số dự báo về xu thế vận động và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta”, Khoa học chính trị, (6), tr. 21 – 25, 40. 36. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2005), Báo cáo tổng kết phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001 – 2005 và phương hướng nhiệm vụ 2006 – 2010. 37. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình – Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Báo cáo kết quả hoạt động của trang trại và định hướng phát triển kinh tế trang trại ở Thái Bình. 38. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2006), Chương trình mục tiêu giải quyết việc làm năm 2006 và đến năm 2010 của tỉnh Thái Bình. 39. Nguyễn Thanh Vân (2003), “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN”, Khoa học chính trị, (5), tr. 34 - 37, 43. 40. Hồ Văn Vĩnh (chủ biên) (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2728.doc
Tài liệu liên quan