Kinh tế tri thức - Ảnh hưởng của kinh tế tri thức tới sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta

mục lục Trang Lời nói đầu Trong xã hội hiện đại, bằng những tri thức lý luận và những tri thức kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình nhận thức thế giới, con người đã sáng tạo ra những công cụ ngày càng tinh vi và hoàn hảo. Điều đó thể hiện trước hết ở việc nâng cao trình độ thiết bị máy móc, sự sâu sắc và tăng cường chuyên môn hoá lao động sự tăng lên của xã hội sản xuất. Chúng đánh dấu trình độ chinh phục của loài người với tự nhiên, là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xu

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1610 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tri thức - Ảnh hưởng của kinh tế tri thức tới sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại trong lịch sử. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại dẫn tới nền kinh tế tri thức đã tạo ra những bước phát triển nhảy vọt trong sản xuất của nhân loại và trong quan niệm về lực lượng sản xuất xã hội. đối với những nước đang phát triển “ con đường công nghiệp hoá rút ngắn thời gian” đó sẽ tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn vè mặt kinh tế. Bởi vì khoảng cách giữa các nước giàu nghèo chính là sự cách biệt về tri thức, năng lực sáng tạo và sử dụng tri thức. Trong bối cảnh đó các nước “đi sau” chỉ có thể phát triển khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo nhằm tăng nhanh vốn tri thức, mới có thể rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến. Từ nhận thức đó đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, trong bài viết này em xin đề cập tới : “ kinh tế tri thức - ảnh hưởng của kinh tế tri thức tới sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta”. Nội dung I- Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật. 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. thế giới được tạo thành từng những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau. Giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, hay chúng tồn tại độc lập, tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại thì nhân tố nào quy định sự liên hệ đó? Trả lời câu hỏi thứ nhất. Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật và hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau hoặc nếu có thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó thì lại phủ nhận khả năng chuyên hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau. Ngược lại những người theo quan điểm biện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật hiện tượng là quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Trả lời câu hỏi thứ hai: Những người theo chủ nghĩa duy tâm thì tìm cơ sở dữ của sự liên hệ tác động qua lại giữa các sự vật và hiện tượng. ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm giác của con người. Những người theo quan điểm biện chứng thì khẳng định rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng mà tính thống nhất vật chất thế giới. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó. Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu. Có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ không biện chứng, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên. - Cơ sở lý luận và yêu cầu của quan điểm toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật hiện tượng quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự vật chúng ta phải xem xét nó, một là trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau... của chính sự vật đó. Hai là trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. - Hơn nữa quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mỗi liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định bao giờ cũng phản ánh được một số lượng hưũ hạn những mối liên hệ. - Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. - Quan điểm toàn diện đúng đắn đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất mang tính chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. - Nó không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê la liệt những tính qui định khác nhau của sự vật hay hiện tượng, nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. - Nó vừa xa lạ với chủ nghĩa chiết trung, vừa xa lạ với thuật nguỵ biện. - Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể là nguyên lý của phép biện chứng duy vật về chân lý là cụ thể. Nguyên lý này chỉ ra mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật chất, tồn tại vận động phát triển bao giờ cũng diễn ra ở trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, không gian, thời gian xác định cùng một sự vật nhưng tồn tại, vận động biến đổi trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì sẽ nảy sinh những thuộc tính mới vốn không có ở sự vật, hiện tượng thậm chí có thể làm thay đổi hẳn tính chất của sự vật, hiện tượng muốn phản ánh đúng như nó có để cải biến sự vật thì đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này có những yêu cầu sau: + Khi nghiên cứu xem xét sự vật, hiện tưonựg phải đặt nó trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, không gian, thời gian xác định mà nó đang diễn ra. Phải phân tích xem điều kiện hoàn cảnh đó, không gian, thời gian ảnh hưởng đến tính chất của sự vật như thế nào, đến xu hướng vậnđộng của sự vật ra sao. Trên cơ sở đó rút ra kết luận về sự vật. + Phải coi nguyên tắc (quan điểm) lịch sử cụthể là một phương pháp luận cơ bản trong việc phát hiện chân lý và vận dụng chân lý vào thực tiẽen. Có như vậy mới tránh được rơi vào chủ nghĩa giáo điều, máy móc. 2. Nguyên lý về sự phát triển. Pháp biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn quy luật vận động và phát triển chung nhất của thế giới. Nhờ vậy, C.Mác và P.Ăngghen đã khắc phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại cũng như những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại, làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học. - Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực . Song nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển vẫn được xem là những nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất làm sáng tỏ những quy luật của sự liên hệ và chính là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật. Bởi vì vậy Ph.Ăngghen đã định nghĩa: "Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển trong tự nhiên của xã hội loài người và của tư duy. - Trong quan điểm duy vật biện chứng: phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát, vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. - Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định phát triển trong quan điểm biện chứng duy vật là quá trình tự thân hoá của mọi sự vật và hiện tượng. Do vậy phát triển là một quá trình khách quan, độc lập ngoài ý thức con người. - Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển không chỉ thừa nhận tính khách quan của sự phát triển, nó còn khẳng định tính phổ biến của sự phát triển với nghĩa là sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực. Từ tự nhiên đến xã hội và tư duy, từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy. - Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển cung cấp cho chúng ta phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật bao hàm một nội dung hết sức phong phú, bởi vì đối tượng phản ánh của nó - thế giới vật chất vô cùng, vô tận. Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là có ý nghĩa bao quát nhất. Nghiên cứu hai nguyên lý này đem lại cho chúng ta quan điểm toàn diện, phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể trong hoạt động nhậ thức và thực tiễn. Khi vận dụng các quan điểm này đòi hỏi phải vận dụng một cách tổng hợp. Bởi vì, chính trong quá trình liên hệ tác động qua lại biện chứng mà sự vật vận động phát triển và diễn ra trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sự cụ thể. II . kinh tế tri thức là gì ? 1. Nguồn gốc của kinh tế tri thức. Từ những năm 70 trở lại đây, tiến bộ khoa học kỹ thuật dần trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là khoa học kỹ thuật cao vì nó là lực lượng sản xuất thứ nhất. Năm 1986, trong cuốn “ xã hội kỹ thuật cao”, các nhà kinh tế Anh đã nêu ra khái niệm “ kinh tế kinh tế cao”.Năm 1990 tổ chức nghiên cứu của Liên hợp quốc đã đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức” để xác định tính chất loại hình của kinh tế mói này. Năm 1996, tổ chức hợp tác kinh tế định nghĩa rõ ràng rằng “ kinh tế lấy tri thức làm cơ sở”. đây là lần đầu tiên hệ thống chỉ tiêu và dự đoán của loại hình kinh tế mới này được nêu ra. Tháng 12- 1997, Tổng thống Mỹ B.clinton đã dùng cách nói “kinh tế tri thức” như tổ chức nghiên cứucủa liên hợp quốc đã nêu ra trước đây. “báo cáo về sự phát triển của thế giới”của ngân hàng thế giới xuất bản năm 1998 đã đặt tên nền kinh tế đó là “ nền kinh tế tri thức của phát triển”. Việc xác định đúng tên gọi của loại hình kinh tế mới tuy rất phức tạp, nhưng nó đã giúp cho con người từng bước xây dựng nên một khái niệm mới ngày càng rõ ràng, đó là “ nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới, lấy việc chi phối, chiếm hữu nguồn tài nguyên trí lực, và lấy việc sử dụng, phân phối, sản xuất của tri thức làm nhân tố chủ yếu”. Nói một cách ngắn ngọn là “ thời đại mà khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất thứ nhất”. Thực tế khái niệm “kinh tế tri thức” là một khái niệm mới về loại hình kinh tế mới khác với loại hình kinh tế trước đây. Loại hình kinh tế trước lấy công nghiệp truyền thống làm nền tảng sản xuất, còn “kinh tế tri thức” lấy công nghiệp kỹ thuật cao làm lực lượng sản xuất.như vậy mới có thể làm cho nền kinh tế phát triển. 2. Mối quan hệ giưã tri thức và kinh tế Chúng ta có thể nói, bất cứ hoạt động nào của con người không tách rời tri thức. Muốn vậy, con người phải tích luỹ, quy lạp để hình thành nên một hệ thống chính là khoa học.đối tượng của nghiên cứu khoa học và kỹ thuật cũng chính là tri thức. Đồng thời việc thực hiện kỹ thuật cao làm cho nhân tố tri thức vượt xa nhân tố vật chất. Ngoài ra, còn một số những thành tựu của các nhà khoa học, như việc ứng dụng vào thực tế những thành tích phát minh kỹ thuật. Nhưng ta cũng có thể nhảy qua nghiên cứu ứng dụng, trực tiếp ra thi trường, thu dược hiệu quả kinh tế như việc khai thác phần mềm máy tính.nguyên nhân của hiện tượng này là khi tiến hành nghiên cứu cơ bản đã phát hiện thấy giá trị ứng dụng của công trình.buộc phải có cơ cấu tổ chức để liên hệ với thị trường. Vì thế, hàng loại khu công nghiệp kỹ thuật cao mới ra đời. 3. Khái niệm kinh tế tri thức Kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, lấy tri thức, trí tuệ, khoa học và công nghệ làm chủ đạo; lực lượng những người có học vấn cao,tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo cơ bản, có hệ thống và hiện đạilà chủ thể của hoạt động kinh tế. Nền kinh tế tri thứcchủ yếu vẫn là nền kinh tế hàng hoá, vẫn tuân theo quy luật giá trị, vẫn vận động theo cơ chế thị trường và hiện diện trong cơ chế thị trường nhưng tri thức đã trở thành nền tảng, cốt lõi quyết định sự phát triển của nó. a) Thế nào là tri thức? Không giống tư bản và lao động, tri thức cố gắng trở thành một hàng hóa công cộng như các nhà kinh tế học đã gọi là “ không có sự kình địch”. Tri thức một khi đã được phát hiện và công bố thì việc chia sẻ nó cho nhiều người sử dụng hơn sẽ có chi phí cận biên bằng 0. Thứ hai, những người tạo ra tri thức thường khó có thể ngăn cản được những người khác sử dụng chúng.các công cụ như bảo vệ bí mật thương mại và bằng sáng chế, bản quyền và thương hiệu chỉ dành cho người tạo ra tri thức một sự bảo vệ ít ỏi nào đó mà thôi. b) Phân biệt các loại tri thức Sẽ là hữu ích nếu phân biệt được các loại tri thức khác nhau, là loại tri thức về sự kiện, biết tại sao là tri thức về thế giới tự nhiên, xã hội và suy ngĩ của con người. Biết ai đó là về thế giới của các quan hệ xã hội và là tri thức về ai biết cái gì và ai có thể làm gì. Biết chỗ và biết thời gian đang ngày càng quan trọng trong nền kinh tế linh hoạt và năng động. c) Tầm quan trọng của tri thức Tri thức là sức mạnh, bởi nó là chất dinh dưỡng cho sự phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo trí tuệ vô tận của con người.Dân tộc nào sớm tự ý thức được những hạn chế, những giới hạn của chính mình, biết tiếp thu những tinh hoa của nhân loại ở mọi thời đại, kết hợp với bản sắc truyền thống vốn có với những tinh hoa bên ngoài mình,thì dân tộc đó sẽ phát triển trường tồn.ngược lại sẽ khó tránh khỏi suy tthoái và diệt vong;ta có thể nói, kinh tế kết tinh trong sản phẩm, trong kinh doanh và trong hoạt động kinh tế nói chung. 4. Đặc điểm của kinh tế tri thức Thứ nhất , đặc điểm lớn nhất làm khác biệt kinh tế tri thức khác với các kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp chính là tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên. vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Bởi tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo ra sự tăng trưởng kinh tế. Thứ hai , sự chuyển đổi cơ cấu, các ý tưởng mới là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Các khu công nghệ hình thành và phát triển, trở thành nhân tố hàng đầu quan trọng nhất, tiêu biểu cho nền sản xuất tương lai. Cho nên, kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững. Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập mạng thông tin đa phương diện phủ khắp nước. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế.Cũng chính vì vậy, nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số,nền kinh tế mạng, nền kinh tế Internet, nền kinh tế điện tử... Thứ tư, nền kinh tế tri thức thúc đẩy sự dân chủ hoá. Thông tin đến với mọi người. Mọi người đều có thể truy cập được những thông tin cần thiết. Mô hình tổ chức dân chủ, rất linh hoạt trong điều hành, để dễ thích nghi với đổi mới, khơi dậy sự sáng tạo của mọi người. Thứ năm, hình thành xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Mọi người đều phải học tập, học thường xuyên, học ở trường và học ở trên mạng để không ngừng trau dồi kỹ năng, phát triển trí sáng tạo.trong nền kinh tế tri thức khoản đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm tỷ lệ rất cao.phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.vốn con người thực sự là vốn quý nhất. 5. Các tiêu chí của kinh tế tri thức - Cơ cấu GDP >70% do các nghành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ cao - Cơ cấu GTGT > 70% do lao động trí óc mang lại - Cơ cấu LĐ > 70%là “ công nhân tri thức” - Cơ cấu TB > 70% là tư bản con người “ Nền kinh tế tri thức sẽ hình thành và phát triển nhanh nên kinh tế và triệt để hơn công nghiệp”. III. kinh tế tri thức và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở việt nam 1. Kinh tế việt nam những năm đầu sau chiến tranh a) Thực trạng kinh tế việt nam trong thời kỳ hiện nay Trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, công nghiệp thu hút 10,6% tổng số lao động xã hội, 37% giá trị tài sản cố định, làm ra 38,4% tổng sản phẩm xã hội, 25,3% thu nhập quốc dân. nguồn nguyên liệu của công nghiệp còn phụ thuộc vào nước ngoài, đặc biệt các nghành cơ khí, hoá chất.... Sản phẩm công nghiệp bình quân trên đầu người còn ở mức thấp so với nhiều nước trên thế giới: “ điện 62,8kwh, than sạch 115,9kg, xi măng15,1kg...”. các số liệu trên cho thấy trình độ công nghiệp hoá của nền kinh tế còn thấp. Như vậy, nền kinh tế đất nước lâm vào tình trạng khó khăn như giai đoạn cuối những năm 1970 và suốt những năm 80, lúc này dấu hiệu của suy thoái và khủng hoảng kinh tế đã xuất hiện và bộc lộ rõ. b) Nguyên nhân Thứ nhất, sau cuộc kháng chiến cứu nước, do nhận thức chưa đầy đủ khó khăn nẩy sinh, nên Đại hội IV của Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết.Trong kế hoạch 5 năm 1976-1980 chúng ta đã xác định những chủ trương quá cao: “ 21 triệu tấn lương thực, 10 triệu tấn than sạch, 5 tỉ kw điện, 250-300 ngàn tấn thép... mà kết quả là đến năm 1980 không một mục tiêu nào đạt được. Thứ hai, về cơ cấu kinh tế, ngay trong kế hoạch 1976-1980, chúng ta đã đề ra những chỉ tiêu quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, thiên về công nghiệp nặng những công trình lớn. không tập trung giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm,phát triển sản xuất và hàng xuất khẩu. kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp. Thứ ba, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta diễn ra có nhiều khó khăn. Vì nóng vội muốn mau chóng thực hiện quốc doanh hoá và tập thể hoá ở Miền Nam. vì thế, hiệu quả kinh tế rất thấp so với nguồn vốn và công sức bỏ ra. Do đó, nguồn lực lãng phí nhiều, cơ cấu kinh tế mất cân đối. đẫ để lại những tiêu cực về kinh tế xã hội. 2. Vai trò của nền kinh tế tri thức trong sự nghiệp phát triển đất nước Nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được tri thức hoá. Sự cách biệt giàu nghèo phụ thuộc rất nhiều vào sự cách biệt về tri thức, năng lực sáng tạo và sử dụng tri thức. Trong bối cảnh đó các nước “đi sau” chỉ có thể phát triển khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo nhằm tăng nhanh vốn tri thức, khả năng sử dụng tri thức, mới có thể rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến. Vì thế, vai trò của nền kinh tế tri thức là rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. 3. Kinh tế tri thức và sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam Báo cáo chính trị đại hội IV của đảng đã nhận định: “ thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. khoa học và công nghệ sẽ có bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”.Sau khi xác định phát triển kinh tế, công nghiệp hoá và hiện đại hoá là trọng tâm, báo cáo chính trị đã xác định; “ con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá của nước ta cần và có sự rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, tranh thủ ứng dụng những thành tựu mới về khoa học và công nghê, từng bước phát triển nền kinh tế tri thức”. Phải nhanh chóng xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực,nhất là công nghệ phần mềm, sử dụng công nghệ tiên tiến để phát triển một số nghành công nghiệp có giá trị tăng trưởng cao như: Chế tạo máy( sử dụng CAD, CAM,tự động hoá...). Trong từng ngành, từng lĩnh vực để thúc đẩy sự đổi mới của toàn nghành.như vậy kinh tế tri thức là vận hội để đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 4. Các giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế dựa vào tri thức ở việt nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Thứ nhất, phải đổi mới cơ chế chính sách, tạo lập một khuôn khổ phát lý phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy mọi khả năng sáng tạo để tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế của mình đóng góp vào sản xuất. Thứ hai, phải nâng cao nguồn nhân lực, nâng cao dân trí đào tạo nhân tài. Bởi yếu tố quyết định mọi thắng lợi của bất kỳ chính sách kinh tế nào cũng chính là do con người, chiến lược phát triển con người trở thành chiến lược xuyên suốt, để phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu. Thứ ba, chúng ta phải tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa hoạ và công nghệ mới đặc thù của nước ta, xây dựng nền khoa học tiên tiến. Thực hiện tốt các chính sách phát hiện bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, đãi ngộ thoả đáng cho cán bộ khoa học, phát triển các nghành công nghệ cao làm tăng nhanh giá trị tri thức trong toàn nền kinh tế. Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tinphục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá như chỉ thị 58- CT/TW của Bộ Chính trị khoá VIII ban hành ngày 17/10/2000. Chỉ thị nhấn mạnh: “ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin sẽ góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực và sức bật mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá nền kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ hữu hiệu cho qúa trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng, tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá”. Công nghệ thông tin là thìa khoá để đi vào nền kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hoá, ta phải rút ngắn khoảng cách về công nghệ thông tin. Trước năm 2010, trình độ công nghệ thông tin nước ta phải đạt mức tiên tiến. Trong khu vực mà hiện nay ta còn tụt lùi khá xa.vì thế đòi hỏi ta phải nỗ lực rất lớn mới có thể đuổi kịp các nước khác. Kết luận Trong giai đoạn bùng nổ kiến thức, thông tin đang trên đà tiến như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ đã không những khẳng định vai trò và nhân tố con người ở hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội, mà còn định hình ngày càng rõ hơn vai trò của nguồn lực trí tuệ của con người trí tuệ. Kinh tế tri thức là bước phát triển tất yếu, nó đẩy nhanh quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Rút ngắn được từng bước quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở việt nam. Là đất nước có quyền lực nhỏ bé nhưng việt nam có nguồn nhân lực và trí tuệ rất đáng kể. Lòng yêu nước và sức mạnh đoàn kết được chắt lọc qua lịch sử đấu tranh nếu biết phát huy sẽ là chỗ dựa chắc chắn, là chất kháng thể, ngăn cản những nhân tố huỷ hoại có thể trong tương lai. Truyền thống hiếu học và trí thông minh đã được kiểm nghiệm, nhưng chưa được khai thác, nếu biết chuyển hướng sẽ tạo nên nhưng bước đột phá trong quá trình phát triển quốc gia theo xu hướng tới nền kinh tế tri thức. Trong bài viết này với vốn kiến thức còn khiêm tốn về nền kinh tế nói chung và nền kinh tế tri thức nói riêng, cũng như về môn triết học. Không tránh khỏi những thiếu sót, em mong thầy đóng góp ý kiến cho em để hoàn thành đề tài này tốt hơn nữa. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn ! Lời cam đoan Em xin cam đoan tất cả những gì em viết trong bài viết này là do em tham khảo tài liệu và những kiến thức, hiểu biết của em về nền kinh tế tri thức cũng như về môn triết học. Em xin chân thành cám ơn thầy, cô giáo đã giúp em hoàn thành tốt tiểu luận này. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Minh Tú, Vũ Xuân Nguyệt Hồng “ chính sách công nghiệp và các công cụ chính sách công nghiệp” nxb. Lao động, hà nội, 2001 2. Ngô Quý Tùng “ kinh tế tri thức. Xu thế mới của thế kỷ XXI “ nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000 3. Niên giám thống kê. tổng cục thống kê, các năm từ 1960-1999 4.Tạp chí Triết Học, Số 6 ( 124), 9/2001 5. Tạp chí Lý Luận Chính Trị, số 4-6, 2001 6. Đảng Cộng Sản Việt Nam “ văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII” Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội , 1996 7. Tạp chí Kinh Tế Nhật Bản, 21/8/1995 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35377.doc
Tài liệu liên quan