Kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Quảng Trị

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhận thức đúng đắn về vai trò chiến lược, tầm quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN là một vấn đề quan trọng, nhưng việc nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình thực tế kinh tế tập thể của cả nước nói chung còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì, chỉ có trên cơ sở thực tế khách quan ấy, Đảng và Nhà nước mới đề ra những giải pháp thích hợp, tích cực nhằm đổi mới, phát triển và nâng cao chấ

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng, hiệu quả kinh tế tập thể ngang tầm nhiệm vụ và sứ mệnh loại hình kinh tế này. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể. Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể để khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã cổ phần..." [8, tr.236]. Quảng Trị là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, với tiềm năng đất đai hiện có, tương lai phát triển của ngành nông nghiệp Quảng Trị là chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với hệ sinh thái của mỗi vùng: thoát dần độc canh cây lúa theo hướng đa dạng hóa cây trồng, tăng nhanh sản xuất cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi. Do vậy, phải quan tâm phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp. Từ sau khi thực hiện Chỉ thị 68/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về chuyển đổi hoạt động của HTX nông nghiệp theo Luật HTX. ở tỉnh Quảng Trị đã có bước chuyển biến về số lượng và chất lượng hoạt động của HTX thích ứng với cơ chế thị trường, góp phần phát triển kinh tế hộ, trên 90% số HTXNN kinh doanh có lãi. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số HTX tồn tại hình thức, nhiều HTX lúng túng trong hoạt động SX-KD, năng lực nội tại còn hạn chế chưa tương xứng vai trò, vị trí tiềm năng của nó. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIV nhiệm kỳ (2005-2010) đánh giá: “Kinh tế hợp tác, HTX từng bước chuyển đổi theo luật và thích ứng dần với cơ chế thị trường” nhưng “Kinh tế hợp tác và phong trào xây dựng HTX kiểu mới, nhất là đối với HTX trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chưa được đầu tư đúng mức, chất lượng chuyển đổi trong hoạt động của các HTX còn nặng hình thức, hiệu quả chưa cao” [ 4, tr.25]. Do vậy, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm của những mô hình HTX hoạt động có hiệu quả, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đang đặt ra về kinh tế tập thể trong nông nghiệp mà nòng cốt là các HTX kiểu mới ở tỉnh Quảng Trị là một vịêc làm thiết thực, cấp bách mà thực tiễn đang đặt ra góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Quảng Trị” làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế - Chính trị nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài: Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể là vấn đề lớn, mang tính chiến lược luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Sự quan tâm đó thể hiện thông qua đường lối, chủ trương chính sách và sự đầu tư nhiều mặt của Đảng và Nhà nước cho khu vực kinh tế tập thể và HTX. Trong quá trình cách mạng XHCN ở nước ta, đặc biệt từ khi có Chỉ thị 68/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII và Luật HTX (ban hành năm 1996) về chuyển đổi hoạt động của HTX nông nghiệp cho đến nay được nhiều cơ quan, nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau, cụ thể như: - Nguyễn Văn Bính, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001): “Kinh tế hợp tác - HTX ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. - Hồ Văn Vĩnh (2004): Cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình phát triển HTX nông nghiệp ở nước ta. Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Vũ Văn Phúc (2004) “Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI. - Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003) “Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Thanh Hà (2000) “Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Trần Minh Tâm (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Lưu Văn Tiền (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở tỉnh Vĩnh Long”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Đặng Hùng Anh “Phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Huy Oánh (2005) “Tìm hiểu quan điểm của Mác-Ănghen, Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể”, Thông tin những vấn đề kinh tế chính trị học, số 05, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 2003 - 2004 “Mô hình phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Các công trình đã đề cập đến vấn đề HTX với những nội dung chủ yếu như: - Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế hợp tác và HTX. - Đánh giá thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác và HTX trước và sau đổi mới nói chung và sau khi thực hiện chuyển đổi HTX nói riêng, đánh giá việc thực hiện luật HTX của một số địa phương và trên phạm vi cả nước. - Phân tích những đặc trưng của mô hình HTX kiểu mới, trình bày những kinh nghiệm hoạt động và những kiến nghị, giải pháp, chính sách cụ thể về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt HTX nông nghiệp. - Dự báo sự vận động, phát triển HTXNN trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Nhưng tỉnh Quảng Trị cho đến nay chưa có một đề tài nào tập trung nghiên cứu cụ thể về hoạt động của kinh tế tập thể nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả nghiên cứu của các công trình trên, đồng thời vận dụng tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa IX và Luật HTX 2003 vào nghiên cứu, khảo sát, đánh giá hoạt động của các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, từ đó đề xuất những kinh nghiệm các mô hình HTX hoạt động có hiệu quả và những giải pháp tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về kinh tế tập thể, thực tiễn hình thành và phát triển những mô hình kinh tế tập thể trong quá trình đổi mới, tìm ra những giải pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn tỉnh Quảng Trị thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Thứ nhất, phân tích đặc điểm, vai trò của kinh tế tập thể trong nông nghiệp, từ đó rút ra kết luận phát triển HTX nông nghiệp là một yêu cầu tất yếu khách quan. Thứ hai, khảo sát phân tích đánh giá thực trạng hình thành và phát triển các mô hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị thời gian qua. Thứ ba, đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở Quảng Trị thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là kinh tế tập thể trong nông nghiệp mà nòng cốt là HTXNN kiểu mới và những quan hệ kinh tế - xã hội có liên quan đến sự hình thành vận động và phát triển của chúng. - Phạm vi nghiên cứu là một số mô hình kinh tế tập thể dưới hình thức hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở tỉnh Quảng Trị trong thời gian từ năm 1997 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, các Nghị quyết của Đảng bộ địa phương. Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu điều tra chọn mẫu và các số liệu thường niên của Phòng Nông nghiệp & PTNT các huyện thị, Liên minh HTX và các phương pháp khác. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần làm rõ sự cần thiết phát triển hợp tác xã nông nghiệp với tư cách là hình thức có hiệu quả của kinh tế tập thể trong nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp và một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới tiêu biểu trong nông nghiệp Quảng Trị thời gian qua, luận văn chỉ ra những thành công và hạn chế trong phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Quảng Trị cùng các nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó. Luận văn đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế tập thể, đặc biệt dưới hình thức hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị thời gian tới với tư cách là tài liệu tham khảo giúp địa phương trong thực tiễn lãnh đạo phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Quảng Trị. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 2 chương, 6 tiết. - Chương 1: Hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Quảng Trị hiện nay. - Chương 2: Quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị. Chương 1 hợp tác xã nông nghiệp tỉnh quảng trị hiện nay 1.1. Hợp tác xã nông nghiệp và sự cần thiết phát triển Hợp tác xã nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm, đặc trưng, nguyên tắc hoạt động của Hợp tác xã Hợp tác xã nông nghiệp là hình thức phổ biến của kinh tế tập thể trong nông nghiệp ngày nay ở nước ta nói chung và Quảng Trị nói riêng, vì vậy, để hiểu rõ về kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở Quảng Trị cần làm rõ nội hàm khái niệm kinh tế tập thể, kinh tế tập thể trong nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Kinh tế tập thể là kiểu kết cấu kinh tế xã hội dựa trên cơ sở hình thức sở hữu tập thể của người lao động về các điều kiện sản xuất kinh doanh chủ yếu mà trước hết là về tư liệu sản xuất. Sở hữu tập thể được hình thành trong lịch sử phát triển xã hội dưới tác động của phát triển sản xuất thông qua nhu cầu hợp tác giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh, tuy nhiên sở hữu tập thể của những người lao động trực tiếp chỉ được hình thành một cách phổ biến trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vì vậy sự hình thành và phát triển của kinh tế tập thể được các nhà kinh điển Mác - Lênin coi là một trong những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH và là con đường đưa sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán của người nông dân, thợ thủ công lên sản xuất lớn XHCN. Thực tiễn lịch sử cho thấy kinh tế tập thể được hình thành và phát triển rộng rãi ở các nước trong phe XHCN trước đây như Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu, Trung Quốc. ở nước ta, kinh tế tập thể được hình thành ở miền Bắc sau hòa bình lập lại 1954 và trên phạm vi cả nước sau thống nhất đất nước 1975 với các hình thức đa dạng từ thấp đến cao như tổ đổi công, tổ hợp tác, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác xã cấp cao. Trải qua nhiều thăng trầm trong phát triển, đến nay kinh tế tập thể đang là một trong những thành phần kinh tế có vai trò quan trọng cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân [7, tr.83]. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH, Đảng ta đã nêu lên quan niệm về kinh tế tập thể một cách đầy đủ trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá IX: “Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và người có nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ” [7, tr.30]. Từ khái niệm trên có thể rút ra những nhận xét sau: Thứ nhất, kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể. Thứ hai, phân phối theo lao động, vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ của xã viên. Thứ ba, nguyên tắc hoạt động là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Thứ tư, trong điều kiện nước ta hiện nay nòng cốt của kinh tế tập thể là các HTX. Thứ năm, HTX với tư cách là hình thức biểu hiện của kinh tế tập thể vừa dựa trên sở hữu của các thành viên, vừa dựa trên sở hữu tập thể; là hình thức liên kết rộng rãi không những đối với người lao động mà cả các hộ SXKD, các doanh nghiệp nhỏ và vừa; phân phối không những theo lao động mà cả theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động với tư cách pháp nhân trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Quan niệm mới về kinh tế tập thể đó đặt nền móng cho quan niệm mới về HTX trong đó có HTXNN như sau: "HTX là một tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia Hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật" [27]. Như vậy, HTX là một trong những hình thái biểu hiện cụ thể của kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay, xét về nội hàm thì kinh tế tập thể là khái niệm rộng hơn, song với tư cách là hình thái biểu hiện thì HTX không những bao hàm những đặc tính của kinh tế tập thể mà còn bao hàm những đặc tính cụ thể, đặc thù thể hiện trình độ phát triển nhất định của kinh tế tập thể. Trước đây do nhận thức không đầy đủ về kinh tế tập thể và HTX, cho nên chúng ta đã đồng nhất HTX với kinh tế tập thể, buộc các HTX phải cố gắng làm cho các đặc tính của kinh tế tập thể như sở hữu tập thể, phân phối theo lao động, quản lý tập trung… trở thành bao trùm toàn bộ với thời gian ngắn. Những biện pháp hành chính mệnh lệnh để xác lập nhanh chóng kinh tế tập thể đã làm thui chột động lực, giới hạn phạm vi hoạt động và giảm hiệu quả của các HTX. Với nhận thức mới về kinh tế tập thể và HTX ngày nay đã hình thành quan niệm mới về kinh tế HTX thông qua những đặc trưng của mô hình HTX kiểu mới, bao gồm: Thứ nhất, HTX do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ) cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, có thể góp sức, góp vốn cổ phần xây dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ. Thứ hai, HTX không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên, mà dựa trên sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên; sở hữu tập thể bao gồm các loại quỹ không chia, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng làm tài sản không chia, những tài sản do quá trình tích lũy của HTX tạo nên. Thứ ba, tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa bàn, HTX hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, liên doanh, liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Thứ tư, hình thức phân phối trong HTX vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. HTX là một tổ chức kinh tế hoạt động lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên, lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên. Thứ năm, mô hình HTX linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành với nhiều trình độ phát triển từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra. Phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành được các doanh nghiệp của HTX, từ HTX phát triển thành liên hiệp các HTX. Thứ sáu, trong tổ chức quản lý HTX, chức năng quản lý của Ban quản trị với chức năng điều hành của chủ nhiệm có sự phân biệt rõ ràng. Chủ nhiệm có thể là xã viên HTX hoặc người ngoài HTX do Ban quản trị thuê. Những đặc trưng mô hình HTX kiểu mới được nêu ở trên là những tiêu chí giúp chúng ta làm cơ sở để đổi mới hoạt động HTX, đồng thời là cơ sở để phân biệt với HTX kiểu cũ (trước đổi mới), phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Để thể hiện được các đặt trưng của HTX kiểu nới, góp phần phát huy hiệu quả của HTX với tư cách là hình thức quan trọng của kinh tế tập thể, các HTX cần được tổ chức hoạt động theo những nguyên tắc nhất định: Thứ nhất, tự nguyện: Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền tự quyết định gia nhập HTX hoặc xin ra khỏi HTX. Nguyên tắc này thể hiện: Tuyệt đối không được cưỡng ép nông dân bất kỳ dưới hình thức nào, mà phải để người nông dân tự suy nghĩ thấy những lợi ích thiết thực của mình mà tự nguyện hợp tác với nhau. Ph.Ăngghen từng nêu luận điểm: Cần để cho nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ và ông đã khẳng định kiên quyết rằng khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì tuyệt đối không được tước đoạt những người tiểu nông dù bất kỳ dưới hình thức nào. Nhà nước vô sản phải bằng những biện pháp hết sức tỷ mỷ khuyến khích họ. Bằng hoạt động thực tiễn của mình với nhãn quan khoa học V.I.Lênin có những đóng góp quan trọng về KTHT, về con đường đưa những người tiểu nông, những người sản xuất nhỏ đi theo CNXH trong thời kỳ quá độ. Người rất coi trọng nguyên tắc tự nguyện, kiên quyết phản đối dùng biện pháp hành chính trong việc Hợp tác hóa nông dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc tự nguyện, Người luôn nhắc nhở chúng ta: "Không được cưỡng ép ai hết, phải tuyên truyền giải thích cho nông dân thấy lợi ích tổ đổi công, ai muốn vào thì vào, tuyệt đối không được ép bụôc ai" [24]. Thực hiện nguyên tắc tự nguyện nhưng lại biết tổ chức, giáo dục, biết đấu tranh, đặc biệt là biết tổng kết những điển hình tiên tiến để cho nông dân noi theo, học tập; tự nguyện không có nghĩa là buông xuôi, bỏ mặc mà không có tác động gì của Nhà nước, của chúng ta, nhưng cũng không chạy theo thành tích, nôn nóng, “HTX cả làng” như trước đây, mà phải coi trọng lợi ích thiết thực của xã viên. Thứ hai, dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra giám sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ HTX. Dân chủ trong quản lý gắn liền với bình đẳng của mọi xã viên HTX. Bởi vì, HTX là tổ chức của dân, do dân tự tổ chức, quản lý, phục vụ nhu cầu chung của xã viên mà từng thành viên tự thực hiện không hiệu quả, mang lại hết thảy lợi ích cho xã viên, là tổ chức mà xã viên vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX hoặc là người lao động trong HTX. Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai trong HTX khác với các loại hình doanh nghiệp khác, trong doanh nghiệp tư nhân tư bản, quyền quyết định thuộc về chủ sở hữu nào chiếm cổ phần chi phối hay còn gọi cổ phần khống chế. Trong hội đồng quản trị của các doanh nghiệp nhà nước, làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Trong kinh tế HTX, ban quản trị cũng làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nhưng trên hội đồng quản trị còn có đại hội xã viên. Đại hội này có quyền lực cao nhất. Đại hội xã viên khác với đại hội cổ đông của xí nghiệp. ở đại hội cổ đông người có quyền quyết định là người cổ đông nào sở hữu số cổ phần chi phối. Nhưng trong kinh tế HTX, xã viên đều bình đẳng về quyền biểu quyết, không kể xã viên đó góp nhiều hay góp ít vốn cho HTX. Đây là sự biểu quyết theo nguyên tắc đối nhân chứ không phải theo nguyên tắc đối vốn. Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về quản lý HTX được thể hiện qua khái niệm làm chủ của xã viên HTX: "Các HTX phải làm như thế nào để các xã viên đều thấy rằng mình là người làm chủ tập thể HTX. Có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của HTX. Có như thế thì xã viên sẽ đoàn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và HTX sẽ tiến bộ không ngừng", "Mỗi xã viên phải làm chủ, HTX là nhà, xã viên là chủ". Đồng thời, Người nhấn mạnh: "Quản lý phải thật dân chủ, tài chính phải công khai, sổ sách phải minh bạch" [32, tr.75]. Thứ ba, tự chủ, chịu trách nhiệm và cùng có lợi. HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tự quyết định về phân phối thu nhập, đảm bảo HTX và xã viên cùng có lợi. Sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX, lãi được trích một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. Tự chủ, chịu trách nhiệm và cùng có lợi. Đây là nguyên tắc nói về lợi ích kinh tế của kinh tế hợp tác đưa lại cho nông dân, trong đó lợi ích xã viên, HTX, nhà nước cơ bản thống nhất với nhau, không có mâu thuẩn đối kháng, không có bóc lột, cùng có lợi thể hiện: HTX là hợp vốn, hợp sức với nhau, vốn nhiều thì sức mạnh, khó nhọc ít mà lợi ích nhiều; lợi ích không chỉ là lợi ích trước mắt mà còn lợi ích lâu dài cho bà con nông dân. Thứ tư, hợp tác và phát triển cộng đồng. "Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội, hợp tác giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật" [27]. Những nguyên tắc trên được hình thành trên cơ sở bản chất kinh tế - xã hội của HTXNN. Là tiêu chuẩn để xác định một tổ chức kinh doanh có phải là HTX hay không; để phân biệt HTX với tổ chức kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường, những nguyên tắc này thể hiện nổi bật trong HTXNN và xã hội nông thôn, và thể hiện lợi ích thiết thân của các thành viên tham gia kinh tế hợp tác. 1.1.2. Hợp tác xã nông nghiệp và các loại hình Hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta hiện nay Hợp tác xã nông nghiệp là một loại hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp do những người nông dân tự nguyện thành lập nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và chuyên môn hoá hoạt động. “HTXNN ra đời trên nền tảng kinh tế hộ nông dân” [19]. Ngoài những đặc điểm của HTX kiểu mới nói chung, HTXNN còn có những đặc điểm đặc thù về kinh tế - xã hội của nông nghiệp, nông thôn như: + HTXNN là tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân chủ yếu ở nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. + HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người hạn chế về trình độ dân trí, vốn, cơ sở vật chất- kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Do đó, đòi hỏi sự giúp đỡ của Nhà nước về cơ sở vật chất, về tổ chức quản lý đối với HTXNN là một tất yếu. + Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi. Nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên nên thường làm cho các HTXNN phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế và lợi nhuận thấp nên tích luỹ ít và chậm. Qua đặc điểm này cho thấy, những lĩnh vực sản xuất, những khâu công việc trực tiếp tác động vào cây trồng vật nuôi thì việc tổ chức sản xuất, tổ chức lao động trong từng hộ nhìn chung là phù hợp và tỏ ra có sức sống, có hiệu quả kinh tế cao hơn là tổ chức sản xuất tập thể trong các HTX quy mô lớn. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, HTX nông nghiệp kiểu mới ra đời là vì kinh tế nông hộ, chứ không phải để thay thế kinh tế nông hộ, ngược lại kinh tế nông hộ là "tế bào" là cơ sở tồn tại của kinh tế HTX nông nghiệp kiểu mới. Tuỳ theo đặc điểm của mỗi nước và nhu cầu cụ thể của những người tham gia, do đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh mà HTX được xây dựng theo một mô hình nào đó nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra, vì vậy các loại hình HTX rất đa dạng. Nhìn chung về loại hình HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta và thực tiễn hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới, chúng ta có thể khái quát HTX nông nghiệp với các mô hình sau: Loại thứ nhất, HTX nông nghiệp làm dịch vụ: loại hình HTX nông nghiệp được tách hẳn để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, bao gồm dịch vụ các yếu tố đầu vào như: HTX cung ứng vật tư (giống, phân bón, thuốc trừ sâu...); dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp như: dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo vệ thực vật...; dịch vụ quá trình tiếp theo của sản xuất nông nghiệp như: dịch vụ chế biến, bảo quản, thu mua, tiêu thụ sản phẩm… Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ nên hoạt động dịch vụ của HTX nông nghiệp là hình thức thích hợp, phổ biến có hiệu quả thiết thực hiện nay. Tuy nhiên theo tính chất của từng ngành, từng vùng, từ yêu cầu hợp tác và phân công lao động để lựa chọn các hình thức thích hợp. Ngay trong mô hình HTX dịch vụ cũng được phân thành nhiều hình thức như HTX dịch vụ chuyên khâu, HTX kinh doanh dịch vụ tổng hợp (thực hiện nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, kể cả dịch vụ cho đời sống nông dân). Loại thứ hai, HTX vừa làm dịch vụ vừa tổ chức sản xuất tập trung ở các mức độ và quy mô khác nhau (thường gọi HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp). Các HTX loại này thường tồn tại dưới dạng HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là HTX chuyên ngành, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Loại hình này phổ biến nhất là các HTX nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi gia súc tập trung, trồng rừng... Còn trong lĩnh vực trồng trọt, phổ biến hiện nay hộ nông dân trực tiếp sản xuất, ngoài ra còn có loại HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ như HTX sản xuất dịch vụ chăn nuôi Tiến Đạt, HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Đoàn Kết ở Huyện Hướng Hoá, HTX sản xuất giống lúa ở HTX Câu Nhi; HTX SXKD DV Long Hưng.- huyện Hải Lăng - tỉnh Quảng Trị Loại thứ ba, là các HTX sản xuất tập trung như HTX chăn nuôi hay trồng trọt... Đây là loại hình HTX, trong đó các TLSX chính được tập thể hóa, lao động được tổ chức theo hướng chuyên môn hóa dưới sự điều hành và chỉ đạo chung của Ban Quản trị, loại hình này ở nước ta trong thời kỳ bao cấp là phổ biến, hiện nay và trong tương lai gần đang có xu hướng giảm xuống. Với những loại hình HTX nông nghiệp nêu trên tùy theo đặc điểm của ngành, trình độ sản xuất các hộ nông dân, điều kiện của từng địa phương mà lựa chọn loại hình HTX sao cho có hiệu quả, thiết thực, đặc biệt HTX thực sự là "bà đỡ" cho kinh tế hộ phát triển, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 1.1.3. Sự cần thiết phát triển Hợp tác xã nông nghiệp hiện nay + Phát triển HTX nông nghiệp là yêu cầu khách quan và con đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế thị trường nước ta. Trước thời kỳ đổi mới, việc tập trung quá mức vào thực hiện tập thể hóa nông nghiệp đã làm thui chột kinh tế hộ nông dân và vai trò của loại hình kinh tế này. Chỉ từ sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (05/4/1988) cùng với đổi mới toàn diện quản lý kinh tế nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân mới thực sự được khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó tiềm năng, động lực của kinh tế hộ được khơi dậy và phát triển, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân đã có những tiến bộ vượt bậc so với trước, nước ta đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo của thế giới. Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hộ nông dân ngày càng gắn chặt với thị trường trong và ngoài nước. Những cơ hội lớn cho sự phát triển do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại diễn ra cùng với những thách thức không nhỏ như cạnh tranh quyết liệt hơn; nguy cơ tụt hậu, nghèo đói gia tăng, cách biệt mở rộng, đặc biệt hàng triệu hộ gia đình nông dân, cơ sở sản xuất nhỏ và kể cả không ít doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ phá sản và bị gạt ra ngoài rìa sự phát triển. Để thích ứng với thị trường, hộ nông dân buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên cơ sở thường xuyên cải tiến kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời phải thâm canh, đa dạng hóa sản xuất để tránh những rủi ro của thị trường đưa lại, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong nước và nước ta với nước ngoài như hiện nay. Những thách thức đó đã đặt ra yêu cầu đối với những người lao động riêng lẻ nói chung và hộ nông dân nói riêng phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Sản xuất hàng hóa càng phát triển bao nhiêu thì nhu cầu hợp tác càng lớn bấy nhiêu. Sự hợp tác mang lại cho kinh tế hộ nông dân thêm vốn, nhân lực, kinh nghiệm sản xuất, từ đó tạo ra thuận lợi để áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động, mở rộng thị trường… bởi lẽ đó là hình thức hiệu quả để chống lại sự chèn ép mua rẻ bán đắt của tư thương, chống tình cảnh cho vay nặng lãi của những người kinh doanh tiền tệ, chống tình trạng mua bán lúa non và các hình thức bóc lột khác. Trong bối cảnh đó HTXNN đã trở thành một trong những hình thức hợp tác hiệu quả giúp nông dân vượt qua thách thức của kinh tế thị trường. HTXNN là nhịp cầu đưa kinh tế hộ nông dân từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn có sức cạnh tranh. HTXNN là sự bổ sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. + Phát triển hợp tác xã nông nghiệp tạo thuận lợi đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phát triển HTXNN tạo nên sự phân công lao động và tổ chức lao động mới, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, đồng thời HTXNN trên cơ sở tích lũy vốn đủ sức hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng và có điều kiện để ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, đặc biệt ứng dụng cơ giới hóa, thủy lợi hóa, công nghệ sinh học, điện khí hóa, thị trường hóa, tạo điều kiện để tăng quy mô sản xuất hàng hóa lớn thích ứng với nhu cầu thị trường, hạn chế và khắc phục dần tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán ở._. nước ta hiện nay. + Phát triển hợp tác xã nông nghiệp tạo điều kiện để xây dựng nông thôn mới. Kinh tế tập thể là hình thức tổ chức kinh tế mang tính xã hội hóa cao hơn kinh tế cá thể hộ gia đình, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức tập thể và đoàn kết cộng đồng [6]. Ngoài mục tiêu kinh tế, HTX nông nghiệp còn thực hiện các mục tiêu xã hội quan trọng. Hợp tác xã góp phần xây dựng tình đoàn kết xóm làng, tinh thần tương thân tương ái, xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, bảo vệ an ninh trật tự xã hội, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Hồ Chí Minh nói: "Hợp tác xã phát triển là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nhân dân được ấm no, mạnh khoẻ được học tập,làm cho dân giàu nước mạnh". Người còn căn dặn:"Mỗi HTX phải như một gia đình, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau"[2, tr.67]. HTX là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng trong tiến trình đi lên xây dựng CNXH. + Hợp tác xã là kiểu làm kinh tế phổ biến của nhiều nước trên thế giới. Lâu nay khi nói đến vấn đề kinh tế HTX người ta lầm tưởng rằng đây là loại hình kinh tế riêng có của CNXH. Nước nào đi lên CNXH thì phải phát triển kinh tế HTX. Do đó, Việt Nam là nước phát triển theo định hướng XHCN nên phát triển theo loại hình này. Thực tế đã chứng minh rằng, HTX đầu tiên trên thế giới đã ra đời vào năm 1761 tại Anh, rồi đến Đức vào năm 1846, ấn Độ 1889 và ở Thái Lan vào năm 1915. Mặc dù HTX ra đời trước CNXH hiện thực, nhưng được coi là một loại hình kinh tế của CNXH và được áp dụng ở Việt Nam nó là một trong những hình thức phù hợp để thực hiện xã hội hoá đối với sản xuất nhỏ nói chung và sản xuất nhỏ trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Thực tiễn cho thấy kinh tế HTX trên thế giới đã ra đời và tồn tại gần 200 năm, lúc mới hình thành HTX thường chỉ là những người nghèo ít vốn, sản xuất nhỏ, một mình kinh doanh khó khăn, giá cả cao, khả năng cạnh tranh thấp, họ muốn hợp tác lại với nhau để tăng khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường... Nhưng về sau HTX phát triển lên trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh. Theo báo cáo của Liên minh HTX quốc tế (ICA) hiện nay trên thế giới đã có 95 nước có phong trào HTX, HTX có ở tất cả các châu lục và đã có 95 nước là thanh viên của ICA. Như vậy, sự hợp tác của những người sản xuất nhỏ, những người làm ăn riêng lẻ để phát triển lực lượng sản xuất, phục vụ lợi ích cộng đồng, tăng sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế thị trường là một quy luật phổ biến của tất cả các nước trên thế giới. Do vậy, V.I.Lênin thường nhắc nhở chúng ta phải kế thừa HTX trong chủ nghĩa tư bản để xây dựng CNXH. Khi bàn về phát triển HTX trong thời kỳ quá độ lên CNXH. V.I. Lênin nhấn mạnh: "Nếu không học tập, sử dụng được kỹ thuật, văn hóa và bộ máy do nền văn hóa tư sản, nền văn hóa TBCN tạo ra thì sẽ không thể thực hiện được CNXH. Trong các bộ máy đó có HTX, trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa trong nước càng cao bao nhiêu thì HTX càng phát triển bấy nhiêu", "HTX là một di sản văn hóa to lớn mà chúng ta phải coi trọng và sử dụng" [21]. Nhưng trong CNTB, HTX thường hướng vào lợi ích của tiểu nông, tiểu thương và tiểu chủ nhằm chia lợi nhuận với giai cấp tư sản, không quan tâm đến quần chúng lao động đông đảo. Các HTX này chỉ gồm những tầng lớp có tiền để góp cổ phần, không tạo điều kiện cho người nghèo tham gia, chúng ta kế thừa và từng bước chuyển các HTX tư sản đó thành HTX của nhân dân lao động rộng rãi trong cả nước. V.I.Lênin khẳng định: "Chế độ kinh tế hợp tác là bước quá độ để đưa kinh tế tiểu nông đi lên CNXH là con đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Là con đường phát triển đến "Chế độ của những xã viên HTX văn minh “ thì mới "là chế độ XHCN" [28]. Tóm lại: Phát triển kinh tế hợp tác và HTX không phải chỉ để giúp những người sản xuất nhỏ có đủ sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của doanh nghiệp lớn mà về lâu dài cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX không chỉ vì mục đích kinh tế, mà còn có mục đích xã hội là tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, góp phần xây dựng nông thôn mới theo định hướng XHCN... Vì lẽ đó, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, phát triển kinh tế tập thể dưới hình thái HTX trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và về lâu dài là một nhu cầu tất yếu khách quan. Tuy nhiên, làm cho HTX nói chung và HTXNN nói riêng phát huy được những vai trò to lớn của mình đã và đang là thách thức lớn cần được nghiên cứu giải quyết. 1.2. Thực trạng hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Quảng Trị 1.2.1. Quá trình hình thành và chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp Do điều kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên tỉnh Quảng Trị bị chia cắt hai miền Bắc - Nam. Cùng với đó, phong trào hợp tác hóa ở tỉnh cũng có những đặc thù riêng. ở huyện Vĩnh Linh (phía Bắc vĩ tuyến 17) phong trào hợp tác hóa có trên 40 năm xây dựng, củng cố và phát triển. Nhưng các huyện ở phía Nam (Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà, Hướng Hoá, Đa Krông, Triệu Phong, Hải Lăng) thì chỉ mới hình thành và phát triển phong trào hợp tác hóa sau ngày thống nhất đất nước. Mặc dầu phong trào hợp tác hóa tỉnh Quảng Trị được xây dựng vào những thời điểm khác nhau nhưng đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, phương thức hoạt động của HTX trong cơ chế tập trung bao cấp kéo dài nhiều năm đã bộc lộ tính kém hiệu quả. Tại không ít địa phương, sự tồn tại của hợp tác xã chỉ là hình thức. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do chậm đổi mới cơ chế quản lý, sự lúng túng trong điều hành sản xuất kinh doanh của HTX khi chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường. Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể, Thường vụ Tỉnh uỷ đã cụ thể hóa bằng kế hoạch 43/KH-TV về tổ chức quán triệt, học tập và triển khai thực hiện Chỉ thị 68/CT-TW, Luật HTX và các văn bản hướng dẫn thực hiện chuyển đổi HTX cũ sang HTX mới hoạt động theo Luật. Trên cơ sở đó, các huyện đã thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi HTX. Quá trình chuyển đổi HTXNN kiểu cũ thành HTX kiểu mới theo Luật HTX 1996 được thực hiện chủ yếu bằng cách giữ nguyên HTXNN cũ nhưng đổi mới phương thức tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật. Quá trình này được tiến hành với các nội dung: kiểm kê đánh giá lại tài sản của HTX cũ, làm rõ các khoản nợ phải thu, phải trả; tiến hành chuyển giao cho chính quyền quản lý những cơ sở vật chất mang tính cộng đồng như nhà trẻ, mẫu giáo, đài truyền thanh... Làm rõ tiêu chuẩn xã viên và đăng ký lại danh sách xã viên; xác định quỹ được kế thừa từ HTX cũ thành vốn góp của xã viên trong HTX kiểu mới; xây dựng Điều lệ HTX, tổ chức lại bộ máy, củng cố các tổ chức dịch vụ của HTX, đăng ký hoạt động kinh doanh theo Luật. Cách làm kể trên đã huy động được hầu hết xã viên cũ cùng tham gia HTX kiểu mới, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở nông thôn được giữ vững ổn định. Đến tháng 12 năm 2000 về cơ bản tỉnh Quảng Trị đã hoàn tất việc chuyển đổi HTX nông nghiệp kiểu cũ sang HTX nông nghiệp kiểu mới. Tuy nhiên, về thực chất, sự chuyển đổi chủ yếu vẫn mang nặng tính hình thức, các HTX kiểu mới chỉ khác cũ về tên gọi, bộ máy quản lý và nội dung hoạt động được đổi mới không đáng kể, vì vậy chưa thực sự đem lại lợi ích thiết thực đối với hộ nông dân. 1.2.2. Khái quát chung về thực trạng hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Quảng Trị sau 8 năm thực hiện Luật Hợp tác xã (1997-2005) + Về số lượng: Qua điều tra khảo sát, đến năm 2005 toàn tỉnh có 282 HTXNN gồm 263 HTXNN chuyển đổi (chiếm 93,2%), 6 HTXNN chưa chuyển đổi và 13 HTXNN thành lập mới hoàn toàn hoặc chuyển đổi từ tổ hợp tác [28]. Theo đánh giá của Phòng nông nghiệp và PTNT huyện Gio Linh, 6 HTX chưa chuyển đổi chỉ tồn tại trên hình thức, đảm nhận một vài khâu dịch vụ bắt buộc, không có vốn để hoạt động, hiệu quả thấp, chủ yếu kiêm luôn công việc quản lý của chính quyền trên địa bàn. Những HTX mới thành lập đã thể hiện được nguyên tắc tự nguyện của các hộ nông dân, gắn với lợi ích thiết thân của hộ, có ý thức trong việc góp vốn, quản lý và sử dụng hiệu quả. Tuy nhiên loại hình này còn ít về số lượng, quy mô nhỏ (khoảng 10 hộ/1HTX), do đó vai trò tác động của chúng tới đời sống SXKD trên địa bàn còn hạn chế. + Về loại hình Hợp tác xã: Phân theo địa giới hành chính có 65 HTX quy mô thôn (chiếm 23,6%), 198 HTX quy mô liên thôn (71,7%), 13 HTX quy mô toàn xã (4,7%) [28]. Phân theo hoạt động SXKD có 234 HTX đăng ký loại hình dịch vụ nông nghiệp (chiếm 84,8%), 42 HTX đăng ký hoạt động SXKD - DV tổng hợp (15,2%) [28]. Phân theo tiêu chí có trụ sở làm việc: có 222 HTXNN có trụ sở làm việc (chiếm 84%), còn 54 HTX không có trụ sở độc lập, phải thuê mướn nhà dân hoặc các tổ chức khác để hoạt động [28]. Phân theo ngành nghề chủ yếu: có 174 HTX trồng trọt, 48 HTX trồng rừng, 17 HTX chăn nuôi, 14 HTX nuôi trồng thuỷ sản, và còn lại là các HTX ngành khác. + Về số lượng xã viên, quy mô đất đai và lao động của hợp tác xã: Tổng số xã viên tham gia HTX nông nghiệp toàn tỉnh là 115.088 người, trong đó xã viên là cá nhân người lao động chiếm 70,8%, xã viên là đại diện hộ gia đình chiếm 29,2%. Bình quân 1 HTX có 417 xã viên [28]; quản lý và sử dụng, 69 ha đất nông nghiệp, trong đó diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 19,7 ha chiếm 28,5%; lao động thường xuyên (bao gồm: cán bộ quản lý, đội trưởng, các tổ dịch vụ...) là 40 người. + Về quy mô vốn: Tổng số vốn của 276 HTXNN là 161 tỷ đồng, bình quân 1 HTX có 584 triệu đồng. Trong đó vốn lưu động là 51 tỷ đồng (chiếm 31% tổng vốn), bình quân 1 HTX là 184 triệu đồng (bao gồm tiền mặt, tiền gửi, nợ phải thu, hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác). Vốn lưu động là nguồn vốn có tính chất quyết định trực tiếp đối với hoạt động SXKD của HTX. Tuy nhiên số vốn bị chiếm dụng (nợ phải thu) trong nguồn vốn này còn lớn (chiếm 59,3% so với tổng vốn lưu động. Bình quân loại HTX khá - 344,7 triệu đồng/HTX, nợ phải thu chiếm 48,4%; loại trung bình 92,9 triệu đồng/HTX, nợ phải thu 71,1%. Loại yếu kém 85,7 triệu đồng/HTX nợ phải thu chiếm 62,3%). Tổng giá trị tài sản cố định của các HTX hiện nay là 110 tỷ đồng (chiếm 68,4% tổng vốn), bình quân 1 HTX 400 triệu đồng. Trong đó bình quân HTX loại khá 808,3 triệu đồng, loại trung bình 430,2 triệu đồng, loại yếu kém 339,2 triệu đồng. Tuy nhiên, toàn bộ tài sản cố định của HTX hiện nay chủ yếu đang tồn tại dưới hình thức có tính chất quản lý như trụ sở làm việc và các tài sản có tính chất công cộng như: cầu cống, đường, kênh mương, trạm bơm... Khả năng sinh lợi rất hạn chế và không thể dùng được vào mục đích thuế chấp, cầm cố khi vay vốn. + Về loại hình hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp: Các hoạt động dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ ngày càng phong phú đa dạng, đến nay đã có 276 HTXNN đã đảm nhận trên 19 khâu dịch vụ các loại như tưới tiêu và thuỷ lợi nội đồng, bảo vệ thực vật, thú y, cung ứng vật tư và phân bón, khuyến nông và khoa học công nghệ, điện, làm đất, tín dụng nội bộ, tiêu thụ sản phẩm, chế biến sản phẩm, cung cấp giống và các loại hình dịch vụ khác. Các HTXNN hiện nay chủ yếu tập trung vào các dịch vụ cung ứng đầu vào cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình: 93% HTX cung cấp dịch vụ tưới tiêu và thuỷ lợi nội đồng; 89.5% HTX cung cấp dịch vụ bảo vệ thực vật; 68% - dịch vụ thú y; 65.2% cung ứng vật tư và phân bón; 64.9% - khuyến nông và khoa học công nghệ; 59.4% - cung cấp điện...(Phụ lục 3). Các dịch vụ đầu ra cho sản xuất còn rất hạn chế: chỉ có 2.2% số HTX đang cung cấp dịch vụ chế biến nông, lâm, thủy sản; 9.4% - cung cấp dịch vụ tiêu thụ sản phẩm... (Phụ lục 3). Điều này ảnh hưởng lớn đến thu nhập và hiệu quả hoạt động của HTX. Mức độ dịch vụ của các loại hình HTX cũng có sự chênh lệch khá rõ: những HTX thuộc loại trung bình và yếu thường ít thực hiện các dịch vụ như: điện, cung ứng vật tư, tiêu thụ, chế biến nông sản và tín dụng nội bộ..., trong khi chúng là các dịch vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu cho HTX, nên doanh thu và lợi nhuận thu được của hầu hết các HTX không cao. + Về trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ của các chức danh trong hợp tác xã: Qua điều tra khảo sát đội ngũ cán bộ HTX (Phụ lục 5) cho thấy, trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ HTX nhìn chung còn yếu, tuổi đời khá cao trên 45 tuổi chiếm 80% số lượmg cán bộ HTX, hầu hết chưa qua đào tạo nghiệp vụ quản lý HTX mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn. Đây là một trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của HTX. Những HTX có cán bộ với trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ cao thường là những HTX được xếp vào loại khá, doanh thu và lợi nhuận cao hơn hẵn với những HTX trung bình và yếu kém. Do đó, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ HTX là một yêu cầu cấp bách hiện nay. + Về phụ cấp cho cán bộ chủ chốt của hợp tác xã: Bình quân toàn tỉnh phụ cấp chủ nhiệm HTX là 259.800 đồng/tháng/người, phó chủ nhiệm - 238.600 đồng/tháng/người, kế toán trưởng - 218.400 đồng/tháng/người, trưởng ban kiểm soát - 177.300 đồng/tháng/người. Huyện Hải Lăng là huyện có mức phụ cấp cho cán bộ HTX cao nhất (trên 300.000 đồng/người/tháng) huyện Gio Linh và Thị xã Quảng Trị là 2 địa phương có mức phụ cấp cho cán bộ HTX thấp nhất (gần 200.000 đ/tháng/người) đối với chủ nhiệm. Nếu so sánh phụ cấp của cán bộ HTX với các đơn vị kinh tế khác, đặc biệt với cán bộ chính quyền cơ sở (xã, phường) thì quá thấp, không đảm bảo mức sống tối thiểu bản thân họ, ngoài ra cán bộ HTX không có một khoản ưu đãi nào khác. Do đó, nhiều cán bộ HTX muốn chuyển sang làm công tác khác để có thu nhập cao hơn. + Về kết quả sản xuất kinh doanh: Doanh thu bình quân 1 HTX là 290 triệu đồng, doanh thu bình quân HTX loại khá là 528,1 triệu đồng, loại trung bình 216,1 triệu đồng (bằng 41% loại khá) loại yếu 115,5 triệu đồng (bằng 22% loại khá). Về hiệu quả kinh doanh: Có 253 HTX sản xuất kinh doanh có lãi chiếm 91,67% tổng số HTX, lãi bình quân 1 HTX là 30,57 triệu đồng phân ra loại khá 65,45 triệu đồng, loại trung bình 21,67 triệu đồng, loại yếu 14,49 triệu đồng. Trong đó số HTX có lãi trên 50 triệu đồng là 48 HTX chiếm 17,3% số HTX trong toàn tỉnh [28]. Căn cứ theo tiêu chí phân loại HTX của Ban kinh tế Trung ương (2001) và tình hình thực tiễn của tỉnh, kết quả phân loại các HTXNN của Quảng Trị như sau: Đạt loại khá có 85 HTX (chiếm 30,8%). Đó là những HTX có vốn lưu động từ 200 triệu trở lên, đảm bảo tổ chức các khâu dịch vụ có hiệu quả và đạt kế hoạch trên 65%. Tổng doanh thu từ 500 triệu trở lên, không có nợ nần dây dưa, lãi hằng năm bình quân là 30 triệu - 80 triệu đồng/năm, lương bình quân của chủ nhiệm trên 500.000/tháng. Huyện có tỷ lệ khá cao nhất là huyện Hải Lăng (47,3%) tiếp đến là Vĩnh Linh (38,2%), huyện có tỷ lệ HTX khá thấp nhất là huyện Gio Linh (15,8%) Loại trung bình có 137 HTX (49,6%). Đó là những HTX có vốn lưu động từ 100 - 200 triệu đồng, doanh thu 300 - 500 triệu đồng, đảm bảo 40 - 65% khâu dịch vụ, lãi bình quân 20 - 30 triệu đồng, lương của chủ nhiệm là 300.000/tháng; HTX loại yếu kém có 54 HTX (19,6%). Các huyện có tỷ lệ HTX yếu kém thấp nhất là Vĩnh Linh, Thị xã Đông Hà; cao nhất là Gio Linh [28]. 1.2.3. Một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp tiêu biểu sau 8 năm thực hiện Luật hợp tác xã tỉnh Quảng Trị (1997 - 2005) 1.2.3.1. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp chuyển đổi Trong quá trình chuyển đổi các HTXNN kiểu cũ sang kiểu mới, một số HTX hoạt động có hiệu quả, trở thành những tấm gương tiêu biểu cho phong trào phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị. Đó là những HTX: Thứ nhất, Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Long Hưng (xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, Quảng Trị) Được thành lập từ tháng1 năm 1978, HTX Long Hưng được đánh giá là ngọn cờ đầu của phong trào HTX tỉnh Bình Trị Thiên trước chuyển đổi. Hiện nay HTX có 520 hộ, 2400 nhân khẩu, 710 lao động và 920 xã viên. Nguồn vốn của HTX: 3.091 triệu đồng. HTX đã đảm nhận, điều hành 9 khâu dịch vụ cho kinh tế hộ. Ngoài ra, HTX còn làm dịch vụ thủy sản, cho thuê cơ sở sản xuất. Từ khi chuyển đổi tới nay, điểm nổi bật của HTX Long Hưng là thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo nhiều nông phẩm hàng hóa có chất lượng cao, tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích. HTX đã liên kết, hợp đồng với công ty giống cây trồng Quảng Trị để sản xuất giống lúa chất lượng cao cho Công ty và xã viên trên 14 ha. Ngành nuôi cá nước ngọt là nguồn thu chủ lực của HTX và hộ gia đình nên Ban quản trị quan tâm đầu tư. Sản lượng cá hàng năm đạt 60 tấn. HTX đã đầu tư một hệ thống bể cá đẻ các loại để cung cấp nguồn giống cho địa bàn trong tỉnh và các tỉnh bạn như Quảng Bình, Thừa Thiên Huế. Hiện nay các mô hình nuôi cá đều đạt 70 - 80 triệu đồng/năm, HTX đã đầu tư, xây dựng nhiều ngành nghề mà trước đây HTX sản xuất tập trung thì hiện nay đã chuyển sang hình thức khoán, đấu thầu, cho thuê để phát triển kinh tế. Ngoài ra HTX đang quản lý 3 xưởng cưa xẻ gỗ, 1 xưởng sản xuất lốp xe các loại, 1 xưởng sản xuất bún miến, 1 xưởng sản xuất nước mắm, 1 cây xăng, 2 cửa hàng vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng. Hiện nay, HTX đang phát huy có hiệu quả sử dụng các nguồn vốn, lợi nhuận thu được năm sau luôn luôn cao hơn năm trước. Doanh thu hàng năm đạt 1,3 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân đạt 130 triệu đồng, riêng năm 2005 đạt 622 triệu đồng do lãi từ bán rừng. Lương của chủ nhiệm đạt 700.000-800.000 đồng/tháng/người [14]. Nhờ đó, HTX đã có điều kiện tích luỹ phát triển sản xuất và đầu tư xây dựng nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng như đường giao thông nông thôn, bê tông hóa kênh mương, điện, nước sạch. Hoạt động có hiệu quả của HTX đã tạo ra điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hộ, HTX thực sự trở thành chỗ dựa ngày càng vững chắc cho kinh tế hộ. Đến nay trong số các hộ xã viên có 30% hộ giàu với mức thu nhập trên 50 triệu đồng/năm, 55% hộ khá với thu nhập từ 15 - 50 triệu đồng/năm, 15% hộ trung bình, nghèo thu nhập dưới 15 triệu đồng/năm. Thứ hai, Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Câu Nhi (Hải Tân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị). Được thành lập vào năm 1984, sau chuyển đổi theo Luật năm 1997 HTX SXKDDV tổng hợp Câu Nhi có tổng số 454hộ, 2.150 nhân khẩu, 1.020 xã viên, 850l ao động. Tổng số vốn HTX là 1.500 triệu đồng, trong đó, vốn góp của xã viên 471 triệu. HTX đã làm tốt 11 khâu dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ, với giá rẻ hơn thị trường, được xã viên đồng tình ủng hộ. Điểm nổi bật của mô hình HTX Câu Nhi từ năm 1997 đến nay là HTX đã liên doanh hợp đồng với trung tâm giống cây trồng vật nuôi của tỉnh, mỗi năm sản xuất từ 80 - 120 tấn giống lúa chất lượng cao cung cấp cho toàn tỉnh và tỉnh bạn. Việc sản xuất giống lúa của HTX là mô hình về kết hợp SX-DV. Trong đó, hộ xã viên đảm nhận vịêc sản xuất trực tiếp, còn HTX đảm nhận vốn, cung ứng vật tư, ứng dụng KHKT, thu mua, tiêu thụ sản phẩm. Quá trình đầu vào - sản xuất- tiêu thụ giống lúa được khép kín ổn định, hộ nông dân yên tâm sản xuất. Doanh thu hàng năm đạt 1,7 triệu đồng trừ chi phí lợi nhuận trên 90 triệu đồng. Lương chủ nhiệm 500.000 đ/tháng [9]. Điểm nổi bật thứ 2 của HTX Câu Nhi là quan tâm coi trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, như hệ thống truyền thanh, xây dựng trạm biến áp 250kw, bê tông hoá kênh mương, đường giao thông nông thôn. Nguồn vốn chủ yếu nhà nước hỗ trợ 50% còn 50% là xã viên và HTX đóng góp. Mặt khác, hàng năm HTX còn quan tâm hỗ trợ một phần kinh phí cho các đoàn thể hoạt động, giúp đỡ các hộ gia đình khó khăn, ốm đau, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo. Tuy nguồn vốn kinh doanh của HTX còn khiêm tốn, song những năm qua hoạt động SXKD của HTX đạt nhiều hiệu quả khá tốt, được Liên minh HTX tỉnh Quảng Trị chọn làm thí điểm để xây dựng mô hình HTX mẫu trong toàn tỉnh. Thứ ba, Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Đại An Khê (xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị). HTX Đại An Khê là HTX liên thôn được thành lập từ năm 1978, chuyển đổi theo luật HTX năm 1997. Hiện nay HTX có 565 hộ, tổng số xã viên 1114, HTX Đại An Khê là HTX điển hình nhiều năm liền của tỉnh Quảng Trị, được chọn xây dựng HTX điển hình tiên tiến. HTX có tổng nguồn vốn 2.094 triệu, trong đó vốn góp của xã viên 441 triệu. HTX xác định mục tiêu phục vụ là chính, giúp cho hộ xã viên phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề dịch vụ, tạo việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, nâng sự đồng đều trong nông thôn. Hiện nay HTX đã đảm nhận có hiệu quả 10 khâu dịch vụ cho kinh tế hộ, trong đó 8 khâu dịch vụ có lãi. Hàng năm doanh thu 1.200 triệu đồng, trừ chi phí lãi bình quân 150 triệu đồng [10]. Ngoài làm tốt các khâu dịch vụ cho kinh tế hộ, HTX Đại An Khê là một mô hình mẫu về thực hiện tốt công tác chuyển đổi cây trồng vật nuôi và chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển. Về chuyển đổi cây trồng, HTX đã chuyển đổi 10 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp sang trồng, nuôi những sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao hơn như chuyển đổi lúa sang trồng sắn cao sản, cá giống, trồng ngô lai, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất, HTX đã chú trọng công tác chuyển giao khoa học công nghệ, kết hợp với Trung tâm khuyến nông - lâm - ngư nghiệp tổ chức thường xuyên nhiều lớp tập huấn cho xã viên. Chỉ trong năm 2005 HTX đã tổ chức 1 lớp IPM, 1 lớp sản xuất chế biến giống; tổ chức hội nghị chuyên đề xác định bộ giống và chuyển đổi cây trồng vật nuôi. Trong những năm qua HTX đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển sản xuất có hiệu quả, được xã viên, hộ gia đình đồng tình ủng hộ, như hỗ trợ: Trồng ngô vụ hè thu 1 ha = 600.000đ; trồng ngô vụ thu đông 1 ha = 300.000đ; nuôi bò nhốt 1 chuồng = 200.000 đ; nuôi ếch thương phẩm, ếch sinh sản 1 mô hình = 300.000đ; nuôi ếch lồng kết hợp nuôi cá rô phi đơn tính 1 mô hình = 300.000đ; nuôi lợn siêu nạc kết hợp nuôi cá = 300.000đ; nuôi bò tự nguyện chuyển chuồng trại ra khỏi khu dân cư 1 chuồng = 200.000đ. Tất cả các mô hình trên thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, được hội đồng HTX nghiệm thu mới được hưởng chính sách hỗ trợ. HTX đã thực hiện có hiệu quả vịêc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi để giúp xã viên phát triển sản xuất. Qũy tín dụng nội bộ được chia thành 2 loại: Loại cho mượn không tính lãi để mua sắm nông cụ, loại cho vay với lãi suất thấp để chuyển đổi mô hình sản xuất có hiệu quả cao hơn. Điều đáng ghi nhận cán bộ HTX tinh gọn, có trình độ, năng động nhiệt tình với phong trào HTX. Lương chủ nhiệm 700.000đ/tháng các chức danh khác hưởng theo tỷ lệ. Mô hình HTX Đại An Khê là hình mẫu thực sự “bà đỡ” tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển. Đến nay đời sống hộ xã viên được cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng được nâng cấp. Toàn HTX có 90% hộ có nhà xây kiên cố, 98% hộ có phương tiện nghe nhìn, đi lại, 30% hộ có máy điện thoại cố định, phong trào TDTT, văn nghệ, hoạt động của các đoàn thể phát triển mạnh. Tình hình an ninh trật tự ổn định, HTX Đại An Khê cùng với HTX Thượng Xá được tỉnh, huyện chọn xây dựng xã Anh hùng trong thời kỳ đổi mới. Thứ tư, Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Đông Giang 2 (Thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị) Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Đông Giang 2 là HTX ven đô nằm trong địa bàn tỉnh lỵ có nhiều lợi thế trong tiếp cận thị trường, trình độ dân trí cao. Năm 2005 HTX Đông Giang 2 có tổng số 350 xã viên với 277 hộ,,tổng số vốn 1.804 triệu, (trong đó vốn góp của xã viên 58 triệu đồng, vốn cố định 1.495 triệu, vốn lưu động 309 triệu đồng). Tổng doanh thu đạt 677 triệu, lãi 40 triệu/năm [12]. Trước và sau chuyển đổi HTX theo Luật, HTX Đông Giang 2 gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong hoạt động sản xuất dịch vụ. Nhưng trong những năm gần đây HTX đã vươn lên, thực hiện nhiều biện pháp có hiệu quả, giúp cho phong trào HTX những kinh nghiệm bổ ích: Một là: Để khắc phục vấn đề nợ khê đọng, chây lì của xã viên đối với HTX vốn là bài toán nan giải phổ biến trong toàn tỉnh, HTX đã cùng bỏ vốn với xã viên với tỷ lệ 3/7 để cùng nhau hoạt động sản xuất kinh doanh như: nuôi tôm 18 ha với 30 hồ, có 72 hộ thăm gia; nuôi cá-lúa 6 hộ, trồng nấm 15 hộ; trồng hoa, rau sạch. Hộ xã viên chịu trách nhiệm trực tiếp sản xuất, còn HTX đảm nhận quản lý, thực hiện các khâu dịch vụ hướng dẫn kỹ thuật, con giống, thuốc dinh dưỡng, thức ăn các loại và tìm mối tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng giữa hộ xã viên với HTX, sản lượng HTX nắm, giá cả thoả thuận giữa đối tác thu mua và hộ xã viên. HTX chỉ làm trung gian theo dõi số lượng, đơn giá, thu tiền và thanh toán khoản 30% vốn của HTX, phần còn lại trả cho hộ trực tiếp sản xuất. Từ đó không có tình trạng hộ xã viên nợ HTX dây dưa, khê đọng như trước đây. Hiện nay HTX đã làm tốt 6 khâu dịch vụ có hiệu quả trong đó đáng kể dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp cho hộ xã viên như giống, phân bón, thuốc trừ sâu các loại. Ngoài nguồn vốn hiện có, HTX đang huy động thêm vốn góp, xã viên nào tăng vốn góp HTX sẽ cung ứng dịch vụ vật tư cho hộ xã viên đến vụ thu hoạch mới thanh toán. Đồng thời các hộ xã viên được chia lãi trong các khoản dịch vụ đó. Hai là: HTX Đông Giang 2 đã liên kết với các ngành, các cấp như liên minh HTX tỉnh, Hội nông dân tỉnh, Sở KH- CN, Trung tâm khuyến nông - lâm- ngư nghiệp để được hỗ trợ các chương trình, dự án, đặc biệt chuyển giao KH - CN vào sản xuất. Xây dựng cánh đồng 50 triệu/ ha, đồng thời liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong việc cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm cho hộ xã viên. Ba là: HTX rất coi trọng công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao nghiệp vụ quản lý. Thường xuyên cử cán bộ tham dự các lớp tập huấn nghiệp vụ. Để tạo nguồn lâu dài và kế cận cho đội ngũ cán bộ HTX, công tác đào tạo được thực hiện chính sách: Cán bộ đương chức được hưởng nguyên lương, HTX hỗ trợ một phần kinh phí trong quá trình học. Nếu là xã viên HTX, được HTX đầu tư kinh phí trong khóa học, sau khi ra trường được HTX bố trí công vịêc thích hợp, nhưng phải cam kết học xong phục vụ tại HTX. Khó khăn lớn nhất hiện nay của HTX Đông Giang 2 là nguồn vốn lưu động còn hạn chế. Nên HTX đang huy động thêm vốn góp 140.000 đ/1 cổ phần để tăng nguồn vốn góp lên 300.000 đ/1 cổ phần. Thứ năm, Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Đông Thanh (phường Đông Thanh, Thị xã Đông Hà, Quảng Trị). Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Đông Thanh được chuyển đổi tháng 12 năm 1997, quy mô HTX được tổ chức trên địa bàn toàn phường, với tổng số xã viên 1482, diện tích canh tác 250 ha, nguồn vốn kinh doanh của HTX đến 31/12 /2005 có: Vốn cố định 2 016 triệu, vốn lưu động: 355 triệu đồng. Trong 9 năm hình thành và phát triển, HTX đạt được nhiều kết quả trong phát triển kinh tế - xã hội, mở mang ngành nghề, giải quyết việc làm, tạo điều kịên cho kinh tế hộ phát triển, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng phúc lợi ở địa phương, đặc biệt đã và đang xây dựng quy hoạch chi tiết mang tầm chiến lược lâu dài cho từng vùng sản xuất, phù hợp với điều kiện nuôi trồng cho từng loại cây, con tạo ra khu vực sản xuất hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu thị trường. Các khâu dịch vụ HTX đảm nhận có hiệu quả được chia làm hai loại: - Dịch vụ tác động vào quá trình sản xuất như: Dịch vụ chỉ đạo sản xuất, chuyển giao khoa học - công nghệ, dịch vụ thuỷ nông, dịch vụ bảo vệ thực vật, là loại hình dịch vụ mang tính bắt buộc phụ vụ cho sự phát triển của cộng đồng. - Dịch vụ mang tính kinh doanh: Phục vụ theo nhu cầu thị trường, vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài hoạt động dịch vụ nêu ở trên, HTX xác định tầm quan trọng lợi ích kinh tế của rừng trồng. Hiện nay rừng HTX trực tiếp kinh doanh là 152 ha (nhựa thông:100 ha, keo lai: 27 ha, tràm: 25 ha) thu lãi bình quân hàng năm 125 triệu đồng / năm, nếu cộng với lợi nhuận từ các khâu dịch vụ, sản xuất kinh doanh khác thì lợi nhuận hàng năm đạt bình quân 256 triệu đồng / năm [13]. Hiện nay, HTX đang thực hiện nhiều mô hình sản xuất kinh doanh được đánh giá có hiệu quả như:Quy hoạch vùng chuyên canh sản xuất rau sạch, hoa, cây cảnh, vùng trồng cỏ, nuôi bò nhốt chuồng, nuôi cá nước ngọt với tổng diện tích trên 30 ha. Đây là những mô hình trang trại HTX theo phương thức cổ phần hóa, HTX chiếm 50% vốn cổ phần, 50% vốn còn lại bán cho xã viên và những người có nhu cầu tham gia, một cổ phần được định giá 5 triệu đồng, một xã viên có thể mua nhiều cổ phần nhưng không vượt quá 30% số vốn cổ phần của một dự án. HTX chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện dự án và quản lý về mặt tài chính, bổ nhiệm cán bộ điều hành, cán bộ điều hành tổ sản xuất được chọn từ các cổ đông có năng lực và trách nhiệm trong việc quản lý và điều hành trang trại. Trang trại HTX cổ phần là mô hình sản xuất kinh doanh mới ở Quảng trị, theo chúng tôi đánh giá có hiệu quả thiết thực, nguồn vốn kinh doanh lớn, xã viên đích thực, ý thức trách nhiệm cao, quản lý chặt chẽ, không có hiện tượng nợ nần dây dưa khê đọng, thực hiện có hiệu quả những chương trình dự án hỗ trợ của Nhà nước. Mô hình trang trại HTX cổ phần đang có xu hướng gia tăng về số lượng, quy mô trên các lĩnh vực trong thời gian tới. 1.2.3. Hai mô hình hợp tác xã thành lập mới Bênh cạnh mô hình HTXNN chuyển đổi trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã xuất hiện nhữnng mô hình HTX thành lập mới và bước đầu đã thể hiện những kết quả tích cực nhất định. Tiêu biểu trong số các HTXNN thành lập mới là: Thứ nhất, Hợp tác xã sản xuất kinh doanh - dịch vụ Đoàn kết (Tân hợp, Hướng Hóa, Quảng Trị). Hợp tác xã SXKD DV Đoàn kết được thành lập năm 2002 với tổng số xã viên 12 người, trong đó cá nhân người lao động 9 người, đại diện hộ gia đình là 3 hộ. Vốn điều lệ HTX 200 triệu đồng, trong đó vốn góp tối thiểu 5 triệu, vốn góp nhiều nhất 35 triệu đồng. Diện tích đất nông nghiệp mà HTX quản lý là 15 ha, trong đó 13 ha đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hợp tác xã SXKDDV Đoàn kết là loại hình HTX được thành lập mới hoàn toàn trên nguyên tắc HTX kiểu mới. Lĩnh vực hoạt động HTX rất đa dạng phong phú. Về sản xuất,._.a “Đội ngũ cán bộ HTX vừa thiếu, vừa yếu và đây là nguyên nhân cơ bản của những yếu kém và hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục để HTX phát huy tiềm năng và phát triển bền vững”. “ Vì vậy cần khẩn trương tiến hành quy hoạch để từng bước thực hiện vịêc đào tạo và đào tạo lại số cán bộ hiện nay của HTX, nhất là cán bộ chủ chốt” [29]. Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN với phương châm thường xuyên, liên tục, kết hợp giữa đào tạo với bồi dưỡng, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt của HTXNN. Trong những năm gần đây, tỉnh Quảng Trị rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chỉ riêng năm 2005 đã mở 8 lớp tập huấn cho cán bộ HTX với 437 người thăm gia. Nội dung tập huấn rất phong phú thiết thực như về kinh tế thị trường, học tập Luật HTX 2003 các Chỉ thị của chính phủ, xây dựng điều lệ mẫu, phương án SX-KD. Xây dựng tiêu chí phân loại HTX, xây dựng mô hình HTX điển hình tiên tiến, đào tạo vi tính cho cán bộ văn phòng, kế toán, tổng kinh phí 266 triệu đồng / năm [23]. Hiện nay tỉnh đã và đang thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX cụ thể như sau: - Đến cuối năm 2007 thực hiện xong việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ chốt trong HTX (chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán, trưởng ban kiểm soát), đồng thời các địa phương, cơ sở HTX có kế hoạch chọn nguồn cán bộ kế cận để gửi đi đào tạo trung và dài hạn. Thường xuyên mở các đợt tập huấn ngắn ngày để cập nhật bổ sung kiến thức, tăng năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ HTX hiện có. - Đối tượng đào tạo (ngoài 3 chức danh cán bộ chủ chốt, cần mở rộng việc đào tạo bồi dưỡng đến với cán bộ quản lý HTX, các tổ hợp tác, thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành, đội trưởng các tổ đội sản xuất, dịch vụ, cán bộ khuyến nông, kỹ thuật trong HTX và tổ trưởng tổ hợp tác hiện có trên địa bàn, các chủ trang trại. Để đảm bảo cho công tác đào tạo cán bộ cho các HTX có hiệu quả cần xác định rõ và tài trợ kịp thời kinh phí cho công tác này. Nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX hiện nay đang được hình thành từ 2 nguồn chủ yếu là kinh phí hỗ trợ của Nhà nước và quỹ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của HTX. Do năng lực tài chính của các HTX thường trong tình trạng hạn hẹp, nên trong thời gian trước mắt vai trò cung cấp kinh phí cho đào tạo và bổi dưỡng cán bộ HTX phải chủ yếu thuộc về Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả đào tạo, khuyến khích cán bộ HTX không ngừng nâng cao nhận thức cần phải tiếp tục hoàn thiện chính sách thu hút, sử dụng cán bộ HTX. Cần khuyến khích việc mạnh dạn thực hiện cơ chế thuê cán bộ quản lý HTX ở những HTX có quy mô hoạt động lớn, không giới hạn việc lựa chọn cán bộ HTX nông nghiệp chỉ trong nội bộ xã viên HTX hiện hành. Xây dựng chế độ chính sách ưu đãi đối với những người đi học là cán bộ, xã viên, con em xã viên HTX về làm việc lâu dài tại HTX. Một thực trạng cần giải quyết hiện nay là, đại bộ phận nông hộ đang rất hạn chế trong việc tiếp cận với kỹ thuật công nghệ sản xuất tiên tiến, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp như các vấn đề: chọn cây con, quy trình chăm sóc, trồng đúng thời vụ, bảo quản chế biến… Những vấn đề đặt ra đó đòi hỏi phải tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực nông nghiệp về với cơ sở để hướng dẫn cho bà con làm kinh tế gắn với KH- CN có hiệu quả. Để cán bộ đang công tác trong HTX nông nghiệp gắn bó lâu dài với HTX cần sớm ban hành và khuyến khích các HTX thực hiện những chế độ đãi ngộ hợp lý như thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ và người lao động của HTXNN, trước hết là đối với cán bộ quản lý HTX; xây dựng chế độ lương hợp lý; lương của cán bộ quản lý HTXNN phải được tính toán gắn với kết quả hoạt động hàng năm của HTX (dựa trên phần trăm của lợi nhuận hay doanh thu) do đại hội xã viên quyết định, có chế độ khen thưởng thích đáng đối với cán bộ quản lý HTX có nhiều đóng góp tích cực. 2.3.3. Tiếp tục thực thi các chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã nông nghiệp Hội nghị lần thứ 9 BCH TW Đảng khóa IX đã khẳng định: "Hỗ trợ, tạo điều kiện để phát triển có hiệu quả hơn kinh tế tập thể; tổng kết nhân tố mới, các mô hình kinh tế tập thể làm ăn có hiệu quả để phổ biến nhân rộng phù hợp với điều kiện của từng ngành nghề, từng địa phương, hỗ trợ tốt hơn vịêc đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ tài chính, kế toán HTX; giải quyết dứt điểm việc xoá nợ cũ, tạo điều kiện để các HTX tiếp cận các nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng" [6]. Chính sách hỗ trợ kinh tế tập thể của Nhà nước cần tập trung vào những hướng cụ thể sau: Thứ nhất: Để giúp các HTX không ngừng nâng cao năng lực sản xuất, cần tạo điều kiện kịp thời triển khai các hoạt động thông tin kinh tế, thông tin thị trường cho các HTX, Liên hiệp HTX; tăng cường quan hệ, tạo môi trường khâu nối liên doanh, liên kết giữa các HTX với HTX, HTX với công ty, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức kinh tế khác để cùng phát triển. Triển khai các hoạt động tư vấn pháp lý, tư vấn lập dự án kinh tế, hướng dẫn HTX xây dựng các phương án SX-KD-DV, xây dựng điều lệ, thủ tục thành lập HTX, tổ hợp tác. Thứ hai: Liên minh HTX và DN NQD tỉnh phối hợp với Sở kế hoạch đầu tư, các ngành liên quan tham mưu trình UBND tỉnh cụ thể hóa các cơ chế chính sách phù hợp với tình hình kinh tế tập thể tại địa phương, tạo môi trường pháp lý và điều kiện thuận lợi để các HTX được tham gia vào các chương trình dự án phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn, nâng cao năng lực của HTX theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX. Lập đề án xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển HTX và DN vừa và nhỏ trình HĐND tỉnh xem xét, xét duyệt. Thứ ba: Thực hiện một số chính sách cụ thể như sau: + Chính sách cán bộ Xây dựng đề án quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí cán bộ HTX. Trong đó chú trọng các chính sách ưu tiên nhằm khuyến khích, thu hút cán bộ có trình độ chuyên môn cao về công tác ở cơ sở và tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ chủ chốt của HTX. + Chính sách đất đai Đổi mới chính sách đất đai nhằm tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn. Giao quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân dưới nhiều hình thức thích hợp. Những diện tích đất trồng cây lâu năm có thể chuyển giao cho nông hộ theo khả năng nhận với nhiều hình thức như: giao đất, khóan giá trị hoặc bán trả dần bằng sản phẩm, đẩy nhanh tiến độ giao đất, giao rừng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân. Quản lý chặt chẽ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai theo đúng pháp luật, không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán đất, ngăn chặn và xử lý các thủ đoạn chèn ép, cưỡng đoạt ruộng đất của nông dân nghèo. Khuyến khích nông hộ tự bỏ vốn và sức lao động để cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống kênh mương và giao thông nông thôn, tạo điều kiện đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, giảm chi phí canh tác. Khuyến khích và giúp đỡ nông hộ đổi đất cho nhau để khắc phục tình trạng ruộng đất phân tán và manh mún, thực hiện quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất cho các hộ, trang trại phát triển sản xuất hàng hóa. Nhà nước quan tâm giao quyền sử dụng đất cho các HTX để HTX xây dựng trụ sở làm việc, nhà kho, sân phơi, làm cơ sở SXKD, tạo điều kiện để HTX có đủ thủ tục làm thế chấp vay vốn ngân hàng. Bởi vì hiện nay trong tổng số 172 HTX có báo cáo chỉ có 38 HTX (chiếm 22,1%) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn 134 HTX chiếm 78% HTX chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Có chính sách ưu đãi cho HTX, tổ hợp tác được cấp đất, thuê đất sử dụng làm mặt bằng sản xuất hoặc nuôi trồng thủy sản. + Chính sách thuế Hiện nay số lượng dịch vụ mà mỗi HTX thực hiện rất ít, quy mô các hoạt động này cũng rất hạn hẹp, hầu hết các HTXNN thiếu vốn, gặp nhiều khó khăn trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường, hơn nữa hoạt động dịch vụ của HTX không phải hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu là nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế hộ xã viên. Do đó, Nhà nước cần có chính sách miễn, giảm thuế các hoạt động dịch vụ của HTX, cụ thể như: - Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 5 năm cho các HTX thương mại mới thành lập, các HTX sản xuất nông nghiệp làm dịch vụ thương mại phục vụ cho hộ nông dân, không phân biệt hoạt động dịch vụ thương mại với hoạt động dịch vụ khác của HTX ở nông thôn. - Ưu tiên miễn thuế môn bài đối với các cơ sở kinh doanh hạch toán phụ thuộc, trực thuộc HTX và hộ cá nhân là xã viên của HTX. - Nghiên cứu tiếp tục giảm thuế lợi tức cho các qũy tín dụng nhân dân khoảng 15-20%, nhằm tạo điều kiện giúp các quỹ tăng nguồn vốn tích luỹ và tăng cường cơ sở vật chất- kỹ thuật của kinh tế tập thể. + Chính sách vốn Chính sách vốn là nhằm tạo điều kiện cho hộ nông dân được tiếp cận với các nguồn vốn dễ dàng hơn, được vay vốn lớn hơn và dài hơn theo chu kỳ sản xuất - kinh doanh cây trồng, vật nuôi. Sớm điều chỉnh các loại thuế và thuế suất theo hướng tạo điều kiện để hộ nông dân có vốn tái đầu tư phát triển sản xuất. Xây dựng chế độ cho vay trung và dài hạn đối với sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Cụ thể cho vay vốn với điều kiện ưu đãi (lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, tín chấp, thời gian cho vay từ 18-36 tháng) từ nguồn tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội, từ qũy xoá đói giảm nghèo giải quyết việc làm... Đặc biệt đẩy mạnh phát triển HTX tín dụng, qũy tín dụng nội bộ của HTXNN. Đối với HTXNN có hai nguồn vốn cung cấp chủ yếu đó là nguồn vốn từ nội bộ HTX và nguồn vốn từ bên ngoài. Từ thực tế cho thấy, nguồn vốn từ nội bộ HTX rất nhỏ bé. Do đó, nhu cầu vốn từ bên ngoài để mở rộng SX-KD-DV là rất lớn. - Để có vốn hoạt động, Nhà nước ưu tiên hỗ trợ các HTX được vay vốn từ các chương trình dự án quốc gia theo tinh thần Nghị định 15/NĐ-CP của Chính phủ, tạo điều kiện để HTX thuận lợi cho việc phát triển SX-KD-DV và mở mang ngành nghề trong khu vực kinh tế tập thể. - Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng tạo điều kiện giúp đỡ HTX được thuận lợi trong việc sử dụng tài sản được hình thành từ vốn vay để thế chấp khi có nhu cầu vay vốn. Đẩy mạnh phong trào“phát huy nội lực, giải quyết 4 tại chỗ (huy động vốn tại chỗ, cho vay tại chỗ, đầu tư tại chỗ, hiệu quả tại chỗ” tăng cường tính cộng đồng trong việc tạo nguồn vốn. + Chính sách khuyến nông, khoa học và công nghệ Đẩy mạnh công tác khuyến nông - lâm - ngư nghiệp. Bởi vì trong nền kinh tế hàng hóa, người nông dân rất cần có các thông tin về giá cả, dung lượng thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, về giống cây trồng vật nuôi, phân bón và hệ thống phương pháp gieo trồng. Do đó, khuyến nông sẽ giúp cho người nông dân có các quyết định tối ưu về sử dụng các yếu tố sản xuất. Công tác khuyến nông cần tập trung vào các nội dung quan trọng như: Nghiên cứu hệ thống đất canh tác để thiết lập quá trình sản xuất với từng loại cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao để giúp nông dân lựa chọn. Triển khai tốt các dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y đến từng thôn xóm. Thí nghiệm, tổng kết, nhân rộng các mô hình lồng ghép sản xuất có hiệu quả để hộ gia đình học tập và ứng dụng. - Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Đó là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại. Nhà nước có chính sách hỗ trợ và khuyến khích các đơn vị nghiên cứu khoa học công nghệ liên kết với các HTX để thực hiện chuyển giao các thành tựu khoa học công nghệ mới cho HTX, tạo điều kiện hỗ trợ và khuyến khích HTX tiếp cận tích cực các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật canh tác và nuôi trồng, ứng dụng công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến thích ứng điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng từng vùng, khả năng kháng bệnh và có giá trị kinh tế cao. - Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ứng dụng, tuyên truyền, phổ biến các tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cán bộ HTXNN, để họ thực sự là cầu nối giữa tổ chức khoa học công nghệ với người sản xuất. Nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm khuyến nông của tỉnh, Phòng nông nghiệp và PTNN các huyện phải có cán bộ chuyên trách khuyến nông để hướng dẫn, phổ biến, sử dụng phương pháp canh tác mới đến hộ nông dân thông qua các tổ chức kinh tế tập thể, HTXNN. - Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, đặc biệt tổng kết các mô hình ứng dụng KH- CN vào cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả cao để nhân rộng trên địa bàn. Tổ chức, phát triển các câu lạc bộ nông dân sản xuất giỏi để hình thành một đội ngũ kỹ thuật viên khuyến nông, hướng dẫn cho hộ nông dân khác. Qua hoạt động của những câu lạc bộ nông dân sản xuất giỏi sẽ nhân lên sức mạnh cộng đồng, gắn bó đoàn kết cùng giúp nhau trong sản xuất. Hơn nữa, nông dân giỏi là những người giàu kinh nghiệm. Trong sản xuất, qua sinh hoạt câu lạc bộ sẽ giúp cho cán bộ khuyến nông đúc kết những bài học hay, để phổ biến nhân rộng. + Chính sách bảo hiểm xã hội: - Trong những năm tới cần triển khai thực hiện chính sách BHXH cho cán bộ, xã viên và người lao động hợp đồng với HTX. Trước mắt có thể ưu tiên mua bảo hiểm xã hội cho cán bộ quản lý HTX và chọn một số HTX để làm thí điểm. + Chính sách thị trường Thị trường có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá tiến lên sản xuất lớn hiện đại, trong nhiều trường hợp, thị trường là yếu tố cơ bản quyết định chiến lược phát triển sản xuất từng loại nông phẩm. Bởi vì, quá trình sản xuất nông phẩm hàng hoá không gắn với thị trường sẽ lâm vào tình trạng sản xuất “ mù quáng ”, “mò mẫm” và thất bại là điều khó tránh khỏi. Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt thiên tai, hạn hán… là những yếu tố ảnh hưởng bất lợi. Mặt khác trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay nhất là nước ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO thì vấn đề trợ cấp trực tiếp cho nông sản hàng hoá còn rất ít, hơn nữa giá cả nông sản thường bấp bênh trong kinh tế thị trường hiện đại. Chính vì vậy, Nhà nước cần có chính sách bình ổn giá cánh kéo đối với một số vật tư nông nghiệp quan trọng như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu…để tạo điều kiện cho lĩnh vực nông nghiệp phát triển bền vững. Đồng thời các cơ quan chức năng cần coi trọng việc thông tin kịp thời cho các chủ thể sản xuất nông nghiệp về nhu cầu thị trường tiêu thụ nông sản, trước hết là những nông sản có khối lượng lớn, đặc biệt là nông sản phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, về tình hình sản xuất, cạnh tranh và sự biến động giá cả trên thị trường trong nước và quốc tế, đảm bảo tính thông suốt giữa sản xuất đến nơi tiêu thụ, giữa thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Để khắc phục những hạn chế của mình trước những biến động của nhu cầu thị trường có cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các chủ thể kinh tế cần phải liên kết lại, hình thành HTX dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hoá. 2.3.4. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể Trong những năm qua công tác quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tập thể có chuyển biến tích cực. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã có Chỉ thị và chương trình hành động, các Sở, ban ngành, UBND các huyện, thị xã đã triển khai cụ thể hóa trên cơ sở quy hoạch phát triển chung, xây dựng các chương trình phát triển kinh tế tập thể ở từng địa phương. Nhìn chung mô hình HTX kiểu mới đã thay thế về cơ bản các mô hình HTX cũ trước đây, tạo điều kiện kinh tế hộ phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của hệ thống quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, HTXNN còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ và hiệu lực chưa cao, ở cấp huyện số cán bộ được phân công theo dõi thường làm kiêm nhiệm, cán bộ vừa thiếu và không yên tâm tập trung cho nhiệm vụ tổ chức quản lý kinh tế hợp tác, HTX. Bởi vậy, cần bố trí đủ lực lượng cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Trong những năm tới, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể cần thực hiện những nội dung sau: - Kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của BCĐ đổi mới và phát triển kinh tế tập thể từ tỉnh đến huyện và cơ sở xã, phường, thị trấn. Những nơi chưa có BCĐ, cần tiếp tục thành lập BCĐ đồng thời khẩn trương xây dựng quy chế hoạt động của BCĐ. Xây dựng chương trình công tác và phân công hoạt động của BCĐ, kịp thời theo dõi, tham mưu, đôn đốc nhằm từng bước triển khai thực hiện chương trình phát triển kinh tế tập thể theo tiến độ từ 2006 - 2010 một cách có hiệu quả. - Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Bổ sung cán bộ chuyên trách, có năng lực quản lý, theo dõi khu vực kinh tế tập thể ở các ngành và các huyện, thị xã tạo điều kiện hỗ trợ để kinh tế tập thể không ngừng phát triển theo tinh thần Nghị quyết 13/TW 5 khóa IX. - Để thực hiện tốt vai trò đại diện và thực sự là cầu nối giữa kinh tế tập thể với Đảng và Nhà nước. Liên minh HTX và DNNQD tỉnh cần nâng cao tính chủ động, sáng tạo, hiệu quả trong mọi hoạt động. Tích cực tuyên truyền Luật HTX và mô hình HTX kiểu mới về các địa phương cơ sở, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, đào tạo, hướng dẫn, hỗ trợ, mở rộng quan hệ hợp tác... nhằm trợ giúp kinh tế tập thể trong 5 năm tới phát triển đúng hướng, có hiệu quả. - Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ đối với các Sở, ban ngành và các huyện, thị xã tạo điều kiện để Liên minh HTX thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được tỉnh giao. 2.3.5. Xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa tổ chức Đảng, chính quyền và hợp tác xã trên từng địa bàn Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các tổ chức kinh tế hợp tác, HTXNN đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, giúp đỡ của Nhà nước. Tuy nhiên, không ít địa phương trong tỉnh hoạt động của HTX vẫn phải đảm nhiệm nhiều công việc của chính quyền, thậm chí còn bao cấp cho các hoạt động phong trào của các tổ chức đoàn thể, họ tộc, làng văn hóa, ma chay hiếu hỷ, nhà trẻ, mẫu giáo… Do đó cần có cơ chế phối hợp hoạt động có hiệu quả, cụ thể tổ chức Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chung thông qua chủ trương Nghị quyết và vai trò gương mẫu người Đảng viên. Chính quyền địa phương có quyền và có trách nhiệm kiểm tra, giám sát HTX trong việc tuân thủ pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương, nhưng tuyệt đối không được can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của HTX, không làm thay chức năng của HTX, song phải tạo điều kiện, giúp đỡ cho HTX hoạt động theo pháp luật. Đối với HTX, ngoài mục tiêu kinh tế là hàng đầu còn phải đạt mục tiêu xã hội, góp phần xây dựng tính cộng đồng đoàn kết, tương trợ trong các xã viên của mình, có trách nhiệm đóng góp cùng chính quyền chăm lo phúc lợi xã hội trên địa bàn, song không thể biến nó thành tổ chức xã hội làm thay nhiệm vụ của hệ thống chính trị của địa phương [26]. Kết luận chương 2 Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở nước ta nói chung và ở tỉnh Quảng Trị nói riêng là sự nghiệp cần thiết trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam có dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhưng đó cũng là nhiệm vụ đầy khó khăn phức tạp. Thực tiễn xây dựng kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị thời gian qua đã chứng tỏ chủ trương đường lối của Đảng về kinh tế tập thể với nòng cốt HTX là hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển kinh tế tập thể dưới hình thức HTXNN ở Quảng Trị trong thời gian tới cần quán triệt những quan điểm như thừa nhận tính đa dạng về hình thức của kinh tế tập thể với nòng cốt là hình thức HTX; gắn với sự nghiệp chuyển sản xuất nhỏ của nông dân lên sản xuất lớn thông qua CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phù hợp với klợi ích của nông dân và cơ chế thị trường, phát huy tối đa những tiềm năng thế mạnh của từng vùng, từng HTX. Trong phát triển kinh tế tập thể cần chú trọng vào những hướng lớn có ý nghĩa tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của bản thân loại hình kinh tế này không nhưng cho hiện tại mà cả cho tương lai, tránh tư tưởng nóng vội, dàn trải. Để thực hiện có hiệu quả những hướng đi đó cần không ngừng chủ động tạo lập những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế tập thể dưới hình thái HTXNN thông qua thực thi một hệ thống các giải pháp đồng bộ. Những giải pháp đã đề xuất trong luận văn chưa phải là hoàn chỉnh mà vẫn cần thường xuyên được nghiên cứu, hoàn thiện, bổ sung thông qua đào sâu lý luận và tổng kết thực tiễn. kết luận Phát triển kinh tế tập thể, mà nòng cốt là HTX kiểu mới vừa đòi hỏi khách quan của nền sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn vừa là yêu cầu xã hội giúp đỡ các hộ nông dân vươn lên trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần đẳy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay. Trong công cuộc đổi mới đất nước, đối với các HTX nông nghiệp, một yêu cầu có tính bắt buộc là phải nhanh chóng đổi mới hoạt động của mình cho phù hợp với cơ chế thị trường, có như vậy HTX mới đứng vững và phát triển. Cũng như nhiều địa phương khác, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tập thể. Đặc biệt từ khi có Nghị quyết 13 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5, khóa IX. Quảng Trị đã khơi dậy tiềm năng, phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức thích hợp trên các lĩnh vực kinh tế, trong đó mô hình HTX là nòng cốt. Để đạt được những mục tiêu, phương hướng, giải pháp được nêu trong luận văn, theo chúng tôi đề xuất một số kiến nghị như sau: Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để cán bộ, nhân dân không chỉ thấy rõ vị trí vai trò của kinh tế tập thể đối với kinh tế hộ nông dân, với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay, mà phải thấy rõ về lâu dài kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc nền kinh tế quốc dân, là một trong những nhân tố có tính nguyên tắc đảm bảo định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Thứ hai: Đảng bộ, chính quyền địa phương cần có chính sách cụ thể phát triển kinh tế tập thể ở những địa bàn chậm phát triển, yếu kém, những trang trại gia đình, tổ hợp tác tự phát đang phát triển mạnh trên địa bàn tỉnh, đồng thời giải quyết dứt điểm những HTX chỉ tồn tại hình thức. Thứ ba: Nhanh chóng đổi mới hoạt động dịch vụ nông nghiệp của những HTX đã chuyển đổi nhưng hiệu quả thấp theo hướng xã viên là đại diện hộ gia đình, tăng vốn cổ phần thông qua ký kết hợp đồng giữa HTX với kinh tế hộ, hộ gia đình không đòi hỏi phải tham gia toàn bộ những khâu dịch vụ mà HTX đảm nhận. Đồng thời mở rộng mô hình HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp với các loại hình như: Doanh nghiệp HTX cổ phần; trang trại HTX cổ phần, thành viên tham gia bao gồm: HTX - Hộ gia đình - Doanh nghiệp thuộc mọi thành kinh tế. Với phương châm tăng vốn góp cổ phần, xã viên đích thực, thu nhập xã viên gắn với hoạt động của HTX. Thứ tư: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể thông qua chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, chuyển giao KHCN, vốn, thông tin thị trường, đào tạo cán bộ, chuyển giao các chương trình dự án của chính phủ. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung tiêu chí phân loại HTX phù hợp với thực tiễn, đồng thời sâu sát chỉ đạo và tổng kết rút kinh nghiệm, nêu gương, nhân rộng mô hình HTX điển hình tiên tiến, thì nhất định việc "tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể " sẽ đạt được hiệu quả cao và thiết thực hơn nữa. Danh mục Tài liệu tham khảo Hồ Thị Ngọc Anh (2005), Một số suy nghĩ về mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở nước ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001), Kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở Việt Nam- Thực trạng và định hướng phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Cục thống kê Quảng Trị (2004), Niên giám thống kê Quảng Trị năm 2003. Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (2005), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005-2010. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ tư, BCHTW, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện hội nghị lần thứ chín, BCHTW, khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hợp tác xã Câu nhi (2005), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2005. Hợp tác xã Đại An Khê (2005), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2005. Hợp tác xã Đoàn kết (2005), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2005. Hợp tác xã Đông Giang 2 (2005), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2005. Hợp tác xã Đông Thanh (2005), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2005. Hợp tác xã Long Hưng (2005), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2005. Hợp tác xã Tiến Đạt (2005), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2005. Nguyễn Thanh Hà (2000), Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Phạm Hảo (2005), Phát triển kinh tế thị trường - Một số vấn đề thực tiễn ở miền Trung và Tây nguyên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Hồ Ngọc Huy (2006), "Quảng Trị với phát triển kinh tế tập thể”, Tạp chí Cộng sản, (số 21). Khoa Quản lý kinh tế - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Mô hình phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn hai thập niên đầu thế kỷ X XI, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1998), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơ va. Liên minh HTX và DNNQD tỉnh Quảng Trị (2005), Báo cáo kết quả làm việc với các địa phương có HTX xây dựng điển hình tiên tiến. Hồ Chí Minh (1987), Toàn tập, tập 8, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Huy Oánh (2005), “Tìm hiểu quan điểm của Mác- Ăng ghen, Lê Nin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể”, Thông tin những vấn đề kinh tế chính trị học, (số 5), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Vũ Văn Phúc (2004), Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Hợp tác xã. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị (2005), Báo cáo điều tra HTX nông nghiệp năm 2005. Nguyễn Quốc Thái (2005), Công tác cán bộ HTX nông nghiệp với sự phát triễn loại hình kinh tế này ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Lưu Văn Tiền (2000), Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở tỉnh Vĩnh Long, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Trị (2006), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm 2006-2010. Hồ Văn Vĩnh (2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình phát triễn HTX nông nghiệp ở nước ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Phụ lục Phụ lục 1 Số lượng Hợp tác xã điều tra trong toàn tỉnh TT Huyện, thị Số lượng Chưa chuyển đổi Chuyển đổi theo luật Thành lập mới 1 2 3 4 5 6 7 8 Vĩnh Linh Gio Linh Triệu Phong Hải Lăng Cam Lộ Hướng Hóa TX Đông Hà TX Quảng Trị 52 44 85 55 16 9 19 2 6 50 38 84 55 13 2 2 1 3 7 Tổng 282 6 263 13 Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Trị, 2005. Phụ lục 2 Loại hình Hợp tác xã Huyện, thị Theo địa giới hành chính Theo hoạt động sản xuất kinh doanh Thôn ấp Liên thôn Xã DVnông nghiệp SXKDDV tổng hợp Vĩnh Linh 15 34 3 45 7 Gio Linh 8 30 30 8 Triệu Phong 17 67 1 84 1 Hải Lăng 12 43 38 17 Cam Lộ 5 8 3 14 2 Tx Đông Hà 3 12 4 16 3 Hướng Hóa 5 3 1 5 4 TX Quảng Trị 1 1 2 Tổng 65 198 13 234 42 Nguồn: Sở Nông nghiệp PTNT Quảng Trị, 2005. Phụ lục3 Hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp STT Tên dịch vụ Số HTX thực hiện Tỉ lệ% Ghi chú 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tưới tiêu và thủy lợi nội đồng DV bảo vệ thực vật DV thú y DV cung ứng vật tư phân bón DV khuyến nông, KHKT DV điện DV làm đất DV tín dụng nội bộ DV tiêu thụ nông, lâm, hải sản DV giống chăn nuôi DV chế biến nông, lâm, hải sản DV khác 258 247 189 180 177 164 70 57 26 18 6 10 93,5 89,5 68,5 65,2 64,1 59,4 25,4 20,7 9,4 6,5 2,2 3,6 Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Trị, 2005. Phụ lục 4 Hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã nông nghiệp STT Hoạt động Sản xuất kinh doanh Số HTX Tỉ lệ% Ghi chú 1 2 3 4 5 Trồng trọt Trồng rừng Chăn nuôi Nuôi trồng thuỷ sản Khác 174 48 17 14 1 63,0 17,4 6,2 5,1 0,4 Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Trị, 2005. Phụ lục 5 Trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ của các chức danh trong hợp tác xã Hội đồng quản trị Chủ nhiệm HTX Phó chủ nhiệm HTX Trưởng ban kiểm soát TV ban kiểm soát Kế toán trưởng Trình độ học vấn Cấp I 1 5 4 6 Cấp II 61 104 112 151 150 82 % so tổng 22.10 37.68 40.58 54.71 54.35 29.71 Cấp III 83 163 98 112 60 188 % so tổng 30.07 59.06 35.51 40.58 21.74 68.12 Trung cấp N Nghiệp 11 28 18 11 1 6 Kinh tế 3 29 12 7 2 28 Khác 6 13 9 8 3 24 % so tổng 7.25 25.36 14.13 9.42 2.17 21.01 Cao đẳng, đại học N Nghiệp 1 4 2 2 1 2 Kinh tế 1 Khác 1 1 2 % so tổng 0.36 1.45 0.72 1.45 0.72 1.45 Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Trị 2005. Biểu đồ: Phân loại HTXNN tỉnh Quảng Trị Đơn vị tính: % Nguồn: Sở Nông nghiệp PTNT Quảng Trị, 2005. . Biểu đồ: Doanh thu và lợi nhuận bình quân HTX Đơn vị tính: triệu đồng Nguồn: Sở Nông nghiệp PTNT Quảng Trị, 2005. Biểu đồ: Cơ cấu trình độ học vấn và CMNV của Chủ nhiệm Nguồn: Sở Nông nghiệp PTNT Quảng Trị, 2005. Biểu đồ: Cơ cấu trình độ học vấn và CMNV của Kế toán trưởng Nguồn: Sở Nông nghiệp PTNT Quảng Trị, 2005. Biểu đồ: Cơ cấu trình độ học vấn và CMNV của Trưởng BKS Nguồn: Sở nông nghiệp PTNT Quảng Trị, 2005. Biểu đồ: Lương bình quân của các chức danh trong HTX Nguồn: Sở Nông nghiệp PTNT Quảng Trị, 2005. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2591.doc
Tài liệu liên quan