Kinh tế Nhà Nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

A. lời mở đầu Trong hơn 10 năm đổi mới kinh tế đất nước. Vai trò chủ đạo, dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của kinh tế Nhà nước luôn được Đảng quan tâm, coi trọng và đã đạt được những thành tựu bước đầu rất khả quan trong cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội cả đường lối đối nội đối ngoại của đất nước.Chính vì vậy tại nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng ta phải phát triển kinh tế nhiều thành phần,các thành phần kinh tế kinh doanhtheo

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế Nhà Nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp luật,cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững mạnh chắc chắn của nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế”. Để phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi kinh tế Nhà nước phải đổi mới, giữ vững vai trò chủ đạo, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Vì vậy việc nghiên cứu những giải phát để phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là hết sức quan trọng. Do đó tôi đã chọn đề tài “Kinh tế Nhà Nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ” Để hoàn thành được đề tài này tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, đặc biệt là của thầy giáo bộ môn Mai Hữu Thực, tôi xin chân thành cảm ơn. b. nội dung I. Quan niệm về kinh doanh Nhà nước. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. 1. Quan niệm về kinh tế Nhà nước. Thành phần kinh tế Nhà nước được hiểu là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất. kinh doanh phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồnlực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc một phần phụ thuộc sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Như vậy kinh tế Nhà nước được hình thành thông qua việc Nhà nước hoặc thông qua quốc hữu hoá các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tài chính thuộc sở hữu Nhà nước như hệ thống ngân hàng, kho bạc, dự trữ quốc gia, và toàn bộ tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Kinh tế Nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp Nhà nước. Phân biệt hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn vdai trò kinh tế Nhà nước là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. Ngoài ra quá cũng cần phân biệt sở hữu Nhà nước với thành phần kinh tế Nhà nước. Phạm trù sở hữ Nhà nước rộng hơn phạm trù thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế Nhà nước trước hết phải thuouọc sở hữu Nhà nước, nhưng sở hữu Nhà nước, những sở hữu Nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng thí dụ. đất đai, Nhà nước đại biểu cho toàn dân sở hữu, nhưng kinh tế hộ, hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác sử dụng. Ngược lại, sở hữu Nhà nước không phải là kinh tế Nhà nước, chẳng hạn Nhà nước góp vốn cổ phần chiếm tỷ lệ thấp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, thông qua liên doanh, liên kết gọi là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. 2. ý nghĩa lý luanạ và thực tiễn của đề tài. 2.1. Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nền kinh tế quá độ. Tư tưởng đó của Lênin khẳng định trong thời kì quá độ nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nền kinh tế quá độ. Khi đặt câu hỏi “ Danh từ quá độ có ý nghĩa là gì ? ” vì Lênin trả lời “ vận dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản xã hội không ? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế xã hội hiện có ở Nga chính là như thế nào mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”. Trong bất cứ hình thái kinh tế-xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra có còn phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước, và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các phương thức này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị Trong một nền kinh tế - xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu hiện thành thành phần kinh tế. Trong thời kì quá độ chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là không mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế -xã hội trong một hệ thống thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nến kinh tế thời kì quá độ tồn tịa nhiều thành phần kinh tế là vị. Thứ nhất, khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; Thực tế có hai loại tư hữu. Tư hữu lớn: Nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp, đồn điền... của các chủ tư bản trong và ngoài nước - đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa, và tư hữu nhỏ: Gồm những người nông dân cá thể, những người buôn bns nhỏ - đó là sản xuất nhỏ cá thể. Thái độ của chính quyền mới đối với hai loại tư hữu trên là khác nhau. Đối với hữu lớn - kinh tế tư bản tư nhân, chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mac - Lênin khẳng định không nên quốc hữu hoá ngay một lúc, mà phải được tiến hành từ từ theo từng giai đoạn và bằng hình thức và phương pháp nào là tuỳ tiện cụ thể, cho nên những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại như một tất yếu kinh tế. Đồng thời hướng chủ nghĩa tư bản vào con đường tư bản Nhà nước. Hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Thứ hai, sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia, do đặc điểm lịch sử, điều kiệnu chủ quan khách quan nếu tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành các vùng, các doanh nghiệp. Chính sự phát triển không đồng đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, quy mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Thứ ba, để phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, xã hội. Nhà nước xây dựng hệ thống những cơ sở kinh tế mới, hình thành thành phần kinh tế Nhà nước. Mặt khác trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế, thông qua hợp tác và đầu tư nước ngoài, Nhà nước cùng các nhà tư bản, các Công ty trong và ngoài nước hình thành kinh tế tư bản Nhà nước. Việc nhận thức và tổ chức thực hiện trên thực tế các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ có ý nghiã lý luận và thực tiễn to lớn. 2.2. ý nghĩa của việc nghiên cứu thành phần kinh tế Nhà nước. Nghiên cứu đề tài này chỉ ra vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế. Điều đó có ý nghĩa rất quan tọng trong bối cảnh nền kinh tế nước ta có những thay đổi lớn như hiện nay. Các thành phần kinh tế cùng tồn tại, cùng cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật trong nền kinh tế thị trường. Điều quan trọng là sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế nhưng phải đảm baỏ tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này gắn chặt với tính chất. “Kinh tế Nhà nước phải đảm bảo vai trò chủ đạo của mình.” Muốn làm được như vậy phải phát triển mạnh và tổ chức lại kinh tế Nhà nước. Từ những hiểu biết đúng đắn về kinh tế Nhà nước các hoạch định chính sách phải đưa ra những biện pháp hợp lý và mang tính châts khả thi cao để áp dụng vào thực tiễn đem lại hiệu quả cao cũng như khắc phục được những khuyết tật của kinh tế thị trường. II. Thực trạng của kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong thời gian qua. 1.Thực trạng của kinh tế Nhà nước trong thời gian qua. 1.1. Những thành tựu của kinh tế Nhà nước đặt được trong hơn 10 năm đổi mới. Thực hiện đúng đường lối chủ trương chỉ đạo qua các đại hội Đảng VI, VII, VIII và gần đây nhất là đại hội Đảng XI, kinh tế Nhà nước nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đã được sắp xếp lại một bước khá căn bản, đã giảm quá nửa số doanh nghiệp (những doanh nghiệp nhỏ và yếu) những doanh nghiệp còn lại được củng cố một bước. Cơ chế quản lý hình thành ngày càng hoàn thiện giúp các doanh nghiệp chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế. Từ năm 1990 đến nay nước ta đã tiến hành 3 lần tổ chức sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Lần thứ nhất, (1990 -1993), tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh với mục tiêu thay thế nền kinh tế kế hoạch mang tính chất hanhf chính bằng một nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả sắp xếp trong giai đoạn này về số lượng đã cắt giảm 1/2 số doanh nghiệp Nhà nước, về mặt kinh tế đã có sự thay đổi căn bản trong tư duy kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước lấy lợi nhuận làm mục tiêu cơ bản. Nhưng vẫn đảm nhiệm vai trò làm hình mẫu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cả hai khâu sản xuất và lực lưu thông phân phối: Doanh nghiệp Nhà nước không còn bị bó hẹp kinh doanh theo ngành và lãnh thổ; doanh nghiệp Nhà nước bắt đầu biết đến khái niệm cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trên thị trường. Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước lần thứ hai (1994 -1997), Chính phủ phải tiến hành lập các doanh nghiệp với tổng số vốn doanh nghiệp Nhà nước, đó là tổng Công ty 91, tổng Công ty 90. Việc sắp xếp này đã hình thành các tổng Công ty Nhà nước chi phối được những ngành kinh tế quan trọng như điện năng, dịch vụ bưu chính viễn thông, hàng không, vận tải đường sắt, viễn dương, hàng không vận tải, xây dựng... Một số tổng Công ty đã trở thành hạt nhân của những tập đoàn kinh tế đa ngành. Hiện nay doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được tổ chức lại theo cơ cấu. 17 tổng Công ty 91, 76 tổng Công ty 90 và trên 4.000 doanh nghiệp Nhà nước độc lập. Đến năm 2000 cả nước đã sáp nhập hơn 3.000 doanh nghiệp, giải thể khoảng 3.500 doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), cổ phần hoá gần 400 doanh nghiệp Nhà nước. Nhờ vậy trình độ tích tụ và tập chung vốn trong doanh nghiệp Nhà nước được nâng lên. Số doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng dã giảm đáng kể và số doanh nghiệp Nhà nước có vốn trên 10 tỷ đồng tăng từ 10% lên 20% từ năm 1994 - 1998; Sản xuất kinh doanh phát triển và hiệu quả được nâng lên rõ rệt. Đóng góp của khu vực kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) qua các năm. Đơn vị (%) Các khu vực kinh tế Năm 1991 Năm 1992 Năm 1993 Năm 1994 Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 GDP 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Khu vực kinh tế Nhà nước 29,3 30,6 39,2 40,1 40,2 39,9 40,5 40,0 38,7 39,0 Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 70,7 69,4 60,8 53,5 53,5 52,7 50,4 50,0 49,1 47,7 Đầu tư trực tiếp nước ngoài 0 0 0 6,4 6,3 7,4 9,1 10,0 12,2 13,3 (Nguồn tạp chí cộng sản) Từ những số liệu cụ thể trên chứng tỏ thành phần kinh tế Nhà nước thực sự có vai trò chi phối thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển đúng quỹ đạo, góp phần vào việc tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên: Bên cạnh sự phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước ắt sẽ xuất hiện những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, sức sinh lợi của đồng vốn bỏ ra luôn thấp hơn so với các khu vực kinh tế khác do đó phải tiến hành cải cách các doanh nghiệp này dưới hình thức cổ phần hoá. Có thể khái quát quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta như sau: Giai đoạn 1992 -1995 là thời kì thực hiện thí điểm theo quyết định 202/HĐBT (1992) của hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) về thí điểm chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần giai đoạn 1996 - 1998 là thời kì thực hiện nghị định 28/CP (1996) về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước; giai đoạn 1999 đến nay là thời kì thực hiện nghị định 44/1998 ND - CP về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và nghị định 103/1999/NĐ - CP về giao bán khoán cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Hai nghị định gần đây đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc cổ phần hoá và giao bán khoán cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Về tổ chức các ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Nhà nước từ trung ương đến các bộ ngành, tổng Công ty 91 và các địa phương đã được ngành, tổng Công ty 91 và các địa phương đã được thành lập. Nhưng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước diễn ra rất chậm, từ năm 1992 đến 1998 cổ phần hoá được 120 doanh nghiệp. Từ chỗ tự nguyện phần hoá được 120 doanh nghiệp. Từ chỗ tự nguyện đăng kí số doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá đã trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Năm 1999, Thủ tưởng chính phủ giao chỉ tiêu cổ phần hoá 450 doanh nghiệp cho các bộ, tổng Công ty 91 và các địa phương, nhưng chỉ thực hiện được 20 doanh nghiệp, đạt 49% kế hoạch. Năm 2000 chỉ tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là 508 doanh nghiệp, trong đó 337 doanh nghiệp cổ phần hoá thoe nghị định 44/1998/NĐ- CP và 171 doanh nghiệp giao bán, khoán, cho thuê theo nghị định 103/1999/NĐ/CP nhưng chỉ thực hiện được 196 doanh nghiệp đạt gần 38,6% kế hoạch đề ra, trong đó có 171 doanh nghiệp cổ phần hoá đạt 50,7% kế hoạch và 25 doanh nghiệp thực hiện hình thức bán, khoán, cho thuê đạt 14,6% kế hoạch. Mặc dù doanh nghiệp đã cổ phần hoá và giao, bém, khoán, cho thuê còn ít, nhưng khả năng cạnh tranh và hiệu quả đã rõ ràng, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước không những không đạt chỉ tiêu chính phủ đề ra mà còn có chiều hướng chững lại. Tình trạng này cần phải được làm rõ nguyên nhân và tìm biện pháp khắc phục để đẩy nhanh hơn nữa quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, trong tổng số 5280 doanh nghiệp Nhà nước chỉ có 20,9% doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng, còn 65,5% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng, 30% các doanh nghiệp địa phương có vốn dưới 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp Nhà nước có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp, chỉ khoảng 40% làm ăn có hiệu quả đủ sức cạnh tranh, 40% hiệu quả thấp hoặc hyòa vốn, 20% thua lỗ liên tục. Lộ trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2000 - 2002 (3 năm) là phải sắp xếp lại 2280 doanh nghiệp trong đó số có vốn trên 10 tỷ đồng là 216, từ 1 đến 10 tỷ đồng là 1233 và dưới 1 tỷ đồng là 831; về hình thức thì 368 doanh nghiệp thuộc diện tiến hành giải thể hoặc phá sản: 1489 doanh nghiệp được cổ phần hoá và giao bán khoán, cho thuê; 380 doanh nghiệp phải sáp nhập voà doanh nghiệp khác và 43 doanh nghiệp trở thành đơn vị sự nghiệp. Thực hiện lộ trình trên đòi hỏi phải quyết dứt điểm được tổng khoản nợ 21165 tỷ dodòng đang tồn tại ở các doanh nghiệp này (trong đó nợ ngân hàng 7260 tỷ đồng) để nâng lượng vốn bình quân mỗi doanh nghiệp Nhà nước lên 27 tỷ đồng vào năm 2003, tăng 9 tỷ đồng so với hiện nay. Như vậy đến đầu năm 2003 sẽ còn 3000 doanh nghiệp và năm 2005 chỉ còn 2000 doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước này sẽ tập chung ở lĩnh vực công ích và những lĩnh vực, ngành then chốt có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. 1.2. Những tồn tại và hạn chế của kinh tế Nhà nước. Sau hơn 10 năm đổi mới, bên cạnh những tiến bộ trong việc phát triển kinh tế Nhà nước còn có những tồn tịa và hạn chế, biểu hiện chủ yếu ở những mặt sau. - Sự phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước còn nỏ bé về quy mô và dàn trảo về ngành nghề. Nhiều doanh nghiệp cùng loại hoạt động chống chéo về ngành nghề kinh doanh cấp quản lý và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đangs có trong cính khu vực kinh tế Nhà nước với nhau. Doanh nghiệp Nhà nước còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, du lịch, dịch vụ gây tình trạng phân tán, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư Nhà nước rất hạn chế, gây chi phối, xẻ lẻ, các nguồn lực kể cả hoạt động quản lý nhà nước, không thể tập chung vào những ngành, lĩnh vực vực chủ yếu then chốt. - Trình độ kỹ thuật, khoa học công nghệ còn lạc hậu dẫn đến năng lực cạnh tranh kém và thua thiệt trong hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Hầu hết trong khu vực kinh tế Nhà nước mà đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước có maúy móc, thiết bị nhập khẩu từ nhiều nước thuộc nhiều thế hệ chủng loại khác nhau. Có nhiều ý kiến cho rằng nhiều hệ thóng dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của nước ta lạc hậu so với khu vực của thế giới từ 10 -30 năm. - Trong khu vực kinh tế Nhà nước đang tồn tại hiện tượng thiếu việc làm, số lao động dư thừa lớn. Thực trạng hoạt động các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số các doanh nghiệp Nhà nước, số doanh nghiệp còn lại liên tục lỡ trong nhiều năm, hoặc có lãi mang tính tượng trưng về số liệu, lãi giả, lãi lỗ thật. Một đồng vóon đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước tạo được tỷ lệ lợi nhuận thấp hơn so với đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tỷ lệ tăng trưởng đóng góp của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vào GDP tăng không đáng kể trong thời gian vừa qua trong khi đó ngân sách Nhà nước liên tục phải cấp vốn cho đầu tư xây dựng, cấp bổ sung vốn hưu động, bù lỗ, hỗ trợ giảm bớt khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời Nhà nước cần phải miễn giảm thuế, xoá nợ, khoanh nợ miễn giảm lãi cho các doanh nghiệp Nhà nước. Theo đánh giá hiện nay chỉ có 40% doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh thực sự có hiệu quả 40% chưa hiệu quả, khi lỗ khi lãi, không ổn định, còn lại 20% hoạt động thực sự chưa hiệu quả, thua lỗ liên tục - Doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những “địa chỉ của tệ lãng phí, tham nhũng, gây thất thoát, tổn thất nguồn tài lực của Nhà nước. Trong 3 năm gần đây số doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá và đa dạng sở hữu gần như dậm chân tại chỗ, nhiều bộ, ngành, địa phương lại thành lập thêm doanh nghiệp dù chưa đủ cơ sở và điều kiện. Phần lớn những doanh nghiệp mới được thành lập không thuộc ngành mũi nhọn then chốt mà hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, xây dựng thi công xây lắp, sản xuất hàng tiêu dùng.... là những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có nhiều lợi thế hơn. Các tổng công ty 91 tuy là những doanh nghiệp có nhiều lợi thế và tiền lực nhưng tình hình vẫn chưa sáng sủa hơn với thực trạng của doanh nghiệp Nhà nước. Về vốn 17 doanh nghiệp này nắm giữ vững tới 80.000 tỷ đồng/126.000 tỷ đồng chiếm tới 63,5% tổng số vốn ngân sách tại các doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ các sản phẩm quan trọng nhất và luôn được hưởng các chính sách ưu đãi của chính phủ mỗi khi gặp khó khăn. Thế nhưng số lãi trước thuế của 17 tổng công ty trong 6 tháng đầu năm 2001 chỉ đạt 92% so với cùng kỳ, chỉ bằng 47% kế hoạch năm vẫn còn 23% số các doanh nghiệp thành viên bị thua lỗ. * Nguyên nhân của những yếu kém của kinh tế doanh nghiệp Nhà nước. - Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được xoá bỏ triệt để và nhiều vấn đề và nhiều vấn đề do lịch sử để lại không thể giải quyết trong một sớm một chiều. - Nhận thức chưa thống nhất và chưa đầy đủ về chủ trương sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. nhiều vấn đề còn chưa rõ chưa được tổng kết thực tiễn để có giải pháp kịp thời và nhất quán như: quyền quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước; quyền chủ sở hữu Nhà nước; quyền của địa diện chủ sở hữu trực tiếp tại các doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và chủ động kinh doanh của doanh nghiệp... - Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. - Cải cách hành chính tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp còn kém, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. - Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp Nhà nước nói chung còn chưa đáp ứng với yêu cầu một bộ phận không kém năng lực, phẩm chất và tinh thần thiếu trách nhiệm, thêm vào đó công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế còn nhiều điều bất cập. - Sự thiếu kiện quyết trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong đổi mới và phát triển thành phàan kinh tế Nhà nước. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, hạ cấp sở hữu thông qua giao bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước còn chậm. Vẫn còn tồn tại hàng nghìn doanh nghiệp có vốn sở hữu rất nhỏ, còn rất nhiều doanh nghiệp “chết mà chưa chôn” đã làm trì trệ nền kinh tế. 2. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong thời gian qua ở nước ta. 2.1. Tính chủ đạo của nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau. - Thứ nhất: Kinh tế Nhà nước dựa trên sở hữ công cộng với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. ở đây cần phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước đại diện cho toàn dân - là chủ sở hữu công cộng của toàn dân. - Thứ hai: Kinh tế Nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. - Thứ ba: Kinh tế Nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế; là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết tạo điều kiện co các thành phần kinh tế cùng phát triển. - Thứ tư: Kinh tế Nhà nước có thể tác động tới thành phần kinh tế khác không chỉ bằng công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. - Thứ năm: Kinh tế Nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại tiên tiến, do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn co ngân sách Nhà nước, và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng. - Thứ sau: Kinh tế Nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn nhưng ít ai dám đầu tư vì đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu hồi vốn lại chậm. Tóm lại. Nhà nước là chủ thể đại diện cho sự ổn định phát triển và bền vững của một quốc gia do đó kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. 2.2. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần, hoạt động đan xem lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển hoá trong quá trình phát triển. Thành phần kinh tế Nhà nước có vai trò mở đường dẫn dắt cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đổi mới nền kinh tế, cần phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế Nhà nước lên nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền. Phát huy lợi thế lớn từ ngân sách; lực lượng đào tạo chuyên sâu về trình độ quản lý trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại; quan hệ kinh tế rộng lớn trong và ngoài nước, kinh tế nhà nước có chức năng tạo lập cơ sở vật chất hạ tầng, sản xuất các hàng hoá dịch vụ công cộng, hỗ trợ chi phối các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên vai trò chủ đạo ở đây không có nghĩa là chiếm tỷ trọng lớn mà để giữ vai trò này thành phần kinh tế Nhà nước phải nắm được những ngành then chốt, những lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp nặng, giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng... Từ những kết quả mà nền kinh tế đạt được trong năm 2000 như : Tăng trưởng GDP bình quân 70% năm tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16% giá trị sản xuất các ngành công nghiệp tăng 14% lạm phát giảm xuống mức không quá 5% .Trong đó riêng khu vực kinh tế Nhà nước chia 40% GDP, đóng góp gần 40% tổng nộp ngân sách Nhà nước và trên 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thành phần kinh tế của Nhà nước đã thực sự chứng tỏ vai trò chủ đạo, chi phối và thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển theo đúng quỹ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa. III- Quan điểm và một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Tại hội nghị lần 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta đã khẳng định phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế Nhà nước mà đặc biệt là hoạt động của các Doanh nghiệp Nhà nước. Phân tích sâu sắc những mặt tích cực và những hạn chế yếu kém, nguyên nhân của tình hình qua thực tiễn sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ta cần phải hiểu và nhắm rõ : - Kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước trong đó doanh nghiệp Nhà nước (gồm Doanh nghiệp giữ 100% vốn và doanh nghiệp giữ cổ phần chi phối ) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế. - Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp Nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu nhưng không nhất thiết là phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. - Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh trong bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác theo pháp luật. - Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp - Nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn trước mắt là hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu lại và đổi mới hoạt động doanh nghiệp Nhà nước hiện có phân định rõ các loại doanh nghiệp để có chính sách giải pháp phù hợp, thực hiện sát nhập, khoán kinh doanh, cho thuê hoặc giao bán, giải thể phá sản các doanh nghiệp Nhà nước quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài không cổ phần hoá được và Nhà nước không cổ phần hoá được và Nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, bảo đảm việc làm, thu nhập quyền lợi hợp pháp của người lao động. Đổi mới kinh tế Nhà nước theo phương hướng trên một mặt phải đảm bảo khắc phục sự trí tuệ kém hiêụ quả của nền kinh tế, mặt khác tránh tình trạng tư nhân hoá tràn lan nền kinh tế không kiểm soát. - Quá trình sử dụng các thành phần kinh tế phải quán triệt những quan điểm sau. + Giải phóng lực lượng sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực nâng cao hiệu quả kinh tế. + Thực hiện nhiều hình thức phân phối lẫy phêm phốt theo kết quả và hiệu quả lao động làm chủ yếu. Đây là cơ sở để nâng cao sự hăng say và tăng nhiệt tình lao động của các chủ thể kinh tế. Đồng thời đây cũng là điều kiện đảm bảo sự công bằng Xã Hội . + Tăng hiệu lực vì mô của Nhà nước thì lúc đó kinh tế Nhà nước cũng mới thực hiện được vai trò điều tiết vĩ mô của mình. + Kinh tế Nhà nước phải nắm những ngành trọng yếu của quốc gia. - Kinh tế Nhà nước cùng kinh tế hợp tác xã phải dần dần trở thành nền tảng. Đó là điều kiện cơ bản nhất để nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. 2- Các giải pháp phát triển và tăng cường vai trò chủđạo của kinh tế Nhà nước trong thời gian tới. Với thực tế hiện nay, kinh tế Nhà nước chưa thật sự đáp ứng được vai trò này trên các mặt hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý tổ chức cũng như phương thức phân phối. Đồng thời việc đổi mới phát triển kinh tế Nhà nước chưa thật sự có những chuyển biến đáng kể. Hiện nay kinh tế Nhà nước đang đứng trước thách thức găy gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập quốc tế. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của đại hội Đảng IX đề ra đó là cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đôỉ mới phát triển kinh tế Nhà nước, phân loại sắp xếp hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, tìm ra giải pháp, phương hướng đổi mới kinh tế Nhà nước nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước đang là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu, giải quyết. Sau đây là một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước như sau. * Định hướng phát triển và chấm chỉnh lại một bước việc phân loại doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh. - Xác định lại các doanh nghiệp công ích cần thiết hoạt động không vì mục đích lợi nhuận là chính, dù thua lỗ vẫn cần duy trì tồn tại để có chính sách cơ chế phù hợp bù lỗ, tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được đầu tư, đảm bảo mục tiêu. Chính trị - xã hội, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong từng thời kì Nhà nước xem xét, điều chỉnh định hướng phân loại cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. - Đối với các doanh nghiệp hoạt động vì mục đích lợi nhuận cần tập chung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động, hình thành những doanh nghiệp mạnh toàn diện, làm nòng cốt cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước như dầu khí, điện, than, hàng không, ngân hàng ... Các doanh nghiệp này đi đầu về bảo đảm xã hội, phát huy giúp đỡ các thành phần kinh tế và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội bằng tính chất xã hội của mình, tạo ra sự kiện chuyển vững chắc theo định hướng XHCN . * Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty Nhà nước, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Thực hiện giải pháp này nhằm mục đích tập trung nguồn lực để chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như : Bưu điện, điện lực, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ lớn ...làm lực lượng chủ đạo để bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô. Cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cở các tổng công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại. Trước mắt thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số ngành có điều kiện có thế mạnh có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như : dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng ... Đây đang là giải pháp có tính chất bước ngoặt để nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế Nhà nước.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV037.doc
Tài liệu liên quan